KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC
BÀI THUỐC TỪ CÂY ĐU ĐỦ
Đu đủ có tên khoa học là Carica papaya L, họ đu đủ Papayaceae. Tính hàn, vị ngọt, mùi thơm hơi hắc. Công dụng thanh nhiệt, bổ tỳ, mát gan, nhuận tràng, giải độc, tiêu thũng và chữa rất nhiều bệnh.
Quả đu đủ chín có khoảng 90% nước, 13% đường, không có tinh bột, nhiều carotenoit acid hữu cơ, vitamin: A, B, C, 0,9% chất béo, xenluloz (0,5%), canxi, photpho, magiê, sắt, thiamin, riboflavin.
Quả đu đủ xanh nghiền nát với nước bôi mặt hoặc tay, chữa các vết tàn hương ở mặt, tay, chữa chai chân, eczema và nhiều bệnh khác như:
1. Chữa ung thư phổi, ung thư vú: Hái lá lẫn cuống Đu đủ để tươi, cho vào nồi, thêm nước nấu sôi, để nguội, chiết nước đặc uống, cũng có thể nấu thành nước cô lại. Uống 3 lần mỗi ngày, mỗi lần 1 chén to (300ml). Ngoài ra uống thêm 3 muỗng cà phê mật mía trong ngày, mỗi lần 1 muỗng. Có thể kết hợp với chiếu tia X quang và uống bột củ Tam thất ... Thì hiệu quả càng nhanh. Tuy nước lá Đu đủ đắng, nhưng cần uống liên tục 15-20 ngày mới có kết quả.
2. Nụ hoa Đu đủ ,hấp ủ mật ong ,nuốt vô đáy lòng , ho gì cũng khỏi .
3. Nhựa hoa Đu đủ ,trị chứng chai chân ,bôi ngày 2 lần , đôi tuần gót đỏ .
4. Rễ cây Đu đủ , đun sắc đậm đà, hoà thêm chút muối , bay mùi hôi chân .
5. Cọng lá Đu đủ , sắc trị ung thư ,họng hầu thêm Xả, phối dăm lát gừng ,thêm nắm lá hẹ ,cho chứng tiền liệt ,dùng dài tháng liền ,còn tiền hết bệnh.
6. Chữa di, mộng, hoạt tinh.Trái Đu đủ bằng bắp tay, khoét cuống; cho 2 cục đường phèn vào, lắp cuống, gạt lửa than nướng chín, đem ra bóc vỏ da xanh bên ngoài, ăn lớp thịt bên trong, kể cả hạt. Chỉ cần ăn 1-2 quả là thấy kết quả (Kinh nghiệm dân gian ở An Giang).
7. Lá non Đu đủ ,thêm củ tỏi xào ,chịu khó ăn vào ,sỏi nào cũng hết .
8. Chữa ho gà bằng hoa đu đủ đực. Hoa đu đủ đực 20g, sao vàng; vỏ quýt lâu năm 20g; vỏ rễ dâu 20g, tẩm mật sao; bách bộ 12g; phèn phi 12g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 3 lần: trẻ em 1-5 tuổi, mỗi lần 1-4g; 6-10 tuổi, mỗi lần 5 - 8g.
9. Chữa tan Đờm :
Đu đủ hầm với đường phèn: 1 quả đu đủ chín, gọt vỏ, thái miếng, đựng trong bát to, thêm đường phèn, hầm cách thủy. Món này ăn rất ngon, có hương vị đặc trưng, già trẻ ăn quanh năm đều được. Ăn đu đủ + đường phèn thường xuyên trong mùa xuân, hè có tác dụng thanh tâm, nhuận phế, giải nhiệt, giải độc. Ăn vào mùa thu, đông có tác dụng nhuận táo, ấm dạ dày, bổ tỳ vị, dưỡng gan, giảm ho, nhuận phổi, tan đờm.
10. Chữa Ít ngủ, hay hồi hộp: Đu đủ chín, chuối, củ cà rốt mỗi thứ 100g; xay với nước dừa non nạo, thêm mật ong cho đủ ngọt, cách ngày uống 1 lần , giúp ngủ ngon.
11. Chữa Trị viêm dạ dày: Đu đủ 30g, táo tây 30g, mía 30g, sắc uống.
12. Chữa Trị tỳ vị hư nhược: Đu đủ 30g, củ mài 15g, sơn tra 6g, gạo nếp 100g, nấu cháo ăn ngày 2 lần (sáng, chiều).
13. Chữa Trị đau lưng mỏi gối: Đu đủ 30g, ngưu tất 15g, hoàng kỳ 10g, đỗ tương 15g, câu kỳ tử 10g, cam thảo 3g, sắc uống.
14. Chữa sỏi thận
Cây đu đủ đực trong dân gian là cây đủ đủ không ra quả. Hoa của cây đủ đủ đực cũng là bài thuốc chữa sỏi thận hiệu quả. Dùng hoa của cây đu đủ đực, giã nhỏ, đem nấu sôi lên lọc cặn bả nước uống hằng ngày
15. Chữa Trị mụn nhọt: Lá đu đủ giã nát, đắp mổi ngày liên tục sẻ hiệu quả
16. Chữa ít sữa ..Sau khi sanh ăn canh đu đủ hầm giò heo thường , sẻ lợi sửa
17. Chữa Trị gai cột sống: Hạt đu đủ đem xát cho sạch phần nhớt bao quanh, giã nát trong túi vải rồi đắp lên vùng đau. Mỗi lần chỉ đắp tối đa 30 phút và theo dõi để tránh bị bỏng. Ngày làm một lần, liên tục trong 20-30 ngày.
18. Chữa Trị giun kim: Ăn đu đủ chín vào buổi sáng lúc đói, liên tục 3-5 ngày.
19. Chữa Trị tỳ vị hư yếu (ăn không tiêu, táo bón): Đu đủ 30g, khoai mài 15g, sơn tra 6g, nấu cháo.
20. Chữa Trị tiểu gắt, buốt: Rễ đu đủ tươi 200g sắc lấy nước uống cả ngày thay nước uống.
21. Chữa Trị các vết chai và mụn cóc: Lấy nhựa từ lá của cây đu đủ bôi lên vùng da bị chai hay mọc mụn, công hiệu khá tốt.
22. Chữa Trị vết loét trên da: Trộn một chút bơ với nước đu đủ, bôi lên vết loét. Cách làm này có tác dụng làm se bề mặt và nhanh chóng làm liền vết thương.
23. Giúp sáng mắt: Những người lớn tuổi nên ăn khoảng 3 phần đu đủ mỗi ngày trở lên để ngăn ngừa quá trình lão hóa cũng như suy giảm thị lực vì đu đủ không chỉ là loại trái cây ngon ngọt, mát, bổ mà còn chứa nhiều carotin hơn so với các loại trái cây khác như táo, ổi, chuối.
24. Làm đẹp da: Nước ép của trái đu đủ và nhựa khô là thành phần chính trong quá trình sản xuất các loại kem chống mụn và dầu gội dưỡng tóc.
25. Vỏ của trái đu đủ xanh có thể được giữ lạnh trong tủ lạnh và sử dụng để tạo mặt nạ. Điều này cũng lý giải tại sao người dân xứ Island luôn có làn da trắng mịn, và nhất là không bao giờ lo sợ mụn trứng cá tấn công.
26. Nghiền nhuyễn đu đủ chín đắp lên mặt và rửa sạch sau khoảng 15-20 phút có tác dụng làm mềm, mịn da, ngăn ngừa mụn, các vết nám và đặc biệt phát huy tác dụng trong việc điều trị làn da thô ráp.
27. Trị giun kim: Ăn đu đủ chín vào buổi sáng lúc đói, liên tục 3-5 hôm.
28. Viêm dạ dày mãn tính: Đu đủ, táo tây, mía mỗi thứ 30 g sắc uống.
29. Ho do phế hư: Đu đủ 100 g, đường phèn 20 g hầm ăn.
30. Tỳ vị hư nhược (ăn không tiêu, táo bón): Đu đủ 30 g, khoai mài 15 g, sơn tra 6 g, nấu cháo. Ăn thường xuyên sẻ khỏi ..
31. Đau lưng mỏi gối: Đu đủ 30 g, ngưu tất 15 g, kỷ tử 10 g, cam thảo 3 g sắc uống. hạt đu đủ đem xát cho sạch phần nhớt bao quanh, giã nát trong túi vải rồi đắp lên vùng đau. Mỗi lần chỉ đắp tối đa 30 phút và theo dõi để tránh bị bỏng. Ngày làm một lần, liên tục trong 20 - 30 ngày.
32. Quả đu đủ xanh nghiền nát với nước, dùng bôi để chữa các vết tàn nhang ở mặt và tay, còn dùng chữa chai chân và bệnh eczema...
33. Rễ đu đủ 4 – 12 gam, sắc uống có tác dụng cầm máu trong bệnh băng huyết, sỏi thận. Phụ nữ đang mang thai, ngày hành kinh không dùng.
34. Hoa đu đủ đực tươi hoặc phơi khô hấp với đường phèn dùng chữa bệnh ho, viêm cuống phổi, khàn tiếng hoặc mất tiếng ở người lớn. Với trẻ em, hái 5-10 hoa đực đem sao vàng, thêm đường phèn hấp hoặc chưng khi nồi cơm cạn nước, cho trẻ uống trong ngày
35. Đu đủ chín là một món ăn giúp bồi bổ cơ thể và tiêu hóa tốt các chất thịt, lòng trắng trứng; Khi hầm các loại thịt, xương cứng, người ta thường cho quả đu đủ xanh vào để thức ăn mau nhừ...
36. Chữa cá đuối cắn.
Rễ đu đủ đực tươi 30g , Muối ăn 4g.Hai thứ giã nhỏ. Vắt lấy nước uống, bã đắp lên chỗ sưng đau. Sau chừng nửa giờ thấy giảm đau và vài ngay sau khỏi hẳn ( kinh nghiệm nguời miền Nam).
37. Chữa tưa lưỡi ở trẻ: Lấy hoa đu đủ đực thái nhỏ phơi khô, tán bột mịn, cùng với gốc cây mây (lấy chỗ mọc khô ráo), rồi đốt thành than, tán bột. Trộn hai loại bột này với nhau với tỷ lệ 3 phần bột hoa đu đủ đực, 1 phần bột gốc mây. Sau đó lấy tăm bông chấm thuốc bôi hàng ngày đánh trên lưỡi trẻ bị tưa.
38. Chữa viêm họng: Hoa đu đủ đực 15g, xạ can 10g, củ mạch môn 10g, lá húng chanh 10g. Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít muối, hấp chín rồi nghiền nát. Ngày ngậm 2 - 3 lần, nuốt nước dần dần
39. Chữa viêm cuống phổi, mất tiếng: Hoa đu đủ đực 15g, lá hẹ 15g, hạt chanh 10g, nước đun sôi để nguội 20ml. Các dược liệu được nghiền nát với nước. Thêm ít mật ong hoặc đường kính, uống làm 3 lần trong ngày. Dùng vài ngày.
40. Chữa ho do viêm họng: Hoa đu đủ đực 15g, xạ can 10g, củ mạch môn 10g, lá húng chanh 10g. Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít muối, hấp cơm rồi nghiền nát. Ngày ngậm 2 - 3 lần, nuốt nước dần dần, dùng từ 3 - 5 ngày.
42. Chữa đái rắt, đái buốt, đau niệu đạo, nước tiểu ít và đỏ: Hoa đu đủ đực (hoặc quả của cây đu đủ đực lưỡng tính) 40g, lá bạc thau 50g, đậu đen 40g, phác tiêu 4g. Sắc lấy nước đặc, chia 3 lần uống vào lúc đói bụng.
43. Chữa rắn cắn .
Rễ đu đủ đực 20g, lá xuyên tiêu 10g, hồng bì 5 hạt, tất cả giã nhỏ cho nước vào trộn đều gạn nước cho người bị rắn cắn uống. (Lưu ý chỉ sử dụng kết hợp hay đơn độc khi điều kiện của y tế không có, vì có những loại rắn cực độc có thể tử vong ngay chưa kịp đưa đến cấp cứu , trị liệu).
44. Chữa Trị các vết chai và mụn cóc: Lấy nhựa từ lá của cây đu đủ bôi lên vùng da bị chai hay mọc mụn, công hiệu khá tốt.
45. Chữa Trị vết loét trên da: Trộn một chút bơ hay dầu ôliu với nước đu đủ, bôi lên vết loét .
45. Phép dưỡng sinh chống lão suy: đu đủ chín 200g, chuối xiêm 300g, xay nhuyễn, trộn nước dừa non uống hàng ngày. (có mật ong, sữa ong chúa thêm càng tốt) dùng nóng, không cho đá.
IV. ĐU ĐỦ(Papaya)
CHỦ TRỊ:
* Làm tan sạn thận, sạn mật * Trị sốt rét rừng, sốt kinh niên(chỉ 1 lần là khỏi) * Trị rắn độc cắn * Trị bệnh trường phong hạ huyết *Giúp nhuận tràng, tiêu tích trệ, lợi trung tiện, lợi tiểu * Trục giun * Trị di,mộng,hượt, tinh *Trị ho gà.
13. Làm tan sạn thận, sạn mật
Khá nhiều người bị mắc chứng sạn thận hoặc sạn túi mật, có thứ sạn hạt tròn trơn, không làm cho đau đớn nhiều, loại sạn này có khi lớn gần bằng quả trứng. Nhưng sạn gai, giống như quả ké, gai nhọn đâm vào thịt, làm cho nước tiểu thấm vào vết thương sẽ đau khốn khổ. Nhiều
người bị sạn thận, phải mổ đến 9-10 lần mà vận chưa hết sạn, vì chất calci ở ngay trong máu, nếu không trừ được tận gốc chất calcitrong máu thì gốc vẫn còn, mà gốc còn tất nhiên sẽ mọc ngọn trở lại. Nếu có mổ hay bắn tia phóng xạ thì chỉ là cắt được cái ngọn thôi. Phương pháp trị bệnh sán theo ngoại khoa, có nhiều cách khác nhau, nhưng cách trị bằng trái đu đủ xanh, rất dễ dàng và có kết quả tốt.
Ông Lưu V.H. gần 80 tuổi và bà Nguyễn V. Th. ngoài 70 tuổi cùng ở Cali, cả 2 người sau khi chụp X-quang đều được bác sĩ quyết định sẽ giải phẫu vào tuần tới, nhưng sợ chết, nên cả 2 người cùng xin đình hoãn và gọi về Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ, cin khấn cho gặp thầy, gặp thuốc khỏi phải mổ. Chắc hẳn vì lòng tin tưởng nơi Đức Mẹ nên đã gặp được bài thuốc tiên như sau:
CÁCH LÀM:
Trái đu dủ còn xanh, vừa đủ ăn cho 1 người, cắt đầu đuôi, khoét bỏ hột đi, giữ nguyên vỏ, bỏ chút muối vô trong, nấu cách thủy cho mềm, để nguội ăn hết cả vỏ, nếu là trái lớn có thể ăn ngày hôm sau (Nên tìm trái nhỏ ăn 1 ngày thì tốt hơn);ăn trong 1 tuần.
Sau khi ăn một trời gian cả 2 người đi chụp hình lại thì thấy sạn đã tiêu mất rồi. Một số người khác cũng gọi điện thoại hỏi về chứng bệnh sạn, sau khi dùng như trên cũng đều thấy khỏi cả.
14. Nhựa đu đủ trị sốt rét rừng (1 lần là khỏi dứt)
Những người ở miền rừng thiêng nước độc, hoặc bị muỗi độc cắn(Muỗi anophene) thường hay bị chứng sốt rét định kỳ, cứ cách ngày hoặc mấy ngày nhất định, đúng giờ là lên cơn sốt, càng cách lâu(1-2 tháng) lên cơn 1 lần càng khó trị. Trước đây ở Việt Nam thường uống hoặc chích ký ninh, có người bệnh nặng, phải chích hay uống liều cao hơn, làm cho người bốc nóng ù tai hay điếc tai luôn. Tôi không nhớ đã học được bài thuốc trị sốt rét này từ đâu (chỉ uống nhựa đu đủ có 1 lần là khỏi dứt)
L.M. Nguyễn A.Th. khi mới nhập tu, chừng 20 tuổi, bị sốt rét cách nhật(cách 1 ngày lên 1 cơn), tôi ra vườnchọc quả đu dủ xanh, hấng 7 giọt nhựa, pha vô nước cho uống.(Nữ thì 9 giọt). Ngài chỉ uống có 1 lần là dứt bệnh, không bao giờ tái phát nữa.
Anh Lê Văn L., mới từ VN qua Mỹ được hơn tháng(quãng năm 1980), khi còn ở VN, anh thường sống trong rừng nên bị sốt rét, cứ 1 tháng lên 1 cơn, vào đúng cữ, không có thuốc nào trị dứt. Khi tới Mỹ định cư ở Texas, đúng thời kì, anh bị lên cơn sốt, nóng lạnh rất dữ tợn, tôi vội chở tới nhà thương, đợi khá lâu họ cũng chỉ làm cho hạ cơn sốt nhưng không có thuốc nào chữa khỏi dứt được. Chở về nhà tôi phóng xe đi 3-4 chợ mới tìm được 1 quả đu đủ còn xanh, chọc cho ra nhựa để hắng lấy 7 giọt, nhưng không thấy có nhựa ra, tôi phải bằm nhỏ phía ngoài quả đu đủ ra, rồi ngâm vào bát nước để lấy nhựa, rồi gạn cho anh L. uống. Anh chỉ uống được non một nửa. Chỉ uống có một lần mà chứng sốt rét kinh niên của anh đã phải đầu hàng, không bao giờ trở lại nữa.
15. Nhựa đu đủ trị bệnh trường phong hạ huyết
Trường Phong Hạ Huyết là chứng bệnh do phong độc nhập vào ruột, làm cho mướt máu trong ruột, đi cầu xối xả,toàn máu tươi( Khác với chứng đi cầutoàn máu bầmdo dạ dày bị loét …), nếu không biết cách cầm máu, có thể nguy hiểm đến tính mạng. Tôi gặp 2 trường hợp như trên, tôi cũng lấy 7 giọt nhựa đu đủ( cho nam) và 9 giọt (cho nữ) pha vô nước cho uống, chỉ có thế thôi mà cũng dứt bệnh.
16. Đu đủ trị rắn độc cắn
Một em học sinh lớp tiểu học tại Nhà Đá Quy Nhơn, bị rắn độc cắn, tôi vội bảo lấy ngay lá đu đủ, bứt lấy 7 khúc đầu nhọn của chòi lá đu dủ( dài chừng 1 ngón tay), nhai với muối, nuốt nước, bả đắp vào vết cắn. Sau đó không thấy em trở lại nữa, có lẽ đã trừ được nọc độc rồi.
17. Người khó sanh, sanh dễ dàng, không cần mổ
Rất nhiều trường hợp tới ngày sanh mà không sanh được, hầu hết là phải mổ, sẽ gây hại cho sức khỏe và tốn phí khá nhiều. Ở miền Bắc Việt, các bà mụ rất kinh nghiệm trong vụ này. Các bà chỉ lấy quả đu đủ xanh, bổ đôi theo chiều dọc, rồi cột vào gan bàn chân bà đẻ, mỗi bên một nữa. Điều quan trọng là cuống trái đu đủ phải quay về gót chân và sau khi sinh xong phải lấy vải thấm nước chùi sạch gan bàn chân ngay, kẻo ra cả ruột. Lỡ vô ý để ruột ra thì phải lấy hạt thầu dầu tía (tì ma tử) tiệm thuốc Bắc có bán, giã ra đắp lên đỉnh đầu, thì ruột sẽ thu lại.
18. Đu đủ chữa di, mộng, hoạt tinh
(Kinh nghiệm dân gian vùng An Giang của Võ Văn Chi)
Quả đu đủ xanh bằng bắp tay, khoét cuống, cho vào 2 cục đường phèn, đậy nắp lại, vùi vào trong than, nướng chín, bóc vỏ xanh bên ngoài bỏ đi, ăn lớp thịt bên trong, ăn cả hột. Chỉ cần ăn 1-2 quả đã thấy có kết quả.
19. Trị ung thư phổi, ung thư vú
Hái cả lá, cả cuống tươi, đổ nước sôi, để nguội, gạn nước đặc uống, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 bát to. Có thể cô đặc lại, để dành uống nhiều lần, cần uống liên tục 15 đến 20 ngày.
20. Trái đu đủ ướp xác khỏi thối trước khi chôn.
Đồng bào Nam Việt thường để xác người quá cố lại thời gian hơi lâu, họ dùng quả đu đủ xanh, cắt theo chiều dọc, làm 2 phần, phần nửa lớn đổ đầy muối hột đã rang thật nóng vào trong, rồi úp vào giữa rốn người chết, lấy vải cuốn chặt lại; dưới gầm giường đốt ngọn đèn dầu. Chỉ có vậy mà họ để cả tuần lễ không bị hơi của xác người chết xông ra.
21. Thịt dai hóa mềm
Nếu nấu thịt mà gặp phải thứ giai, chẳng ai thèm ăn. Nấu một nồi thịt lớn, chỉ cần bỏ một nữa quả đu đủ xanh rồi hầm, thịt sẽ rất mềm. Ở miền Bắc, ăn cả da trâu, cũng làm như trên, da sẽ mềm, ăn sần sật rất ngon.
CẤM KỴ:Người có thai ăn đu đủ xanh có thể làm hư thai.
NGỰA
Ngựa tên khác ngựa nhà. Tên khoa học: Equus coballus L. Loại ngựa bạch thích hợp dùng để làm thuốc.
Thịt ngựa chứa 21,5% protid, 5 – 7% lipid, có các muối khoáng và vitamin. Sữa ngựa chứa 2,1% protid, cao hơn sữa người; 1,1% lipid và các vitamin C, A; muối khoáng và các nguyên tố vi lượng. Xương ngựa chứa calci phosphat, keratin, oscein..
Theo Đông y, thịt ngựa (mã nhục), xương ngựa (mã cốt), sữa ngựa (mã nhũ), phân ngựa (mã phẩn), răng ngựa (mã xỉ), sỏi trong dạ dày hay túi mật ngựa (mã bảo). Ngoài ra, dương vật (bạch mã âm kinh), gan, phổi và máu ngựa cũng được sử dụng làm thuốc.
Mã nhục (thịt ngựa): vị ngọt đắng, tính nóng, có độc; có tác dụng lớn gân, mạnh xương. Chữa gân xương yếu, chứng xương cốt yếu liệt, tê bại và nhiệt khí, tiêu hóa kém, chốc lở và rụng tóc.
Ăn thịt ngựa, trẻ em cứng cáp, nhanh nhẹn; thanh niên vạm vỡ cường tráng; người già không bị đau nhức xương và sống lâu. Có thể chế biến thành những món ăn hợp khẩu vị theo lứa tuổi.
Không dùng thịt ngựa cho người bị hạ lỵ; không nấu thịt ngựa với ké đầu ngựa (thương nhĩ tử), hoặc với gừng.
Mã nhũ (sữa ngựa): vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ huyết, nhuận táo, thanh nhiệt, chỉ khát. Chữa huyết hư, phiền nhiệt, cốt chưng, chỉ khát.
Sữa ngựa được dùng theo nhiều cách: sữa tươi, sữa chua, rượu sữa. Sữa tươi thêm ít đường cho đủ ngọt, đun sôi, uống trong ngày, là thuốc bổ sinh huyết, dễ tiêu, chữa ho, phổi ráo dùng cho người bị lao phổi hoặc mắc bệnh mạn tính.
Sữa ngựa chua là nước giải khát tăng lực, giúp ăn ngon, tiêu hóa tốt, góp phần làm hưng phấn thần kinh khi mệt mỏi, chữa các bệnh về hô hấp, tiêu hóa, sinh dục và nhiều loại bệnh ngoài da.
Ở Mông Cổ, có một tập quán lâu đời về chế rượu sữa ngựa như người Việt Nam chế rượu nếp cái bằng men thuốc.
Rượu sữa ngựa có nồng độ cồn thấp, dùng để bồi dưỡng, làm giảm béo, chữa thiếu máu và phục hồi sức khỏe với người bị lao phổi.
Mã cốt (xương ngựa): vị ngọt, tính lương, có tác dụng bổ dưỡng, ích khí, mạnh gân xương. Thường dùng dưới dạng cao – cao ngựa bạch: phục hồi sức khỏe với người mới ốm dậy, phụ nữ sau sinh, đau nhức gân xương, kinh nguyệt không đều, trẻ em còi xương xanh xao biếng ăn.
Không dùng rượu cao ngựa cho trẻ em; khi dùng kiêng các chất tanh: tôm, cua, cá, chất cay: tỏi, ớt, hạt tiêu, nước chè đặc, đậu xanh, rau muống.
Bạch mã âm kinh (dương vật ngựa): vị ngọt mặn, tính ôn; tác dụng bổ thận ích khí. Dùng cho người suy nhược gầy gò, ốm yếu, liệt dương, tinh suy.
Kết hợp với nhục thung dung, liều lượng bằng nhau, tán bột mịn, trộn với mật ong làm hoàn; ngày uống 6g trước bữa ăn để trị liệt dương. Không dùng cho người âm hư hỏa vượng.
Mã bảo (sỏi trong dạ dày hay túi mật ngựa): vị mặn, tính lạnh; có tác dụng trấn kinh hóa đờm, thanh nhiệt giải độc. Trị các chứng kinh giản điên cuồng, đàm nhiệt nội thịnh, thần trí hôn mê, nôn ra máu, chảy máu cam, mất ngủ do thần kinh, ho do co thắt.
Hỏi:
Gần đây tôi nghe nhiều người nói về rất nhiều tác dụng chữa bệnh kỳ diệu của cao ngựa, nên rất muốn biết rõ thực tế ra sao. Để tham khảo, tôi rất muốn biết, từ xưa đến nay, trong sách thuốc Đông y, đã có những ghi chép gì liên quan đến tác dụng chữa bệnh của con ngựa. Rất mong " Thuốc vườn nhà" cung cấp thông tin trong thời gian sớm nhất.
