10 ĐIỀU RĂN TRONG VỆ SINH VÀ DƯỠNG SINH Vệ sinh phép giữ thân mình
Sao cho khoẻ mạnh an ninh mới là
Mười điều cơ bản đề ra
Thứ nhất: làm lụng, hai là nghỉ ngơi
Ba là đừng trái tiết trời
Xông pha mưa gió nắng nôi lạnh lùng
Còn khi dịch lệ cuồng phong
Biết chừng mà tránh, mà phòng mới yên
Thứ tư thị hiếu chớ quên
Mắt trông ham muốn, lòng quên cương thường
Sinh ra làm bậy làm xằng
Chữ “tham” sánh với chữ “thâm” một vần
Năm là cần phải thủ chân
Giữ lòng trong sạch cho thần được yên
Định tâm như kẻ tham thiền
Bỏ lòng lợi dục đua chen đường đời
Sáu là ngủ dậy theo thời
Luyện thân, luyện khí đứng ngồi thong dong
Làm cho khí huyếtlưu thông
Chân tay cứng cáp trong lòng thảnh thơi
Bảy: răm tửu sắc chơi bời
Thoả lòng chốc lát, cuộc đời ngắn đi
Tinh hao, chân khí phải suy
Nguyên thần ly tán, bệnh gì chẳng sâu
Tám: cần ăn uống hàng đầu
Nhưng đừng quá bội mà đau dạ dày
Kiêng ăn các thứ đắng cay
Các thứ sống lạnh tích dầu khó tiêu
Chín là nằm ngủ thuận chiều
Hướng phương sinh khí(về đông) đầu cao hơn mình
Vòng tay lên ngực: mộng kinh
Vào giường không nghĩ, thẳng mình ngủ yên
Mười nên tắm giặt cho liền
Ra ngoài dù, nón không quên trên đầu
Đề phòng hàn thấp nhiễm vào
Áo quần ấm áp, tà nào dám xâm
Mấy điều nên nhớ nhập tâm
Tháng ngày giữ trọn, trăm năm thọ trường. ĐIỀU DƯỠNG BỆNH NHÂN Chăm nuôi người bệnh rất cần
Cũng nên biết cách giữ gìn thì hơn
Khi đau nằm ở trên giường
Mọi điều lo nghĩthường thường hiện ra
Nào lo việc cửa việc nhà
Mong sao chóng khỏi để mà làm ăn
Đau lâu sợ chết đến gần
Bỏ con, bỏ vợ, thương thân tiếc đời
Âu sầu bệnh nặng chẳng sai
Cần khuyên người bệnh thảnh thơi trong lòng
Tinh thần giữ vững ở trong
Yên tâm điều trị mới mong chóng lành
Nhược bằng xúc động thất tình
Kém ăn, kém ngủ, bệnh tình sẽ tăng
Ví bằng lo chết quá chừng
Dễ sinh sợ hãi, mê trầm ngất đi
Dù khi gặp bệnh chí nguy
Ta đừng thổ lộ chớ hề xôn xao
Cấm người khóc lóc ồn ào
Cần nên vững dạ tin vào thuốc thang
Khi đau tuyệt chớ nhập phòng
Uống ăn tiết độ, cấm dùng rượu nem
Đương sốt, sau hạ (xổ) kiêng cơm
Nên ăn cháo loãng, chớ ham bánh quà
Oẹ nôn tả lụ cần ngừa
Ăn chất khô nóng, thịt thà khó tiêu
Kiêng ăn bệnh chóng khỏi nhiều
Uống ănhỗn tạp, bệnh đều nặng thêm
Áo quần nên giặt cho liền
Lại năng thay chiếu, lau giường đỡ hôi
Trừ rận xông củ ba mươi (bách bộ)
Chăm người bệnh nặng, tiện (đại tiện) rồi lại lau
Xương khô gió thở nằm lâu
Trầy da loét thịt, bôi dầu mộc qua
Đầu giường chớ để than lò
Muốn đêm ngon giấc, chớ cho ngủ nhiều
Để đèn chói mắt muỗi vào
Thức khuya uống nước, đái nhiều thâu canh
Không ngủ sức khoẻ sụt mau
Ăn được ngủ được là liều thuốc tiên
Giữ gìn nguyên khí trước tiên
Làm cho cơ thể khoẻ lên, bệnh lùi
Vững lòng uống thuốc tin thầy
Đừng tin phù phép theo lời thế gian
Chớ nên cất mả, làm đàn(1)
Rồi ra: tiền mất, tật mang được gì
Phải đâu sinh ký tử quy (2)
Phải đâu số mệnh mà quy cho trời
Dở hay: vốn tự ở người
Bệnh mà thất trị(3): quá thời, chết oan
Chữa sao cho được vẹn toàn
Khuyên người thầy thuốc chớ toan công(4) liều
Theo gốc mà chữa mới hèo (hiệu)
Bệnh không biến chứng, tà tiêu tan dần
Ngộ(gặp) khí thế bệnh tiến lên
Kịp thời ngăn chặn biến thuyền, khỏi nguy
Công liền, tiếp bổ tuỳ nghi
Giữ cho Chính khí khỏi suy vì tà
Chữa gần mà phải phòng xa
Chặn đường bệnh biến từ da vào lòng
Chữa ngay khi bệnh còn nông (5)
Chần chứ bệnh nặng khó lòng khỏi ngay
Có câu: đau chóng đỡ chầy
Là vì không biết chữa ngay kịp thời
Thuốc thang sẵn có khắp nơi
Trong vườn, ngoài ruộng, trên đồi, dưới sông
Hàng ngàn thảo mộc thú trùng
Thiếu gì thuốc bỏ, thuốc công quanh mình
Cứ gì phải đợi Sâm, Linh
Hạt sen, ý dĩtính bình sẵn ngay
Đại hoàngcông hạ tốt đây
Chu biên, lô hội dùng thay kém gì
Chớ nên chuộng lạ cầu kỳ
Chi bằng chữa được kịp thì là hơn
Nên dùng các thứ thức ăn
Thay vào thuốc bổ có phần lợi hơn
Đậu đen trồng được trong vườn
Hà tất phải đợi Địa hoàngtừ xa
Ong rừng lại có hươu nhà(6)
Thiếu gì thuốc bổ mà lo gày mòn
Bình thường rau đậu bổ hơn
Đến khi liệt nhược Sâm, nhung chẳng vào
Dù cho Sâm phụ (7) nhiệm màu
Âm dương ly thoát thuốc nào cứu đang
Ngoài cách điều trị bệnh thường
Cũng nên biết cách đề phòng lúc nguy
Cứu người bổ ngã tường đè
Bỗng dưng chết ngất, cần dè chuyển lay
Động di khí loạn nguy ngay
Dần dà khí huyết phục hồi thì hơn
Cứu người bị bỏng lửa hun
Chớ nên ngâm lạnh đắp bùn mà nguy
Trong uống thanh bổ tâm tỳ
Mật ong, thuốc bỏng bôi thì đỡ ngay
Phạm phòng ngừng thở đôi khi
Khuyên người phụ nữ để y trên mình
Chớ vì xấu hổ mà kinh
Lăn xuống thì chết vô tình sát phu
Cứu người chết đuối bến đò
Chớ nên dốc thằng chống giò lên trên
Nước đè thì khí tuyệt liền
Chỉ còn nằm chếch nước bèn chảy ra
Cứu người trúng nắng đường xa
Chớ nên uống lạnh mới là được yên
Cho nằm chỗ ướt không nên
Chườm nóng vào rốn dần dần tỉnh ra
Gọi là mấy phép phòng ngừa
Ta nên hiểu biết để cho đỡ lầm
Chẳng qua mấy việc thường làm
Sách này hợp lại thành bài “vệ sinh”
Xem thêm: Tam bảo
Phòng bệnh truyền nhiễm
Dưỡng nhi
1) Bốc mộ tổ tiên đem chôn nơi khác và cúng lễ để cầu giải hạn thay số cho khỏi bệnh theo quan niệm duy tâm
2) Sống là ở gửi, chết là về quê, theo thuyết luân hồi duy tâm của đạo Phật
3) Không được chữa đúng phép và kịp thời (thiếu sót về điều trị)
4) Phép chữa đuổi bệnh tà: hãn, thổ, hạ
5) Bệnh tà lúc đầu ở ngoài da thịt (biểu), nếu không chữa đúng phép và kịp thời thì tà khí dần vào trong(lý)
6) Ý nói ngoài việc nuôi ong lấy mật và săn hươu lấy gạc để dùng, còn nên đi kiếm thêm mật ong rừng và nuôi thêm hươu nai ở vườn nhà để lấy nhung, gạc làm thuốc bổ
7) Sâm phụ thang: nhân sâm 5 đồng cân. Phụ tử chế 2 đồng cân 5 đồng phân, là phương thuốc hồi dương. PHÒNG BỆNH GIA SÚC Phòng dịch gà heo trâu bò
