pacman, rainbows, and roller s
KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
HẠ MÃ PHONG
Là chứng bệnh xẩy ra sau khi phòng dục, giao hợp.
Nguyên Nhân
Sau khi giao hợp rồi bất cẩn bị nhiễm gió lạnh hoặc mới bệnh khỏi mà đã giao hợp nên bị nhiễm bệnh.
Chứng: Sau khi giao hợp khoảng nửa giờ trở lên, đàn ông thì dịch hoàn co rút lên, đàn bà thì đầu vú co lại, cơ thể và mặt tái xanh, tay chân co quắp, đầu nặng, run lạnh, dụng dưới đau và nặng trằn rất khó chịu.
Điều Trị:
+ Can khương (Gừng khô) 80g, Nhân sâm 20. Tán bột. Mỗi lần dùng 12g uống với nước nóng. Uống xong trùm chăn cho ra mồ hôi là bệnh sẽ giảm.
+ Củ Hẹ (cả củ lẫn lá) 3 củ, Mè đất 1 nắm (20g), Cỏ Bạc đầu 1 nắm (20g), Củ cỏ cú tươi 20g, Củ tỏi sống 3 tép, Rau Má tươi 20g, Gừng sống 3 lát to. Giã nát, hòa với 1 chung rượu (10ml) cho uống, bã dùng để đắp vào lỗ rốn. Rất công hiệu.
+ Gừng già 12g, Hẹ 3 tép, Ngải cứu 12g. Giã nát, hòa với ít rượu, xào nóng, đắp vào rốn. Hễ nguội lại thay miếng khác, liên tục vài lần sẽ khỏi
HẦU CAM
Chứng trạng chung: Họng cảm thấy khô, nháp, hơi sưng đau, mầu hồng nhạt, ăn uống không thông, họng lở loét, gáy nổi hạch, sau đó đầu họng nổi mụn đỏ nhỏ, dần dần biến thành tím sẫm, vỡ ra, hôi thối. Nếu lâu ngày sẽ ăn lan lên mũi, uống thuốc hoặc nước vào thì lại theo lỗ mũi mà sặc, ăn uống bị trở ngại, dinh dưỡng kém nên cơ thể dần dần bị gầy ốm.
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
1- Phong Nhiệt Xâm Nhập
Chứng: Họng khô giống như lông cỏ đâm vào họng. Trong họng như có vật gì vướng, họng đỏ, đau, tiếng nói nhỏ, bên trong họng mầu vàng trắng, có nhiều chỗ lở loét, có mủ, có nhiều đám to nhỏ khác nhau. Nhỏ thì như hạt cải, lớn thì giống hột đậu đỏ, chung quanh mầu đỏ, sốt, sợ lạnh, đau đầu, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Phù Sác.
Nguyên nhân: Do phong nhiệt xâm nhập vào, tắc lại ở Phế gây nên lở loét thành chứng cam.
Điều trị: Sơ phong, thanh nhiệt, giải độc, lợi yết.
Dùng bài Ngân Kiều Tán (31) hợp với Lục Vị Địa Hoàng Gia giảm (27).
2- Vị Uẩn Nhiệt
Chứng: Họng sưng đau, nuốt khó, đầu trên họng mầu vàng trắng, có vài chỗ lở loét, quanh chỗ loét mầu đỏ, thở ra có mùi hôi, táo bón, nước tiểu vàng, khát, rêu lưỡi vàng, mạch Sác.
Nguyên nhân: Do ăn uống không điều độ, ăn nhiều thức ăn cay, nóng, nướng, uống nhiều rượu… làm cho nhiệt tích ở Vị, nhiệt tà bốc lên họng gây nên lở loét, sinh ra chứng cam.
Điều trị: Thanh Vị, giải độc, tả nhiệt, lợi yết.
Dùng bài Lương Cách Tán Gia Giảm (29).
(Hoàng cầm, Liên kiều để thanh nhiệt, tả hỏa; Bạc hà, Trúc diệp thanh sơ nhiệt ở Phế, Vị; Địa hoàng, Phác tiêu, Cam thảo thanh hạ, tả nhiệt).
3- Giang Mai Kết Độc
Chứng: Họng đau, lở loét thành vết lõm, ăn lan lên cả đến hốc mũi, làm ảnh hưởng đến tiếng nói.
Nguyên nhân: Do giang mai sang độc tiềm phục ở huyết mạch, độc tà kết ở họng gây nên chứng cam.
Điều trị: Khứ tà, giải độc, thanh nhiệt, lợi yết.
Dùng bài Giang Mai Nhất Tế Tán (15).
(Ma hoàng, Khương hoạt, Bạch chỉ để khứ phong, tán tà; Thuyền thoái sơ giải, lợi yết; Kim ngân hoa, Tạo giác thích, Xuyên sơn giáp để bài nùng, giải độc; Đại hoàng tả hỏa, giải độc; Uy linh tiên trừ thấp, thông lạc).