Trần Thế Dân, H. Vĩnh Tường, T. Vĩnh Phúc
Đáp:
Hầu hết các bộ phận của con ngựa, như da ngựa (mã bì), xương ngựa (mã cốt), bờm ngựa (mã tung), răng ngựa (mã xỉ), móng chân ngựa (mã đề giáp), dương vật ngựa (mã âm kinh), mỡ cổ ngựa (mã kỳ cao), tim ngựa (mã tâm), gan ngựa (mã can), nhau thai ngựa (mã bào y), sữa ngựa (mã nhũ) và cả sỏi trong dạ dày ngựa (mã bảo), đều có thể sử dụng làm thuốc và đã có những ghi chép trong sách thuốc Đông y cổ truyền.
Theo sách "Danh y biệt lục" của Đào Hoằng Cảnh (456-536):Ngựa có lông nhiều màu, khi làm thuốc tốt nhất nên chọn loại có lông trắng tuyền, có tác dụng tốt nhất.
Việc chọn ngựa trắng, theo chúng tôi nghĩ, có thể liên quan tới quan niệm trong triết học phương Đông cổ đại, cho rằng, ngựa thuộc "Quẻ càn" trong "Bát quái", còn theo "Ngũ hành", thuộc "hành Kim"; đều ứng với màu trắng. Tuy nhiên, trên thực tế, màu sắc của lông ngựa, có lẽ cũng không ảnh hưởng nhiều tới chất lượng của thuốc, cho nên trong sách thuốc thời sau, rất ít thấy đề cập tới với đề này. Chủ yếu là những ghi chép về tác dụng của "ngựa - nói chung", rất ít khi có một mục riêng nói về "ngựa trắng".
" Thuốc vườn nhà" xin phép được giới thiệu một số ghi chép cụ thể:
- Da ngựa (mã bì):Theo các sách "Thực liệu bản thảo" và "Điền nam bản thảo", có thể sử dụng để chữa trị một số bệnh ngoài da, như trẻ nhỏ rụng tóc (đốt thành than, trộn với mỡ lợn bôi), viêm da thần kinh (đốt thành than, trộn với dầu bôi vào chỗ da bị bệnh).
- Gan ngựa (mã can):Theo sách "Thánh huệ phương", có tác dụng thông kinh nguyệt ở nữ giới. Chữa ngực bụng đầy tức, chân tay đau nhức (Gan ngựa thái lát, nướng khô, tán bột, trước bữa ăn dùng 1 tiền, hòa với rượu ấm uống).
- Răng ngựa (mã xỉ):Theo "Bản thảo cương mục", có vị ngọt, tính bình, hơi độc (hữu tiểu độc); có tác dụng chữa kinh giản (động kinh), đinh sang (mụn nhọt, lở loét), đau răng. Chữa đinh nhọt sưng đau chưa vỡ (dùng răng ngựa trắng đốt thành than, nghiền mịn, hòa với giấm bôi).
- Sữa ngựa (mã nhũ):Theo "Bản thảo thập di", có vị ngọt, tính lạnh; có tác dụng bổ huyết, nhuận táo, thanh nhiệt, chỉ khát (chống khát). Dùng chữa huyết hư phiền nhiệt, hư lao cốt chưng (nóng trong xương do cơ thể suy nhược), tiêu khát (tiểu đường), nha cam (bệnh răng lợi).
- Sỏi trong dạ dày ngựa (mã bảo):Theo "Bản thảo cương mục", có vị mặn, tính bình, không độc; có tác dụng trấn kinh (chống co giật), hóa đàm (tan đờm), thanh nhiệt, giải độc. Dùng chữa kinh giản (động kinh), điên cuồng, hôn mê, thổ huyết, nục huyết (chảy máu mũi), ác sang thũng độc (mụn nhọt sưng đau).
- Thịt ngựa (mã nhục):Theo sách "Danh y biệt lục", có vị chua ngọt (cam toan), tính lạnh; có tác dụng trừ nhiệt, hạ khí, mạnh gân, mạnh xương sống. Dùng chữa phong tê thấp người phát sốt phát rét. Kiêng kỵ, theo "Thực liệu bản thảo", người đang bị viêm loét ngoài da, ăn thịt ngựa bệnh sẽ nặng thêm; theo "Nhật Hoa tử bản thảo", khi ăn thịt ngựa, không sử dụng thương nhĩ (ké đầu ngựa) và sinh khương (gừng sống).
- Xương ngựa (mã cốt):Theo "Thực liệu bản thảo", có vị ngọt, tính mát; chủ trị đầu sang (đầu lở loét), nhĩ sang (tai lở loét), âm sang (cơ quan sinh dục lở loét). Theo "Bản thảo cương mục", dùng chữa tiêu thư (sưng móng chân, móng tay), chảy nước, nóng như lửa đốt (dùng xương ngựa đốt thành than, hòa với dầu bôi).
- Dương vật ngựa (mã âm kinh):Theo "Thần Nông bản thảo kinh", có vị mặn, tính bình; có tác dụng bổ thận ích khí. Chữa dương nuy (liệt dương), tinh suy, người ốm yếu gầy gò. Theo Trần Tàng Khí, để dùng làm thuốc, cần lấy dương vật của loại ngựa có lông trắng như bạc, không bệnh tật, vào mùa Xuân, thời gian ngựa giao phối, đang động dục mạnh, mới có tác dụng tốt. Theo Lôi Công, cần dùng dao đồng cắt dương vật ngựa thành 7 miếng, trộn với máu dê tươi, chưng nửa ngày, phơi khô, dùng vải thô lau hết máu và da bên ngoài, nghiền nhỏ để dùng dần.
BÀI THUỐC TỪ CÂY TRE
Cây tre được sử dụng làm thuốc trong dân gian và Đông y từ rất lâu đời. Tác dụng làm thuốc của cây tre được ghi lại sớm nhất trong sách "Danh y biệt lục" cách nay khoảng 1500 năm.
Cây tre cho ta các vị thuốc:
1. Trúc diệp: Chỉ lá tre bánh tẻ hoặc lá non của cây tre. Có tác dụng thanh nhiệt trừ phiền, sinh tân dịch, lợi niệu. Thường dùng chữa nhiệt tà gây tổn thương tân dịch, phiền táo, khát nước, miệng lưỡi lở loét, tiểu tiện sẻn đỏ. Tác dụng của lá bánh tẻ và lá non còn cuộn tròn (búp tre) tương tự như nhau nhưng khi chữa các bệnh nhiệt ở phủ vị thường dùng lá, còn khi chữa bệnh nhiệt ở tạng tâm thường dùng búp.
Bài Thuốc Chữa Chảy Máu Cam:
Đọt tim tre (Búp tre) 50g Sao vàng hạ thổ, Sắc đun uống.
2. Trúc lịch: Là vị thuốc chế bằng cách chặt tre tươi, cắt thành từng đoạn, nướng lên và vắt lấy nước. Hoặc uốn cong cây tre non ngay tại bụi tre, phạt ngọn, buộc cọc ghìm vào miệng bình, lấy đuốc lửa đốt phần giữa, nước cốt (trúc lịch) sẽ chảy dần vào bình. Có tác dụng thanh nhiệt, trừ đờm, định suyễn. Dùng chữa đàm nhiệt khái suyễn (hen suyễn do đờm nhiệt), trúng phong hôn mê, kinh giản, điên cuồng.
3. Trúc nhự (tinh tre):Là vị thuốc chế bằng cách cạo bỏ vỏ xanh bên ngoài của cây tre, sau đó cạo lớp thân bên trong thành từng mảnh hay sợi mỏng. Có tác dụng thanh hóa nhiệt đàm, trừ phiền chỉ ẩu (chống nôn). Dùng chữa ho đờm vàng đặc, bồn chồn mất ngủ, nôn mửa, ...
Ngoài ra, măng tre, cặn đọng trong đốt tre (thiên trúc hoàng) cũng có thể sử dụng làm thuốc.
"
(1) Dự phòng viêm não B:Dùng lá tre, vỏ bí đao, lá sen, rễ cỏ tranh - mỗi thứ 9g; sắc nước uống thay nước trong ngày. Để dự phòng viêm não, mỗi tuần cần uống 1-2 ngày.
(2) Chữa sốt cao, mê man do viêm não:Dùng trúc lịch 30-50g, hòa với nước đã đun sôi, chia ra uống trong ngày.
(3) Chữa ho suyễn hoặc trúng phong cấm khẩu:Gừng sống giã vắt lấy nước cốt 1 chén, hòa với 1 chén trúc lịch cho bệnh nhân uống dần.
(4) Chữa ho khan:Dùng lá tre 12g, rau má 12g, vỏ rễ dâu 12g, quả dành dành (sao vàng) 8g, lá chanh 8g, cam thảo 6g; nước 700-800ml, sắc còn 250-300ml, chia 2 lần uống trong ngày; cũng có thể tán thô, hãm vào phích uống dần. Dùng cho các trường hợp ho khan, đờm sát, cổ họng khô và ngứa, rêu lưỡi vàng mỏng.
(5) Chữa viêm màng phổi có tràn dịch:Lá tre 20g, vỏ rễ dâu 12g, hạt rau đay 12g, thạch cao 20g, hạt bìm bìm 12g, rễ cỏ tranh 12g, thổ phục linh 12g, bông mã đề 12g; dùng 600ml nước, sắc còn 200ml; uống hết một lần trước bữa trưa 30 phút; lại thêm nước sắc lần thứ hai, uống trước bữa cơm chiều. Cùng với việc điều trị bằng kháng sinh, bài thuốc này có tác dụng hỗ trợ rất tốt.
(6) Chữa mất ngủ, tâm phiền, hồi hộp:Dùng trúc nhự 16g, mạch môn (củ cây tóc tiên) 16g; sắc nước uống trong ngày.
(7) Chữa nấc (do nhiệt):Dùng lá tre 20g, tinh tre 20g, thạch cao (nướng đỏ) 30g, gạo tẻ (rang vàng) 20g, bán hạ 8g, mạch môn (bỏ lõi) 16g, tai quả hồng 10 cái; nước 800ml, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày. Thuốc này có tác dụng thuận khí, giáng hỏa, thích hợp với chứng nấc do nhiệt kèm theo các triệu chứng người bứt rứt, khát nước, miệng hôi, tiểu tiện đỏ sẻn, đại tiện táo kết, ... không dùng cho chứng nấc do hàn.
(8) Chữa miệng lưỡi lở loét:Búp tre 15-20g, sinh địa 10g, mộc thông 10g, cam thảo 8g; sắc nước uống thay nước trong ngày. Bài thuốc có tác dụng "thanh tâm trừ phiền", dùng trong trường hợp Tâm kinh thực nhiệt, phiền táo, khát nước, miệng lưỡi lở loét, tiểu tiện vàng sẻn.
(9) Chữa đái ra máu:Lá tre 20g, mạch môn 20g, mã đề 20g, rễ cỏ tranh 20g, thài lài tía 20g, râu ngô 20g; nước 700ml, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày. Thuốc này có tác dụng thanh tâm, lợi niệu, chỉ huyết (cầm máu), thích hợp với chứng tiểu tiện xuất huyết do nhiệt độc tích tụ ở bàng quang.
CÂY DÂU
Tên khác:Tang (桑), Mạy môn (dân tộc Thổ); Dâu cang (dân tộc Mèo); Nằn phong (Dao); Tầm tang.
Tên khoa học: Morus alba L., họ Dâu tằm (Moraceae).
Mô tả: Cây gỗ, cao2-3 m. Lá mọc so le, hình bầu dục, nguyên hoặc chia 3 thùy, có lá kèm, đầu lá nhọn hoặc hơi tù. Phía cuống hơi tròn hoặc hơi bằng, m p có răng cưa to. Từ cuống lá tỏa ra 3 gân rõ rệt. Hoa đực mọc thành bông, có lá đài, 4 nhị (có khi 3). Hoa cái cüng mọc thành bông hay thành khối hình cầu, có 4 lá đài. Quả mọc trong các lá đài, màu đỏ, sau đen sẫm, ăn được, còn dùng làm thuốc hoặc ngâm rượu để uống, mùi thơm, vị chua ngọt. Bộ phận dùng: Vỏ rễ (Tang bạch bì – Cortex Mori). Lá (Tang diệp – Folium Mori). Cành (Tang chi – Ramulus Mori). Quả (Tang thầm – Fructus Mori). Tầm gửi trên cây Dâu (Tang ký sinh – Ramulus Loranthi). Tổ bọ ngựa trên cây Dâu (Tang phiêu tiêu Ootheca Mantidis).
Phân bố: Cây được trồng khắp nơi trong nước ta lấy lá nuôi tằm, làm thuốc.
Thu hái: Nhiều bộ phận của cây Dâu được thu hái làm thuốc. Có những bộ phận có thể thu hái quanh năm. Tầm gửi chỉ gặp ở những cây gỗ lớn. Dùng tổ bọ ngựa chưa nở, phải đồ chín rồi sấy khô.
Thành phần hoá học: – Tang bạch bì: Acid hữu cơ, tanin, pectin, flavonoid. – Tang diệp: Chlorophyl, flavonoid, coumarin, acid amin, tanin. – Tang chi: Cellulose, tanin, flavonoid. – Tang thầm: Anthocyan (sắc tố màu đỏ của quả chín), đường (glucose, fructose), vitamin B1, C, tanin, protit và acid hữu cơ. Công năng: Lá Dâu (Tang diệp) có tác dụng tán phong, thanh nhiệt, lương huyết, sáng mắt. Người ta nhận thấy lá Dâu có tác dụng trị liệu đái đường lại ức chế trực khuẩn thương hàn, tụ cầu khuẩn.
Vỏ rễ Dâu (Tang bạch bì) đã cạo sạch lớp vỏ ngoài, phơi hay sấy khô, có tác dụng thanh phế nhiệt, lợi thuỷ, chỉ khái, hạ suyễn, tiêu sưng. Cành Dâu non (Tang chi) đã phơi hay sấy khô có tác dụng trừ phong, lợi các khớp, thông kinh lạc, tiêu viêm, hạ nhiệt, giảm đau. Quả Dâu (Tang thầm) có tác dụng dưỡng huyết, bổ gan thận, trừ phong. Tầm gửi cây Dâu (Tang ký sinh) có tác dụng mạnh gân cốt, lợi huyết mạch, hạ hồng cầu, an thai, xuống sữa, lợi tiểu. Tổ bọ ngựa cây Dâu (Tang phiêu tiêu) có tác dụng ích thận, cố tinh, lợi tiểu. Công dụng, cách dùng, liều lượng: – Tang bạch bì: chữa ho, ho ra máu, phù thüng, đi tiểu ít. Ngày dùng 4 – 12g, dạng thuốc sắc. – Tang diệp: chữa cảm mạo, ho, họng đau, nhức đầu, mắt đỏ, chảy nước mắt, phát ban, huyết áp cao, mồ hôi trộm. Ngày dùng 4 – 12g, dạng thuốc sắc. – Tang chi: chữa tê thấp, chân tay co quắp. Ngày dùng 20 – 40g, dạng thuốc sắc. – Tang thầm: chữa bệnh tiểu đường, lao hạch, mắt mờ, ù tai, thiếu máu. Nước quả Dâu cô thành cao. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g. Liều dùng từ 12 – 20g. – Tang ký sinh: Trị các chứng phong thấp, tê bại, đau lưng, mỏi gối. Trị động thai, đau bụng. Ngày dùng 12-20g. – Tang phiêu tiêu: Chữa hư lao, đổ mồ hôi trộm, di tinh, bạch đới, đái đục, đi đái không nín được (tẩm rượu sao, uống ngày 8g với nước chín). Trẻ em nổi mụn có mủ (đốt tồn tính, tán bột, hoà với dầu để bôi).
Bài thuốc:
1. Ra mồ hôi trộm ở trẻ em, ra mồ hôi ở bàn tay người lớn: Lá Dâu non nấu canh với tôm, tép hoặc dùng lá dâu bánh tẻ 12g, Cúc hoa, Liên kiều, Hạnh nhân đều 12g, Bạc hà, Cam thảo đều 4g, Cát cánh 8g, Lô căn 20g, sắc uống.
2. Dự phòng cảm cúm: Lá Dâu 12g, Cúc hoa 12g, Thảo quyết minh 8g sắc uống.
3. Mắt đau, viêm màng kết mạc cấp tính: Lá Dâu nấu nước xông vào mắt; lá Dâu bánh tẻ, rửa sạch, giã nát đắp, có thể làm tan huyết khi đau mắt đỏ sung huyết.
4. Huyết áp cao: Lá Dâu và hạt Ích mẫu nấu nước ngâm chân buổi tối 30-40 phút trước khi đi ngủ.
5. Viêm khớp sưng phù, chân tay tê bại, cước khí, đầu ngón tay đau nhức, ngứa đỏ về mùa đông đợt lạnh nhiều: Cành Dâu, Kê huyết đằng, Uy linh tiên, mỗi vị 12g, sắc nước uống.
6. Ho, hen suyễn: Vỏ rễ 20-40g sắc uống. Có thể thêm Địa cốt bì và Cam thảo.
7. Khó tiêu, chân tay phù nề: Vỏ rễ Dâu sắc uống hoặc phối hợp với vỏ Gừng, vỏ Quít, vỏ quả Cam, Phục linh sắc uống.
8. Chữa thiếu máu, da xanh người gầy khô héo, mất ngủ, đầu choáng, chóng mặt; dùng quả Dâu chế xirô hay ngâm rượu hoặc dùng quả Dâu thêm Câu Kỷ tử, Hà thủ ô đỏ, nhân hạt táo, mỗi vị 10g, sắc uống.
9. Trừ phong thấp, mạnh gân cốt, can thận yếu dẫn tới đau lưng mỏi gối: Tầm gửi cây Dâu, phối hợp với Cẩu tích, Ngưu tất, sắc nước uống. 10. Bổ huyết, an thai khi bị động thai ra máu: Tầm gửi thêm rễ Gai, Tục đoạn sắc nước uống.
11. Di mộng tinh, hoạt tinh: 10 tổ Bọ ngựa sao cháy nghiền bột, thêm đường, uống trước khi đi ngủ, uống 3 ngày. Có thể thêm Long cốt, nghiền bột mịn, ngày 2 lần, trong 3 ngày.
12. Đái dắt, đái nhạt: Tổ Bọ ngựa Dâu cùng với quả Kim anh, nướng cháy, tán mịn, uống với rượu lúc đói.
13. Thuốc bổ: Sâu Dâu thêm nước cơm hấp chín, ăn tất cả.
Thông tin này chỉ dành cho nhân viên y tế tham khảo, người bệnh không được tự ý áp dụng phương pháp này để chữa bệnh.
16 VỊ THUỐC KHÔNG NGỜ TỪ CÂY DÂU TẰM
Hầu hết các bộ phận của cây dâu tằm đều có vị thuốc quý, kể cả những thứ bám vào cây dâu (như tầm gửi, tổ bọ ngựa, sâu dâu...). Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu khái quát 16 vị thuộc được lấy trực tiếp và gián tiếp từ cây dâu để các bạn tham khảo.
Cành, quả cây dâu
1; Tang thầm (Qủa dâu)
Tang thầm có vị ngọt, tính hàn; Vào kinh tâm, can, thận; Bổ âm, dưỡng huyết, sinh tân, nhuận trường; Tang thầm chữa bệnh đái đường, lao hạch, mắt mờ, ù tai, thiếu máu, tóc bạc sớm. Dùng phối hợp tang thầm với hà thủ ô, nữ tinh tử và mặc hạn liên. Khát và khô miệng do thiếu dịch trong cơ thể hoặc đái đường biểu hiện khát thèm uống nước, đái nhiều và mệt mỏi: Dùng phối hợp tang thầm với mạch đông, nữ trinh tử và thiên hoa phấn. Táo bón do khô ruột: Dùng phối hợp tang chi với hắc chi ma, hà thủ ô và hoạt ma nhân.
2; Tang chi (Cành dâu)
Vị đắng, tính ôn; Vào kinh Can; trừ phong, thấp. Chủ trị: Hội chứng ứ bế phong thấp như đau khớp, co thắt chân tay: Dùng Tang chi với Phòng kỷ, Mộc qua và Lạc thạch đằng hoặc dùng một mình Tang chi.
3; Tang bạch bì (Vỏ rễ cây dâu)
Vị ngọt, tính hàn; Qui kinh phế; thanh nhiệt ở phế và dịu hen. Lợi tiểu, chữa phù. Chỉ định và phối hợp: Phế nhiệt biểu hiện như ho nhiều đờm và hen: Dùng phối hợp tang bạch bì với địa cốt bì và cam thảo dưới dạng tả bạch tán.
(Kinh nghiệm dân gian: dùng sợi tơ chỉ vỏ cây dâu làm chỉ khâu vết thương hở sau đó dùng tiết gà bôi vào vết thương lành chỉ sẽ tự tiêu)
4; Tang anh (Bướu của cây dâu)
Tác dụng chữa đau dạ dày và chứng đau nhức các khớp (tán bột hoặc sắc nước uống)
5; Tang đồ trùng ( Con sâu cây dâu)
Dùng cho trẻ em trốc lở đầu, hóc xương, vướng ở cổ (sắc lên uống), đau tức ngực dữ dội, vết thương không đầy, có tác dụng đối với trẻ còi xương, suy dinh dưỡng, bồi bổ sức khỏe cho người già yếu. Cách dùng nướng 1-2 con sâu dâu cho trẻ ăn 1-2 lần/ngày. Hoặc dùng ngâm rượu cho người lớn (có thể phối hợp với 1 số loại thuốc khác để tăng tác dụng). Chú ý cách bắt sâu, vì ban ngày sâu chui xuống đất, ban đêm mới bò lên thân cây để đục thân, vì vậy phải bắt vào khoảng 21 giờ - 4 giờ sáng, dùng dao bén phạt vào thân cây, dưới chỗ phân đùn ra chừng 15-20 cm, làm nhanh gọn, dứt khoát, nếu không sâu sẽ chui xuống đất.
6; Tang du (cành nhỏ cho vào nồi đất đậy kín đun lấy cái nhựa chảy ra từ các cành dâu).
Tác dụng: Chữa tóc bạc (lấy nhựa chải lên đầu cho tóc đen lâu).
Điều trị chứng lở loét mặt trẻ em dùng thêm với bài thuốc: khinh phấn 15g, hùng hoàng 15g, bạch thược 15g, hoạt thạch 15g, lưu huỳnh 30g, mật lợn 1 cái, xuyên sơn giáp 15 cái, vỏ trứng gà 15 cái (vỏ trứng gà đốt tồn tính) các vị thuốc tán bột trộn với mật lợn và dầu cây dâu làm thuốc bôi vào vết lở loét.
7; Tang cốt đốt: (Đầu cành non cây dâu)
Chặt đầu cành ngâm rượu điều trị chứng phong thấp
8; Tang diệp (Lá cây dâu)
Tác dụng chữa bệnh: lá dâu (tang diệp) có tác dụng hạ sốt, chữa cảm mạo, hạ huyết áp, làm sáng mắt, chữa chứng mồ hôi trộm ở trẻ nhỏ, chứng thổ huyết, làm lành vết thương.
Ngoài ra còn có vị thuốc gọi là Tang diệp lộ (lá dâu đun nước, lấy nước đó phơi sương, tránh bụi bẩn dùng rửa mặt làm đẹp da, rửa mắt điều trị chứng mắt có tia máu đỏ)
9; Tang hoa: (Hoa cây dâu)
Điều trị chứng sôi bụng, mũi đỏ, nôn ra máu (thổ huyết) dung 5g sắc uống
10; Tang sái hỏa (Lửa của cây dâu)
Dung lửa cây dâu thúc đẩy độc tố mụn nhọt trong cơ thể ra ngoài (bằng cách xông, hơ qua lửa)
11; Tang sài hồ ( Cành, than cây dâu đốt lấy than)
Điều trị mụn nốt ruồi, kích thích mọc da non (dung than cây dâu xát vào nốt ruồi hoặc bôi vào vùng da non đang mọc)
12; Tang Thầm Tử (Rượu từ qủa dâu)
Lấy quả dâu chín ép lấy nước, dùng nước quả dâu nấu cơm để làm rượu. Tác dụng kích thích ngũ tạng, tăng cường trí thông minh.
13; Tang ký sinh (Cây tầm gửi trên cây dâu):
Có tác dụng trị các chứng đau nhức xương cốt, lợi sữa, an thai. Để trị chứng phong thấp thường phối hợp với các vị thuốc khác (trong bài thuốc độc hoạt tang ký sinh). Tổ bọ ngựa trên cành dâu (tang phiêu tiêu): có tác dụng trị chứng đái dầm ở trẻ nhỏ, di tinh, liệt dương. Cách dùng lấy tổ bọ ngựa nướng vàng, tán mịn, ngày dùng 10 gr, chia làm 2 lần, dùng liên tục 15-20 ngày. Cần chú ý tang ký sinh và tang phiêu tiêu là hai vị thuốc rất quý và hiếm, cần thận trọng khi thu mua, vì chỉ có ở những cây dâu lâu năm, còn dâu trồng theo dạng công nghiệp thì không thể có được.
14; Tang ký sinh thật (Quả cây Tầm gửi trên cây dâu)
Chữa sáng mắt: Lấy 5g Tang ký sinh thật sắc bằng nồi đất lấy nước uống (kiêng lửa trực tiếp, các loại nồi bằng kim loại)
15; Tang nhĩ: (Mục nhĩ mọc trên cây dâu)
Điều trị: kinh nguyệt phụ nữ không đều (sao vàng sắc uống 5g)
Vị thuốc này có độc nên không dùng làm thức ăn
16; Tang phiêu tiêu (Tổ bọ ngựa, ổ cào cào đeo dâu),
Theo sách cổ thì Tang phiêu tiêu có tác dụng bổ thận, cố tinh, sáp niệu, có tác dụng bổ thận, ích tinh, giảm đau chữa mồ hôi trộm, đái nhiều về đêm, xuất tinh
sớm, di tinh, liệt dương, đau lưng, trẻ em đái dầm, người cao tuổi đái són, phụ nữ kinh bế, khí hư.