Dọn chuồng là việc phải lo hàng ngay
Dọn rồi lại vẩy rắc vôi
Nên đốt Thương truậtxông hơi vào mồm
Gà thì phải để cao chuồng
Gà làng cách biệt gió sương cần phòng
Ăn gạo tẩm nước vôi trong
Rượu ngâm hột Giổi(1) uống thường được qua
Đậu sang: cóc mẫn(2) uống xoa
Diêm sinh chặn dịch ngáp rù, ỉa vôi
Đến khi đã chớm có toi
Chớ mua gà chợ về nuôi thêm phiền
Phải đem gà chết chôn liền
Chớ nên vất xác nhiễm truyền sao đang
Phòng ngừa dịch lợn phát ban
Chanh châu, đơn đỏ(3) uống đon cũng lành
Đến khi dịch đã phát sinh
Rau sam nấu với phù bìnhcho ăn
Bồ kết, củ ráng uống luôn (quán chúng)
Sát trùng, bài độc, khí ôn thanh trừ
Ngăn ngừa dịch lợn bò trâu
Hùng hoàng, bồ kết, ô đầu đốt than
Tán ra thổi mũi thông quan
Lại cho uống tỏi dân gian thường làm
Tiễn đưa lịch lệ ôn hoàng (tống ôn)
Trước tiên tẩy uế, khai quang gia đường (4)
Kinh này, nên đọc thuộc lòng chớ quên
1) Cây gỗ cao ở rừng: hạt có mùi thơm dùng làm gia vị vừa là thuốc chữa đau bụng hay ngâm rượu xoa bóp
2) Cóc mãn: Nga bất thực thảo
3) Đơn mặt trời, cây liễu: ôn phế thông khi, giáng suyễn chữa mề đay mụn
4) Rửa sạch vô mở sáng cửa nhà. Nghĩa bóng là phép “tẩy uế” “khai quang” của thầy cúng khi làm lễ tống ông theo duy tâm. PHÒNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM Thiên thời dịch lệ nguy thay
Làm sao trừ được bệnh này mới an
Từ xưa luống những lo toan
Thế mà chướng lệ (sốt rét ác tính) vẫn còn xảy ra
Núi rừng rậm rạp bao la
Lá lim phân thú, trùng xà ủ men
Suốt đời khí thấp lưu liên
Đến khi nắng nóng chứng lên bệnh thành
Theo đường mũi miệng vào mình
Khí độc lam chướng (trùng núi) hoành hành ác ghê
Bệnh này chứng trạng bất tề
Tựa như sốt rét mà nguy chẳng chầy
Hoắc hương bách giải(1) uống ngay
Trước khi chưa phát hoạ may được lành
Gặp khi chướng khí lưu hành
Ban ngày nắng bốc hơi thành mùi thơm
Kíp luôn bịt kín mũi mồm
Nói năng phải tránh mới hòng khỏi qua
Ở nơi lam chướng phải ngừa
Tuyệt không phòng sự, ăn no, nhọc nhằn
Ngày uống vài chén rượu tằm(2)
Để cho khí huyết ôn thông rất cần
Dự phòng nước độc sơn lam(3)
Nên uống cam thảo với phèn luôn luôn
Phòng ngừa ngã nước rét cơn
Ăn nên ngót bụng, ngủ trùm kín chân
Nằm cùng người bệnh nên răn
Ngủ ngày phải kị nên ăn cau trầu
Nước Riềng, chè vối đều tiêu
Lại ăn Ý dĩ uống liều thiên kim (4)
Tuy rằng ở chốn núi rừng
Biết phòng cũng được bình thường chẳng lo
Bệnh nguy hoắc loạn(5) từ xưa
Thái âm(6) thấp khí phát sinh
Nhân ăn uống lạnh trong mình tổn thương
Vì chưng nó đói thất thường
Lại ăn uốngnước độc rừng chảy xuôn
Sau khi mưa lụt nước trôi
Biết bao uế tạp theo ngòi chảy đi
Uống vào nôn tháo đôi khi
Nên dùng nước giếng khỏi nguy phần nào
Địa liền, Quán chúng ngâm vào
Hoắc hương nấu uống là tiêu khí tà
Kiêng ăn rau sống, sinh già(cà sống)
Thức ăn nấu chín bệnh tà tránh xa
Liền sau nạn đói can qua
Thường có dịch lớn phát ra kéo dài
Cho rằng dịch lệ thiên thời
Thực ra uế tạp do người gây nên
Dưới đất xác chết lưu niên
Nắng mưa chưng nấu bốc lên hại người
Trẻ già cảm nhiệm động thời
Biết phòng, biết tránh nhiều người cũng qua
Hễ khi ôn dịch phát ra
Dự phòng uống Tỏi, Bạc hà, lá thông
Nữ thanh(7), bục dục(8) nên dùng
Lại hun Bồ kết, Đàn hương trong nhà
Có dịch thì chớ lân la
Cần nên nút mũi khi ra ngoài đường
Dùng bông bọc tỏi, hùng hoàng
Khi thăm người bệnh lại càng không quên
Chuyện trò đối diện chớ nên
Về nhà tẩy uế mới yên trong lòng
Trong nhà người bệnh ở cùng
Chớ nên chung chạ đồ dùng phòng lây
Nhất là lao trái truyền thi(9)
Đề phòng truyền nhiễm trường kỳ mới yên
Ngăn ngừa cha mẹ di truyền
Hao tinh lao lực bệnh nguyênkhơi mào
Ở gần dễ nhiễm trùng lao
Nên dùng vôi bột rắc vào đờm phân
Ống nhỏ, nên chứa vôi, mun
Dự phòng bách bộ, uống ngăn cũng màu
Chí như mai độc(10) hại sâu
Phòng ngừa bệnh nhiễm lúc đầu khó thay
Đến khi bệnh đã phát rồi
Chữa không tiệt nọc, suốt đời truyền di
Dương mai truyền nhiễm thật nguy
Khuyên người nam nữ chớ đi chơi nhiều
Cu vẽ(11), Khúc khắc uống nhiều
Rau sam ăn mãi độc tiêu hết truyền
Lệ phong (12) gốc tự cao nguyên
Trùng độc, xà độc gây nên bệnh này
Dễ lay, khó khỏi người hay
Ai mà mắc phải lánh ngay(cách ly) vào rừng
Chớ nên lưu luyến gia đình
Bền lòng điều dưỡng một mình mới an
Mật ong, rau má thường ăn
Móng tay(13) thịt rắc rất cần khu phong
Khỏi rồi còn cấm tửu phòng (rượu, phòng dục)
Mặn, cay phải kỵ, mới hòng hồi cư (về nhà ở)
Dự phòng truyền nhiễm đậu mùa
Từ xưa có phép nhưng chưa an toàn
Nên xa người bệnh thì hơn
Áo quần nên nấu, chiếu giường phải xông
Người bệnh nên ở trong phòng
Đến khi bay hết hoàn toàn phải ra
Lên sởi cũng như lên hoa (đậu)
Cần kiêng gió nước mới là bình an
Dự phòng đậu, sởi, đầu ôn(14)
Chành châu(15) rau mác uống đôn(ngăn) cũng lành
Dự phòng đơn độc phát sinh
Gỗ vang sắc uống thì mình cũng an
Ngăn ngừa ôn độc phát ban
Thạch cao, núc áo, lá chàm uống ngay
Thấp ôn(cảm cúm) tê mỏi chân tay
Đau lưng nghẹt mũi bệnh này ít lo
Cần nên mặc ấm ăn no
Uống đôn: Hương phụ, Tử tô, Trần bì
Phong ôn phát sốt li bì
Cắt căn, Kinh giới uống thì cũng qua
1. HOẮC HƯƠNG BÁCH GIẢI HOÀN: hương phụ 2 lạng 5 đồng cân. Lá lim, ngũ gia bì đều 2 lạng; Lá sung, nam mộc hương đều 3 lạng; Hạt cau, muội nồi, long đởm thảo, thường truật đều 1 lạng. Gừng khô một ít; tán nhỏ, lấy hột đậu xanh quyất hồ làm viên bằng đầu ngón tay út, uống mỗi lần 3 – 5 viên với nước thang như sau:
- Sốt rét ngã nước ác tính uống với nước gừng
- Ỉa chảy uống nước cơm
- Đau bụng và thổ tả uống với nước muối sắc
- Kiết lỵ uống với Chỉ xác sắc
- Cảm nóng rét, uống với nước Gừng, Hành sắc
2) Rượu tăm: tức rượu để nấu bằng nếp, lấy cao chữ từ 40 độ
3) Sơn lam chướng khi hay lam chướng là khí độc của núi rừng