Tỳ Giải Thang (61), Thổ Phục Linh Thang (50).
4- Thận Âm Hư Tổn
Chứng: Họng sưng đau, lở loét, họng khô, nuốt khó, đau ngày càng tăng, lưng đau, gối mỏi, môi hồng, gò má đỏ, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ, mồ hôi trộm, gò má đỏ, tai ù, điếc, mạch Tế, Sác.
Nguyên nhân: Do Thận dịch hao thiếu, tướng hỏa bốc lên gây nên.
Điều trị: Bổ ích Can Thận, tư âm, giáng hỏa.
Dùng bài Tri Bá Địa Hoàng Hoàn (55)
Hoặc Đại Bổ Âm Hoàn (09).
( Hoàng bá, Tri mẫu vị đắng, tính hàn để tả hoả; Thục địa đại bổ thận âm; Quy bản, Tuỷ sống heo là các vị thuốc tốt, thuộc về huyết nhục, có tác dụng trấn tinh, ích tuỷ. Các vị thuốc phối hợp có tác dụng bổ âm, tả hoả. Tả hoả có thể làm tổn âm; Tư âm có thể chế hoả, vì vậy, có tác dụng tư âm giáng hỏa).
HẦU KHUẨN
Chứng: Hai bên họng mọc mụn to như nấm (khuẩn), hoặc như bèo cái, cao mà dầy, mầu đỏ tím, chạm đến dễ bị chảy máu, nuốt khó, nấm ngày càng lớn, hơi thở hôi, khan tiếng, tiếng nặng. Phụ nữ bị nhiều hơn.
Nguyên nhân:
Do Thận âm suy, hư hỏa bốc lên nung nấu họng gây nên hoặc do thất tình uất kết, huyết nhiệt, khí trệ kết lại gây nên.
Điều trị:
Tư âm, giáng hỏa hoặc lý khí, giải uất.
Kinh Phòng Bại Độc Tán (20)
(Khương hoạt + Kinh giới + Phòng phong có tác dụng tân ôn giải biểu, phát tán phong hàn; Độc hoạt ôn thông kinh lạc; Xuyên khung hoạt huyết, khu phong; Sài hồ giải cơ, thanh nhiệt; Bạc hà sơ tán phong nhiệt; Tiền hồ + Cát cánh thanh tuyên phế khí; Chỉ xác khoan trung, lý khí; Phục linh lợi thấp.
Thanh Yết Lợi Cách Thang (46) bỏ Tiêu, Hoàng, thêm Bách thảo sương, Mã bột làm tá, Tri Bá Địa Hoàng Hoàn (55), Sài Hồ Sơ Can Tán (38).
Thuốc thổi:
. Tích Loại Tán (82),
. Thanh Yết Lợi Hầu Tán (47), ngày 3 – 5 lần
HẦU LỰU
Chứng:
Một hoặc hai bên họng có bướu, giống như quả nhãn, trái lựu, đầu to, dưới nhỏ, mầu đỏ tím, họng sưng đau, nuốt khó.
Nguyên nhân:
Do uất ức, tức giận làm Can bị tổn thương, Can khí uất kết, khí trệ, huyết ngưng, đờm trọc ngưng tụ lại ở họng gây nên bệnh.
Điều trị:
Sơ Can, giải uất, hoạt huyết, hóa ngưng.
Dùng bài Tiêu Dao Tán (52) thêm Hồng hoa, Đào nhân, Xuyên khung, Hương phụ, Uất kim
Thuốc thổi: Xạ Hương Tán (85).
HẦU PHONG
Là một dạng bệnh nặng về họng làm cho khó thở, trong họng có nhiều đờm.
Thuộc loại Khó Thở Thanh Quản Cấp Tính.
Người xưa xếp Hầu Phong vào loại Hầu Tý.
Đời Đường, Sào Nguyên Phương, trong ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: “Chứng hầu tý, họng sưng, nghẹn, đau, nước uống không vào được. Do khí âm dương từ Phế xuất ra, theo họng mà đi lên xuống. Phong độc khách ở họng, khí bị uất kết lại gây nên nhiệt, làm cho họng sưng, nghẹt mà đau”.
Đời Tống, sách ‘Yết Hầu Mạch Chứng Thông Luận’ cho rằng do Phong, đờm, thấp, nhiệt tích lại bên trong, kèm ăn uống thức ăn nhiều chất béo, phòng lao, tinh thần uất ức nên phát sinh chứng Hầu phong.
ChuĐan Khê cho là do đờm hỏa hoặc do âm hư, hỏa bốc lên họng gây nên.
Sách ‘Ngoại Khoa Bí Chỉ’ nêu lên 12 chứng Hầu Phong, sách ‘Hầu Khoa Chỉ Chưởng’ giới thiệu 16 loại Hầu phong, sách ‘Hầu Khoa Toàn Khoa Tử Trân Tập’ nêu lên 18 loại, sách ‘Trọng Lâu Ngọc Thược’ ghi lại 36 chứng Hầu phong.