2. Trà tang thầm, vị thuốc dùng quanh năm:
Tang thầm là một vị thuốc có rất nhiều công dụng chữa bệnh và làm đẹp cho chị em phụ nữ. Có nhiều cách chế biến tang thầm như ngâm đường lấy nước cốt, nấu cháo tang thầm...
Có một cách để lưu trữ tang thầm dùng quanh năm là làm trà tang thầm.
Cách chế biến như sau:
Chọn những quả dâu đã chín, lành lặn, loại bỏ các tạp chất, dùng nước sạch rửa thật kỹ (chú ý nhẹ tay để tránh dập nát), đem phơi hoặc sấy thật khô rồi đựng trong lọ kín (tốt nhất là lọ sành) để dùng dần.
Mỗi ngày 2 lần, mỗi lần lấy 10-15g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày.
Công dụng của trà tang thầm:
- Giải khát, chữa táo bón:Uống 2 ly nước trà tang thầm /ngày có tác dụng thanh nhiệt, giải khát. Với 3 ly nước dâu/ngày hàm lượng vitamin C trong nước dâu sẽ trị căn bệnh táo bón rất hiệu quả.
- Kích thích ăn ngon, ngủ tốt, tăng cường sức khỏe:Uống 1-2 ly nước dâu nhỏ trước khi ăn có tác dụng kích thích tiêu hóa, giúp bữa ăn thêm ngon miệng, sức khỏe được cải thiện.
Sau bữa tối, uống một ly nước dâu sẽ khiến giấc ngủ đến sớm, ngủ say và sâu giấc hơn.
- Chữa chứng nhức mỏi cơ, khớp:Uống đều đặn mỗi ngày ba ly nước dâu vào buổi sáng, trưa và tối sẽ chữa được chứng nhức mỏi cơ, khớp, giúp da dẻ hồng hào, máu huyết lưu thông, kinh nguyệt đều đặn.
Uống liên tục trong 3 tháng sẽ thấy da dẻ hồng hào, máu huyết lưu thông, kinh nguyệt đều đặn...
- Giảm đau họng: 500g dâu rửa sạch và ép thành nước. Dùng nước quả dâu để súc miệng (từ 3 đến 5 ngày) chữa các chứng đau ở miệng, họng.
- Chữa bỏng:Chọn những quả dâu chín tươi, không dập nát, rửa sạch. Ép dâu lấy nước sau đó bôi, rửa, đắp vào vết bỏng.
TANG THẦM CÙNG LONG NHÃN NHỤC
Công hiệu khác nhau
Tang thầm cùng long nhãn đều là những vị thuốc tư bổ lương phẩm, đều có công
dụng bổ huyết ích hư. Nhưng tang thầm bổ huyết lại tư âm. Công thiên về tư bổ can thận,
tính hay tức phong, lợi thủy. Chữa can, thận, âm huyết không đủ thường dùng vị thuốc
này.
Còn long nhãn nhục bổ huyết, ích khí, công dụng thiên về bổ tâm, tỳ, an thần.
dưỡng huy. Trị tâm khí huyết bất túc thường phải dùng vị thuốc này.
Chủ trị khác nhau
1 - Tang thầm chủ trị can thận, âm khuy, khuy nhược, đầu vựng, nhãn hoa, trúng
phong, râu tóc sớm bạc.
Long nhãn nhục chủ tâm, tỳ khí huyết bất túc, tim đập mạnh sợ hãi, mất ngủ, hay
quên.
Tang thầm tư bổ can thận, âm huyết. Chủ trị âm huyết khuy hư, đầu nhác, mắt hoa,
trúng phong râu tóc sớm bạc. Thường dùng phối hợp với cúc hoa, câu kỷ tử, nữ trinh tử,
tảo liên thảo để chữa đầu vựng, mắt hoa. Lại phối hợp với hắc chi ma, huyền sâm, sinh
địa, linh từ thạch, thiên ma, câu đằng để chữa trúng phong. Cùng với thủ ô, hắc chi ma,
nữ trinh tử chữa râu tóc sớm bạc.
Long nhãn nhục dưỡng huyết ích khí, bổ ích tâm tỳ an thần, kiện lưng. Cho nên chủ
trị các chứng tâm tỳ, huyết khí khuy hư gây nên tâm qúy, mất ngủ, hay quên.
Như "Hiệu chú phụ nhân lương phương" Quy tỳ thang (nhân sâm, sao bạch truật,
sao hoàng kỳ, phục linh, long nhãn) trích thảo, gia khương, táo, sắc thang cũng trị chứng
hay quên, sợ hãi, tim đập mạnh không ngủ được.
2 - Tang thầm chủ tiêu khát, thủy thũng.
Long nhãn trị bệnh hậu thế hư.
Tang thầm tư nhuận, lợi thủy, trị tiên khát, âm hư, thủy thũng (xem hắc chi ma và
tang thầm).
Long nhãn nhục là giai phẩm bổ huyết ích khí, càng dưỡng tâm tỳ. Cho nên là vị
thuốc bổ rất tốt cho các chứng sau bệnh (sau khi đã chữa bệnh khỏi) hoặc sản hậu, mà khí
huyết khuy hư. dùng một vị sắc thang nóng, hoặc cũng với bạch đường nấu chín làm cao.
3 - Tang thầm chủ trị tràng táo tiện bí
Long nhãn nhục chủ trị tỳ hư, tiết tả.
Tang thầm tư âm, nhuận táo, tiện bí - thường cùng huyền sâm, sinh địa, hỏa ma
phối hợp.
Long nhãn nhục bổ tỳ ích tâm, ích khí, bổ huyết.
Nên chữa được tỳ hư, tiết tả hoặc tiện huyền.
Như "Tuyền châu bản thảo" trị tỳ hư, tiết tả. Tức dùng long nhãn 14 quả, sinh
khương 3 phiến sắc thang uống - Nếu chữa a mễ ba bệnh đái máu, dùng long nhãn nhục
bao với trứng gà nuốt đi. Công hiệu càng tốt hơn.
Đặc thù sử dụng khác nhau
Tang thầm lợi thủy. Như “Thổ tế phương” tang thầm phương thanh trị thủy trướng,
hoặc không hạ được tất nhiên đầy tràn. Dùng tang thầm tử kiêm Chù bì (vỏ cây đó làm
giấy) "Bản thảo cương mục" Tang thầm tửu, bổ ngũ tạng, minh nhĩ mục, trị thủy thũng,
không hạ tất nhiên đầy, hạ thì hư, vào trong bụng thói 10 không một hoạt. "Tố vấn bệnh
cơ khí nghi bảo mệnh tập” Văn vũ cao (Tang thầm 2 đấu, lấy nước, đun thành cao, mỗi lần
dùng một thìa nước trắng chiêu thuốc, ngày 3 lần trị tràng nhạc.
“Thực hiệu phương” trị đầu thượng thốc sang. Dùng đào hoa (âm can) cùng với tang
thầm, xích giả tán mạt lấy mõ lợn hòa. Trước hết lấy nước tro rửa sạch, rồi bôi thuốc vào
TANG THẦM
1. Tên dược: Frutus Mori.
2. Tên thực vật: Morus alba L.
3. Tên thường gọi: Mulberry (tang Thầm) Morus fruit.
4. Bộ phận dùng và phương pháp chế biến: quả chín thu hái từ tháng 4 đến tháng 6, rửa sạch và phơi nắng.
5. Tính vị: vị ngọt, tính hàn.
6. Qui kinh: tâm, can và thận.
7. Công năng: bổ âm và tạo máu, tăng sinh dịch cơ thể và chống khát, nhuận tràng.
8. Chỉ định và phối hợp:
- Âm suy và Thiếu máunhư hoa mắt, Chóng mặt, mờ mắt, ù tai, điếc, Mất ngủ, bạc tóc sớm: Dùng phối hợp tang thầm với hà thủ ô, nữ tinh tử và mặc hạn liên.
- Khát và khô miệng do thiếu dịch trong cơ thể hoặc đái đườngbiểu hiện khát thèm uống nước, đái nhiều và mệt mỏi: Dùng phối hợp tang thầm với mạch đông, nữ trinh tử và thiên hoa phấn.
- táo bóndo khô ruột: Dùng phối hợp tang chi với hắc chi ma, hà thủ ô và hoạt ma nhân.
9. Liều dùng: 10-15g.
10. Thận trọng và chống chỉ định: không dùng tang thầm cho các trường hợp ỉa chảy do hàn và tỳ, vị kém.
DIỆP HẠ CHÂU
Tên Việt Nam: Vị thuốc Diệp hạ châu còn gọi Cây chó đẻ, cỏ chó đẻ.
Tác dụng: Thanh can, minh mục, thấm thấp, lợi tiểu.
Chủ trị: + Trị trẻ con cam tích, phù thủng do viêm thận, nhiễm trùng đường tiểu, sỏi bàng quang, viêm ruột, tiêu chảy, họng sưng đau.
Liều dùng: Dùng khô từ 15-30g, tươi 30-60g. Sắc uống. Có khi dùng tươi gĩa đắp nơi nhọt, lở
TÌM HIỂU SÂU THÊM VỀ DIỆP HẠ CHÂU
Tên Hán Việt khác: Trân châ thảo, Nhật khai dạ bế, Diệp hậu châu (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học: Phyllanthus urinaria L.
Họ khoa học:Euphorbiaceae.
Tên gọi: Cây có hạt tròn xếp thành hàng dưới lá nên gọi là Diệp hạ châu (Diệp: lá, hạ, dưới, châu, ngọc tròn).
Mô tả: Cây thảo sống hàng năm hoặc sống dai. Thân cứng màu hồng, lá thuôn hay hình bầu dục ngược, cuống rất ngắn. Lá kèm hình tam giác nhọn. Cụm hoa đực mọc ở nách gần phía ngọn, hoa có cuống rất ngắn hoặc không có, đài 6 hình bầu dục ngược, đĩa mật có 6 tuyến, nhị 3 chỉ nhị rất ngắn, dính nhau ở gốc. Hoa cái mọc đơn độc ở phía dưới các cành, dài 6 hình bầu dục mũi mác, đĩa mật hình vòng phân thùy, các vòi nhụy rất ngắn xẻ đôi thành 2 nhánh uốn cong, bầu hình trứng. Quả nang không có cuống, hạt hình 3 cạnh.Cây mọc hoang ở khắp nơi, trong nước cũng như ở các nơi trong các vùng nhiệt đới.
Phân biệt: Ngoài ra người ta còn dùng cây Chó đẻ quả tròn (Phyllanthus niruri Linn) đó là cây thảo mọc hàng năm, nhẵn. Thân màu hồng nhạt, các cành có góc. Lá thuôn, tù cả gốc lẫn đầu. Lá kèm hình dùi trong suốt. Cụm hoa ở nách gồm 1 hoa đực và 1 hoa cái hoặc chỉ có hoa cái. Hoa đực có cuống rất ngắn, đài 5-6 hình bầu dục mũi mác, đĩa mật gồm những tuyến rất bé, nhị 3. Hoa cái cũng có cuống ngắn, đài 5-6 giống ở hoa đực nhưng rộng hơn một ít, đĩa mật hình đấu có 5 thùy sâu, các vòi nhụy rất ngắn, rời nhau chẻ đôi ở đầu, bầu hình cầu. Quả nang hình cầu. Ra hoa từ tháng 1-10. Cây mọc dại trong vườn, gặp khắp nơi trong nước ta. Kinh nghiệm nhân dân làm thuốc thông tiểu, thông sữa.
Thu hái, sơ chế: Thu hái vào mùa hè, rửa sạch phơi nắng gần khô, đem phơi trong râm rồi cất dùng.
Phần dùng làm thuốc: Toàn cây.
Tính vị: Vị hơi đắng ngọt, tính mát
Diệp hạ châu đắng
Loại thảo dược này được coi là thứ thuốc tự nhiên tốt nhất hỗ trợ điều trị các bệnh về gan. Theo y học cổ truyền, Diệp hạ châu đắng có vị rất đắng, tính mát, có tác dụng làm mát gan, giải độc cho gan, kích thích tiêu hóa, chữa viêm... Còn theo y học hiện đại, chất đắng trong Diệp hạ châu đắng làm gia tăng lượng Glutathione - chất bảo vệ gan thường bị thiếu trầm trọng ở những người thường xuyên sử dụng bia rượu.
Nam dược 1
Năm 1995, các nhà khoa học Brazil phát hiện tác dụng khác của Diệp hạ châu đắng có thể chữa viêm gan, tổn thương gan do bia rượu vì trong loại cây này có chứa chất acid gallic.
Ðối với viêm gan siêu vi, Diệp hạ châu đắng có tác dụng làm hạ men gan, tăng cường chức năng gan và ức chế sự phát triển của virus gây viêm gan.
Các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng, những tác nhân gây viêm gan hoặc hoại tử tế bào gan thường bắt đầu từ sự gia tăng quá trình peroxide hóa lipid ở màng tế bào. Diệp hạ châu đắng có hàm lượng những chất chống oxy hóa có khả năng ức chế rất mạnh quá trình peroxide hóa ở gan.
Diệp hạ châu đắng thường được sử dụng phối hợp với một số thảo dược khác để tăng cường công dụng bảo vệ gan. Trong đó, Diệp hạ châu đắng kết hợp với Vọng cách và Nhân trần được coi là công thức vàng giúp bảo vệ gan tối ưu.
Vọng cách
Cây Vọng cách có tác dụng làm giảm rõ rệt những triệu chứng dễ mắc phải khi sử dụng bia rượu thường xuyên như các chứng viêm đường tiêu hóa, rối loạn đường tiêu hóa - đau bụng, đi ngoài, đầy bụng, ăn uống không tiêu.
Nam dược 2
Bên cạnh đó, các nghiên cứu hiện đại đã chỉ ra tác dụng chống viêm gan của Vọng cách. Một công trình nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Viện dược liệu, Viện khoa học công nghệ, phối hợp cùng 2 trường Đại học Y và Dược Hà Nội đã chứng minh lá Vọng cách có tác dụng bảo vệ gan, chống viêm và giảm đau.
Nhân trần
Nhân trần là vị thuốc đã quá quen thuộc đối với người Việt Nam, nó được biết tới ở khả năng làm mát gan, giải độc cho gan đặc biệt hiệu quả. Nhân trần có tác dụng làm tăng tiết và thúc đẩy quá trình bài xuất dịch mật; bảo vệ tế bào gan và phòng chống tích cực tình trạng gan nhiễm mỡ.
Nam dược 3
Lần đầu tiên, ba loại thảo dược ưu tú nhất trong công dụng bảo vệ và hỗ trợ điều trị bệnh gan được kết hợp trong cùng một sản phẩm Hamega, được sản xuất từ nguồn dược liệu sạch và chế biến theo quy trình chuẩn hóa GMP.
Sử dụng Hamega hằng ngày giúp hạ men gan, giải độc gan một cách nhanh chóng và an toàn. Đặc biệt, uống 4 viên Hamega ngay trước và 4 viên ngay sau khi uống rượu bia sẽ có tác dụng giảm các triệu chứng khó chịu như tiêu hóa kém, mệt mỏi, nhức đầu; đồng thời tạo ra bức “bình phong kín” ngăn chặn ảnh hưởng của chất cồn độc gây hại cho gan.
Bên cạnh đó, Hamega còn giúp làm mát gan và hỗ trợ chữa các bệnh về gan như viêm gan B, gan nhiễm mỡ, dị ứng... Hamega nên được sử dụng liên tục từ 6 - 8 tuần để đạt được tác dụng mong muốn.
3 bài thuốc chữa viêm gan B từ cây Diệp hạ chậu
1. Cách chữa viêm gan b bằng năm loại cây:
Nguyên liệu:
– 30 gram cây chó đẻ.
– 12 gram nhân trần.
– 12 gram sài hồ.
– 8 gram chi từ
– 12 gram hạ khô thảo
Cách làm:
– Các bạn cho tất cả những vị thuốc trên vào nồi rồi sắc để uống hàng ngày, mỗi ngày uống một lần.
2. Cách chữa viêm gan B bằng cây chó đẻ & đường:
Nguyên liệu:
– 20 gram cây chó đẻ (sao khô).
– 50 gram đường.
Cách làm:
– Các bạn hãy sắc nước cây chó đẻ ba lần, sau đó trộn những nước sắc lại với nhau.
– Tiếp theo, hãy thêm vào 50 gram đường rồi đun sôi đến khi tan thành nước.
– Chia bài thuốc này ra làm bốn lần để uống vào các buổi sáng, trưa, chiều, tối.
– Đến khi nào xét nghiệm cho kết quả HBsAg (-) thì các bạn có thể dừng việc uống thuốc.
...
3. Bài thuốc chữa xơ gan cổ trướng:
Nguyên liệu:
– 100 gram cây chó đẻ (sao khô).
– 150 gram đường.
Cách làm:
– Sao khô rồi sắc nước cây chó đẻ ba lần, sau đó trộn các loại nước sắc lại chung với nhau và thêm vào 150 gram đường đã được đun sôi đến khi tan thành nước.
– Các bạn hãy chia thang thuốc ra làm nhiều lần để dùng các buổi trong ngày, liệu trình từ một tháng đến 40 ngày.
– Các bạn cũng cần phải lưu ý hạn chế ăn muối, đồng thời tăng lượng đạm cho cơ thể.
Tác dụng của diệp hạ châu đắng - cây chó đẻ răng cưa
Diệp hạ châu có tác dụng diệt khuẩn bảo vệ gan lợi tiểu chữa viêm thận phù thũng, viêm niệu đạo và sỏi niệu đạo, viêm ruột, lỵ, viêm kết mạc, viêm gan, trị kiết lỵ, sốt rét, đau dạ dày, bệnh hoa liễu, vàng da, sỏi thận, sỏi mật.
Diệp hạ châu thường được gọi là cây chó đẻ răng cưa, tên khoa học Phyllanthus urinaria L., thuộc họ thầu dầu Euphorbiaceae.
Diệp hạ châu cao từ 30 đến 60cm, thân nhẳn, mọc thẳng đứng, lá mọc so le, phiến lá thon nhỏ dài từ 5 đến 15mm, rộng từ 2 đến 5mm. Diệp hạ châu mọc hàng năm ở khu vực nhiệt đới, là loại cỏ mọc hoang có thể tìm thấy nhiều nơi khắp nước ta. Theo Đông y, diệp hạ châu vị đắng, hơi ngọt, tính mát, có tác dụng thanh Can lương huyết, lợi tiểu, sát trùng, giải độc.




Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Phyllanthi, thường gọi là diệp hạ châu.
Nơi sống và thu hái: Loài cây liên nhiệt đới, phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, các nướcÐông Dương. Ở nước ta, cây mọc hoang khắp nơi, thường thấy ở các bãi cỏ ruộng đất hoang, tới độ cao 500m. Thu hái toàn cây vào mùa hè thu, rửa sạch, thái ngắn, dùng tươi hay phơi héo, bó lại phơi trong râm để dùng.
Thành phần hoá học: Trong cây có các acid, các triterpen một vài alcaloid và các dẫn xuất phenol. Gần đây, từ lá, người ta đã trích được acid ellagic, acid gallic, một acid phenolic và một flavonoid; chất thứ nhất không tan trong nước, các chất sau tan trong nước nóng; còn có một chiết xuất tinh gọi là coderacin.
Tính vị, tác dụng: Chó đẻ răng cưa có vị ngọt hơi đắng, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, tán ứ, thông huyết, điều kinh, thanh can, sáng mắt, làm se và hạ nhiệt. Người ta cũng đã nhận thấy tác dụng diệt khuẩn và diệt nấm rõ rệt của acid phenolic và flavonoid trong Chó đẻ răng cưa, Coderacin dùng chế thuốc nhỏ mắt và thuốc mỡ tra mắt, nó có khả năng diệt một số vi khuẩn, nấm và mốc, chủ yếu là các mầm gây bệnh đối với mắt.

Thường được dùng chữa đau yết hầu, viêm cổ họng, đinh râu, mụn nhọt, viêm da thần kinh, lở ngứa, sản hậu ứ huyết, trẻ em tưa lưỡi, chàm má. Còn dùng trị rắn cắn. Liều dùng 8-16g cây khô sắc nước uống, hoặc dùng cây tươi giã chiết lấy dịch uống hoặc vắt lấy nước bôi và lấy bã đắp. Cây tươi còn có thể giã nát đắp chữa các đầu khớp sưng đau.
Ở Trung Quốc, người ta dùng Chó để răng cưa để chữa: 1. Viêm thận phù thũng; 2. Viêm niệu đạo và sỏi niệu đạo, viêm ruột, lỵ, viêm kết mạc, viêm gan; 3. Trẻ em cam tích, suy dinh dưỡng.
Ở Ấn Độ người ta dùng toàn cây như là thuốc lợi tiểu trong bệnh phù; cũng dùng trị bệnh lậu và những rối loạn đường niệu sinh dục và làm thuốc duốc cá. Rễ cây dùng cho trẻ em mất ngủ. Ở Campuchia, người ta dùng cây sắc uống, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trị các bệnh về gan, trị kiết lỵ, sốt rét. Ở Thái Lan, cây được dùng trị các bệnh đau dạ dày, bệnh hoa liễu, vàng da, trĩ và lỵ. Cây non được dùng làm thuốc ho cho trẻ em.

Diệp hạ châu giải độc gan và chữa viêm gan siêu vi B.
Diệp hạ châu được Đông y sử dụng như 1 loại thuốc thanh Can lương huyết, giải độc sát trùng từ lâu đời. Tuy nhiên, tác dụng giải độc gan và chữa viêm gan siêu vi B chỉ mới được các nhà khoa học lưuý từ những năm 1980s về sau. Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật bản và Ấn độ đã cho biết họ đã phân lập được những hợp chất trong Diệp hạ châu có khả năng chữa bệnh viêm gan như phyllantin, hypophyllantin và triacontanal. Tác động chống virus siêu vi B được báo cáo lần đầu tiên tại Ấn độ vào năm 1982. Sau đó, một báo cáo trên tạp chí Lancet vào năm 1988 cũng xác định tác dụng này. Theo báo cáo này 2 nhà khoa học Blumberg và Thiogarajan đã điều trị 37 trường hợp viêm gan siêu vi B với kết quả 22 trong số 37 người đã đạt được kết quảâm tính sau 30 ngày dùng diệp hạ châu.Ðối với viêm gan siêu vi, diệp hạ châu có khả năng làm hạ men gan, tăng cường chức năng gan và ức chế sự phát triển của virus. Theo các nhà khoa học, những tác nhân gây viêm gan hoặc hoại tử tế bào gan thường bắt đầu từ sự gia tăng quá trình peroxide hoá lipid ở màng tế bào. Do đó, bảo vệ gan phải bắt đầu từ những chất chống oxy hoá có tính năng ức chế qúa trình nầy. Diệp hạ châu có hàm lượng những chất chống oxy hoá hướng gan[iv] có khả năng ức chế rất mạnh quá trình peroxide hoá ở gan. Ngoài ra, những chất nầy còn làm gia tăng hàm lượng Glutathione ở gan làm giảm hoạt động các enzym SGOT và SGPT trong những trường hợp viêm gan siêu vi đang tiến triển.
Viêm gan siêu vi B là 1 căn bệnh nguy hiểm đang ảnh hưởng đến trên 300 triệu người trên thế giới mà sự chữa chạy bằng tây y rất tốn kém kể cả những phản ứng phụ không thể tránh được. Do dó, sử dụng diệp hạ châu là một giải pháp đáng lưuý. Trên thực tế, diệp hạ châu thường được sử dụng phối hợp với một số thảo dược khác. Điều nầy vừa làm tăng tác dụng chữa bệnh vừa làm dung hoà bớt tính mát của diệp hạ châu. Hiện nay, trên thị trường cũng đã có nhiều sản phẩm diệp hạ châu dưới hình thức trà, thuốc viên hoặc độc vị hoặc có phối hợp với một số vị khác. Một số trường hợp chỉ cần dùng độc vị diệp hạ châu cũng chữa khỏi viêm gan. Điều quan trọng là cần có sự phối hợp của chế độ ănít mỡ, nhiều rau quả và năng vận động.
Trong cơ thể con người, gan có thể ví như 1 nhà máy lọc to lớn có chức năng giải độc cho cơ thể để duy trì các chức năng bình thường của tất cả các cơ quan. Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại, do môi trườngô nhiễm, do tâm lý căng thẳng và việc tiếp xúc với những hoá chất độc hại cũng như sử dụng nhiều loại hoá dược, gan luôn luôn phải đối phó với nhu cầu cần được sơ tiết và giải độc. Nhiều người cho rằng diệp hạ châu là 1 trong những loại thực vật hàng đầu có thể đáp ứng được yêu cầu nầy.
Kinh nghiệm sử dụng ở nước ta thường phân ra 2 loại diệp hạ châu đắng và diệp hạ châu ngọt. Diệp hạ châu đắng có dược lực cao hơn diệp hạ châu ngọt. Theo y học cổ truyền, vị đắng đi vào kinh Can, Đởm có tác dụng kích thích tiêu hoá, tăng tiết mật. Theo những nghiên cứu của y học phương Tây, diệp hạ châu đắng sẽ có nhiều chất chống oxy hoá thuộc nhóm xanthones hơn. Do đó, dược tính cũng cao hơn. Với diệp hạ châu đắng, liều dùng trung bình từ 10 đến 20g mỗi ngày (dạng phơi khô).

Lưuý

Diệp hạ châu không có độc tính, độ an toàn cao ngoại trừ một số trường hợp đau cơ, co giật trong khi điều trị sỏi thận hoặc sỏi mật do quá trình tống xuất sỏi. Tuy nhiên, diệp hạ châu có tính mát có thể gây trệ Tỳ, đầy bụng ở những người có Tỳ Vị hư hàn, dùng liều cao hoặc dùng lâu ngày. Do đó, những trường hợp nầy nên phối hợp với những vị thuốc có tính cay ấm để dung hoà bớt tính mát của diệp hạ châu.