4) THIÊN KIM BẤT HOÃN HOÀN: hậu phác, thương truật, hoắc hương, hương phụ, trần bì, bán hạ, tân lang, thảo quả, cam thảo bằng nhau tán bột, viên với hồ bằng đầu ngón tay út, uống mỗi lần 1 – 3 với nước gừng
5) Hoắc loạn: dịch tả
6) Khí đát làm tổn thương tỳ vị
7) Rau mảnh bát: hát đọt non luộc ăn
8) Thái bộc căn bùng mục
9) Lao trùng truyền nhiễm (kể cả lao phổi)
10) Di độc của bệnh giang mai (xem trong Bách gia trân tàng quyển Quý)
11) Bồ cu vẽ
12) Phong cùi ở Hành giản trân nhu quyển Đoài cũng dùng mật ong nhưng không kiêng cay
13) Lá móng tay tức thuốc mọi lá lựu (xem Bách gia trân tàng quyển Trọng)
14) Sưng đầu mặt, quai bị
15) Canh châu (Xích nhu đẳng): Lá non hãm nước uống sôi uống thay nước trà, chữa sởi đậu. Tác dụng tiêu độc TRÁNH TAI NẠN Muốn cho thôn xóm được yên
Mỗi người đều phải giữ gìn cùng nhau
Đề phòng trộm cướp binh đao
Là điều khó tránh người nào chẳng lo
Ấy là những việc bất ngờ
Thật ra vốn có nguyên do rõ ràng
Khó nghèo ghét kẻ giàu sang
Kẻ ăn không hết, người làm chẳng ra
Kẻ thì gác tía xướng xa
Người thì đói rét kêu la khắp đường
Thà rằng bạo động bất lường
Còn hơn chết đói nằm đường thối thây
Bệnh đời sâu sắc lắm thay
Tây y không dễ với tay ngăn ngừa
Sửa mình lương thiện cần cù
Không chèo chẳng ngã, không giàu chẳng nguy
Mặc đời những truyện thị phi
Bỏ lòng lợi dục sợ gì tai ương
Chí như ẩu đả đao thương
Giết nhau, đầu độc vẫn thường xảy ra
Lòng tham không đái khôn dò
Chỉ vì danh lợi, dâm tà xui nên
Lại còn gieo hoạt vu oan
Đốt nhà hại của dã man vô cùng
Chỉ vì nông nổi ác tâm
Làm người đau khổ, hoạ thâm về mình
Tội chi thắt cổ trầm mình
Dù người ức iếp, quyên sinh thiệt đời
Chi bằng nhẫn nhục cho rồi
Lòng mình ngay thằng, có thời giải oan
Ở đời tai hoạ đa đoan
Biết lường tiến thoái biết dừng khỏi nguy
Can qua tham khốc thường khi
Tranh quyền cướp nước chỉ vì mộng tham
Mưu thâm thì hoạ cũng thâm
Hại nhân, nhân hại, tất nhiên, khôn ngừa
Anh hùng lỡ bước sa cơ
Hùm thiêng mắc bẫy, nào ngờ chết toi
Chớ nên tàn bạo ở đời
Lòng mình không muốn thì người nào dung
Chớ nên cậy thế oai hung
Lòng người không phục, đến cùng vẫn nguy
Chớ nên thám hiểm hiếu kỳ
Đứng đi cẩn thận sợ gì chiết thương (què xương)
Chớ nên lặn vực chui hang
Nhỡ khi chuột rút, xà lang hại mình
Chớ vì quyền lợi tranh giành
Hại nhân ích kỷ mà thành oan gia
Chớ nên đấu sức ganh đua
Ngoài phòng tai nạn, trong ngừa tổn thương
Lưới chài săn bắn phải phong
Biến khơi, rừng rậm, tố dông lạc đường
Đừng nên táo bạo không chừng
Sông sâu chớ lôi, đò đầy khoan sang
Thú trùng tác hại cũng thường
Há không nghĩ đến những phương thuốc phòng
Chó dại thì nó chay rông
Ăn nhầm nọc độc ngoài đồng phát điên
Thường nên nhốt lại đừng quên
Hết đường tiếp xúc nhiễm truyền được sao
Đề phòng chấy rận thế nào
Cần nên tắm gội chải đầu luôn luôn
Rận thì nên giặt áo quần
Hột na trừ chấy vài lần hết ngay
Vôi đá sát trùng xưa nay
Trừ giun, diệt đỉa ta hay thường dùng
Trục đỉa thì dùng mật ong
Nó còn dùng để trục trùng vào tai
Thuốc chuột dùng rễ Hương bài
Trừ sâu: thuốc lá, trừ ruồi: Ngề, vôi
Trừ rệp: bồ kết, hoa nồi
Hun nhà trừ muỗi, dùng Bèo, lá Xoan
Đề phòng rết cắn không quên
Giường nằm phải có che phên làm trần
Nhà giàu đã có mùng màn
Sợ gì rết muỗi mà bàn mà lo
Mắm tương trong vại trong vò
Tự sinh ròi bọ, lò mò bò lên
Dùng là Bọ mắm bỏ trên
Bọ bâu lên lá ta bèn vứt đi
Lá này giã bỏ trước khi
Phòng ngừa sinh bọ có bề tốt hơn
Miệng vò bịt vải luôn luôn
Ruồi lằn không đậu lại càng tốt thay
Ong bu chớ đập mà nguy
Một con bị chết cả bầy đốt luôn
Đề phòng xà thú vào vườn
Trồng cây Ruốc cá xung quanh hàng rào
Lại con trừ đỉa dưới ao
Thường lấy xương ngựa bỏ vào cũng hay. ĂN Ở Ăn ở cần phải chọn nơi
Chọn làng mà ở, chọn người mà giao
Làm nhiều chỗ thoáng, chỗ cao
Tránh nơi dơ bẩn, ồn ào, âm u
Xa phường trộm cắp hung đồ
Gần người chất phác, cần cù làm ăn
Để cùng giúp đỡ đồng lân
Để cùng gìn giữ an ninh xóm làng
Thường khi đào giếng khai mương
Phát hoang bụi rậm, dọn đường cùng đi
Nhà giàu ích kỷ chi li
Nhìn xa độ thị phố phường
Dâm ô truỵ lạc, chợ đường hôi tanh
Mấy ai biết giữ thân mình
Huống là trật tự vệ sinh xóm phường
Những nơi thắng cảnh miếu đuờng
Cần nên gìn giữ phong quang vẹn toàn
Những nơi mồ mả chợ đường
Chớ nên phóng uế, đào mương, đắp bùn
Đừng nên phát hoả đốt lùm
Đề phòng gió bốc, lửa um cháy nhà
Nhà ở thì phải làm xa
Bếp xây tường đất trái lờ lửa om
Gần bếp chớ chất củi rơm
Nên đào ao giếng sẵn luôn trong vườn
Phòng hoả quan trọng vô cùng
Giữ gìn cuộc sống, đề phòng hoả thương (phỏng)
Thuỷ tai nguy hiểm phi thường
Đê điều cần phải chăm thường đắp luôn
Cấm người đào đất xẻ mương
Lợi miệng thì ít, hai chung thì nhiều
Ở nơi nước lũ hiểm nghèo
Trồng cây cổ thụ để neo chằng nhà
Phòng khi lụt lội nước sa
Thuyền bè sắm để trong nhà gì hơn
Trước lo việc ở cho yên
Sau gìn sạnh sẽ không quên ghi lòng
Chớ nên ỉa bến, ỉa sông
Chi bằng ỉa ruộng, ỉa đồng tốt cây
Quanh nhà chớ đái mà khai
Ẩm thấp sinh muỗi, tanh hôi sinh ruồi
Trong nhà cửa mở thoáng hơi
Để cho dương khí mặt trời lọt qua
Siêng năng quét cửa, quét nhà
Soi giường, giặt chiếu mới là vệ sinh
Khác nhau thôn dã thị thành
Nhà nông cần phải lấy phân bón mầu
Góc vườn đào hố ủ sâu
Nên làm chuồng lợn, ràn trâu xa nhà
Phòng bệnh, phòng rắn cho gà
Chuồng đan phên kín, chớ là dưới sân
Độn chuồng là việc rất cần
Vừa tránh ruồi nhặng, thêm phân lợi nhiều
Bất kỳ kẻ có người nghèo
Ăn mặc sạch sẽ chẳng tiêu tốn tiền
Áo quần giặt giũ cho liền
Vò Găng Bồ kết, Chu biên, Bồ hòn
Lại nên tắm gội luôn luôn
Có câu: Đói sạch rách thơm, sá gì
Giàu sang màn trướng chu vi (vây quanh)
Trong u ám (đen tối) thương khi bẩn nhiều.
Nước chảy, không thối, không rêu
Lòng sạch, người sạch là liều thuốc tiên DƯỠNG NHI Nuôi con là việc rất cần
Mọi người ai cũng quan tâm hàng ngày
Tiên thiên bẩm thụ chẳng đầy
Là vì thiếu phép dưỡng thai trong lòng
Hậu thiên nuôi dưỡng chẳng phòng
Thì con ốm yếu gày còm chết non
Anh nhi như cái mầm non
Cần nên vun tưới, chăm nom, giữ gìn
Dự phòng ngay lúc mới sinh
Trước tiên cắt rốn, gừng, hành xát dao
Vải mềm nước muối tẩm vào
Quấn tay móc miệng độc trào tiết ra
Lại dùng nước nấu Ngân hoa
Tắm ngay cho trẻ, ngoài da mát lành
Dự phòng đậu sởi phát sinh
Lá xoan, ích mẫu rửa mình cũng hay
Dự phòng thai nhiệt kinh sài
Lúc khi mới đẻ uống ngay Ngưu Hoàng
Phòng ngừa kiết lỵ tiện đường
Uống ngay cam thảo, mật ong kiện tỳ
Phòng ngừa kinh giản, đậu mùa
Cho uống sữa lợn tháng đầu cũng nên
Buộc bụng cho kẻ không quên
Chặn tà hàn thấp nhiễm truyền tề phong (uốn ván rốn)
Khi tắm cho trẻ phải phòng
Gió lùa nước lạnh, trẻ run rẩy mình
Chớ nên để trẻ sợ kinh
Tắm lâu nên kỵ, lau mình nhẹ tay
Giữ lưng cho trẻ cần thay
hàn thấp xâm nhập, kinh sài phát ra
Phong trì sau gáy thường xoa
Đề phòng ngoại cảm phong tà Lục dâm
Khi cảm chỗ đó nên chườm
Mồ hôi ra được, trẻ thường lại chơi
Hớt tóc chỗ ấm nên ngồi
Làn đào, bột mịn, cạo rồi liền xoa
Đề phòng lở ngứa ngoài da
Dùng nước Kinh giới, hoè hoatắm thường
Cho mặc ấm bụng, ấm lưng
Ấm chân, kín rốn còn hơn bịt đầu
Áo quần thích ứng theo mùa
Bịt hơi nóng quá phải ngừa ngứa sang (Lở)
Trên đầu dương khí bốc lên
Đội mão hơi bức hoá sinh chốc đầu
Dưới chân chẳng thiết ấm nhiều
Từ khi trẻ đã bắt đầu tập đi
Để cho cơ biểu thích nghi
Khi trời ấm lạnh cho đi ra ngoài
Trong phòng ủ ấm là sai
Đến khi thay đổi tiết trời cảm ngay
Cho nằm ở chỗ thoáng hơi
Nhưng cần phải tránh những nơi gió lùa
Đề phòng hàn thấp răn ngừa
Lăn mình dưới đất, nằm bò ngoài sương
Nằm nơi mát lạnh nên kiêng
Mặc dù tiết nóng chớ nên ở trần
Khi ngủ bụng ngực đắp chăn
Còn kiêng tiếng động giật mình hoảng kinh
Gối đầu Hoa cúc nhẹ thanh
Phòng ngừa phong nhiệt xông lên mắt đầu
Tịch (tránh) tà cho đeo bao trừ
Địa liền, Long não, A nguỳ, Chân hương
Gặp khi sấm sét tiếng vang
Nhét tai cho trẻ để phòng điếc tai
Lại cần biết cách cho chơi
Cấm ôm súc vật, tránh nơi lạ thường
Đồ chơi thanh nhã nên dùng
Chớ cho bốc đất, bắt trùng mà ăn
Ngồi lê dưới đất nên răn
Trùng xâm, kiến đốt, bất thần bệnh sinh
Chơi dao, chơi lửa đáng kinh
Đề phòng tai nạn, thân hình đao thương
Nuôi trẻ tuần tiết phải tường
Vỡ da sốt lớn là thường đừng lo
Vội dùng thuốc mạnh hồ đồ
Hài nhi non nớt, nguy cơ tới liền
Mọc răng đi tướt suốt đêm
Vội vàng cầm ỉa sẽ thêm nóng nhiều
Tập ngồi chớ để ngồi lâu
Tuỷ non, xương yếu về sau lưng gù
Tập đi sớm quá cũng ngừa
Làm trẻ rán sức, gân mềm chồn chân
Luận về cho bú, cho ăn
Là phần trọng yếu ta cần quan tâm
Những điều nhũ mẫu phải làm
Giữ sao cho sữa tốt lành luôn luôn
Phòng dục, uống rượu phải kiêng
Nhất là ăn thức nướng rang, cay nồng
Cùng thức sống lạnh cay nhờn
Mặn chua thái quá cũng không nên dùng
Uống ăn hỗn tạp không chừng
Làm cho chất sữa thất thường, loãng chua
Lạnh thì nôn, tháo đầy, ho
Nóng thì lở, kiết, bất ngờ lòi dom
Sau khi mưa nắng giãi dầm
Hoặc khi mẹ mới tắm xong uống liền
Sữa này truyền bệnh tất nhiên
Cần nên vắt bỏ trước tiên nước đầu
Sau khi tích sữa đã lâu
Cũng nên vắt bỏ lớp đầu mới an
Bú ăn cần cách thời gian
Ăn liền lại bú hoàn toàn không tiêu
Đang no hoặc giả bú nhiều
Nôn, ói, ọc sữa là điều đáng lo
Sau khi trẻ đã biết bò
Ăn nhiều bột gạo để cho cứng mình
Muốn cho bụng dạ yên lành
Sớm ăn ngũ cốc cho thành thói quen
Kể từ ba tháng trở lên
Cho ăn cháo loãng thì yên vị trường
Dự phòng tích trệ giun trùng
Ít ăn béo ngọt, uống phòng Sứ quân (quả giun)
Hạt sen, đậu ván nên ăn
Chua cay, đắng chát ta cần phải kiêng
Bớt ăn mấy miếng cho thèm
Còn hơn bội thực gây nên tích đầy
Uống ăn điều độ cần thay
Thức ăn thanh đạm là bài thuốc tiên
Tôm cua, sò ốc nên kiêng
Ăn vào lạnh dạ, ỉa liền phân tanh
Đến như kiệu, tỏi, hẹ, hành
Dễ sinh hư nhiệt tính tình mẩn mê
Chim sẻ, chím ngói bổ ghê
Ăn vào trằn trọc khó bề ngủ yên
Lại sinh lở ngứa liên miên
Thịt gà, cá chép cũng nên ăn vừa
Nuôi con biết cách phòng ngừa
Thì con khoẻ manh, mẹ đà khỏi lo
Nhà nghèo khi đói, khi no
Không mền, không áo cần ngừa gió sương
May thay tạo hoá đoái thương
Lưng cơm mảnh chiếu, con thường vui chơi
Vì chưng quen với tiết trời
Lại không tích trệ như người cao lương
Muốn cho con cái khang cường
Khuyên người phụ nữnên tường cách nuôi. PHỤ NỮ Bệnh căn nữ có khác nhau
Về phương kinh nguyệt, có mang lâm bồn
Sinh rồi, con mẹ vuông tròn
Nhưng mà sản hậu lại còn phải kiêng
Mấy điều ghi nhớ trước tiên
Nhập phòng vô độ chớ nên chiều chồng
Lửa dục nung nấu trong lòng
Âm tinh hao kiệt, máu hồng cũng khô
Đẻ nhiều huyết bại khí hư
Dần dần thuỷ kiệt, từ từ sinh lao
Dâm phòng quá độ khí hao
Thường khi không chữa quy vào hiếm hoi
Hoặc là đẻ nhặt sinh đôi
Con bầy ốm yếu, giống nòi mạnh sao
Đẻ luôn con lại bú nhiều
Đêm hôm mất ngủ âm tiêu (1) gày mòn
Ốm đau lại phải nuôi con
Thêm phần lao lực chóng tàn ngày xuân
Thương người phụ nữ tảo tần(2)
Sinh ra gánh vác mọi phần cho nam
Thương người ca xướng phấn son
Ăn không ngồi rỗi hiến thân cho người
Biết bao bệnh tật trong đời
Nguyên do sắc dục chơi bời gây nên
Biết bao lao khổ ưu phiền(3)
Vì chưng: một của một con, ai từ (4)