Gần đây có một số thông tin cho rằng uống diệp hạ châu có thể gây vô sinh. Điều nầy có lẻ bắt nguồn từ 1 nghiên cứu về tác dụng ngừa thai của diệp hạ châu trên trên loài chuột của các nhà khoa học trường Đại học Gujaret ở Ấn độ. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi cho chuột uống cao toàn thân cây diệp hạ châu liều 100mg/kg thể trọng đối với chuột cái[v] hoặc 500mg/kg thể trọng đối với chuột đực[vi] có thể tạm thời ức chế khả năng sinh sản trong thời gian thí nghiệm 30 ngày (chuột cái) hoặc 45 ngày (chuột đực). Sau khi ngưng uống diệp hạ châu, khả năng nầy phục hồi bình thường. Điều nầy khác với vô sinh. Hơn nữa chỉ mới là thử nghiệm ban đầu trên loài vật. Tuy nhiên, những người đang muốn có con không nên dùng diệp hạ châu.
CỔ BÌNH
Còn gọi là hố lô trà, cây mũi mác, cây thóc lép, cây cổ cò
Tên khoa học Desmodiumdium trique-trum (L.) DC.
Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae.
Mô tả:Cây thảo cứng, cao 1-1,5m. Thân có 3 cạnh. Lá do một lá chét hình tam giác dài cụt hình tim ở gốc; cuống có cánh; lá kèm hình tam giác nhọn dạng vẩy, dài 1,5cm, màu nâu. Cụm hoa chùm kép ở nách lá và ở ngọn. Hoa màu hồng, xếp 1-2 cái một. Quả đậu có lông xám tro hay không, có số đốt thay đổi từ 4-5 tới 8-9, rộng từ 2-2,5 tới 4-5mm hay hơn. Có nhiều thứ khác nhau bởi quả có lông hay không, số đốt nhiều hay ít, rộng hay hẹp.
Mùa hoa tháng 6-9.
Bộ phận dùng:Toàn cây - Herba Tadehagii Triquetri
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc tới Philippin. Ở nước ta, cây mọc hoang ở rìa rừng, rừng thưa hay savan khắp nơi. Khi dùng thu hái toàn cây vào mùa hè, mùa thu, rửa sạch, chặt nhỏ dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Thành phần hóa học: Lá khô chứa 7,1 tới 8,6% tanin.
Tính vị, tác dụng: Cây có vị ngọt, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, kiện tỳ tiêu thực, lợi niệu, sát trùng.
Công dụng:Thường dùng để trị: 1. Cảm mạo phát sốt nóng; 2. Viêm sưng họng, viêm mủ răng, viêm tuyến mang tai; 3. Viêm thận cấp; viêm ganvàng da; 4. Viêm ruột ỉa chảy, lỵ; 5. Bệnh giun móc, nhiễm trùng sán lá gan; 6. Trẻ em suy dinh dưỡng; 7. Nôn mửa khi có mang; 8. Ngộ độc dứa; 9. Lao xương và bạch huyết, nhiễm trùng âm đạo Trichomonas, nấm da cứng... Có người còn dùng chữa bệnh đau gan. Dân gian cho vào thịt, cá muối để phòng ruồi, giòi; phối hợp với các loại thuốc khác để diệt ruồi, muỗi. Lá khô cho vào quần áo để sát trùng. Ở Thái Lan, lá dùng chiết nước hay làm viên uống trị Trĩivà dùng uống thay trà. Thường dùng mỗi lần 15-60g đun sôi lấy nước uống.
Ðơn thuốc:
1. Viêm thận cấp, phù thũng: Dùng 60g cây Mũi mác sắc uống.
2. Nôn mửa khi có mang: Dùng 30g cây Mũi mác, sắc nước chia ngày uống 3 lần.
CỐC TINH THẢO
Cốc tinh thảo vị thuốc trị Nhức đầu chảy máu cam" Còn có tên Cỏ dùi trống, cây cốc tinh, cỏ đuôi công
Tên khoa học: Eriocaulon sexangulare L.
Thuộc họ Cốc tinh thảo Eriocaulaceae.
Tên gọi: Sau khi gặt lúa xong thì cỏ xuất hiện, nhờ dư khí của lúa sinh ra cỏ nên gọi Cốc tinh thảo.
Mô tả:Cây thảo nhỏ, sống hằng năm, thân rất ngắn mang một chùm lá mọc vòng, rộng và hình dải, nhẵn, có nhiều gân dọc. Cán hoa dài 10-55cm, có cạnh sắc và vặn nhiều hay ít. Đầu hình trứng hay hình trụ, có lông rải rác, lá bắc của tổng bao nhẵn cứng, màu vàng ra, lợp lên nhau và che các hoa vào phía trong. Hoa đực có 2 lá đài dính thành ống, 2 cánh hoa dính thành ống và bao phân màu đen. Hoa cái có 3 lá đài rời, 3 cánh hoa ngắn hơn lá đài và có lông rải rác.
Cây có hoa mùa hạ và mùa thu.
Phân bố:Cây mọc phổ biến nơi đất ruộng ẩm ướt ở nhiều tỉnh miền Bắc và miền Trung, Nam nước ta.
Thu hái, sơ chế:Thu hái vào tháng 9, hái hoa hình sao trắng là tốt, phơi âm can cất dùng.
Phần dùng làm thuốc: Hoa và cuống hoa tự cán mang hoa phơi, sấy khô. Cụm hoa hình đầu, đường kính 0,5-0,8cm có cán dài (còn gọi là Cốc tinh hoa), dùng hoa bỏ cán gọi là Cốc tinh châu, gồm nhiều hoa khô nhỏ hình ống màu vàng bóng nén chặt với nhau, trên đầu có vẩy nhỏ màu trắng xám các cây nhỏ xếp liền nhau cho hình cầu có màu trắng xám. Bóp nát ra thấy nhiều hạt nhỏ màu đen. Gốc cụm hoa có một tổng bao gồm nhiều lá bắc hình vảy nhỏ màu vàng bóng. Chất mềm dẻo, khó bẻ gẫy.
Mô tả dược liệu:Hoa và thân Cốc tinh thảo có hoa thân khô nhỏ mịn, dài khoảng 16-20cm, vỏ ngoài màu vàng xanh lục, thường cong, hoa loại như hình cầu mọc ở đỉnh, đường kính khoảng hơn 1,6mm, lớp ngoài là bao phiến của tổng bao, màu vàng lục nhạt, nhiều quả dạng phiến vảy chất màng phần trong là phiến dài liền với cánh hoa, màu trắng Thương phẩm thường đem vài trăm thân hoa bọc lại thành một bó, lấy loại đã khô hoàn toàn, đoá hoa lớn là loại tốt.
Bảo quản: Dễ mốc, nát, ẩm mốc.
Tác dụng: Sơ tán phong nhiệt, sáng mắt tan màng mộng.
Tính vị:Vị ngọt, hơi cay, tính bình có hơi lạnh không độc.
Chủ trị:Trị mắt có màng mộng (mục ế), Viêm kết mạc, Nhức răng, Cảm mạo phong nhiệt.
Liều dùng: Dùng từ 9g -30g.
Kiêng kỵ: Không có phong nhiệt cấm dùng. Kỵ sắt.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị nhức đầu, đau vùng mi mắt, thiên đầu thống: Cốc tinh thảo 6g, Địa long 9g, Nhũ hương 3g, tán bột mỗi lần dùng nửa chỉ đốt cháy vào ống ngức bên nào ngửi bên lỗi mũi ấy (Thánh Tế Tổng Lục).
+ Trị nhức đầu một bên hoặc chíng giữa đầu: Cốc tinh thảo 30g tán bột hồ với bột miến trắng Phết lên giấy dán vào chỗ đau, khô thay miếng khác (Tập Nghiệm Phương). Lại dùng Cốc tinh thảo tán bột, Đồng lục mỗi thứ 3g, Tiêu thạch nửa phân tùy theo đau bên phải hoặc trái mà thổi vào mũi (Thánh Tế Tổng Lục).
+ Trị chảy máu cam không cầm: Cốc tinh thảo tán bột uống với nước miến sắc lần 6g (Thánh Huệ Phương).
+ Trị mắt có màng mộng, dùng Cốc tinh thảo, Phòng phong, 2 vị bằng nhau tán bột uống với nước cơm (Minh Mục Phương).
+ Trị mắt kéo màng sau khi đậu mùa, lèm nhèm nước mắt sống chảy rít rát khó chịu, lâu ngày không bớt, dùng Cốc tinh thảo tán bột bỏ vào trong gan heo nấu ăn, bài khác gia Cáp phấn 2 vị bằng nhau bỏ trong gan heo nấu ăn hàng ngày (Thiệu Chân Nhân, Tế Chúng Phương).
+ Trị trẻ nhỏ bị quáng gà, dùng phổi dê đã thiến rồi 1 cặp đừng rửa nước lấy dao tre xẻ bỏ vào một nắm Cốc tinh thảo vào nồi sành nấu chín ăn hằng ngày. Có thể nướng sao tán làm viên bằng hạt đậu xanh, lần uống 3 viên với nước trà (Vệ Sinh Gia Bảo).
+ Trị trẻ nhỏ bị trúng nắng, trên mửa dưới ỉa, khát nước bồn chồn khí chịu, dùng Cốc tinh thảo đốt tồn tính, xong hạ khử thổ cho người mới tán bột, uống với nước cơm nguội lần nửa chỉ (Bảo Ấu Đại Toàn).
+ Cốc tinh thảo kết hợp với Quyết minh tử, Mộc tặc thảo, Cam cúc-hoa, Mật mông hoa, Sinh địa-hoàng chuyên trừ bệnh màng mộng ở mắt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị màng mộng trong mắt: Cốc tinh thảo, Phòng phong, mỗi thứ 9g sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).
+ Trị trẻ nhỏ bị cam tích, nhìn không rõ, mắt đỏ sợ ánh sáng: Cốc tinh thảo 1-60g, gan heo 60g sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).
+ Trị mắt đỏ, mắt có màng mộng, nhức nửa đầu, Đau răngdo phong hỏa: Cốc tinh thảo 9g, Long đởm 6g, Sinh địa 12g, Xích thược 9g, Hồng hoa 3g, ngưu bàng tử 9g, Kinh giới 6g, Phục lonh 9g, Mộc thông 6g, Cam thảo 3g. Sắc uống (Cốc Tinh Long Đởm Tán - (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).
+ Trị lợi răng sưng đau: Cốc tinh thảo 15g-30g sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Học).
Cốc Tinh Thảo: Vị cay, vị cam, tính bình hòa, quy kinh lạc gan và phổi, gồm hai công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là trừ gió nóng. Hai là sáng mắt, làm tan "mắt hột". Hai trường hợp này đều thích hợp cho chữa trị chứng đau đầu bởi cảm gió nóng cũng như mắt đỏ, mắt sưng, mắt đau, mắt kém do cảm gió nóng gây nên, mắt hột, viêm niêm mạc mắt.
Cách dùng và liều lượng: Dùng Cốc Tinh Thảo sắc nước uống, mỗi lần từ 5-10 gam.
Điều cần phải lưu ý là: Trường hợp bệnh mắt bởi âm hư thiếu máu gây nên không nên dùng.
Mộc Tặc và Cốc Tinh Thảo đều có công hiệu trừ gió nóng, sáng mắt, trị mắt hột. Hai vị thuốc này thường dùng cho chữa trị các chứng mắt đỏ, mắt sưng, mắt đau, mắt hột, mắt kém, hay chảy nước mắt bởi gió nóng thâm nhập phần trên cơ thể gây nên. Điều khác nhau là, công hiệu trừ gió nóng của Mộc Tặc khá mạnh, song dược hiệu cầm máu kém hơn, cho nên ít khi sử dụng độc lập, phối chế với các vị thuốc khác có thể chữa trị chứng xuất huyết do máu nóng gây nên, đại tiện ra máu, trĩ ra máu v.v. Công hiệu thanh nhiệt tiết hỏa của Cốc Tinh Thảo mạnh hơn Mộc Tặc, bên cạnh đó, Cốc Tinh Thảo có thể dùng cho chữa trị các chứng đau đầu, đau răng và đau họng do cảm gió nóng gây nên.
Mật Mông Hoa: Vị cam, tính hơi hàn, quy kinh lạc gan và mật. Mật Mông Hoa gồm ba công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là thanh nhiệt tiết hỏa. Hai là trị hột mắt. Hai trường hợp này đều thích hợp chữa trị các chứng mắt đỏ, mắt sưng, mắt đau, mắt kém, hay chảy nước mắt, mắt hột. Ba là dưỡng gan sáng mắt, thích hợp dùng cho chữa trị các chứng mắt mờ, hoa mắt khi nhìn vào người và vật.
Cách dùng và liều lượng: Dùng Mật Mông Hoa sắc nước uống, mỗi lần từ 9-15 gam.
Thanh Tương Tử: Vị đắng, tính hơi hàn, quy kinh lạc gan và tỳ, gồm hai công hiệu chữa trị chủ yếu: Một là thanh nhiệt tiết hỏa, thích hợp dùng cho chữa trị chứng chóng mặt do gan hỏa gây nên. Hai là sáng mắt, trị mắt hột, thích hợp dùng cho chữa trị các chứng mắt đỏ, mắt hột, hoa mắt khi nhìn vào người và vật.
Cách dùng và liều lượng: Dùng Thanh Tương Tử sắc nước uống, mỗi lần dùng từ 10-15 gam.
Điều cần phải lưu ý là: Thanh Tương Tử có công hiệu tản đồng tử, những người mắc bệnh tăng nhãn áp cấm dùng.
Thanh Tương Tử và Mật Mông Hoa đều có công hiệu thanh gan tiết hỏa, sáng mắt, trị mắt hột. Thích hợp dùng cho chữa trị các chứng mắt đỏ, mắt sưng, mắt kém, hay chảy nước mắt, mắt hột, viêm niêm mạc mắt do gan bốc hỏa gây nên, là hai vị thuốc thường dùng trong nhãn khoa. Điều khác nhau là, công hiệu thanh tiết gan hỏa của Thanh Tương Tử khá mạnh, có thể dùng cho chữa trị các chứng đau đầu, chóng mặt, buồn bực, mất ngủ do gan dương biến hỏa gây nên. Mật Mông Hoa vừa có thể mát gan, lại có thể bổ dưỡng máu gan, bên cạnh đó còn có thể chữa trị các chứng mắt mờ, mắt khô đau rát, hoa mắt khi nhìn người và vật do gan hư kèm theo chứng nhiệt gây nên. Mật Mông Hoa có thể sử dụng cho cả chứng thực, chứng hư trong nhãn khoa.
- Theo sách thuốc cổ, người bị bệnh mắt do huyết hư không được dùng độc vị (cần phối hợp với các vị thuốc khác). Ngoài ra cốc tinh thảo còn kỵ đồ sắt.
Một số bài thuốc có dùng cốc tinh thảo:
(1) Chữa đau mắt đỏ (viêm kết mạc):Dùng cốc tinh thảo 10-12g, sắc nước uống thay nước trong ngày; có thể thêm tang diệp, cúc hoa - mỗi thứ 3-4g, tác dụng càng nhanh.
(2) Viêm kết mạc, viêm giác mạc:Cốc tinh thảo, phòng phong - 2 vị bằng nhau, tán nhỏ; ngày uống 3 lần mỗi lần uống 1-2g. Cũng có thể dùng cốc tinh thảo 10g, phòng phong 10g, sắc với nước, chia 3 phần uống trong ngày. Trường hợp bệnh nặng, màng mộng che lấp con ngươi, đầu đau dữ dội, có thể dùng "Cốc tinh thảo thang" (bài thuốc kinh điển của Đông y), gồm các vị thuốc: Cốc tinh thảo 9g, kinh giới tuệ (hoa kinh giới) 6g, huyền sâm 6g, ngưu bàng tử 6g, sắc nước uống trong ngày.
(3) Chữa quáng gà (nhìn không rõ lúc chập choạng tối):Cốc tinh thảo 16g, dạ minh sa 9g, thương truật 15g, cho thêm 200g gan lợn vào đun cho chín kỹ; chia thành 2 phần ăn vào lúc đói bụng (ăn gan và uốc nước thuốc).
(4) Chữa mắt có màng mộng, chiều tối nhìn không rõ:Cốc tinh thảo 30-40g, gan vịt 1-2 cái (nếu không có có thể thay bằng đậu phụ trắng); đổ ngập nước vào đun kỹ trong khoảng 1 giờ; ngày dùng 1 lần, ăn vào sau bữa cơm.
(5) Chữa nhức mắt:Cốc tinh thảo, hạt mã đề, mật mông hoa, hạt muồng - mỗi vị 20g; sắc nước, rồi lấy thạch quyết minh (vỏ ốc 9 lỗ) mài vào uống.
(6) Chữa nhức đầu, nhức lông mày:Cốc tinh thảo 8g, địa long (giun đất) 12g, nhũ hương 4g; các vị tán nhỏ mỗi lần lấy 4g đốt lấy khói hun vào lỗ mũi bên đau.
(7) Chữa đau nửa đầu:Cốc tinh thảo 10g, tán nhỏ, trộn với hồ, phết lên giấy bản rồi dán vào nơi đau; khi thuốc khô thì thay bằng miếng thuốc khác.
(8) Chữa trẻ nhỏ cam tích, nhìn không rõ, mắt đỏ, sợ ánh sáng:Cốc tinh thảo 30-50g, gan lợn 100g; cho vào chiếc bát lớn, đổ nước vào hấp cách thủy cho chín, thêm mắm muối, dùng làm thức ăn cho trẻ ăn hàng ngày.
(9) Chữa các chứng phong nhiệt gây nhức đầu, đau răng, đau họng:Cốc tinh thảo 20g, huyền sâm 16g, kinh giới 12g, dành dành 12g, mộc thông 12g, thanh ngâm 8g; sắc uống.
(10) Trẻ suy dinh dưỡng, lòng bàn chân bàn tay nóng:Cốc tinh thảo 30-50g, gan lợn 100g; cho vào nồi, đổ ngập nước, đun nhỏ lửa trong khoảng 1 giờ; ngày ăn 1-2 lần.
KHẾ RỪNG
Còn gọi là dây quai xanh, cây cháy nhà
Tên khoa học Rourea microphylla
Planch.
Thuộc họ khế rừng Connaraceae.
Mô tả:cây bui, thân cứng, màu nâu xám. Lá chét lông chim lẻ gồm 5-6 đôi la chét nhỏ, mặt trên bóng, lá non màu hồng đỏ rất đẹp, trông xa như đám cháy do đó có tên là cháy nhà. Hoa màu trắng, 5 cánh, 10 nhị, 5 lá noãn, quả nhỏ, cong, mùa quả các tháng 6-8.
Phân bố:mọc phổ biến trong các khu rừng nước ta, khi chưa có lá cây gần như lá cây khế do đó có tên này. Thường mọc ở những khu vực dãi nắng.
Nhân dân lấy vỏ thân, thân và lá để làm thuốc. Thu hái gần như quanh năm. Dùng tươi hay khô, thường dùng tươi.
Công dụng và liều dùng:khế rừng được dùng theo kinh nghiệm dân gian làm thuốc bổ cho phụ nữ sau khi sinh nở, còn dùng chữa đi nước tiểu vàng, đỏ, đái rắt, mụn nhọt. Ngày dùng 10-20g dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài không kể liều lượng để giã đắp lên những nơi viêm tấy.
CÂY CHÂN BẦU
Cây chân bầu
Còn có tên là cây chưng bầu, song ke.
Tên khoa học Combretum quadrangulare Kurz
Thuộc họ bàng Combretaceae.
Mô tả:cây nhỏ cao từ 2-12m, khi còn non có hình 4 cạnh, 4 mép có dìa như cánh. Lá thường mọc đối, hình trứng dài, đầu lá tròn hay hơi rộng ra cả hai mặt dưới đều có lông. Chiều dài của lá 3-7.5, rộng 1.5-4cm. Hoa nhỏ mọc thành bông ở kẽ lá và đầu cành. Quả dài 18-20mm, rộng 7-8mm có 4 cánh mỏng. Hạt hình thoi rộng 4mm, có dìa.
Phân bố:cây chân bầu được trồng ở miền trung bộ và miền nam, thường người ta trồng để nuôi con kiến cánh đỏ, vì trên cây này, con cánh kiến cho nhiều cánh kiến.
Chưa thấy ở miền bắc.
Công dụng và liều dùng:nhân dân thường dùng quả làm thuốc chữa giun đũa, dùng phối hợp với lá mơ tam thể Paederia tomentosa. Thái nhỏ hai thứ trộn đều thêm bột và nước làm bánh ăn vào sáng sớm lúc đói.
Có khi người ta dùng chất nhớt ở vỏ những cành non để làm thuốc giun như trên.
CÂY CHÈ
Còn gọi là trà
Tên khoa học Camellia sinensis O.Ktze
Thuộc họ Chè Theaceae.
Mô tả:chè là một cây khỏe, mọc hoang và không cắt xén có thể cao tới 10m hay hơn nữa, đường kích thân có thể tới mức một người ôm không xuể. Đôi khi mọc thành rừng trên núi đá cao. Nhưng khi trồng tỉa thường người ta cắn xén để tiện việc hái cho nên thường người ta cắt xén để tiện việc thu hái. Lá mọc so le, không rụng. Hoa to trắng, mọc ở kẽ lá, mùi rất thơm, nhiều nhị. Quả là một nang thường có 3 ngăn, nhưng chỉ còn một hạt do các hạt khác bị teo đi. Quả khai bằng lối cắt ngăn, hạt không phôi nhũ, lá mầm lớn, có chứa dầu.
Phân bố:Ở nước ta được trồng nhiều tại các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên... Chè dùng làm thuốc hái vào mùa xuân, hái búp và lá non, vò rồi sao cho khô giống như cách chế biến chè hương để pha nước uống của nhân dân, cho nên ta có thể dùng chè làm thuốc. Không dùng chè đen hay chè mạn là những loại chè đã cho lên men rồi mới sấy khô hay phơi.
Công dụng và liều dùng:chè được dùng làm nước uống, làm thuốc kích thích d cafein và chữa lỵ theo như đơn sau đây chè hương 100g, cam thảo 10g, nước vừa đủ 100ml.
Cách chế: Lấy chè và cam thảo đổ vào cho ngập, đun sôi trong nửa giờ, lọc lấy nước, bã còn lại thêm nước xâm xấp và đun sôi trong nửa giờ, lọc lấy nước, hòa hai nước lại, cô đặc cho đến khi còn 100ml, thêm natri benzoat 0.3g hoặc cho thêm 0.03g nipagin vào để bảo quản, ngày dùng 4 lần mỗi lần 5-10ml
CÂY CHẸO
Còn gọi là chẹo tía, hoàng khởi, peo, sui den, nhân khởi, nhân khởi, cây cơi.
Tên khoa học Engelhardtia chrysolepis Hance
Thuộc họ Hồ đào Juglandaceae.
Mô tả:chẹo là một cây nhỡ cao chừng 8m cành và cuống lá thường mềm yếu. Lá kép lông chim nhẵn thường gồm 2-5 đôi lá chét dài 5-15mm. Hoa đực mọc thành hình đuôi sóc, mọc từ cành của năm trước, hoa không cuống hay gần như không cuống, cụm hoa đực, hoa có cuống, quả mọc thành bông dài chừng 25cm, hạt được bao bọc bởi lá bắc có 3 thùy.
Phân bố:mọc hoang khắp các vùng rừng núi nước ta cả trung bộ và bắc bộ.
Công dụng và liều dùng:nhân dân một vài vùng dùng vỏ và lá cây này giã nát cho vào nước suối đã ngăn để duốc cá.
BẠCH HOA XÀ
Tên khác: Bạch hoa xà
Vị thuốc bạch hoa xà còn gọi Kỳ Xà (Bản Thảo Cương Mục), Kiềm Xà, Khiển Tỷ Xà (Hòa Hán Dược Khảo), Ngũ Bộ Xà, Bách Bộ Xà, Kỳ Bán Xà (Dược Vật Học Đại Tự Điển), Ngân Hoàn Xà, Nhãn Kính Xà (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Rắn hổ phì, Rắn hổ đất, Rắn hổ mang, Rắn mang bạnh (Dược Liệu Việt Nam).
Chủ trị: Bạch hoa xà
+Trị Phế bị phong, mũi nghẹt, bạch điến phong, mụn nhọt, ban chẩn (Dược Tính Bản Thảo).
+Trị trúng phong, thấp tý, tê bại, gân co giật, liệt nửa người, mắt lệch, miện méo, khớp xương đau, chân yếu, không đứng lâu được (Khai Bảo Bản Thảo).
+Trị phong thấp kinh niên, khớp cứng thẳng, tê da thịt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Liều dùng:
Dùng từ 4-16g.
Kiêng kỵ:
+ Huyết hư mặc dù có phong, những người không có phong tà thực sự cấm dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển)..
+Âm hư, có dấu hiệu nhiệt: không dùng. Huyết hư : dùng thận trọng (Trung Dược Học).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+Trị phong bại, phong cùi, lở ngứa toàn thân: dùng thịt Bạch hoa xà 160g, Thiên ma (sao rượu) 30g, Bạc hà, Kinh giới mỗi thứ 10g. Tán bột, rượu ngon hai thăng, Mật ong 4 lít cho vào nồi sành nấu thành cao. Mỗi lần uống 1 chén với rượu, ngày 3 lần, cần kết hợp đứng vào chỗ nóng hoặc làm thế nào để ra mồ hôi (Khu Phong Cao - Y Lũy Nguyên Nhung phương).