Song le dâm dục thận hư
Biến sinh kinh bế, huyết khô gày mòn
Mắn con thường lại chết non
Há không tiết dục lại còn đa dâm
Lại còn uất giận xung tâm
Vì chưng tình dục ghen tuông chẳng ngừa
Can uất kinh bế huyết hư
Âm tiêu hoả tốc từ từ bệnh sinh
Vậy nên thư thái tính tình
Bớt lòng ham muốnthì mình sống lâu
Một điều trọng yếu hàng đầu
Khuyên người chớ vội nhận trầu vấn danh (5)
Đợi khi nam nữ trường thành
Để cho thiên quý (6) âm tinh (7) vẹn toàn
Đến kỳ rồi mới kết hôn
Nữ nam sung túc, cháu con sum vầy
Chớ theo cổ tục hại thay
Đưa con gả bán từ ngày còn thơ
Tảo hôn chết yểu cần ngừa
Há sao luật cấm mà chưa tuân hành
Đàn bà nên giữ vệ sinh
Để cho nguyệt tín kỳ kinh được đều
Chớ nên làm lụng quá nhiều
Khi kinh chưa sạch chớ liều ngủ chung
Nhập phòng, uất giận can xung
Dễ sinh băng lậu (8) khó lòng cầm ngay
Kiêng ăn sống lanh tích đầy
Dầm mưa, rửa sớm, sau này trệ kinh
Liền khi vừa mới sạch mình
Kiêng ăn táo nhiệt, thất tình, phòng trung
Gây nên động hoả khí xung
Huyết khô thuỷ kiệt, dự phòng hư lao
Giữ gìn thai nghén thế nào
Để cho con cái về sau yên lành (9)
Chặn ngăn xúc động thất tình
Dự phòng điên giản sài kinh sau này
Dục phòng thương thận nguy thay
Tiên thiên (10) không đủ thóp (11) đầy được ư
Cứng đầu ngoẹo cổ lưng gù
Chậm đi, chậm nói, gày gò những xương
Ăn nhiều các thứ cay nồng
Sinh con thai nhiệt, lở sưng da vàng
Ăn nhiều các thứ khổ hàn
Sinh con tỳ tiết sống phân, thũng tề
Hàn thấp nhiễm đến thai nhi
Hàn thì đau bụng, thấp thì bào sang
Lại kiêng lội nước leo thang
Van la, trật đả dễ dàng sảy thai
Họăc con tàn tật đòi nơi
Bẩm sinh mang bệnh sau này khó nuôi
Chớ nên sầu não bi ai (buồn khóc)
Tìm nơi thanh tú xa nơi hãi hùng
Lại còn no đói thất thường
Cũng đều ảnh hưởng đến lòng thai nhi
Có mang khuyên chớ nằm ì
Thường nên xay lúa thể chi (12) vận đều
Để cho sinh đẻ thuận chiều
Lại nên nằm thẳng chớ queo chân vào
Trong buồng lửa đốt khí hao
Lại kiêng tiếng động ồn ào sợ kinh
Lâm bồn đến lúc gần sinh
Khuyên người vững dạ tính tình thảnh thơi
Chớ nên rặn sớm hết hơi
Chớ nên bóp bụng theo lời người ta
Ổn bà (13) cấm kẻ vào ra
Đến khi hoa nở (14) chớ cho nước vào
Trục thai hoặc thuốc hạ bào (nhau)
Không nên mãnh liệt khí hao hại người
Dự phòng sau lúc đẻ rồi (15)
Nằm yên một chỗ chớ ngồi, chớ đi
Trong phòng kín đáo tứ vi (4 bề)
Chớ cho gió lọt vào khe lạnh lùng
Sưởi hơ, chớ để than hồng
Chỉ nên sưởi ấm vào vùng bụng, chân
Cần kiêng xúc động tinh thần
Không nên vội tắm, rửa chân, chải đầu
Vá may, làm lụng chưa cần
Dự phòng băng huyết, đau đầu khí xung
Muốn cho khí xấu khỏi ngưng
Cần nên ăn Nghệ, kiêng dùng đồ tanh
Các thức mát lạnh chẳng lành
Cần nên ấm bụng, ấm mình mới tan
Muốn cho da bụng khỏi nhăn
Thì nên bôi Nghệ, thắt khăn mấy vòng
Tiêu cơm thì uống chè Vằng
Vừa phòng tích tụ, hà trưng (16) trước phù
Phòng dục là việc cần ngừa
Trăm ngày kiêng cữ cũng chưa an toàn
Vừa cho khoẻ mẹ mạnh con
Khuyên người phụ nữ quyết tâm giữ gìn
1) Tinh huyết bị hao kiệt
2) Đảm đang
3) Vất vả, lo phiền
4) Lòng ham muốn về của và con thì bao nhiêu cũng vừa, không ai từ chối
5) Lễ dạm vợ đầu tiên bên nam đến hỏi tên tuổi bên nữ
6) Thời kỳ thận khí đầy đủ (Tuổi dậy thì): Nữ 14t, nam 16t. Đến lúc đó nữ thì có kinh nguyệt, nam thì có tinh khí đầy đủ
7) Tinh khí của thận
8) Băng huyết, rong huyết
9) Xem "Phụ đạo xán nhiên" quyển hậu
10) Sự bẩm sinh hay chỉ cơ năng của thận
11) Thóp, Nam gọi là mỏ ác
12) Thân và tay chân
13) Bà mụ xem (Toạ thảo lương mô)
14) Khi mở tử cung và con chui ra (nghĩa bóng)
15) Xem "Phụ đạo xán nhiên" quyển hậu
16) Hòn báng do khí huyết ngưng tụ
THẤT TÌNH - VỆ SINH QUYẾT YẾU Nội thương bệnh chứng phát sinh (1)
Thường do xúc động thất tìnhgây nên
Quá mừng khí hoãn như điên
Chợt kinh khí loạn tâm phiền ngất đi
Nghĩ nhiều khí kết thương tỳ
Thao thức không ngủ, ăn thì chẳng ngon
Lo sầu phế khí tiêu mòn
Hụt hơi héo hắt nói không ra lời
Xung can sùng sục như sôi
Giận thì khí thượng tựa trời sấm vang
Sợ thì khí xuống tận cùng
Thận hư run rẩy, dái thun, gối mềm
Tinh thần rối loạn chẳng yên
Vì chưng khí hết biến thiên thất thường
Ngấm ngầm nguyên khí tổn thương
Thừa hư tà lấn vào trong bệnh thành
Lợi dục đầu mối thất tình
Chặn lòng ham muốn thì mình được an
Cần nên tiết dục thanh tâm
Giữ lòng liêm chính chẳng ham tiền tài
Chẳng vì danh lợi đua đòi
Chẳng vì sắc đẹp đắm người, hại thân (2)
Giữ tinh, dưỡng khí, tồn thần
Tinh không hao tán thì thần được yên
Hàng ngày luyện khí chớ quên
Hít vào thanh khí, độc liền thải ra
Làm cho khí huyết điều hoà
Tinh thần giữ vững bệnh tà khó xâm
Lại cần tiết chế nói năng
Tránh làm quá sức dự phòng khí hao
Thức đêm lo nghĩ quá nhiều
Say mê sắc dục cũng đều hại tâm
Biến sinh lao tái bệnh thâm (3)
Chân nguyên suy tổn ngấm ngầm chết non
Có người phú quý luyện đan
Tưởng rằng tăng thọ nhờ hoàn tráng dương
Ngờ đâu thận đã tổn thương
Còn dùng dược thạch (3) lại càng chóng nguy
Đột nhiên tứ đại (4) phân ly
Đỉnh chung mũ sắc (5) mặt my (mày) với đời
Nhìn xem thôn dã bao người
Làm ăn chất phác, chơi bời chẳng hay
Ngô khoai rau cháo hàng ngày
Ấy mà khoẻ mạnh hơn người cao lương
Vì quen cuộc sống bình thường
Ít lo xúc phạm nội thương thất tình
Rạng đông cày cuốc luyện mình
Đồng không hít thở, thân hình nở nang
Lo sầu vì bệnh giàu sang
Vui nghèo khoẻ mạnh hiên ngang trong lòng
Thảnh thơi ở chốn núi rừng
Cuộc đời thanh bạch mà thường sống lâu
Hơn người quyền quý công hầu
Nhàn cư tửu sắc phần nhiều chết non
Mặc dù đạo dẫn, tiên đan
Đâu bằng hai chữ Thanh tâm là cùng
1) Xem Bệnh năngở Nội kinh yếu chỉ
2) Sắc đẹp làm cho người ta mê đắm và có thể hại đến tính mệnh
3) Thuốc bằng kim thạch như Lưu hoàng, Dương khởi thạch
4) Tứ đại: 4 yếu tố lớn trong cơ thể là Máu, thịt, gân, xương. Ý câu này là nói thân thể bỗng dưng lìa rời
5) Đỉnh chung mỹ sắc là danh vọng và sắc đẹp. TRẦU THUỐC RƯỢU TRÀ Luận về trầu, thuốc, rượu, chè
Từng dùng thiết đãi bạn bè vui thay
Vừa là phòng bệnh hàng ngày
Nhưng dùng quá mức hại này cũng sâu
Nước ta có tục ăn trầu
Để cho thơm miệng, hồng hào đỏ môi
Bạt trừ khí độc tanh hôi
Sơn, lam chướng ngược (3) thiên thời, thấp ôn (4)
Trầu cau ngừa bệnh rét cơn
Từ xưa đã rõ chẳng còn hoài nghi
Lại dùng thiết khách đôi khi
Mở đầu câu chuyện có gì quý hơn
Nào là tang, tế, quan, hôn (1)
Tân lang (2) quốc tuý quốc hồn (3) xưa nay
Cơi trầu tục lệ chẳng phai
Cho nên có kẻ trầu nhai luôn mồm
Ăn nhiều tán khí gày mòn
Phổi khô môi rộp rõ ràng chẳng sai
Tuy dùng phòng bệnh rất hay
Nhưng khi nóng rực người gày đừng ăn
Hàng ngày uống nướcrất cần
Chè xanh giải khát sinh tân hoá đàm
Giải độc lợi tiểu tiêu cơm
Váng đầu chóng mặt lại càng được thanh
Uống vừa khoan khoái thần minh
Uống nhiều khó ngủ thân mình gầy xanh
Uống nhiều lúc đói chẳng lành
Hoả tiêu thận bại, tỳ sinh hư hàn
Nước chè uống lạnh tích đờm
Chi bằng uống nóng khi còn bốc hơi
Tuỳ từng chè vối lâu đời
Để ngừa sốt rét ở nơi núi rừng
Tiêu đờmhạ khí ngừng nông
Trướng đày, thấp trệ, tích hòn đều tan
Đói lòng chè đặt bùng cồn (trà quạu)
Người gày thì chớ uống càn khí hao
Nhiệt dùng chè Bạng (4) tốt nhiều
Hàn thì chè Vối dễ tiêu tích đầy
Thuốc Lào tính nó nóng cay
Hút vào khí độc chạy ngay khắp mình
Làm cho rung động thần minh
Bỗng dưng khoan khoái tâm tình tiêu dao
Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên (5)
Bấy lâu ta đã dùng quen
Tương tư yên thảo (6) tương truyền chẳng sai
Bài trừ khí độc tanh hôi
Tán hàn trừ thấp tạm thời thấy mau
Ở nơi nước độc rừng sâu
Dự phòng sốt rét, đâu đâu cũng dùng
Hút vào, uất hoả hôi mồm
Họng khô, phổi ráo, tích đờm sinh ho
Khí hao, huyết tụ chẳng ngờ
Ung thư (6) kết hạch (8) nguy cơ có ngày
Hại nhiều lợi ít rõ thay
Khuyên ai quyết chí bỏ ngay thuốc lào
Lá tươi thì độc làm sao
Ăn vào tê dại, nôn nao mê trầm (lịm đi)
Tốt thay trừ mọt sát trùng
Dùng vào trừ rệp trải giường hoặc xông
Rễ khô uống nó thì công
Tiêu trừ trùng tích vô cùng là hay (9)
Rượu nồng tính nóng, hơi cay
Dở chua, dở ngọt vị hay lạ thường
Uống vào tai mắt đỏ bừng
Tâm thần rung động bàng quàng nói năng
Cường dương, tráng đởm (10) chi bằng
Bỗng nhiên sức mạnh hung hăng lạ đời
Cưới xin, yến tiệc vui chơi
Đăng quan, tế lễ, rượu đòi trước tiên
Có người say rượu liên miên
Người thì đói khát, không cơm, ăn mày
Rượu dùng tốn gạo nguy thay
Một người uống rượu mấy người nhịn ăn
Rượu say mê muội tinh thần
Khiến người làm bậy, làm càn hại thay
Rượu dùng làm thuốc thì hay
Tán hàn, hành huyết thật tài thật nhanh
Thuốc sao tẩm rượu thi hành
Thuốc cao pha rượu để dành được lâu
Thuốc mà ngâm rượu chạy mau
Ngoài xoa trong uống nhu cầu nhiều ghê
Tay chân đau nhức thấp tê
Người già rũ mỏi thuốc gì tốt hơn
Xưa dùng ngừa trị phong hàn
Rượu đầu vị thuốc rõ ràng chữ: Y (11)
Song le nạn rượu cũng nguy
Đến khi quá chén biết gì dại khôn
Ngà ngà mượn dịp hành hung
Say nhiều nôn mửa, bỗng nhiên mê trầm
Hơi men nung nấu Can tâm
Đau đầu, thổ huyết, họng sưng, mắt mù
Biến sinh cước khí (12) ung thư
Phế nuy (13) Tâm noãn (14), khô gan, da vàng
Lâu ngày thấp nhiệthuân chưng (15)
Biến nên vị thống (16) tràng phòng (17), gân mềm
Rượu làm khí lực hao mòn
Chi bằng nhịn rượu để còn gạo ăn
Chẳng những phòng bệnhphải răn
Cũng là giáo phú hưng dân đồng thời (18)
Nên dùng làm thuốc mà thôi
Già thì uống ít trẻ thì cấm ngăn
Uống ăn là việc rất cần
Nhưng mà kiêng kỵ lại càng cần thay
Cứ trong ăn uốngthường ngày
Phải cần biết chọn thức này, thức kia
Lại nên phối hợp thích nghi
Ăn nhầm sinh bệnh chẳng gì ích đâu
Nuôi người già yếu ốm đau
Càng nên tiết chế mới hầu khỏi nguy
Nên ăn kiêng kỵ thức gì
Ở trong Bản thảo đã ghi rõ ràng
Khuyên người phụ nữnên tường
Để giúp y thuật ngày càng tiến hơn
1) Ma chay, cúng lễ, lễ qua quan cho đội mũ của con trai lên 20 tuổi (thời xưa), lễ cưới
2) Cau, nói chung là trầu cau
3) Cái tinh tuý đặc biệt của dân tộc
4) Chè tươi loại già
5) Năm 1665, vua Lê Huyền Tông đã hai lần hạ lệnh cấm hút thuốc lào nhưng không thực hiện được
6) Cây thuốc lào có tên riêng là Tương tư yên thảo Nghĩa là Nhớ nhung khói cổ
7) Mụn nổi phát nhanh là ung, nhọt chìm phát chậm là thư, nói chung là mụn nhọt
8) Tụ lại thành hòn hay nổi hạch như tràng nhạc kết hạch
9) Lá thuốc lào tươi hay khô chữa rắn, sâu cắn. Rễ sao vàng chữa tích báng. Nhưng có chất Nicotin rất độc
10) Mạnh dương kích dục và gây thêm can đảm hùng mạnh
11) Chữ "Y" gồm chữ "dậu" ở dưới. Dậu có nghĩa là rượu (Dậu thánh)
12) Chân đau sưng tê lạnh
13) Phổi héo khô (lao phổi)
14) Tim đập chậm hay cơ tim giãn ra (Suy tim)
15) Khí ẩm chưng bốc nóng
16) Đau dạ dày
17) Tràng phong hạ huyết (Ỉa ra máu)
18) Vừa là dạy cho dân giàu mạnh. NƯỚC UỐNG Một điều trọng yếu không quên
Vấn đề nước uống phải nên thế nào?