+Trị các loại phong mới bị hoặc kinh niên, tay chân yếu mềm, miệng méo, mắt xếch, nói ngọng hoặc gân co quắp, ngoài da khô ngứa, mất cảm giác, các khớp xương đau nhức hoặc sinh ra lở loét: dùng Bạch hoa xà 1 con, rửa sạch bằng nước nóng, chặt bỏ đầu đuôi chừng 3 tấc ta, ngâm rượu, bỏ xương đi, chỉ lấy 40g thịt nguyên thôi, thêm vào các thứ Toàn yết, Đương quy (sao), Phòng phong, Khương hoạt, mỗi thứ 4g, Độc hoạt, Bạch chỉ, Thiên Ma, Xích Thược, Cam thảo, Thăng ma, mỗi thứ 20g. Giã nát, lấy vải bọc, lại dùng hai đấu rượu nếp nấu chín cất ra rượu, rồi đem túi thuốc ấy bỏ vào trong miệng cóng, đợi cho xong rồi lấy rượu và túi vải niêm lại nấu chín, để nơi khô mát 7 ngày cho ra hết độc, uống nóng liên tục (Thế Truyền Bạch Hoa Xà Tửu - Tây Hồ Tập Giản phương).
+Trị các loại phong cùi, ngứa: dùng Bạch hoa xà 1 con, tẩm rượu, bỏ xương da, lấy thịt mà thôi, gói lại trong túi vải, xong nấu một đấu xôi nếp, bỏ men vào đáy cóng, bỏ rắn ở trên men ấy rồi lấy xôi đè lên rắn, xong phong kín chặt lại 3-7 ngày sau lấy rượu, rồi lấy rắn phơi nắng. Tán bột, mỗi lần uống 3-5 phân với nước nóng, nên lấy rượu trộn với hèm (bả rượu) làm bánh ăn rất tốt (Thụy Trúc Bạch Hoa Xà Tửu có Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm phương).
+Trị trúng phong, thương thấp, bán thân bất toại, miệng méo, mắt xếch, da thịt tê, đau nhức xương, lở loét, ngứa ngáy, phong cùi kinh niên: dùng Bạch hoa xà 1 con, dùng con nào đầu như rồng, miệng như cọp (Hổ mang chúa), mình đen điểm hoa trắng, mắt sáng long lanh không hỏm xuống là thứ thật. Dùng rượu rửa sạch bỏ da xương đi, chỉ lấy 160g thịt mà thôi, Khương hoạt 80g, Đương quy thân 80g, Thiên ma 80g, Ngũ gia bì 80g, Phòng phong 40g. Tất cả giã nát, gói vải bọc lại, bỏ vào hũ rượu bằng kim loại vàng, hoặc bạc, rồi thêm gạo nếp và rượu sống chưa lọc chừng 5 chai, ngâm hết cả rồi lấy lá Cọ (thứ lá to để lợp nón), gói kín, chưng cách thủy, 1 ngày sau đó chôn dưới đất 7 ngày rồi lấy rượu đó, mỗi lần uống 1-2 chén, còn bã đem phơi, tán bột, hồ rượu làm viên bằng hạt Ngô đồng, mỗi lần dùng 50 viên với rượu đã nấu trước đó. Cần cữ gió, giao hợp, cá tanh, thịt ngỗng, đồ sinh phong (Tần Hồ Bạch Hoa Xà Tửu - Bản Thảo Cương Mục).
+Trị vinh vệ không điều hòa, dương bất túc, âm hữu dư, tay chân cử động khó khăn: dùng Bạch hoa xà nấu với rượu, bỏ da xương rồi sấy khô, chỉ lấy thịt 40g, Thiên ma, Cẩu tích mỗi thứ 80g, Tán bột xong, lấy bình bằng bạc hoặc sứ sành đựng 1 thăng rượu ngâm lại theo phép trùng thang cách thủy để nấu đặc thành cao, dùng thìa bạc để khuấy rồi đổ nửa chén nước gừng nấu cho đều. Cất vào bình để dùng, mỗi lần uống nửa thìa với nước sôi hoặc rượu ngon (Kê Phong Bạch Hoa Xà Cao - Bị Cấp phương).
+Trị nhức đầu do phong ỡ não, khi đau khi không, nhức nửa đầu: dùng Bạch hoa xà tẩm rượu, bỏ da, xương. Thiên nam tinh nấu với tương cho mềm rồi xắt lát, sao dòn, mỗi thứ 40g, Thạch cao, Kinh giới mỗi thứ 80g, Địa cốt bì 10g. Tán bột, mỗi lần uống 4g với nước trà, ngày 3 lần (Bạch Hoa Xà Tán - Thánh Tế Tổng Lục phương).
+Trị phong cùi: dùng Bạch hoa xà, Ô sảo xà, mỗi thứ chọn lấy 8g thịt, sao rượu, Hùng hoàng 8g, Đại hoàng 20g. Tán bột, mỗi lần uống 8g với nước, 3 ngày 1 lần (Khiết Cổ Bạch Hoa Xà Tán - Khiết Cổ Gia Trân phương).
+Trị dương mai sang: Bạch hoa xà nhục 4g, Ngân châu 8g, Duyên phấn 8g, Thủy ngân 8g. Tán bột, lấy giấy vấn thành 9 điếu, mỗi lần dùng 1 điếu, để trong bình, lấy Hương du đổ vào cho đầy rồi đổ trên hỏa lò mà đốt, rồi lấy khăn chùm kín mít không cho hở gió, xông 3 ngày liên tục (Quảng Tâm Pháp Phụ Dư).
+Trị đậu sang bị hắc hảm không lên được: dùng Bạch hoa xà, để cả xương nướng đừng cháy quá, 12g, Đại đinh hương 7 hoa, tán bột. Mỗi lần uống 2g, dùng nước hòa với rượu lại uống, 1 lát sau thì trên người nóng rần nóng, lúc đó thì mụn đậu sẽ đỏ mọng, quang nhuận được ngay (Thác Đậu Hoa Xà Tán - Vương Thị Thủ Tập phương).
+Xác rắn (Xà thoái, Xà thoát) dùng dưới dạng sắc chữa các chứng động kinh nguy hiểm ở trẻ con và chữa đau cổ họng. Đốt cháy xác rắn, thổi vào mũi, lỗ tai chữa thối tai chảy nước, chảy mủ, bôi xoa chữa lở ghẻ. Xác rắn Ráo đốt cháy, tán thành bột uống làm thuốc thúc đẻ (thôi sinh) rất tốt (Lĩnh Nam Bản Thảo).
+Trị 9 chứng lậu, loa lịch, mụn ở cổ nách, làm đau nhức, ngứa , phát sốt, sợ lạnh: dùng Bạch hoa xà, tẩm rượu, chọn lấy 80g thịt, sấy khô, dùng Tê giác sống 50g, lấy bào nạo rồi tán bột, Hắc khiên ngưu 20g (dùng nửa sống, nửa sao), Thanh bì 20g. Tán bột, uống mỗi lần 8g, bỏ vào Nhị phấn 5 phân lúc gà gáy canh 5 thì uống với nước gạo nếp. Hễ đi cầu xổ ra là tốt, 10 ngày uống 1 lần. Cữ thức ăn động phong. (Tam Nhân Bạch Hoa Xà Tán - Tam Nhân Cực Nhất Bệnh Chứng Phương Luận).
+Trị phong cùi, vảy nến : dùng Bạch hoa xà 5 tấc ta, tẩm rượu, bỏ da, xương, sao khô, Hùng hoàng 40g (Thủy phi nghiền đều), lấy Bạch sa mật 640g, Hạnh nhân 640g, bỏ vỏ, nghiền nát, luyện như cao. Mỗi lần uống 4g với rượu nóng, ngày 3 lần. Trước hết, phải uống ‘Thông Thiên Tái Tạo Tán’ để giết vi trùng rồi mới uống cao này trừ căn, ngày 3 lần ( Trị Lại Bạch Hoa Xà Cao - Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Trị lưng đau, thấp khớp: lấy túi mật rắn, buộc chặt cổ lại, tẩm rượu, phơi trong mát 1 ngày đêm rồi lại tẩm rượu, làm như thế 3 lần, xong treo lên phơi trong mát cho tới khi khô. Khi dùng ngâm rượu tốt để dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Trị kinh giật, nhọt độc: ngày uống 2-3 chỉ thịt rắn sắc bột hay rượu thuốc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị chốc đầu: Thịt rắn, lọc xương, vằm viên, bọc lá Lốt nấu chín hay rán vàng cho trẻ nhỏ ăn (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Trị ho hen, đờm suyễn, nóng sốt kinh giật, lưng đau, đầu nhức kinh niên: Mật rắn chế với Trần bì, và phối hợp với nhiều vị khác (như Ngưu hoàng, Xạ hương, Chu sa, Hùng hoàng, Hổ phách...) trong bài thuốc “Tam Xà Đởm Trần Bì” (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Trị phong cùi, toàn thân có cảm giác tê, lở ngứa : dùng Bạch hoa xà với Khổ sâm, Thủ Ô, Oai linh tiên, Hồ ma, Thiên môn, Bách bộ, Hy thiêm thảo, Tất diệp, Thích tật lê, tán bột làm viên uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Trị phong cùi, chân tay tê, lông mày, tóc ngứa, rụng, da thịt lở loét hoặc các bệnh lở loét do phong khác: dùng Bạch hoa xà, Ô sảo xà, Thổ phúc xà, mỗi thứ 1 con, tẩm rượu ,lấy thịt phơi nắng. Khổ sâm (đầu mút) 160g, tán bột; lấy Tạo giác 640g, xắt ra, tẩm rượu rồi bỏ rượu đó đi, chỉ lấy 1 chén, vò lấy nước cốt bỏ vào nồi sành hoặc đá nấu thành cao, làm viên bằng hạt ngô đồng lớn, uống 70 viên với nước “Thông Thánh Tán” xong ăn cháo nóng, ngày 3 lần, tắm 3 ngày 1 lần sao cho ra mồ hôi và tránh gió (Tam Xà Dủ Phong Đơn - Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Trị dương mai sang:Bạch hoa xà nhục sao rượu, Quy bản sao sữa, Xuyên sơn giáp (sao), Phong mật (sao), Khinh phấn, Chu sa mỗi thứ 4g, tán bột, Hồng táo nhục giã nát. Tất cả viên bằng hạt ngô đồng. Trước hết, dùng thuốc phát tán xong mới uống hoàn này. Mỗi lần uống 7 viên với nước trà nguội, ngày 3 lần. Cữ thịt, cá, sau đó uống Thổ phục linh thường xuyên để trừ căn ‘ Tục Truyền Bạch Hoa Xà Hoàn - Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Trị phong thấp, tê bại, các khớp xương đau nhức : Bạch hoa xà nhục 6g, Khương hoạt 8g, Đương qui thân 12g, Thiên ma 12g, Tần giao 12g, Ngũ gia bì 12g, Phòng phong 12g. Ngâm rượu hoặc sắc uống (Bạch Hoa Xà Tửu - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị di chứng liệt ở trẻ nhỏ: Kỳ xà (bỏ đầu đuôi, nội tạng), sấy khô, tán bột. Mỗi lần uống 4g, ngày 2 lần với rượu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị phá thương phong, cổ cứng: Bạch hoa xà 40g (ngâm rượu bỏ da xương), Ô sảo xà 40g (ngâm rượu bỏ da xương), Ngô công 40g (sao rượu). Tán bột, mỗi lần uống 8g, ngày 2-3 lần, uống với rượu nóng (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược
+Trị phong cùi khó lành, lở ngứa toàn thân: Bạch hoa xà 8g, Thiên ma 12g, Bạc hà 8g, Kinh giới 12g. Tán bột trộn mật ong, rượu làm viên ngày uống 2 lần ( Khu Phong Cao - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược)
+Trị chàm, lở ngứa chảy nước vàng: Kỳ xà, Thuyền thoái mỗi thứ 56g, tán bột, lần uống 4g, dùng Hy thiêm thảo 20g, Thương nhĩ tử 20g, Bạch anh 40g. Sắc uống với bột thuốc trên, mỗi lần 4g, ngày 2 lần, liên tục 2 tuần ( Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Hiểu sâu hơn về BẠCH HOA XÀ
Tham khảo: Bạch hoa xà
“Bạch hoa xà là thuốc chủ yếu trị co giật, phong tý, nhọt độc, lở ngứa” (Bản Thảo Cương Mục).
“Bạch hoa xà là 1 vị thuốc chữa phong có sức mạnh vào đến xương, ra đến ngoài da, những bệnh đau xương gân, da thịt lở thuộc về phong thấp cần dùng nó. Nếu vì nóng quá mà sinh ra phong hay người âm huyết kém thì không nên dùng” (Bách hợp).
“Tên gọi: Các loại rắn thường có mũi hướng xuống, nhưng chỉ loại này có mũi hểnh lên trên nên có tên Khiển tỷ xà (rắn lật mũi), lưng có hoa vân màu trắng nên có tên là Bạch hoa xà, mặt dù chết khô mà mắt vẫn mở không nhắm chiếu lóng lánh cho nên còn gọi là Kỳ Xà thiện” (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
“Bạch hoa xà còn cho đôi mắt gọi là Bạch hoa xà nhãn tình, trị được trẻ con khóc dạ đề, khi dùng lấy mắt tán bột , trộn nước Trúc lịch cho uống 1 tý. Cho rượu ngâm rắn gọi là Bạch hoa xà tửu, dùng thịt của con rắn hổ mang lấy thịt gói lại, xong lấy miến để trên đáy hũ, kế đến đặt thịt rắn ở trên miếng đó rồi lại bỏ lên trên lớp thịt đó một miếng lớp miến nữa, lấy cơm gạo nếp để trên thịt rắn cho kín 3-7 ngày, lấy rượu uống, lại lấy thịt rượu phơi khô nắng tán bột uống. Rượu này trị được các chứng phong bại liệt ngoan cố, co quắp, lở láy, phong cùi dữ tợn, Rắn còn cho đầu gọi là Bạch hoa xà đầu, có độc dùng để trị chứng phong cùi, phong bạch điến” (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
“Thịt rắn để nguyên con thành 1 bộ ba hay năm con. Một bộ ba gọi là Tam xà. Nếu 1 bộ 5 con gọi là ngũ xà (gồm 3 con rắn hổ mang và Rắn Cạp nong (Hai hổ mang và một cạp nong hoặc ngược lại) và 2 con rắn ráo). Nếu không đủ bộ thì dùng 1-2 con rắn độc khác hay cùng loại cũng được. Ngâm rượu uống trừ phong thấp, có hai cách ngâm tươi lâu dùng và ngâm khô [dùng mau nhưng tác dụng kém hơn] (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Phân biệt:
1) Con rắn Đeo kính (Kính nhãn xà: Naja haje L. Egyptian cobra) thuộc họ Elapidae (Rắn hổ) đều được dùng với tên là Bạch hoa xà.
2) Bạch hoa xà còn chỉ con Agkistrodon acutus Gunther, Trung Quốc có tên khác là Bách bộ xà, Ngũ bộ xà, Kỳ bàn xà hay nước ta còn gọi là rắn Hổ mang chúa, con này đầu mỏ dài và vễnh lên rất dễ sợ, loại này dài có thể đến 1m80, sở dĩ có tên Bạch hoa xà vì dưới bụng trắng có vằn đen, trên lưng đen có vằn trắng như hoa nên gọi là Bạch hoa xà, vì là loài rắn cựa độc, tương truyền sau khi bị rắn cắn đi chỉ được 5 bước hoặc 10 bước là chết nên mới gọi là Ngũ bộ xà hoặc Bách bộ xà. Loại này có ở Hoàng liên sơn phía bắc nước ta.
3) Ngoài ra dân gian còn dùng con rắn Cạp nong (Bungarus fasciatus Schneider) là 1 loại rắn độc dài trên 1m, thân có khoanh đen và khoanh vàng xen kẽ, khoanh đen bằng khoanh vàng hay rộng hơn một ít, nên còn gọi là Rắn đen vàng, Rắn hổ lửa, Rắn ăn tàn, Miền nam còn gọi là rắn Mang gầm. Rắn cạp nong thường sống ở miền núi (cũng gặp ở Sapa -1500m) hoặc ở bờ sông, bờ đê, bờ ruộng, gò đống, vườn tược, bụi tre, bờ ao, đôi khi sống trong hang ếch. Rắn cạp nong kiếm ăn ban đêm, thức ăn chính là thằn lằn và các loại rắn khác, kể cá trứng rắn, và các loại ếch nhái, thạch sùng, chuột và cá. Rắn cạp nong chậm chạp ít cắn người, ngay cả khi bị kích thích châm trọc. Ban ngày thường nằm cuộn tròn, đầu giấu vào 1 khúc. Nhưng nọc rắn cạp nong rất độc. Đây là một trong những loại rắn độc phổ biến ở Đồng bằng và trung du nước ta. Kế đến là rắn cạp nia (Bungarus candidus Linnaeus), là một loài rắn độc dài trên 1m, thân có khoanh đen hay nâu xen kẽ với những khoanh trắng, khoanh đen không nối liền về phía bụng (bụng trắng), khoanh trắng hẹp, nên còn gọi là rắn mai gầm bạc (miền nam), rất đen trắng.
Rắn cạp nia bơi giỏi, thường sống trong hang trong bụi rậm quanh bờ đầm, bờ ao, bờ sông, bờ ruộng. Cũng sống trong hang ở các gò đống, đôi khi sống trong hang ếch. Rắn cạp nia kiếm ăn ban đêm, thức ăn chủ yếu là các loại rắn khác. Loại này chậm chạp chỉ cắn người trong trường hợp bị tấn công. Nọc rắn cạp nia độc gấp 4 lần nọc rắn Hổ mang. Đây cũng là loài rắn độc trong những loài rắn độc phổ biến nhất ở Đồng bằng và Trung du nước ta. Cả hai con trên đều thuộc loại rắn hổ (Elapide). Tiếp theo là rắn ráo (Ptyas korros Schlegel) thuộc họ rắn nước (Colubridae) là một loại rắn lành sống trên cạn, trong các bụi cây bãi cỏ rậm, đôi khi ở trong vườn, trong cột và mái nhà. Rắn ráo kiếm ăn ban ngày (khác với các con trên), thức ăn chủ yếu là ếch nhái, chuột. Đặc biệt loại rắn này không ăn cá (khác với rắn nước). Rắn ráo thường đẻ trứng ở các đống mối là nơi có đủ nhiệt độ và độ ẩm ổn định cho trứng rắn nở và khi rắn ráo con nở đã có sẵn mối thợ và ấu trùng mối làm mồi ăn.
Cây Bạch hoa xà còn gọi là đuôi công hoa trắng, cây lá đinh, bạch tuyết hoa, cây chiến…có tên khoa học làPlumbago zeylanicaL, Họ đuôi công (Plumbaginaceae).
Bạch hoa xà – Ten khoa học là Plumbago zeylanica L – Chứa plumbagin là chất kháng sinh, trị tê thấp, ung, nhọt.
Bạch hoa xà là một loài cỏ sống dai cao 0,3-0,6m, có gốc dạng thân rễ, với thân sù sì, bóng láng. Lá mọc so le, hình trái xoan, hơi có tai và ôm thân, nguyên, nhẵn, nhưng trăng trắng ở mặt dưới. Hoa màu trắng, thành bông ở ngọn và ở nách lá, phủ lông dính, tràng hoa dài gấp đôi đài. Cây ra hoa quả gần như quanh năm, chủ yếu vào tháng 5-6.
Cây mọc tự nhiên ở Ấn Độ và Malaixia, nhưng thuần hoá và thường trồng trong tất cả các xứ nhiệt đới, nhất là ở Java (Inđônêxia). Ở nước ta, cây cũng được trồng nhiều trong các vườn gia đình; trồng bằng cành ở nơi ẩm mát.
1. Công dụng của Bạch hoa xà
Bạch hoa xà là cây vị thuốc mới chỉ được dùng trong phạm vi dân gian làm thuốc chữa những bệnh ngoài da, vết loét, vết thương. Thường dùng rễ giã nhỏ với cơm cho thành một thứ bột nhão, đắp lên những nơi sưng đau. Có nơi sắc rễ lấy nước bôi ghẻ ( Gs. TS Đỗ Tất Lợi)
* Ở Trung Quốc, thường dùng trị
– Phong thấp đau nhức xương, da thịt thâm tím;
– Đau dạ dày, gan lách sưng phù;
– Bệnh ngoài da (hecpet mọc vòng), nhọt mủ, bong gân. Kinh nghiệm dân gian dùng lá giã đắp chữa đinh nhọt rất đặc hiệu, do đó có tên là cây lá dính.
* Ở Inđônêxia, cũng dùng chữa bệnh ngoài da, thấp khớp, nhức đầu, các bệnh về cơ quan tiết niệu và làm thuốc gây sẩy thai. Để chữa các bệnh ngoài da, người ta lấy lá và rễ giã ra trộn lẫn với bột gạo làm thuốc đắp. Để trị nhức đầu, chỉ cần dùng một lượng nhỏ thuốc đắp vào phía sau tai sẽ làm giảm đau.
* Ở Philippin, nước sắc rễ dùng trị ghẻ.
* Ở Ấn Độ,người ta dùng rễ trị các bệnh ngoài da, ỉa chảy, khó tiêu, bệnh trĩ, phù toàn thân, làm thành bột đắp với giấm, sữa hay muối và nước dùng đắp ngoài trị phong hủi và những bệnh ngoài da khác. Cồn thuốc của rễ cây có khả năng làm ra mồ hôi. Dịch sữa của cây dùng đắp trị ghẻ và mụn loét.
2. Bài thuốc chữa bệnh từ bạch hoa xà
2.1 Trị sưng đau, ghẻ lở
Dùng rễ 10-15g đun sôi kỹ trong 4 giờ, lấy nước uống hoặc lấy rễ ngâm rượu xoa bóp. Rễ, lá giã nhỏ đắp lên nơi sưng đau. Sắc rễ lấy nước bôi ghẻ.
2.2 Tăng huyết áp
Bạch hoa xà (toàn cây) 16 g, lá dâu 20 g, hoa đại 12 g, quyết minh tử (hạt muồng) 16 g, cỏ xước 12 g, ích mẫu 12 g. Sắc uống ngày một thang.
2.3 Mụn, nhọt sưng tấy
Lá bạch hoa xà đắp cách 2-3 lớp gạc ngay trên mụn nhọt, có tác dụng làm tan nhọt. Chỉ nên đắp 30 phút. Nên cẩn thận vì có thể gây bỏng da nếu không đắp cách gạc. Nếu bị bỏng, cần dùng dung dịch acid boric loãng rửa vết bỏng.
2.4 Táo bón
Lá bạch hoa xà nấu canh với giấm hoặc chanh để ăn (có thể xào). Uống 1 bát canh, sau 1 giờ là đi ngoài được, người không mệt. Nếu muốn thôi đi ngoài, vò lá với nước lạnh, uống 1/2 chén.
2.5 Phong thấp
Rễ bạch hoa xà 12 g, dây đau xương 12 g, thổ phục linh 16 g. Sắc uống ngày một thang.
2.6 Sưng đau do chấn thương
Rễ hoặc lá bạch hoa xà giã với cơm thành bột nhão, đắp lên chỗ sưng đau.
2.7 Bong gân sai khớp
Rễ bạch hoa xà 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang. Có thể dùng rễ bạch hoa xà ngâm rượu làm thuốc xoa bóp.
2.8 Chốc lở
Lá bạch hoa xà giã nát, đắp lên tổn thương sau khi đã rửa sạch, nếu thấy nóng thì phải bỏ ra.
2.9 Đau gan, đau dạ dày
Rễ bạch hoa xà 12 g, nhân trần 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang.
2.10 Ghẻ
Rễ bạch hoa xà sắc lấy nước, dùng nước này để bôi ghẻ.
2.11 Chậm kinh
Bạch hoa xà (toàn cây) 16 g, lá móng tay 40 g, củ nghệ đen 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang. Khi thấy kinh phải ngừng uống ngay.
2.12 Tê thấp
Bột rễ bạch hoa xà trộn với dầu vừng, xoa bóp (kinh nghiệm của Ấn Độ).
3. Cách gây trồng, thu hái và chế biến Bạch hoa xà
Bạch hoa xà có thể trồng bằng một đoạn cành hoặc đoạn thân gần gốc ở nơi ẩm mát. Cây ưa đất ẩm, tơi xốp, nhiều mùn. Có khả năng phát triển trồng ở các vùng chuyên canh.
Bộ phận thường sử dụng là rễ và lá, được th hái quanh năm. Rễ đào về, rửa sạch, cắt đoạn ngắn rồi phơi khô dùng dần. Lá thường được dùng tươi
Chú ý:
Ở nước ta còn có cây mang tên Đuôi công hay Xích hoa xà (Plumbago rosea L.), cùng họ, mọc hoang ở nhiều nơi, nhân dân sử dụng như cây Bạch hoa xà.
Cần phân biệt với cây Bạch hoa xà thiệt thảo – Cỏ lưỡi rắn hoa trắng (Hedyotis diffusa Willd.), họ Cà phê (Rubiaceae)
Không dùng cho phụ nữ có thai. Nếu bị bỏng rộp, dùng acid boric để rửa chỗ da bị tổn thương.
ATI SO
Liều Dùng:
Thuốc sắc 5-10%, cao lỏng 2-10g.
Công Dụng:
Thông mật, lợi tiểu, giảm Urê máu, hạ sốt, nhuận trường .
Chủ Trị:
· Cụm hoa được dùng trong chế độ ăn kiêng của người bệnh đái tháo nhạt vì nó chỉ chứa lượng nhỏ tinh bột, phần Carbon Hydrat gồm phần lớn là Inlin.
· Lá Ác ti sô vị đắng, có tác dụng lợi tiểu và được dùng trong điều trịbệnh phù và Thấp khớp.
· Lá tươi hoặc khô sắc hoặc nấu thành cao chữa bệnh về Gan (gan viêm mạn, da vàng), thận viêm cấp và mạn, sưng khớp xương. Thuốc có tác dụng nhuận trường và lọc máu nhẹ đối với trẻ em.