Chớ dùng nước ruộng nước ao
Nước hộ, nước vũng, nước nào cũng dơ
Chi bằng nước giếng nước mưa
Nước sông, nước suối cũng chưa an toàn
Cần thêm ngâm nước sát trùng
Chanh châu, Quán chúng, Hùng Hoàng, Nghể râm
Phèn chua lọc nước thêm trong
Ao từ, nước bẩn cũng không nên dùng
Nước ăn chứa đựng trong thùng
Cũng nên đậy kín đề phòng bụi rơi
Nước mưa nên hứng giữa trời
Mái nhà thường có sâu trôi lẫn vào
Bề xây thành đáy mọc meo
Nên dùng vôi bột cọ thao cho liền
Cá vàng nuôi cảnh càng nên
Phòng khi có độc, cá liền chết ngay
Cá ăn bọ gậy (2) hàng ngày
Vẫn là trừ muỗi, lợi thay mọi bề. ĂN UỐNG Vệ sinh ăn uống trước tiên
Khuyên ăn thanh đạm, khuyên kiêng đậm nồng
Ngũ tâm(5 vị cay) dùng phải có chừng
Ăn nhiều tán khí, biết phòng mới hay
Các mùi mặn đắng chua cay
Ăn nhiều sinh bệnh chẳng sai đâu mà
Đắng nhiều hại phế khô da
Mặn nhiều tâm lãnh, máu tà phải ngưng
Quá chua can động rút gân
Quá cay, chai thịt, môi quăn, hại tỳ
Ngọt nhiều cũng chẳng ích gì
Tỳ chen, thận yếu xương tê, tóc cằn (1)
Đến như gừng, tỏi, kiệu, hành
Từng dùng phòng bệnh đã thành thói quen
Vừa chừng gia vị thì nên
Hễ người táo nhiệt, chớ quên kiêng dùng
Cao lương tích trệ sinh ung
Rau tương thanh đạm đói lòng cũng ngon
Ăn nhiều ngũ cốc (2) tốt hơn
Thịt thà tanh béo sinh đờm, sinh giun (lãi)
Có câu: Tham thực cực thân
Bệnh tòng khẩu nhập (3) ta cần phải kiêng
Muốn cho ngũ tạng được yên
Bớt ăn mấy miếng, nhịn thèm sinh đau
Ăn no thì chớ gội đầu (4)
Nên đi bách bộ cho tiêu kiêng nằm
Tháng 3 đói kém thiếu ăn
Đến mùa cơm mới, ăn dần mới tiêu
Chết vì bội thực cũng nhiều
Ngờ đâu lại có người nghèo chết no
Còn người phú quý nhàn cư
Ngày đêm yến tiệc ăn no lại nằm
Rượu say rồi lại nhập phòng
Khỏi sao tích trệ, phạm phòng chết non
Nhà nghèo củ chuối cũng ngon
Ăn nhiều sinh thũng còn hơn đói lòng
Bệnh can no đói bất đồng
Tai y khôn dễ dự phòng được ư?
Mấy điều cần phải phòng ngừa
Kiêng ăn sống sít, bẩn dơ, làm nhàm
Thức ăn phải đậy để phòng
Thằn lằn, nhện, kiến, nhặng ông rơi vào
Kiêng ăn rau sống tương meo (mốc)
Quạ đen, chó trắng (5) cùng loài tanh hôi
Chẳng ăn thịt thối, thịt ôi
Nem thiu, lươn chết tanh hôi ích gì
Quả xanh nước lãđộc ghê
Ăn vào ỉa mửa thường khi bất ngờ
Lại còn độc sắn (6) chẳng ngờ
Cũng nên biết cách phòng ngừa mới yên
Phải đem bóc vỏ trước tiên
Cắt ra ngâm nước một đêm, trắng ròng
Nấu kỹ thì tốt hơn hông (Đồ)
Trước, sau, ăn mía, mật, đường đã say
Từng dùng rau muống xưa nay
Tuy rằng giải độc chưa hay đâu mà
Ai hay ăn nấm cần ngừa
Nấm lim (7) rất độc vì chưng rắn, trùng
Vậy nên biết cách đề phòng
Cho vào đồ bạc nấu cùng thử xem
Thấy đồ sắc biếc xám đen
Biết rằng nấm độc ta bèn bỏ đi
Nhược bằng ngộ độc đôi khi
Uống ngay nước Phẩn (8) tức thì giải luôn
Hoặc dùng nước xáo đất tường (9)
Lóng trong mà uống cũng thường được an
Luận về phòng độc thức ăn
Biết bao nhiêu thứ khó khăn kể cùng
Chỉ bằng kiêng kỵ là xong
Đừng ăn thức lạ mới hòng khỏi nguy
Bất kỳ ngộ đọc thứ gì
Rễ sòi, củ chuối uống thì trục ra
Đậu đen, cam thảo trung hoà
Hoàng đằng, Quán chúng, Từ cô giải liền
Độc cá thì dùng Mã tiên (Cỏ roi ngựa)
Thịt toi: Hoàng bá; Trùng: phèn, chè khô
Độc cua, sò ốc: tía tô
Trứng rau ngộ độc: Giấm chua tiêu liền
1. Theo Thiên ngũ tạng sinh thành của Nội kinh tố vấn
2. Gạo tẻ, gạo nếp, bắp, đậu, mè
3. Tham ăn thì dễ bị đau, bệnh thường do ăn uống sinh ra
4. Người xưa để tóc dài, khi vừa ăn no mà gội đầu phải cúi xuống thì dễ sinh tức bụng và nhức đầu
5. Quạ đen hay con kênh kênh thường ăn xác chết: Thịt chó cò ăn thì dễ sinh đau bụng đi ngoài
6. Đây nói cây khoai mì (sắn) lương thực phụ trồng để ăn không phải là dã cát có độc theo sách xưa, cũng có tên là Câu vẫn tức Lá Ngón (Đoạn trường thảo)
7. Chất độc ở trong nấm không phải do rắn trùng nhả ra. Chính tuỳ theo loại cây nấm. Quan niệm về nguyên nhân trúng độc rắn và việc dùng nước phẩn giải độc là theo "Bản thảo cương mục"
8. Theo Linh nam bản thảo: Phân người đốt thành tro; để lâu khi dùng hoà với nước và lắng lấy nước trong uống giải độc
9. Đất vách hoà với nước, lóng lấy nước trong để uống. KHI CƯ Khởi cư: Xuất nhập (1) hàng đầu
Thuận theo động tĩnh của bầu thiên nhiên
Âm dương(2) vận chuyển ngày đêm
Bốn mùa thời tiết luân phiên chẳng nhầm
Xưa rằng : "sáng dậy đêm nằm
Ngày làm tối nghỉ là vâng mệnh trời
Cũng là cương kỷ của người
Khuyên ai dậy sớm, chớ ngồi thâu canh"
Cần lao cung ứng nhu cầu
Ở đời muốn sống dễ hầu ngồi dưng
Cần lao thân thể khang cường
Tinh thần vui vẻ gân xương chuyển đều
Nhàn cư bất thiện mọi điều
Nghĩ thầm làm bậy, đói nghèo theo thân
Nhàn cư ủ rũ tinh thần