· Thân và rễ Ác ti sô thái mỏng, phơi khô, công dụng giống lá.
Actisô được dùng trị bệnh ở Châu Âu từ lâu như vị thuốc làm mát gan, nhuận trường, thông tiểu.
TÌM HIỂU THÊM VỀ ATISO
Tên Khoa Học:
Cynara Scolymus L. Thuộc họ Cúc (Compositae).
- Mô Tả:
Loại cây thấp, cao khoảng 1-2 m, thân và lá có lông trắng như bông. Lá mọc so le, phiến khía sâu, có gai. Cụm hoa hình đầu,mầu tím nhạt. Lá bắc ngoài cuả cụm hoa dầy và nhọn. Phần gốc nạc của lá bắc và đế hoa ăn được. Lá to, dài 1-1,2m, rộng 50cm. Mặt dưới có nhiều lông hơn mặt trên. Cây được di thực và trồng nhiều ở Đà lạt, Sa pa, Tam đảo.
Thu hái chế biến
Gieo hạt tháng 10-11, bứng ra trồng tháng 1-2. Lúc cây sắp ra hoa, hái lấy lá, bẻ sống.
Lá Ác ti sô thu hái vào năm thứ nhất của thời kỳ sinh trưởng hoặc vào cuối mùa hoa. Khi cây trổ hoa thì hàm lượng hoạt chất giảm, vì vậy, thường hái lá trước khi cây ra hoa.Có tài liệu nêu là nên thu hái lá còn non vào lúc cây chưa ra hoa. Ở Đà Lạt, nhân dân thu hái lá vào thời kỳ trước tết Âm lịch 1 tháng.
Bào Chế:
Sấy hoặc phơi khô.
Để nơi khô ráo.
Thành Phần Hóa Học:
Trước đây người ta cho rằng hoạt chất là Cynarrin. Nhũngx nghiên cứu gần đây chứng minh rằng có nhiều hoạt chất khác nhau chứ không riêng gì Cynarrin (Ernst E. Naturamed 1995).
Trong Ác ti sô chứa 1 chất đắng có phản ứng Acid gọi là Cynarin (Acid 1 - 4 Dicafein Quinic). Còn có Inulin, Tanin, các muối kim loại K (tỉ lệ rất cao), Ca, Mg, Natri.
Lá Ác ti sô chứa:
1.Acid hữu cơ bao gồm:
· Acid Phenol: Cynarin (acid 1 - 3 Dicafeyl Quinic) và các sản phẩm của sự thủy phân (Acid Cafeic, acid Clorogenic, acid Neoclorogenic).
· Acid Alcol.
· Acid Succinic.
2.Hợp chất Flavonoid (dẫn chất của Luteolin), bao gồm:
Cynarozid ( Luteolin - 7 - D Glucpyranozid), Scolymozid
(Luteolin - 7 - Rutinozid - 3’ - Glucozid).
3. Thành phần khác: Cynaopicrin là chất có vị đắng, thuộc nhóm Guaianolid.
Dược điển Rumani VIII qui định dược liệu phải chứa trên 1% Polyphenol toàn phần và 0,2% hợp chất Flavonoid.
Theo R.Paris, hoạt chất (Polyphenol) tập trung ở lá, có nhiều nhất ở phiến lá (7,2%) rồi đến ho (3,48%), đến cụm hoa, rễ, cuống lá.
Lá chứa nhiều hoạt chất nhất: 1,23% Polyphenol, Clorogenic acid 4%, hợp chất Flavonoid (đặc biệt là Rutin), sau đó đến thân (0,75%), rễ (0,54%). Dẫn chất Caffeic như Clonogenic acid, Neoclorogenic acid, Cyptoclorogenic acid, Cynarin. Sesquiterpen lacton: Cynarpicrin, Dehydrocynaropicrin, Grossheimin, Cynatriol.
Hoạt chất trong phiến lá cao gấp 10 lần trong cuống lá.
Lá non chứa nhiều hoạt chất (0,84%) hơn lá mọc thành hình hoa thị ở mặt đất (0,38). Nếu sấy ở nhiệt độ cao thì lá mau khô nhưng lại mau mất hoạt chất. Ở nhiệt độ thấp, việc làm khô sẽ lâu hơn. Lá cần được ổn định trước rồi mới chuyển thành dạng bào chế. Ngọn có hoa chứa Inulin, Protein (3,6%), dầu béo (0,1%), Carbon Hydrat (16%), chất vô cơ (1,8%0, Ca (0,12%), P (0,10%), Fe (2,3mg/100g), Caroten (60 Unit/100g tính ra Vitamin A).
Thân và lá còn chứa muối hữu cơ của các kim loại K, Ca, Mg, Na. Hàm lượng Kali rất cao.
Rễ: hầu như không có dẫn chất của Cafeic acid, bao gồm cả Clorogenic acid và Sesquiterpen lacton. Rễ chỉ đều thông tiểu chứ không có tác dụng tăng tiết mật (Herbal Medicine 1999).
Tác Dụng Dược Lý:
+ Dùng dung dịch Actisô tiêm tĩnh mạch, sau 2-3 giờ, lượng mật bài tiết tăng gấp 4 lần ( M.Charbol, Charonnat Maxim và Watz, 1929).
+ Uống và tiêm Actisô đều có tác dụng tăng lượng nước tiểu, lượng Urê trong nước tiểu cũng tăng lên, hằng số Ambard hạ xuống, lượng Cholesterin và Urê trong máu cũng hạ xuống. Tuy nhiên, lúc mới uống có khi thấy lượng Urê trong máu tăng lên do Artichaud làm tăng sự phát sinh Urê trong máu. (Tixier, De Sèze M.Erk và Picard. 1934 - 1935).
+ Tăng tiết
+ Ác ti sô không gây độc.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
* Viên Bao Cynaraphytol: mỗi viên chứa 0,2g hoạt chất toàn phần lá tươi Ác ti sô (tương đương 20mg Cynarin).
Người lớn dùng 2-4 viên trước bữa ăn. Trẻ nhỏ: 1/4 - 1/2 liều người lớn. Ngày uống 2 lần.
* Trà Ác ti sô túi lọc (Artichoke Beverage): Thân Ác ti sô 40%, Rễ 40%, Hoa 20% + hương liệu thiên nhiên vừa đủ. Mỗi túi chứa 2g trà. Số lượng trà uống trong ngày không hạn chế.
CÂY BA GẠC
Cây ba gạc Ấn Độ
Còn có tênẤn Độ là sà mộc, Ấn Độ la phù mộc. Tên khoa họcRauwoflia serpentinaBenth.
Thuộc họ Trúc đàoApocynaceae.
Người ta dùng rễ phơi hay sấy khô(Raidix Rauwoflia serpentina) của cây ba gạc Ấn Độ.
A. Mô tả cây
Cây nhỏ, cao 40-50cm đến 1m, ít có cành. Lá mọc vòng 3-4 lá, có khi mọc đối. Hoa màu hồng, hay đốm hồng, mọc thàng chùm. Quả nhỏ, hình trứng, khi chín có màu tím đen
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang và được trồng ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào. Từ năm 1958 chúng tôi (Đỗ Tất Lợi) đã di thực tế ở Miền Bắc Việt Nam bằng hạt giống của Ấn Độ đã trồng qua nhà kính ở Liên Xô cũ. Cây đã mọc, ra hoa, kết quả rất tốt.
Đào rễ từ năm thứ 2 trở lên
C. Thành phần hoá học
Trong rễ có chừng 28 ancaloit khác nhau với tỷ lệ 0.5%-2% ancaliot toàn phần, trong đó có thể chia làm 2 loại.
1. Ancaliot có kiềm tính mạnh, dẫn xuất của N quaternarie có đại diện là secpentin 2. Ancaloit có màu vàng, kiềm tính nhẹ như aimalin và resecpin có thể coi như ancaliot quan trọng nhất, đại biểu được tính của vị thuốc. Tỷ lệ resecpin trong rễ chiếm 0,004-0,09%.
D. Tác dụng dược lý
Resecpin ngoài tác dụng hạ huyết áp do dãn mạch, còn tác dụng lên trung khu vận mạch ở hành tuỷ, tác dụng trấn tĩnh (an thần gây ngủ) và làm cho tim đập chậm do kích tích vagus.
E. Công dụng và liều dùng
Rễ ba gạc Ấn Độ (Rauwolfia serpentina) được dùng dưới hình thức bột, cao lỏng và chiết lấy ancaloit dùng riêng.
Rescpin thường được chế thành viên 0,0001 (0,1mg) hoặc 0,00025 (0,25mg). Thường thường cho uống mỗi lần một viên 0,001 (1mg), ngày uống hai lần sau bữa ăn. Liều dùng này thay đổi tuỳ theo tình trạng của bệnh và theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc. Liều tối đa một lần là 0.005 (5mg).
Rauwiloid=ancaloit toàn phần của Rauwpfia serpentina. Ngày uống 1-2-3 lần sau bữa ăn, mỗi lần 2mg.
CÂY BA GẠC ẤN ĐỘ
Còn có tên Ấn Độ là sà mộc, Ấn Độ la phù mộc. Tên khoa họcRauwoflia serpentinaBenth.
Thuộc họ Trúc đàoApocynaceae.
Người ta dùng rễ phơi hay sấy khô(Raidix Rauwoflia serpentina) của cây ba gạc Ấn Độ.
A. Mô tả cây
Cây nhỏ, cao 40-50cm đến 1m, ít có cành. Lá mọc vòng 3-4 lá, có khi mọc đối. Hoa màu hồng, hay đốm hồng, mọc thàng chùm. Quả nhỏ, hình trứng, khi chín có màu tím đen
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang và được trồng ở Ấn Độ, Thái Lan, Lào. Từ năm 1958 chúng tôi (Đỗ Tất Lợi) đã di thực tế ở Miền Bắc Việt Nam bằng hạt giống của Ấn Độ đã trồng qua nhà kính ở Liên Xô cũ. Cây đã mọc, ra hoa, kết quả rất tốt.
Đào rễ từ năm thứ 2 trở lên
C. Thành phần hoá học
Trong rễ có chừng 28 ancaloit khác nhau với tỷ lệ 0.5%-2% ancaliot toàn phần, trong đó có thể chia làm 2 loại.
1. Ancaliot có kiềm tính mạnh, dẫn xuất của N quaternarie có đại diện là secpentin 2. Ancaloit có màu vàng, kiềm tính nhẹ như aimalin và resecpin có thể coi như ancaliot quan trọng nhất, đại biểu được tính của vị thuốc. Tỷ lệ resecpin trong rễ chiếm 0,004-0,09%.
D. Tác dụng dược lý
Resecpin ngoài tác dụng hạ huyết áp do dãn mạch, còn tác dụng lên trung khu vận mạch ở hành tuỷ, tác dụng trấn tĩnh (an thần gây ngủ) và làm cho tim đập chậm do kích tích vagus.
E. Công dụng và liều dùng
Rễ ba gạc Ấn Độ (Rauwolfia serpentina) được dùng dưới hình thức bột, cao lỏng và chiết lấy ancaloit dùng riêng.
Rescpin thường được chế thành viên 0,0001 (0,1mg) hoặc 0,00025 (0,25mg). Thường thường cho uống mỗi lần một viên 0,001 (1mg), ngày uống hai lần sau bữa ăn. Liều dùng này thay đổi tuỳ theo tình trạng của bệnh và theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc. Liều tối đa một lần là 0.005 (5mg).
Rauwiloid=ancaloit toàn phần của Rauwpfia serpentina. Ngày uống 1-2-3 lần sau bữa ăn, mỗi lần 2mg.
BA KÍCH THIÊN
Tên khác:
Vị thuốc Ba kích (Bản Thảo Đồ Kinh), còn gọi là Bất điêu thảo (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Ba cức, Diệp liễu thảo, Đan điền lâm vũ, Lão thử thích căn, Nữ bản (Hòa Hán Dược Khảo), Kê nhãn đằng, Đường đằng, Tam giác đằng, Hắc đằng cổ (Trung Dược Đại Từ Điển), Kê trường phong (Trung Dược Chí), Tam mạn thảo (Đường Bản Thảo), Thỏ tử trường (Trung Dược Tài Thủ Sách), Dây ruột gà (Việt Nam).
Tác dụng:
+Chủ đại phong tà khí, cường cân cốt, an ngũ tạng, bổ trung, tăng chí, ích khí (Bản Kinh).
+Hạ khí, bổ ngũ lao, ích tinh (Biệt Lục).
+Khứ phong, bổ huyết hải (Bản Thảo Cương Mục).
+An ngũ tạng, định tâm khí, trừ các loại phong ( Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+Bổ thận, ích tinh, tán phong thấp (Bản Thảo Bị Yếu).
+Hóa đờm (Bản Thảo Cầu Nguyên).
+Cường âm, hạ khí (Dược Tính Luận).
+Ôn thận, tráng dương, cường tráng cân cốt, khứ phong thấp (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Bổ thận âm, tráng cân cốt, khứ phong thấp (Trung Dược Đại Từ Điển).
+Bổ thận dương, cường cân cốt, khứ phong thấp (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển).
+Bổ thận, tráng dương, cường cân cốt, khứ phong thấp (Thường Dụng Trung Thảo Dược Thủ Sách - Quảng Châu).
Chủ trị:
+Trị liệt dương [âm nuy bất khởi] (Bản Kinh).
+Trị đầu diện du phong, bụng dưới đau xuống âm hộ (Biệt Lục).
+Trị các chứng phong, thủy thũng (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+Trị ngũ lao, thất thương, phong khí, cước khí, thủy thũng (Bản Thảo Bị Yếu).
+Trị nam giới bị mộng tinh, Di tinh, đầu mặt bị trúng phong (Dược Tính Luận).
+Trị cước khí (Bản Thảo Cương Mục).
+Trị ho suyễn, chóng mặt, tiêu chảy, ăn ít (Bản Thảo Cầu Nguyên).
+Trị liệt dương, bụng dưới lạnh đau, tiểu không tự chủ, tử cung lạnh, phong hàn thấp,lưng gối đau (Trung Dược Đại Từ Điển).
+Trị liệt dương, Di tinh, không thụ thai do tử cung lạnh, kinh nguyệt không đều, bụng dưới lạnh đau, phong thấp đau nhức, gân xương mềm yếu (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển).
+Trị thận hư, lưng gối mỏi, tê bại, phong thấp đau nhức, thần kinh suy nhược, liệt dương, Di tinh, tảo tinh, tiết tinh, lãnh cảm, mất ngủ (Thường Dụng Trung Thảo Dược Thủ Sách - Quảng Châu).
-Liều dùng: 6-12g dạng thuốc thang. Có thể ngâm rượu hoặc nấu thành cao, làm thành hoàn, tán...
Kiêng Kỵ:
+Phúc Bồn Tử làm sứ, ghét Lôi Hoàn, Đan Sâm (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+Những người bệnh tướng hỏa quá thịnh, âm hư hỏa vượng, đại tiện bón, tiểu đỏ, miệng đắng, mắt mờ, mắt đau, bứt rứt, khát nước, cấm dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
+Âm hư, tiết tinh (do hỏa động), tiểu tiện không thông, miệng lưỡi khô, táo bón, kiêng dùng(Đắc Phối Bản Thảo).
+Âm hư hỏa vượng, cấm dùng (Trung Dược Đại Từ Điển).
+Người âm hư và bệnh tim không dùng (Trung Dược Học).
+ Âm hư hỏa vượng, táo bón: không dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
-Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị liệt dương, ngũ lao, thất thương, ăn nhiều, hạ khí: Ba kích thiên, Ngưu tất (sống) đều 3 cân ngâm với 5 đấu rượu, uống (Thiên Kim Phương).
+ Trị phụ nữ tử cung bị lạnh, kinh nguyệt không đều, xích bạch đới hạ: Ba kích 120g, Lương khương 20g, Tử kim đằng 640g, Thanh diêm 80g, Nhục quế (bỏ vỏ)160g, Ngô thù du 160g. Tán bột. Dùng rượu hồ làm hoàn. Ngày uống 20 hoàn với rượu pha muối nhạt (Ba Kích Hoàn - Cục Phương).
+ Trị lưng đau do phong hàn, đi đứng khó khăn: Ba kích 60g, Ngưu tất 120g, Khương hoạt 60g, Quế tâm 60g, Ngũ gia bì 60g, Đỗ trọng (bỏ vỏ, sao hơi vàng) 80g, Can khương (bào) 60g. Tán bột, trộn mật làm hoàn, uống với rượu ấm (Ba Kích Hoàn - Thánh Huệ Phương).
+ Trị tiểu nhiều: Ích trí nhân, Ba kích thiên (bỏ lõi), 2 vị chưng với rượu và muối, Tang phiêu tiêu, Thỏ ty tử (chưng với rượu). Lượng bằng nhau. Tán bột. Dùng rượu chưng hồ làm hoàn to bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 12 viên với rượu pha muối hoặc sắc thành thang uống với muối ( Kỳ Hiệu Lương Phương).
+ Trị bạch trọc: Thỏ ty tử (chưng rượu 1 ngày, sấy khô), Ba kích (bỏ lõi, chưng rượu), Phá cố chỉ (sao), Lộc nhung, Sơn dược, Xích thạch chi, Ngũ vị tử đều 40g. Tán bột, Dùng rượu hồ làm hoàn, uống lúc đói với nước pha rượu (Phổ Tế Phương).
+ Trị bụng đau, tiểu không tự chủ: Ba kích (bỏ lõi), Nhục thung dung, Sinh địa đều 60g, Tang phiêu tiêu, Thỏ ty tử, Sơn dược, Tục đoạn đều 40g, Sơn thù du, Phụ tử (chế), Long cốt, Quan quế, Ngũ vị tử đều 20g, Viễn chí 16g, Đỗ trọng (ngâm rượu, sao) 12g, Lộc nhung 4g. Tán bột, làm hoàn 10g. Ngày uống 2-3 hoàn (Ba Kích Hoàn - Chứng Trị Chuẩn Thằng).
+ Trị mạch yếu, mặt trắng nhạt, buồn sầu ca khóc: Ba kích (bỏ lõi), Hồi hương (sao), Nhục thung dung (tẩm rượu), Bạch long cốt, Ích trí nhân, Phúc bồn tử, Bạch truật, Mẫu lệ, Thỏ ty tử, Cốt toái bổ (bỏ lông), Nhân sâm đều 40g. Tán bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-20g (Ba Kích Hoàn - Y Học Phát Minh).
+ Trị Thận bị hư hàn, lưng và gối đau, liệt dương, tiểu nhiều, không muốn ăn uống, xương khớp yếu, đứng ngồi không có sức, bàng quang bị yếu lạnh, vùng rốn và bụng đầy trướng: Ba kích 30g, Bạch linh 22g, Chỉ xác 22g, Hoàng kỳ 22g, Lộc nhung 30g, Mẫu đơn 22g, Mộc hương 22g, Ngưu tất 22g, Nhân sâm22g, Nhục thung dung 30g, Phụ tử 30g, Phúc bồn tử 22g, Quế tâm 22g, Sơn thù 22g, Tân lang 22g, Thạch hộc 30g, Thục địa 30g, Thự dự 22g, Tiên linh tỳ 22g, Trạch tả 22g, Tục đọan 22g Viễn chí 22g, Xà sàng tử 22g. Tán bột, hoà mật làm hoàn. Ngày uống 16 - 20g với rượu nóng, lúc đói (Ba Kích Hoàn - Thái Bình Thánh Huệ Phương).
+ Trị thận bị hư lao, lưng và chân đau, chảy nước mắt sống, hoảng sợ, khát, ăn uống không tiêu, bụng ngực thường đầy trướng, tay chân tê đau, nôn ra nước chua, bụng dưới lạnh đau, tiểu són, táo bón: Ba kích 30g, Bá tử nhân 22g, Bạch linh 22g, Đỗ trọng 22g, Ngũ gia bì 22g, Ngưu tất 22g, Nhục thung dung 30g, Phòng phong 22g, Phúc bồn tử 22g, Thạch hộc 22g, Thạch long nhục 22g, Thạch nam 22g, Thiên hùng 30g, Thiên môn 40g, Thỏ ty tử 30g, Thục địa30g, Thự dự 22g, Trầm hương 30g, Tục đoạn 30g, Tỳ giải22g, Viễn chí 22g, Xà sàng tử 22g. Tán bột, trộn mật làm hoàn, ngày uống 16 -20g với rượu nóng, lúc đói (Ba Kích Hoàn - Thánh Huệ Phương).
+ Trị nguyên khí bị hư thoát, mặt xạm đen, miệng khô, lưởi dính, hay mơ, hoảng sợ, chảy nước mắt sống, tai ù như ve kêu lưng nặng, đau, các khớp xương đau nhức, âm hư, ra mồ hôi trộm tay chân không có sức, tử cung bị lạnh, kinh nguyệt không đều xích bạch đới hạ: Ba kích 90g, Lương khương 180g, Ngô thù 120g, Nhục quế 120g, Thanh diêm 60g, Tử kim đằng 500g. Tán bột, trộn với rượu nếp làm hoàn. Ngày uống 16 - 20g với rượu hoà ít muối hoặc nước muối loãng (Ba Kích Hoàn - Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương).
+ Trị liệt dương: Ba kích 30g, Đỗ trọng 30g, Ích trí nhân 30g, Ngũ vị tử 30g, Ngưu tất 30g, Nhục thung dung 60g, Phục linh 30g, Sơn dược 30g, Sơn thù 30g, Thỏ ty tử 30g, Tục đoạn 30g, Viễn chí 30g, Xà sàng tử 30g. Tán bột. Luyện mật làm hoàn, ngày uống 12 - 16 g với rượu, lúc đói (Ba Kích Hoàn - Ngự Dược Viện).
+ Trị bụng ứ kết lạnh đau, lưng đau, gối mỏi, 2 chân yếu, khớp xương đau, chuột rútû, thận hư, liệt dương : Ba kích 18g, Đương quy 20g, Khương hoạt 27g, Ngưu tất 18g, Sinh khương 27g, Thạch hộc 18g, Tiêu 2g. Giã nát, cho vào bình, thêm 2 lít rượu vào, đậy kín, bắc lên bếp, nấu 1 giờ, sau đó ngâm trong nước lạnh cho nguội. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 15 - 20ml (Ba Kích Thiên - Thánh Tế Tổng Lục).
+ Bổ thận, tráng dương, tăng trưởng cơ nhục, dưỡng sắc đẹp: Ba kích (bỏ lõi ) 60g, Cam cúc hoa 60g, Câu kỷ tử 30g, Phụ tử (chế) 20g, Thục địa 46g, Thục tiêu 30g. Tán bột, cho vào bình, ngâm với 3 lít rượu. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 15 - 20ml, lúc đói (Ba Kích Thục Địa Tửu - Nghiệm Phương)
+ Trị sán khí do Thận hư: Ba kích thiên + Hoàng bá + Quất hạch + Lệ chi hạch + Ngưu tất + Tỳ giải + Mộc qua + Kim linh tử + Hoài sơn + Địa hoàng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị liệt dương: Ba kích thiên + Bá tử nhân + Bổ cốt chỉ + Câu kỷ tử + Lộc nhung + Ngũ vị tử + Nhục thung dung + Sơn thù du (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị mộng tinh: Ba kích thiên + Bá tử nhân + Hoàng bá + Liên tu + Lộc giác + Phúc bồn tử + Thiên môn + Viễn chí (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị liệt dương, Di tinh, tiết tinh do Thận dương hư: Thỏ ty tử, Nhục thung dung (Trung Dược Học).
+ Trị tiểu nhiều, tiểu không tự chủ do Thận dương hư: Bổ cốt chỉ, Phúc bồn tử (Trung Dược Học).
+ Trị gân cơ sưng đau, gân cơ suy yếu, teo cơ, khớp đau mạn tính do Thận hư: Đỗ trọng, Ngưu tất, Tục Đoạn (Trung Dược Học).
+ Trị liệt dương, tảo tinh, tiết tinh, lưng đau, vô sinh(ở nữ) do Thận dương hư: Ba kích thiên 12g, Ngũ vị tử 6g, Nhân sâm 8g, Thục địa 16g, Nhục thung dung, Long cốt, Cốt toái bổ đều 12g. Tán bột, trộn mật làm hoàn 12g. Ngày uống 2-3 lần (Ba Kích Thiên Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị lưng đau, Di tinh, hoạt tinh do Thận hư: Ba kích thiên, Đảng sâm, Phúc bồn tử, Thỏ ty tử, Thần khúc đều 12g, Sơn dược 24g. Tán bột, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 12g, ngày 2-3 lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị người lớn tuổi lưng đau, chân tê, chân yếu, chân mỏi: Ba kích thiên, Xuyên tỳ giải, Nhục thung dung, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, lượng bằng nhau, Lộc thai 1 bộ. Tán nhuyễn, trộn với mật làm hoàn. Mỗi lần uống 8g, ngày 2-3 lần với nước ấm (Kim Cương Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị phong thấp đau nhức, cước khí, phù: Ba kích, Đỗ trọng, Ngưu tất, Tục đoạn đều 12g, Tang ký sinh 10g, Sơn thù nhục 8g, Hoài sơn 16g. Sắc uống (Ba Kích Khu Tý Thang - Trung Dược Ưùng Dụng Lâm Sàng).
+ Trị huyết áp cao thời kỳ tiền mãn kinh: Ba kích thiên, Tiên mao, Hoàng bá, Dâm dương hoắc, Tri mẫu, Đương qui, mỗi thứ 20 - 28g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Hiểu thêm về Ba kích
Tên khoa học:
Morinda officinalis How. Họ Cà Phê (Rubiaceae).
Mô tả:
Cây thảo, sống lâu năm, leo bằng thân quấn. Thân non mầu tím, có lông, phía sau nhẵn. Cành non, có cạnh. Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, thuôn nhọn, cứng, dài 6-14cm, rộng 2,5-6cm, lúc non mầu xanh lục, khi già mầu trắng mốc. Lá kèm mỏng ôm sát thân. Hoa nhỏ, lúc non mầu trắng, sau hơi vàng, tập trung thành tán ở đầu cành, dài 0,3-1,5cm, đài hoa hình chén hoặc hình ống gồm những lá đài nhỏ phát triển không đều. Tràng hoa dính liền ở phia dưới thành ống ngắn. Quả hình cầu, khi chín mầu đỏ, mang đài còn lại ở đỉnh. Mùa hoa: tháng 5-6, mùa quả: tháng 7-10.
Rễ dùng làm thuốc thường khô, thường được cắt thành từng đoạn ngắn, dài trên 5cm, đường kính khỏang 5mm, có nhiều chỗ đứt để lộ ra lõi nhỏ bên trong.Vỏ ngoài mầu nâu nhạt hoặc hồng nhạt, có vân dọc. Bên trong là thịt mầu hồng hoặc tím, vị hơi ngọt. Ba Kích mọc hoang, phân bố nhiều ở vùng đồi núi thấp của miền núi và trung du ở các tỉnh phía Bắc. Ba Kích có nhiều ở Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Hà Bắc, Lạng Sơn, Hà Giang, Hà Tây. Ba Kích trồng được 3 năm có thể thu hoạch. Thời gian thu hoạch thường vào tháng 10-11. Dùng cuốc đào rộng chung quanh gốc, lấy toàn bộ rễ rửa sạch. Loại rễ to, mập, cùi dầy, mầu tía là loại tốt. Rễ nhỏ, gầy, cùi mỏng, mầu trong là loại vừa.
Mô Tả Dược Liệu:
Ba kích thiên hình trụ tròn, hơi cong, dài không nhất định, đường kinh 0,7-1,3cm. Mặt ngoài mầu vàng tro, nhám, có vân dọc. Vỏ ngoài và trong gẫy lộ ra phần lõi gỗ và vân nứt ngang, giống như chuỗi hạt trai. Chất cứng, cùi dầy, dễ bóc. Mặt gẫy mầu tím nhạt, ở giữa mầu nâu vàng. Không mùi, vị ngọt nhưng hơi chát.
Bào chế:
1. Dùng nước Câu Kỷ Tử ngâm Ba Kích 1 đêm cho mềm, lấy ra ngâm rượu 1 đêm, vớt ra, sao với Cúc Hoa cho vàng thuốc, dùng vải lau sạch, để dành dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
2. Ngâm với rượu 1 đêm cho mềm, xắt nhỏ, sấy khô, để dành dùng (Bản Thảo Cương Mục).
3. Dùng Cam Thảo, giã dập, sắc, bỏ bã. Cho Ba Kích vào nấu cho đến khi xốp mềm, rút lõi, phơi khô. Liều lượng: 6kg Cam Thảo cho 100kg Ba Kích (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển)
4. Diêm Ba Kích: Trộn Ba Kích với nước Muối (20g Muối cho 1kg Ba Kích), cho vào chõ, đồ, rút lõi, phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển).
5. Rửa sạch, ủ mềm, bỏ lõi, thái nhỏ rồi tẩm rượu 2 giờ, sao qua hoặc nấu thành cao lỏng [1ml = 5g] (Phương Pháp Bào chế Đông Dược Việt Nam).
-Thành phần hóa học:
· Trong Ba Kích có Gentianine, Carpaine, Choline, Trigonelline, Díogenin, Yamogenin, Gitogenin, Tigogenin, Vitexin, Orientin, Quercetin, Luteolin, Vitamin B1 (Chinese Hebral Medicine).
· Morindin, Vitamin C (Trung Dược Học).
· Rễ chứa Antraglycozid, đường, nhựa, Acid hữu cơ, Phytosterol và ít tinh dầu, Morindin. Rễ tươi có sinh tố C (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
· Trong Ba kích có Rubiadin, Rubiadin-1-Methylether (Vương Yến Phương – Thực Vật Học Báo 1986, 28 (5): 566).
· Palmitic acid, Vitamin C, Nonadecane (Chu Pháp Dữ - Trung Dược Thông Báo q986, 11 (9): 554).
· 24-Ethylcholesterol (lý Quán – Trung Quốc Trung Dược Tạp Chí 1991, 16 (11): 675).
Tác dụng dược lý:
1. Tăng sức dẻo dai: Với phương pháp chuột bơi, Ba Kích với liều 5-10g/kg dùng liên tiếp 7 ngày thấy có tác dụng tăng sức dẻo dai cho súc vật thí nghiệm (Trung Dược Học).
2. Tăng sức đề kháng: dùng phương pháp gây nhiễm độc cấp bằng Ammoni Clorua trên chuột nhắt trắng, với liều 15g/kg, Ba Kích có tác dụng tăng cường sức đề kháng chung của cơ thể đối với các yếu tố độc hại (Trung Dược Học).
3. Chống viêm: Trên mô hình gây viêm thực nghiệm ở chuột cống trắng bằng Kaolin với liều lượng 5-10g/kg, Ba Kích có tác dụng chống viêm rõ rệt (Trung Dược Học).
4. Đối với hệ thống nội tiết: thí nghiệm trên chuột lớn và chuột nhắt cho thấy Ba Kích không có tác dụng kiểu Androgen nhưng có thể có khả năng tăng cường hiệu lực của Androgen hoặc tăng cường quá trình chế tiết hormon Androgen (Trung Dược Học).
5. Nước sắc Ba Kích có tác dụng tương tự như ACTH làm cho tuyến ức chuột con bị teo (Trung Dược Học).
6. Nước sắc Ba Kích có tác dụng làm tăng co bóp của chuột và hạ huyết áp (Trung Dược Học).
7. Không có độc. LD50 của Ba Kích được xác định trên chuột nhắt trắng bằng đường uống là 193g/kg (Trung Dược Dược lý, Độc lý Dữ Lâm Sàng).
+ Rễ Ba kích chiết xuất bằng rượu có tác dụng giáng áp huyết; có tác dụng nhanh đối với các tuyến cơ năng; tăng cường não; chống ngủ ngon dùng Ba kích nhục (Trung Dược Dược lý, Độc lý Dữ Lâm Sàng).
+ Tác dụng đối với hệ nội tiết: Cho chuột và chuột nhắt uống Ba kích thiên thấy không có tác dụng giống như chất Androgen (Trung Dược Học).
+ Đối với những bệnh nhân nam có hoạt động sinh dục không bình thường, Ba Kích có tác dụng làm tăng khả năng gioa hợp, đặc biệt đối với những trường hợp giao hợp yếu và thưa. Ba Kích có tác dụng tăng cường sức dẻo dai, mặc dầu nó không làm tăng đòi hỏi tình dục, không thấy có tác dụng kiểu Androgen. Tuy không làm thay đổi tinh dịch đồ nhưng trên thực tế có tác dụng hỗ trợ và cải thiện hoạt động sinh dục cũng như điều trị vô sinh cho những nam giới có trạng thái vô sinhtương đối và suy nhược thể lực. Còn các trường hợp tinh dịch ít, tinh trùng chết nhiều, không có tinh trùng, không xuất tinh khi giao hợp thì xử dụng Ba Kích chưa thấy kết quả (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
+ Đối với cơ thể những người tuổi già, những bệnh nhân không biểu hiện mệt mỏi, ăn kém, ngủ ít, gầy yếu mà không thấy có những yếu tố bệnh lý gây nên và 1 số trường hợp có đau mỏi các khớp, Ba Kích có tác dụng tăng lực rõ rệt, thể hiện qua những cảmgiác chủ quan như đỡ mệt mỏi, ăn ngon, ngủ ngon và những dấu hiệu khách quan như tăng cân nặng, tăng cơ lực. Còn đối với bệnh nhân đau mỏi các khớp thì sau khi dùng Ba Kích dài ngày, các triệu chứng đau mỏi giảm rõ rệt (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Tính vị:
+Vị cay, ngọt, tính hơi ấm (Trung Dược Học).
Quy kinh:
+Vào kinh Tỳ và Thận (Lôi Công Bào chế Dược Tính Giải).
+Vào kinh Tâm và Thận (Bản Thảo Tân Biên).
+Vào kinh túc quyết âm Can và túc dương minh Vị (Bản Thảo Kinh Giải).
+Vào kinh Thận (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Vào kinh Can và Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).
TÌM HIỂU THÊM: BA KÍCH THIÊN
(Radix Morindae Officinalis)
Cũng gọi là Ba kích, là rễ phơi hay sấy khô (Radix Morindae) của cây Ba kích ( Morinda Officinalis How), thuộc họ Cà phê ( Rubiaceae), dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh.
Tính vị qui kinh:
Vị cay, ngọt, hơi ôn, qui kinh Thận.
Theo các sách thuốc cổ:
*.Sách Bản kinh: vị cay hơi ôn.
*.Sách Danh y biệt lục: ngọt, không độc.
*.Sách Nhật hoa tử bản thảo: vị đắng.
*.Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập Tỳ thận kinh.
*.Sách Bản thảo kinh giải: nhập Túc quyết âm can kinh, túc dương minh vị kinh.
Thành phần chủ yếu:
Gentianine, carpaine, choline, trigonelline, disogenin, yamogenin, gitogenin, tigogenin, vitexin, orientin, quercetin, luteolin, vitamin B1.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Thuốc có tác dụng bổ thận dương, trừ phong thấp. Chủ trị các chứng liệt dương, vô sinh (do bào cung lạnh), chứng tý do phong hàn thấp.
Trích đoạn Y văn cổ:
*.Sách Bản kinh: " chủ hỏa phong tà khí, âm nuy bất khởi, cường gân cốt, an ngũ tạng, bổ trung tăng chí ích khí".
*.Sách Danh y biệt lục:" liệu đầu diệu du phong ( một loại ban chẩn dị ứng nổi ở đầu mặt), bụng dưới và âm hộ đau, làm trung tiện, bổ ngũ lao, ích tinh, lợi nam tử".
*.Sách Nhật hoa tử bản thảo:" an ngũ tạng, định tâm khí, trị các chứng phong, trị tà khí thủy thũng".
*.Sách Bản thảo bị yếu:"bổ thận ích tinh, trị ngũ lao thất thương, tân ôn đại tán phong thấp trị phong khí, cước khí, thủy thũng".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:Nghiên cứu còn quá ít.
1.Theo Đỗ tất Lợi nước sắc Ba kích có tác dụng làm tăng sự co bóp của ruột và giảm huyết áp, không có độc.
2.Theo sách Trung dược học: cho chuột lớn và chuột nhắt uống thuốc đều không thấy biểu hiện tác dụng của kích tố đực. Thuốc có tác dụng như ACTH làm cho tuyến ức chuột con teo.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị liệt dương, tảo tiết ở nam, chứng vô sinh ở nữ do thận dương hư, thuốc có tác dụng ôn thận tráng dương:dùng bài:
*.Ba kích thiên hoàn: Ba kích thiên 12g, Ngũ vị tử 6g, Nhân sâm 8g (nếu không có, thay Đảng sâm lượng gấp đôi), Thục địa 16g, Nhục thung dung, Long cốt, Cốt toái bổ, mỗi thứ 12g, tán bột mịn, luyện mật làm hoàn, mỗi lần 12g, mỗi ngày 2 - 3 lần. Trị đau lưng, hoạt tinh ở người thận hư, kết quả tốt.
*.Ba kích thiên, Đảng sâm, Phúc bồn tử, Thỏ ty tử, mỗi thứ 12g, Sơn dược 24g, Thần khúc 12g, tán bột mịn luyện mật làm hoàn, mỗi lần uống 12g, ngày 2 - 3 lần.
2.Trị người lớn tuổi đau lưng, chân yếu, tê mỏi:
*.Kim cang hoàn: Ba kích thiên, Xuyên tỳ giải, Nhục thung dung, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, lượng bằng nhau, Lộc thai 1 bộ, tán bột mịn, luyện mật làm hoàn, mỗi lần uống 8g, ngày 2 - 3 lần với nước sôi ấm.
*.Ba kích nhục 10g, Thục địa 10g, Nhân sâm 4g, Thỏ ty tử 6g, Bổ cốt toái 5g, Tiểu hồi hương 2g, nước 600ml, sắccòn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
3.Trị chứng đau phong thấp, cước khí phù:dùng bài:
*.Ba kích khu tý thang: Ba kích 12g, Đỗ trọng 12g, Ngưu tất 12g, Xuyên tục đoạn 12g, Tang ký sinh 10g, Sơn thù nhục 8g, Hoài sơn 16g, sắc uống.
4.Trị huyết áp cao thời kỳ mãn kinh:
*.Ba kích thiên, Tiên mao, Hoàng bá, Tiên linh tỳ, Tri mẫu, Đương qui, mỗi thứ 20 - 28g, sắc nước uống.
Liều lượng thường dùng và chú ý:
*.Liều: 10 - 15g lúc cần có thể dùng liều cao.
*.Thận trọng lúc dùng đối với chứng âm hư hỏa vượng, đại tiện táo bón.
CÂY BAN
Còn gọi là điền cơ vương, điền cơ hoàng, địa nhĩ thảo, địa quan môn, nọc sởi, bioc lương, châm hương.
Tên khoa họcHypericum japomicumThumb.
Thuộc họ BanHypericaceae.
Ta dùng toàn cây tươi hay phơi khô hoặc sấy khô làm thuốc.
Tênđiền cơ hoàngvì cây này hoa màu vàng, thường mọc đầy ở những ruộng hoang (điền là ruộng, cơ là nền gốc, hoàng là màu vàng), têndạ quan mônvì cây này vào chiều tối thì cúp lại (dạ là tối, quan là đóng, môn là cửa).
A. Mô tả cây
Ban là một loại cỏ nhỏ, thân nhỏ mang nhiều cành, cao chứng 10-20cm, thân nhẵn,. Lá mọc đối, hình bầu dục, không có cuống, trên phiến có những điểm chấm nhỏ, soi lên sáng lại càng rõ. Phiến lá dài 7-10mm, rộng 3-5mm. Hoa nhỏ mọc màu vàng, mọc đơn độc ở kẽ lá, còn cuống dài 4-5mm. Lá bắc và lá đại nhẵn (do đó khác loàiHypericum nepalense). Quả nang hình trứng, dài 4mm, mở bằng 3 van dọc, thai toà chắc mô ở cạnh các van. Hạt hình trụ, hơi thon có vạch dọc, chiều dài 1mm.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây ban mọc hoang khắp nơi ở Việt Nam, hay gặp tại những ruộng mạ, ruộng bỏ hoang, hơi ẩm, mùa xuân cây bắt đầu xuất hiện, mùa hạ hoa nở, sang thu đông lại trụi hết,
Có mọc tại Trung Quốc (cũng thấy dùng làm thuốc ở Quảng Tây), các nước khác vùng nhiệt đới và á nhiệt đới.
Thường hái về dùng tươi, hái toàn cây cả rễ, có khi phơi hay sấy khô mà dùng. Không phải chế biến gì khác.
C.Thành phần hoá học
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
Trong loàihypericum pẻoatumL. mới đây người ta tìm thấy có imanin, imanin A và novoi,amim.
D. Công dụng và liều dùng
Cây ban còn là một vị thuốc dùng trong nhân dân.
Tính chất theo đông y thì cây ban có vị đắng, ngọt, tính bình, không độc vào hai kinh can và tỳ. Có tác dụng thanh thất nhiệt, tiêu thũng trướng, khứ tích tiêu thực (chữa tiêu hoá kém đầy) dùng chữa cam tích, thấp nhiệt hoàng đản, dùng ngoài chữa rắn cắn, bị thương, sưng đau.
Thường thấy nhân dân dùng chữa những vết do đỉa cắn, sâu răng, ho, hôi mồm, sởi.
Cách dùng: Nhổ một nắm cả thân rễ, lá rửa sạch, sắc lấy nước (30-40g trong 100ml nước). Dùng nước này súc miệng thường xuyên chữa hôi miệng sâu răng. Dùng ngoài không kể liều lượng.
Đơn thuốc thường có cây ban
Chữa rắn độc căn:
Giã nát cây ban, thêm ít băng phiến đắp lên vết rắn cắn đã được trích rộng ra.
Chữa hoàng đản:
Cây ban 40 hoặc 60g khô sắc uống.
CÂY BỌ MẮN
Bọ mắm vị thuốc chữa viêm họng, lợi tiểu, lợi sưac" Bọ mắm vị thuốc chữa viêm họng, lợi tiểu, lợi sưa. Còn có tên là cây thuốc dòi
Tên khoa học Pouzolzia zeylanica Beth
Thuộc họ Gai Urticaceae
Mô tả:loại cỏ có cành mềm, thân có lông, lá mọc so le, có khi mọc đối có lá kem, hình mác hẹp, trên gân và 2 mặt đều có lông nhất là ở mặt dưới, lá dài 4-9cm, rộng 1.5-2.5cm. Có 3 gân xuất phát từ cuống, cuống dài 5mm có lông trắng. cụm hoa đơn tính mọc thành xim co, ở kẽ lá có các hoa không cuống. Quả hình trứng nhọn, có bao hoa có lông.
Phân bố:cây bọ mắm mọc hoang khắp nơi ở Việt Nam chưa thấy được trồng. Người ta hái toàn cây về dùng hoặc phơi khô hoặc sấy khô, mùa hái vào các tháng 4-6.
Công dụng và liều dùng:nhân dân dùng cây này nấu thành cao chữa bệnh ho lâu năm, ho lao, viêm họng. dùng riêng hoăc phối hợp với các vị thuốc khác. Ngày dùng 10-20g
Có nơi còn dùng làm thuốc mát và thông tiểu, thông sữa. Nhân dân thường dùng cây này giã cho vào mắm tô để không có đòi bọ.
Có nơi giã nát nhét vào răng sâu chữa sâu răng.
CÂY BÔNG
Tên khoa họcGossypium
Thuộc họ BôngMalvaceae
Ta dung vỏ rễ cây bông là dư phẩm của kỹ nghệ trồng bông. Sau khi hái cây bông ta đào rễ rửa sạch, bóc lấy vỏ phơi khô.
Theo sự nghiên cứu ghi trong tài liệu cũa Liên Xô cũ trong vỏ rễ cây bông có chứa sinh tố K, chất gossypola C30H10O8', một ít tinh dầu, một ít tamin.
Công dụng và liều dùng
Liên Xô cũ công nhận vỏ rễ cây bông là một vị thuốc chính thức dùng dưới dạng cao lỏng làm thuốc cầm máu tử cung.
Nhân ta và một số nước khác dùng làm thuốc điều kinh. Nó gây co bóp tử cung giống như sự co bóp tự nhiên khi đẻ. Liều dùng 3-5g dưới dạng sắc.
Đơn thuốc có vỏ rễ cây bông
Vỏ rễ cây bông 3g, nước 300ml, sắc còn 100ml. Uống trong ngày, làm thuốc điều kinh, thông kinh.
HOA PHẤN
Hoa phấn, Bông phấn, Sâm ớt - Mirabilis jalapa L., thuộc họ Hoa giấy - Nyctaginaceae.
Mô tả: Cây nhỏ cao 20-80cm. Rễ phình thành củ như củ sắn. Thân nhẵn mang nhiều cành, phình lên ở các mấu; cành nhánh dễ gẫy. Lá mọc đối, hình trứng, chóp nhọn. Cụm hoa hình xim có cuống rất ngắn, mọc ở nách lá gần ngọn. Hoa hình phễu, màu hồng, trắng hoặc vàng, rất thơm, nhất là về đêm. Quả hình cầu, khi chín màu đen, mang đài tồn tại ở gốc, bên trong có chất bột trắng mịn.
Bộ phận dùng: Rễ và toàn cây - Radix et Herba Mirabitis.
Nơi sống và thu hái: Cây gốc ở Mehico, được nhập trồng làm cảnh trong các vườn gia đình, cũng trồng ở các vườn thuốc. Trồng bằng hạt, độ 4-5 tháng thì có củ dùng được. Cây không kén chọn đất và nếu có đất xốp ẩm thì có nhiều củ và củ to. Thu hoạch rễ củ quanh năm, rửa sạch, bóc vỏ, thái mỏng dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần. Có thể tẩm nước gừng rồi phơi khô, sao vàng để dùng, hoặc tán bột.
Thành phần hóa học: Có alcaloid trigonellin.
Tính vị, tác dụng: Rễ củ Hoa phấn có vị ngọt, nhạt, tính mát, có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, hoạt huyết tán ứ. Ở Ấn Độ người ta cho rằng rễ kích dục, lọc máu; còn lá làm dịu, giảm niệu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng trị: 1. Viêm amygdal; 2. Viêm nhiễm đường tiết niệu, viêm tiền liệt tuyến; 3. Đái tháo đường, đái ra dưỡng trấp; 4. Bạch đới, băng huyết, kinh nguyệt không đều; 5. Tạng khớp cấp. Dùng ngoài trị viêm vú cấp, đinh nhọt và viêm mủ da, đòn ngã tổn thương, bầm giập, eczema. Hoa dùng trị ho ra máu. Dùng rễ 15-20 g dạng thuốc sắc, hoặc dùng 6-16g bột. Nghiền cây tươi để đắp ngoài, hoặc đun sôi lấy nước rửa. Phụ nữ có thai không dùng.
Đơn thuốc:
1. Viêm amygdal: chiết dịch lá tươi và đắp vào chỗ đau.
2. Ho ra máu. Hoa 120g, chiết dịch và trộn với mật ong uống.
CÀ ĐỘC DƯỢC
Tên khác:
Vị thuốc Cà độc dược, còn gọi cà diên, cà lục dược (Tày), sùa tùa (H`mông), mạn đà la, hìa kía piếu (Dao).
Tác dụng:
Khử phong thấp, định suyễn
Công dụng :
Chữa ho, hen, thấp khớp, sưng chân, chống co thắt giảm đau lở loét trong dạ dày, ruột, chữa trĩ, say sóng, say máy bay. Ðắp mụn nhọt đỡ đau nhức. Lá hoa khô tán bột uống, hoặc thái nhỏ hút. Bột lá khô, liều tối đa : 0,2g/lần; 0,6g/24 giờ. Còn dùng dạng cao, cồn.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
Chữa hen: Hoa hoặc lá cà độc dược phơi khô thái nhỏ, 1 phần, kali nitrat 1 phần cho vào giấy cuộn thành điếu thuốc lá, ngày hút 1-1.5g vào lúc có cơn hen
TÌM HIỂU THÊM
Tên khoa học:
Daturamelel- họ cà Solanaceae
Mô tả :
Cây nhỏ, cao 1 - 1,5m; cành non có nhiều lông mịn và sẹo lá. Lá mọc so le, phiến lệch, mép lượn sóng, cả hai mặt đều có lông. Hoa to, hình loa kèn, màu trắng, mọc riêng ở kẽ lá. Quả hình cầu, có gai, khi chín nứt theo 3 - 4 đường; nhiều hạt nhỏ, dẹt, màu nâu đen.
Phân bố :
Cây mọc hoang ở ven đường, bãi hoang. Còn được trồng làm cảnh.
Bộ phận dùng :
Lá và hoa. Lá bánh tẻ thu hái lúccây sắp và đang ra hoa, phơi nắng hay sấy nhẹ. Hoa thu hái vào mùa thu, phơi nắng hay sấy nhẹ.
Thành phần hóa học :
Alcaloid toàn phần có : Trong lá : 0,10 - 0,50%, trong hoa : 0,25 - 0,60%, trong rễ : 0,10 - 0,20%, trong quả : 0,12%. Alcaloid : Scopolamin, hyoscyamin và atropin, norhyoscyamin, vitamin C.
Tính vi:
Vị cay, tính ôn, có độc
Qui kinh:
Vào kinh phế..
THANH ĐẠI
1. Tên dược: Indigo Naturalis.
2. Tên thực vật: Ablue powder prepared from; Baphicacanthus cusia (Acanthaceae).
3. Tên thường gọi: Natural indigo (thanh đại).
4. Bộ phận dùng và phương pháp chế biến: là sự phối hợp các sắc tố của các cây: Baphicacanthus cusia Indigofera suffruticosa, polygonum tinctorium và Isatis tinctoria được chế biến và sấy thành bột màu xanh.
5. Tính vị: vị mặn, tính hàn.
6. Qui kinh: can phế và vị.
7. Công năng: thanh nhiệt, giải độc, làm mát máu và giảm sưng tấy.
8. Chỉ định và phối hợp:
- Phát ban do nhiệt độc trong máu: Dùng phối hợp thanh đại với thạch cao và sinh địa hoàng dưới dạng thanh đại thạch cao thang.
- Sốt xuất huyết do giãn mạch quá mức do nhiệt biểu hiện nôn ra máu, chảy máu cam và ho ra máu và đờm: Dùng phối hợp thanh đại với trắc bách diệp và bạch mao căn.
- Trẻ em co giật do sốt cao: Dùng phối hợp thanh đại với ngưu hoàng và câu đằng.
- Nhiệt phế biểu hiện như ho, hen và ho có đờm dầy màu vàng: Dùng phối hợp thanh đại với qua lâu, xuyên bối mẫu và hải phù thạch dưới dạng thanh đại hải thạch hoàn.
- Quai bị cấp, nhọt và nhọt độc: Dùng phối hợp thanh đại với huyền sâm, kim ngân hoa và liên kiều.
9. Liều dùng: 1,5-3g.
10. Thận trọng và chống chỉ định: không dùng vị thuốc này khi bị hàn ở vị.
TÌM HIỂU THÊM: Thanh đại (Indigo pulverata levis) còn gọi là Bột chàm được chế từ nhiều cây khác nhau, chủ yếu là các cây:
1.Cây chàm (Indigofera tinotoria L) thuộc họ Cánh bướm (Fabaceae).
2.Nghệ chàm (Polygonum tinotorium Lour) họ Rau răm (Polygonaceae).
3.Cây Chàm (Strobilanthes cusia Bremek) hay Strobilanthes flaceidifolius Ness) còn gọi là cây Chàm mèo thuộc họ Ô rô (Acanthaceae).