Nằm nhiều khí huyết kém phần lưu thông
Còn như làm việc không chừng
Cũng là trái với lẽ thường chẳng nên
Ham mê, mưu lự thâu đêm
Lao tâm, lao lực, không quên phòng ngừa
Thuận theo thời tiết bốn mùa
Xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông tàng (3)
Mùa xuân khai thái dương thăng (4)
Giữ mình khoan khoái chí càng phát sinh
Mùa hè muôn vật trưởng thành
Chẳng lười hoạt động thân mình mạnh thêm
Mùa thu khe khắt im lìm
Khởi cư thận trọng chớ nên xuề xoà
Mùa đông nấp náu trong nhà
Đừng quên tiết lậu (5) xông pha quá chừng
Tiết trời biến đổi là thường
Nhưng ta phải biết đề phòng mới yên
Mùa xuân kiêng gió trước tiên
Mùa hạ nắng nóng lại xen mưa rào
Mùa thu sương xuống hanh hao
Mùa đông gió rét khi nào khỏi mưa
Chớ quên ẩm thấp bốn mùa
Hư tà rất dễ thừa cơ lấn vào
Lục dâm(6) tuy gió dẫn đầu
Ai ngờ hàn thấp theo sau hại mình
Nắng thì hao khí rành rành
Hàn thấp lưu lại thương hình (7) chẳng sai
Ví bằng bệnh chữa phát ngay
Đến khi tiết đổi lúc rày bệnh sinh
Mùa đông chẳng biết giữ tinh
Sang xuân cảm gió biến thành bệnh ôn
Mùa hè hạ chí âm sinh(8)
Không kiêng sống lạnh, thu thành rét cơn
Mùa thu phong thấp không kiêng
Sang hè sinh bệnh sống phần ỉa phòng
Mùa thu khí táo chẳng ròng
Mùa đông ho hắng vì chưng phục tà (9)
Muốn cho chân khí điều hoà
Ta nên kiêng cữ xông pha lỗi thời
Thích nghi khí hậu của trời
Âm dương hoà hợp trong ngoài mới yên
1) Xuất tác nhập tức mặt trời mọc thì đi làm, mặt trời lặn thì về nghỉ
2) Khí dương Nóng tính động, khí âm lạnh tính tĩnh làm ngưng lại. Âm dương là hai hiện tượng mâu thuấn và thống nhất của một sự vật trong vũ trụ cũng như trong sinh lý và bệnh lý. Danh từ âm dương còn dùng để chỉ trời đất: Dương là trời, âm là đất
3) Mùa xuân thì sinh, hạ thì lớn lên, mùa thu thì thu về, mùa đông thì cất giấu
4) Mùa xuân mở đầu ấm áp (Khí dương mạnh lên)
5) Sơ hở, tiết mất tinh khí
6) Phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả
7) Thương tổn đến hình thể : Cảm khí thấp vào hại đến da thịt, gân mạch, lạnh nhiều thì nhức xương, rút gân
8) Tiết hạ chí vào giữa mùa hè (22 tháng 6 dương lịch) thì khí âm bắt đầu sinh (Hạ chí nhất âm sinh) bớt nóng dần
9) Tà khí xâm vào người nhưng chưa phát bệnh ngay mà còn nấp náu ở trong người, đợi khi người yếu hoặc cảm thêm mới phát bệnh ( Bệnh năng-Nội kinh). THUẬT CỔ Nội kinh thiên một, hai, ba
Nhiếp sinh di dưỡng đề ra hàng đầu
Cổ nhân dạy nhủ đời sau
Biết gìn giữ trước khỏi sầu bệnh nguy
Đời xưa các bậc thánh tri
Chữa khi chưa bệnh có gì khó khăn
Đau rồi tiếc của thương thân
Khác gì khi loạn thấy cần đúc gươm
Đề phòng bệnh hoạn đau thương
Là điều thiết yếu ngày thường phải lo
Nhiếp sinh phép có từ xưa
Âm dươngthời tiết bốn mùa thuận theo
Tu thân dưỡng tính đôi chiều
Điều hoà thuật số bấy nhiêu phép mà
Noi xưa ăn ở thật thà
Chẳng vì danh lợi bôn ba nhọc lòng
Lao tâm chẳng phải đề phòng
Sáng làm tối nghỉ thong dong khoẻ người
Khởi cư gìn giữ theo thời
Uống ăn điều độ đua chơi chẳng cần
Cho nên hình thể, tinh thần
Trong ngoài đều mạnh, bình an thọ trường
Tuổi trời hưởng hết là thường
Chẳng lo chết yểu vì chưng biết phòng
Đời nay trái người cổ phong
Rượu chè trác táng làm xằng kể chi
No say phòng dục đôi khi
Chân Nguyênhao tán chỉ vì kiệt tinh
Tinh vơi nghiêng động thần minh
Thoả lòng, trái đạo dưỡng sinh còn gì!
Năm mươi tuổi đã thấy suy
Vì chưng tửu sắc khởi cư không chừng
Người xưa dạy cách đề phòng
Tuỳ thời mà tránh " tặc phong hư tà"
Muốn cho chân khí điều hoà
Sửa mình trong sạch hư vô trong lòng
Tinh thần giữ vững ở trong
Bệnh nào xâm được chẳng phòng cũng an
Chí nhân, lòng chẳng muốn tham
Có gì lo sợ tà xâm hại minh
Chớ nên quá nhọc thân mình
Làm gì chẳng mệt thì mình vẫn vui
Mọi điều vừa phải thì thôi
Muốn gì cũng được chẳng đòi hỏi hơn
Ăn thường mà vẫn thấy ngon
Mặc gì cũng đẹp vui quen với đời
Chẳng hề tranh cạnh đua đòi
Mọi người chất phác chẳng nài dưới trên
Mắt trông chẳng muốn chẳng thèm
Dâm tà đâu dễ quấy phiền lòng ta
Bất kỳ kẻ khéo người ngu
Ai mà biết giữ chẳng lo sợ gì
Trăm năm động tác chẳng suy
Dưỡng sinh trọn đạo chẳng nguy chút nào. TIỂU DẪN VỆ SINH QUYẾT YẾU Vệ sinh yếu quyết diễn ca
Để cho nam nữ trẻ gia đều hay
Tấc lòng tâm niệm bấy nay
Mong đời hết bệnh kéo dài ngày xuân
Dưỡng sinhtheo phép Chân nhân
Sách trên đã chép nguyên văn mấy bài
Để tuỳ hoàn cảnh tuỳ thời
Tuỳ nghi lĩnh hội những lời tinh ba
Quyển này đúc lại thành ca
Mấy lời thiết yếu để ta ghi lòng
Bao gồm phương pháp dự phòng
Cổ kim dung hợp quán thông dung hoà
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648