4.Một số cây khác chưa thấy ở nước ta như: cây Isatis tinctoria L. thuộc họ Chữ thập (Brassicaceae) và cây Isatis Indigotica Fort thuộc họ Chữ thập (Brassicaceae).
Còn có tên gọi Điện hoa, Điện mạc hoa.
Vị mặn, tính hàn. Có sách ghi vị ngọt tính bình (Dược tính bản thảo) hay vị đắng tính hàn, không độc (Bản thảo tái tân). Qui kinh Can, Phế, Vị, Tỳ.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:thuốc có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tán phù, lương huyết. Chủ trị các chứng: Can nhiệt kinh giật, nhiệt khái đờm đặc, thấp chẩn, lở mồm, huyết nhiệt phát ban, chảy máu cam, quai bị, ung nhọt.
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy:
1-Thành phần chủ yếu: glucozit gọi là Indican. Khi thủy phân Indican sẽ cho glucoza và Indoxyl, chất này oxy hóa sẽ cho indigotin. Indigotin bị khử trong môi trường kiềm sẽ cho Leucoindigo không có màu. Theo sách Dược lý học của Trung quốc: Thanh đại có 2 chất chính là: Điện lam 5 - 8% và Điện ngọc hồng 0,1%. Điện ngọc hồng (đã chế được bằng phương pháp nhân tạo) có tác dụng ức chế mạnh tế bào ung thư.
2-Nước sắc Thanh đại có tính kháng khuẩn đối với tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lî Shigella, phẩy khuẩn tả.
3-Điện lam có tác dụng bảo vệ gan.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị bệnh quai bị và các bệnh ung nhọt:dùng bài:
*.Thanh đại tán: Thanh đại 8g, Thạch cao 16g, Hoạt thạch 16g, Hoàng bá 8g, tất cả tán bột mịn trộn đều với vaselin bôi chỗ đau.
*.Thanh đại 20g, Băng phiến vừa đủ trộn đều với nước ấm bôi lên vùng đau trị quai bị trẻ em.
2.Trị tưa, viêm lóet mồm:dùng bài Trân đại tán (Trân châu - Thanh đại) bôi.
3.Trị giãn phế quản ho đàm có máu hoặc nôn có máu do huyết nhiệt:dùng bài Thanh cáp tán: Thanh đại, Cáp phấn mỗi thứ 12g tán mịn, mỗi lần uống 2 - 4g, ngày 1 - 2 lần với nước sôi nguội.
4.Trị viêm gan mạn tính:Thanh đại 1 phần, Bạch phàn 6 phần trộn đều tán bột mịn, mỗi lần 2g, ngày 3 lần.
5.Trị bệnh vẩy nến:Mỗi ngày uống Điện ngọc hồng 25 - 50mg, liệu trình 8 tuần, thuốc có tác dụng ức chế tế bào biểu bì tăng sinh ( Tạp chí Y học Trung hoa 1987,1:7).
6.Trị bệnh bạch cầu hạt mạn tính(leucose chronique):mỗi ngày uống viên Điện ngọc hồng 150 - 200mg chia 3 lần từ 1 tháng đến hơn 6 tháng trị 314 ca, tỷ lệ khống chế bệnh 59,87, tỷ lệ có kết quả 87,26% ( Tạp chí huyết học Trung hoa 1980).
Liều thường dùng và chú ý:
*.Liều:1,5 - 3g nên dùng thuốc hoàn tán ( vì thuốc không tan trong nước).
*.Dùng bôi ngoài lượng vừa đủ.
*.Dùng thận trọng đối với người tỳ vị hư hàn.
Theo Đông y, thanh đại vị mặn, tính hàn; vào kinh can; tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết tiêu ban, được dùng làm thuốc chữa sốt, giải độc, viêm hạnh nhân (viêm VA), cam tẩu mã; chữa viêm lợi chảy máu... Liều dùng: 2 - 8g.
Thanh đại còn có tên khác là bột chàm. Tên khoa học: Indigo Naturalis (bột màu xanh tự nhiên). Thanh đại là sản phẩm được điều chế từ nhiều cây: chàm mèo: Strobilanthes cusia Bremek., họ ô rô (Acanthaceae); chàm: Indigofera tinctoria L., họ đậu (Fabaceae); bản lam căn: Isatis indigotica Fort. hoặc Isatis tictoria L., họ chữ thập (Brassicaceae); nghể chàm: Polygonum tinctorium Lour., họ rau răm (polygonaceae).
Theo Đông y, thanh đại vị mặn, tính hàn; vào kinh can; tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết tiêu ban, được dùng làm thuốc chữa sốt, giải độc, viêm hạnh nhân (viêm VA), cam tẩu mã; chữa viêm lợi chảy máu... Liều dùng: 2 - 8g. Do vị thuốc khó tan trong nước nên thường làm thành thuốc bột hoặc cho vào thuốc thang. Thanh đại là thành phần chính của thuốc cam (có màu xanh) trong các phòng mạch của lương y để chữa các chứng bệnh trên.
Gần đây, một số thầy lang bán thuốc cam có màu da cam, màu đỏ, thành phần chủ yếu là hồng đơn (chì), gây ngộ độc và nguy hại đến sức khỏe người bệnh. Theo nghiên cứu mới đây tại Đài Loan thì bột thanh đại (indigo naturalis) rất hiệu nghiệm trong việc trị bệnh vảy nến (psoriasis). Những nghiên cứu hiện đại cho thấy: bột thanh đại có tác dụng giải độc, có cả chất chống ung thư, nên bộ quần áo nhuộm chất chàm là một kinh nghiệm của dân gian giúp chống lại sơn lam chướng khí.
Cây thanh đại.
Thanh đại được dùng để chữa các bệnh
Giải độc trị nhọt
Trị các bệnh ngoài da, sưng nóng, đau ngứa, chảy nước:thanh đại 8g, thạch cao 16g, hoạt thạch 16g, hoàng bá 8g. Các vị nghiền mịn, trộn đều, thêm một lượng vaselin, đánh kỹ, bôi vào chỗ đau.
Trị viêm tuyến mang tai cấp tính trẻ em (quai bị):thanh đại và ít băng phiến. Chế với nước ấm, bôi vào chỗ đau.
Lương huyết, tiêu ban:phát ban do nhiệt độc, huyết nhiệt gây thổ huyết, đổ máu cam.
Trị ban đỏ do nhiễm hàn:thanh đại 8g. Uống với nước.
Trị ho ra đờm có máu, đờm huyết do giãn phế quản:thanh đại 12g, cáp phấn 12g. Nghiền bột mịn. Mỗi lần dùng 2 - 4g, uống với nước, ngày 2 lần. Nếu huyết nhiệt gây thổ huyết, chảy máu cam, có thể dùng thanh đại hoặc kết hợp với bồ hoàng, hoàng cầm.
Thanh nhiệt giải nắng
Trị cảm nóng, tiểu tiện ít mà đỏ:thanh đại 63g; cam thảo 63g; hoạt thạch 63g. Nghiền chung thành bột; mỗi lần 12 - 30g. Sắc hoặc pha với nước.
Chữa viêm gan cấp và mạn tính:thanh đại 12g; bạch phàn 24g. Nghiền thành bột mịn. Ngày 3 lần, mỗi lần 2g.
Chữa viêm răng lợi, hầu họng
Thuốc cam xanh:bạch phàn 20g, thanh đại 80g, ngũ bội tử 20g, băng phiến 2g. Thuốc bôi chữa viêm lợi, ngứa nhức chân răng, sâu răng; chảy máu, cam miệng, cam mũi trẻ em. Thuốc này không có asen và chì nên được Bộ Y tế cấp phép lưu hành.
Thuốc cam tẩu mã:hoàng bá 12g; hoàng liên 16g; thanh đại 20g; đinh hương 12g; đại hồi 4g; nhân trung bạch 20g; bạch phàn 12g. Dạng thuốc bột, đắp chỗ lợi sưng đau. Ngày làm 3 - 4 lần.
Kiêng kỵ:Do tính rất hàn nên không phải thực nhiệt thì không dùng.
BỒ CÔNG ANH
Tên khác: Bồ công anh
Vịthuốc Bồ công anh còn gọi là Phù công anh (Thiên Kim Phương), Cấu nậu thảo, Bộc công anh (Đồ Kinh Bản Thảo), Thái nại, Lục anh, Đại đinh thảo, Bột cô anh (Canh Tân Ngọc Sách), Bồ công định, Thiệu kim bảo, Bồ anh, cổ đính, Thiệu kim bảo, Ba ba đinh, Địa đinh thảo, Bát tri nại, Bạch cổ đinh. Nhĩ bản thảo (Tục Danh), Kim trâm thảo, Kim cổ thảo, Hoàng hoa lang thảo, Mãn địa kim tiền, Bột Bột đinh thái (Hòa Hán Dược Khảo), Hoàng hoa địa đinh (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tác dụng: Bồ công anh
+ Thanh nhiệt, giải độc, tán sưng tiêu ung [đặc hiệu trị vú sưng đau] (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chủ trị:
+ Trị đinh nhọt sưng tấy, tuyến vú viêm, nhiễm trùng đường tiểu, amidal viêm cấp tính (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Liều dùng
- Bên trong uống 12g đến 40g. Dùng tươi, gĩa nát đắp vào nơi sưng đau. Bên ngoài dùng tùy ý theo nhu cầu.
Kiêng kỵ:
Khôngcó thấp nhiệt ung độc kỵ dùng. Ung thư thuộc hư hàn âm cấm dùng.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị gai đâm hoặc bị nhằm nước đái của con cáo làm cho thịt sưng phù: Bồ công anh gĩa nát lấy nước cốt bôi vào nhiều lần thì khỏi (Đồ Kinh phương).
+ Trị sản hậu không cho con bú, sữa tích lại làm cho vú căng, sưng: Bồ công anh gĩa nát, đắp lên đó, ngày 3 đến 4 lần (Mai Sư phương).
+ Làm cho răng cứng, mạnh gân xương, sinh được thận thủy, tuổi chưa đến 80 có tác dụng làm đen râu tóc, tuổi trẻ uống gìa không yếu: Bồ công anh 1 cân, loại này thường sống ở trong vườn, nó có vào giữa tháng 3 tháng 4, sang mùa thu thì nở hoa, khi ấy cắt cả gốc lá, thân cây, 1 cân rửa sạch đem phơi âm can, không được phơi nắng, bỏ vào thùng đậy kín. Lấy 40g muối, 20g Hương phụ tử, tán bột rồi cho Bồ công anh vào đó ngâm 1 đêm, hôm sau chia làm 20 nắm, rồi dùng giấy bao 3-4 lớp thật chặt. Lấy phân giun đất buộc thật chặt cho vào lò sấy khô, dùng lửa nướng cho hồng lên là đủ. Xong đem ra bỏ phân giun đất đi rồi tán nhỏ, cứ sức vào răng vào buổi sáng, tối, nhổ cũng được, nuốt cũng được, làm lâu mới hiệu nghiệm (Hoàn Thiếu Đơn - Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm phương).
+ Trị vú sưng đỏ: Bồ công anh 40g, Nhẫn đông đằng 80g, gĩa nát. Sắc với 2 chén nước còn 1 chén, uống trước bữa ăn (Tích Đức Đường phương).
+ Trị cam sang, đinh nhọt: Bồ công anh gĩa nát, lấy riêng một ít vắt nước trộn rượu sắc uống cho ra mồ hôi (Chứng Loại Bản Thảo).
+ Trị lở loét lâu ngày không khỏi, ong châm, rắn cắn, bọ cạp cắn: Bồ công anh gĩa nát, đắp vào vết thương (Cấp Cứu phương).
+ Trị tuyến sữa viêm cấp tính: Bồ công anh 32g, Qua lâu, Liên kiều mỗi thứ 20g, Bạch chỉ 12g, sắc uống. Bên ngoài dùng Bồ công anh tươi gĩa nát đắp (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị ung độc sưng tấy cấp tính: Bồ công anh 20g đến 40g, sắc uống (Bồ Công Anh Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị đinh nhọt, sưng độc phát sốt, lở loét ngoài da, đỏ mắt do phong hỏa: Bồ công anh 20g , Dã cúc hoa, Kim ngân hoa mỗi thứ 12g, Cam thảo sống 1,20g. Sắc uống.
+ Trị viêm ruột thừa chưa vỡ mủ: Bồ công anh 12g, Tử hoa địa đinh 20g, Mã xỉ hiện 40g, Hoàng cầm, Đơn sâm mỗi thứ 12g sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị kết mạc viêm cấp tính, mắt đỏ sưng đau [do Can hỏa bốc lên]: Bồ công anh (tươi) 80g , Chi tử 7 trái, sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị đường tiểu viêm, bàng quang viêm, tiêu hóa kém, căng đau vùng dạ dầy).: Bồ công anh 40g, Quất bì 24g, Sa nhân 12g, Tán bột. Mỗi lần uống 1-2g, ngày 3 lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị các chứng sưng vú, thiếu sữa: Bồ công anh, Hạ khô thảo, Bối mẫu. Liên kiều, Bạch chỉ, Qua lâu căn, Quất diệp, Cam thảo, Đầu cấu, (gầu trên đầu). Hùng thử phẩn (phân chuột đực). Sơn đậu căn, Sơn từ cô, sắc uống làm viên tùy theo bệnh để làm quân, thần, tá, sứ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tham khảo:
1) Bồ công anh có hoa nở vàng, vị ngọt, giải được các độc do ăn phải, tán được khí trệ, Nhập vào kinh Dương minh, Thái âm, hóa giải được nhiệt độc, tiêu sưng hạch rất đặc hiệu. Sắc chung với Nhẫn đông đằng uống với 1 chút rượu để trị nhũ ung, sau khi uống mà muốn ngủ là có công hiệu, khi ngủ ra mồ hôi là lành bệnh (Đan Khê Tâm Pháp).
2) Nước nhựa của Bồ công anh bôi vào chỗ nước đái của chồn đái là khỏi ngay (Tân Tu Bản Thảo Đồ Kinh).
3) Bồ công anh có thể giải được các thức ăn bị độc, làm tiêu tan được trệ khí, hòa được nhiệt độc, làm tiêu tan được trệ khí, hòa được nhiệt độc tiêu chỗ sưng đau, kết hạch đinh nhọt rất hiệu quả (Bản Thảo Diễn Nghĩa).
4) Dùng bồ công anh xát vào răng chữa được chứng đau răng, đen dược tóc, khỏe mạnh gân xương (Bản Thảo Cương Mục).
5) Bồ công anh khí không có gì độc cả, khí vị nhập vào Can, Vị. Đó là vị thuốc chính trong việc giải huyết, làm mát huyết. Nhọt sưng vú thuộc Can kinh, phụ nữ sau khi hành kinh thì Can chủ sự nên nó làm chủ, người đàn bà bị nhũ ung sưng vú, các chứng ấy nên dùng lá tươi (Bản Thảo Kinh Sơ).
6) Bồ công anh vị ngọt, tính bình, làm cho mát huyết, giải nhiệt, nên những chứng nhũ ung, vú có ung nhọt thì nó là thuốc quan trọng được xem như đứng đầu. Vả lại nó hay thông lợi được chứng lâm, xát vào răng đau, bôi làm đen râu tóc, xức được gai chích, giải được thức ăn có độc, tiêu được đinh nhọt. Vì quanh đầu vú thuộc Can, nhũ phòng thuộc Vị nên khi phát ra chứng nhũ ung, nhũ nham phần nhiều bởi nhiệt thịnh mà có huyết độc trệ, dùng vị này nhập vào 2 kinh ấy, bên ngoài đắp có tác dụng tan khỏi sưng, nhưng nếu muốn chóng chóng tiêu thì nên dùng với Hạ khô thảo, Bối mẫu, Liên kiều, Bạch chỉ là những vị thuốc trị được rất hay. Bồ công anh thuộc thổ, hoa màu vàng nên trị được thức ăn đình trệ, hoặc có hơi độc cũng phải tiêu tan, nó lại nhập vào kinh Thận làm cho mát huyết, nên nhuộm đen được râu tóc. Nhưng phải chú ý cây nào chỉ có 1 ngọn 1 hoa thì mới đúng, nếu thấy nhiều cành nhiều hoa là không đúng (Bản Thảo Cầu Chân).
7) Bồ công anh có vị ngọt, khí bình cho nên thanh được phế, lợi được hung cách, hóa được đờm, tiêu tan được tích kết, chữa được những chứng mụn nhọt, nuôi dưỡng được âm phận, mát huyết, cứng xương, cứng răng, thông lợi được chứng nhũ ung, làm cho ít tinh khí. Khi non nó mềm mại như rau, lúc về gìa nó được dùng làm thuốc, đúng là 1 vị thuốc hay, người đời nay dùng nó để trị bệnh nhũ ung, sưng vú, đau vú nghĩa là bây giờ người ta chỉ biết dùng bình thường hoặc cũng bởi tính hẹp hòi sau đó mà không làm được việc gì (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
8) Bồ công anh và Tử hoa địa đinh đều có tác dụng thanh nhiệt, giải độc. Nhưng Bồ công anh có công hiệu sơ Can, trị viêm tuyến vú rất tốt, còn Tử hoa địa đinh có tác dụng mạnh trong thanh nhiệt, giải độc, trị đinh nhọt rất tốt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
TÌM HIỂU THÊM VỀ BỒ CÔNG ANH
Tên khoa học: Bồ công anh
Taraxacum offcinal Wig (Taraxacum dens-leonis Desf.).
Họ khoa học:
Họ Cúc (Compositae).
Mô tả:
Cỏ sống dai, rễ đơn, dài, khỏe, thuộc loại rễ hình trụ. Lá mọc từ rễ nhẵn, thuôn dài hình trái xoan ngược, có khía răng uốn lượn hoặc xẻ lông chim, mép giống như bị xé rách. Đầu màu đơn độc ở ngọn, cuống dài rỗng, từ rễ mọc lên. Tổng bao hình chuông gồm nhiều dãy lá bắc, những cái ở phía ngoài xòe ra và cong xuống, còn các cái ở trong thì mọc đứng. Hoa hình nhỏ ở phía ngoài có màu nâu ở mặt lưng, quả bế 10 cạnh, có mỏ dài. Các tơ của màu lông sắp theo 1 dẫy, ra hoa từ tháng 3-10.
Địa lý:
Mọc hoang ở những nơi vùng núi cao như Đà Lạt, Tam Đảo, Sa Pa, mọc hoang nhiều ở Trung Quốc.
Thu hái, sơ chế:
Chọn vào giữa tháng 4 đến tháng 5 là thời kỳ có vị đắng nhiều nhất, có người dùng thứ nhỏ và dài, thân và cành màu tím là tốt nhất. Dùng toàn cây phơi trong râm cho khô.
Phần dùng làm thuốc:
Dùng rễ khô toàn cây phơi khô. Lựa thứ nhiều lá, mầu lục tro, rễ nguyên đủ là tốt.
Mô tả dược liệu:
RễBồ công anh Trung Quốc hình dùi tròn, uốn cong, dài 3,3 - 5cm, mầu nâu, nhăn. Đầu rễ có những lông nhung mầu nâu hoặc mầu trắng vàng hoặc đã rơi rụng. Lá mọc từ rễ, lát lá dài, nhăn lại thành đám hoặc nhăn không đều. Mặt ngoài mầu nâu lục hoặc màu lục tro. Ở mặt sau lá có gân chính nổi rõ. Có nhiều cuống hoa dài, ở mỗi đầu đỉnh cuống mọc một hoa tự đầu trạng, mầu nâu vàng hoặc mầu trắng vàng nhạt. Không mùi, vị hơi đắng (Dược Tài Học).
Bảo quản: Bồ công anh
Phơi thật khô, để nơi cao ráo, hoặc phơi nắng, bị ẩm thấp rất mau mốc và mục.
Thành phần hóa học:
+ Taraxasterol, Choline, Inulin, Pectin (Trung Dược Học).
+ Fructose (Power F B và cộng sự C A, 1913, 7: 13523).
+ Sucrose, Glucose (Belaev V F và cộng sự, C A, 1975, 51: 11495c).
Tác dụng dược lý:
. Thuốc sắc Bồ công anh có tác dụng ức chế các loại vi khuẩn như tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn dung huyết, phế cầu, não mô cầu, trực khuẩn bạch hầu, trực khuẩn lỵ Flexener, trực khuẩn mủ xanh, Leptospira hebdomadia (Trung Dược Học).
. Nước sắc Bồ công anh có tác dụng lợi mật, bảo vệ gan, lợi tiểu (Trung Dược Học).
. Nước sắc Bồ công anh có tác dụng nhuận trường (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Tính vị:Bồ công anh
+ Vị ngọt, tính bình, không độc (Tân Tu Bản Thảo).
+ Vị hơi đắng, tính hàn (Đông Viên Dược Tính Phú).
+ Vị ngọt, tính bình, hơi hàn (Bản Thảo Thuật).
+ Vị đắng, ngọt, tính hàn (Dược Tính Công Dụng).
+ Vị ngọt, đắng, tính hàn (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Qui kinh:
+ Vào kinh Can, Vị (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Vào kinh Dương minh Vị và Thái âm Phế (Bản Thảo Giảng Nghĩa Bổ Di).
+ Vào kinh Can, Vị (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)
Phân biệt:
1) Tùy theo Bồ công anh có hoa tựa màu vàng hay tím, hoa màu vàng thì gọi là Hoàng hoa địa đinh, Hoa màu tím thì gọi là Tử hoa địa đinh hoặc Đại đinh thảo, không có hoa thì gọi là Địa đởm thảo, hoa trắng thì gọi là Bạch cổ đinh.
2) Ở Trung Quốc người ta đều dùng các cây Taraxacum mongolicum Hand Mazt, Taraxacum sinicum Kitag., Taraxacum heterolepis Nakai et Koidz. Hoặc một số loài khác giống nhưng cùng họ gọi với tên là Bồ công anh.
3) Khác với cây Bồ công anh nam (Lactuca andica L.).
4) Cần phân biệt với cây chỉ Thiên (Elephantopus scaber L.) Ở Việt Nam gọi là cây Bồ công anh hay cây Bồ công anh nam do hình thái cây này hơi giống hình thái lá cây Bồ công anh, có thể mua lầm cây Chỉ thiên này làm Bồ công anh (Danh Từ Dược Vị Đông Y).
Bồ công anh là vị thuốc quý trong nhiều bài thuốc cổ phương. Bồ công anh giúp chữa khỏi bệnh tắc tia sữa, tiêu độc, viêm loét dạ dày và bệnh viêm phổi
Cây Bồ công anh có tên khoa học là Lactuca indica L., Họ Cúc – Asteraceae, trong dân gian cây Bồ công anh còn gọi là cây Bồ cóc, Diếp hoang, Diếp dại, Mũi mác, Diếp trời.
Đặc điểm thực vật, phân bố của cây bồ công anh: cây Bồ công anh nhỏ cao 0,6 – 1,0m, thân mọc thẳng, nhẵn, không cành. Lá dài 30cm rộng 5 – 6cm, mép có răng cưa thưa. Bấm vào lá và thân đều thấy tiết ra nhũ dịch màu trắng đục như sữa. Bồ công anh mọc hoang nhiều ở các tỉnh phía Bắc.
Nắm bắt: Cách điều trị bệnh gai cot songbằng thuốc nam
Cách trồng cây bồ công anh: Trồng Bồ công anh bằng hạt, trồng vào tháng 3 – 4 hoặc tháng 9 – 10. Có thể trồng bằng mấu gốc, sau 4 tháng là thu hoạch được.
Bộ phận dùng, chế biến của Bồ công anh: Thường dùng lá Bồ công anh, thu hoạch lá về dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô, dùng tươi tốt hơn. Cũng có thể dùng cả cây bỏ rễ, cắt nhỏ, phơi khô để dùng.
II. Công dụng của cây bồ công anh
lá cây bồ công anh
Tác dụng tiêu độc, chữa bệnh sưng vú, tắc tia sữa, mụn nhọt đang sưng mủ. Còn dùng uống để chữa bệnh đau dạ dày, ăn kém tiêu.
Liều dùng cây bồ công anh
Dùng 10 – 15g lá khô dạng thuốc sắc. Dùng 20 – 40g lá tươi giã với ít muối, vắt nước cốt uống, bã đắp chỗ viêm tấy.
hoa cây bồ công anh
Đơn thuốc có thành phần là cây bồ công anh
> Chữa sưng vú, tắc tia sữa: 20 – 40g lá tươi, rửa sạch, thêm ít muối, giã nát, vắt lấy nước uống, bã đắp lên chỗ vú sưng đau, ngày 1 – 2 lần. Hoặc Bồ công anh 120g, Sài đất 80g, lá Quýt hôi 40g, nước 60ml sắc còn 200ml, chia 2 lần uống sáng và tối.
> Chữa đau dạ dày: Bồ công anh 20g, lá Khôi 15g, lá Khổ sâm 10g, nước 300ml, đun sôi 15 phút, thêm chút đường đủ ngọt, uống 1 ngày 1 thang. Uống đợt 10 ngày, nghỉ 3 ngày rồi uống tiếp, uống đến khi khỏi bệnh.
> Mắt đau sưng đỏ: Bồ công anh 40 g, dành dành 12 g. Sắc uống ngày một thang.
> Viêm tuyến vú, tắc tia sữa:Bồ công anh 30-50 g tươi, giã nát vắt lấy nước cốt uống, bã đắp lên vú.
> Mụn nhọt: Bồ công anh 40 g, bèo cái 50 g, sài đất 20 g. Sắc uống ngày một thang.
> Viêm họng: Bồ công anh 40 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo nam 10 g. Sắc uống ngày một thang.
> Viêm loét dạ dày, tá tràng: Bồ công anh 40 g, lá khôi, nghệ vàng 20 g, mai mực 10 g, cam thảo 5 g. Sắc uống ngày một thang.
> Viêm phổi, phế quản: Bồ công anh 40 g, vỏ rễ dâu 20 g, hạt tía tô 10 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo nam 10 g. Sắc uống ngày một thang.
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:360.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh

XtGem Forum catalog