Triệu chứng
Trên lâm sàng có thể gặp 5 loại sau:
1- Do Phong Nhiệt Bên Ngoài Xâm Nhập Vào
Chứng: Phát bệnh đột ngột, họng đau, trong họng khò khè, họng nghẹt. Đến giai đoạn sau thì khó thở, cơ thể lạnh, rét run, ho có đờm vàng, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Phù Sác.
Điều trị: Sơ phong, thanh nhiệt, giải độc.
Dùng: Kinh giới, Phòng phong, Bạc hà, Ngưu bàng tử, Kim ngân hoa, Liên kiều, Thiên hoa phấn, Thăng ma, Cương tằm, Cát cánh. Sắc uống (Trung Y Cương Mục).
(Kinh giới, Phòng phong, Bạc hà để sơ tán tà khí ở biểu; Ngưu bàng tử, Cát cánh để thanh nhiệt, giải độc, tán đờm kết, lợi hầu, tiêu thủng; Thăng ma tán phong, giải độc; Ngân hoa, Liên kiều thanh nhiệt, giải độc, lợi hầu, Thiên hoa phấn sinh tân, thanh nhiệt,; Cương tằm khứ phong, hóa đờm).
Thuốc xông: Tử tô, Khương hoạt, Kha tử, Cúc hoa, Bội lan, Bạc hà, đều 10g, sắc lấy nước xông vào họng để khứ phong, thanh nhiệt, tiêu thủng, khai khiếu. Ngày 3 - 4 lần.
2- Tỳ Vị Có Nhiệt
Chứng: Họng đau như kim đâm, đờm dãi ủng tắc, họng sưng đỏ, trong họng có tiếng khò khè, hít thở khó, ăn uống khó khăn, sốt cao, mê man, bụng đầy trướng, táo bón, tiểu ít, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi vàng, mạch Hồng Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt, giải độc.
Dùng bài Tam Hoàng Lương Cách Tán (39) (Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá thanh nhiệt ở thượng tiêu; Ngân hoa, Thiên hoa phấn, Huyền sâm, Chi tử, Cam thảo thanh nhiệt, giải độc; Trần bì, Thanh bì lý khí, thông cách, tả nhiệt; Bạc hà, Xạ can tán biểu, lợi hầu, hỗ trợ cho Đương quy, Xuyên khung, Xích thược để tán ứ, khứ nhiệt).
3- Tà Độc Ủng Thịnh
Chứng: Họng sưng đau, nói khó, âm thanh khàn, nước uống không xuống, đờm khò khè, hàm răng cắn chặt, miệng khó mở, gáy và mang tai sưng đau, đau lan ra trước ngực, gáy cứng, sốt cao, phiền táo, mặt đỏ, khát, táo bón, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi vàng, mạch Hồng Sác có lực.
Điều trị Thanh nhiệt, giải độc, khứ đờm, tiêu thủng.
Dùng bài Thanh Ôn Bại Độc Ẩm (42) gia giảm.
(Đây là bài Thanh Ôn Bại Độc Ẩm thêm Thiên trúc hoàng, Bối mẫu, Qua lâu, Đại hoàng và Mang tiêu. Trong bài dùng Thanh Ôn Bại Độc Ẩm để thanh khí và huyết, tả hỏa, giải độc; Thêm Thiên trúc hoàng, Bối mẫu, Qua lâu để thanh nhiệt, khứ đờm; Thêm Đại hoàng, Mang tiêu để tả nhiệt, thông tiện).
Hoặc dùng bài Ngũ Vị Tiêu Độc Ẩm (33) hợp với Tê Giác Địa Hoàng Thang (40).
Thuốc thổi: Dùng Khai Quan Thần Ứng Tán (70) thổi vào mũi để đạo đờm, khai khiếu. Mỗi ngày một lần.
4- Tà Độc Nội Hãm
Chứng: Họng sưng đau, sốt cao, mê man, hô hấp khó khăn, lưỡi xanh, mặt đen, mồ hôi trên trán ra thành giọt, tay chân lạnh, mồ hôi ra như tắm, mạch Trầm, Vi muốn Tuyệt.
Điều trị: Giải độc, hóa đờm, khai khiếu.
Chọn dùng An Cung Ngưu Hoàng Hoàn (01), Tử Tuyết Đơn, Chí Bảo Đơn (04).
5- Phế Thận Âm Hư
Chứng: Họng đau, nuốt như có gì vướng, tiếng nói khàn, lưng đau, chân mỏi, môi hồng, gò má đỏ, chóng mặt, tai ù, lưỡi đỏ xậm, rêu lưỡi ít mà khô, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư âm, giáng hỏa, thanh nhiệt, lợi hầu.
Dùng Thục địa, Sơn thù, Sơn dược, Mạch môn, Bối mẫu, Huyền sâm, Hoàng bá, Tri mẫu, Cát cánh, Ngân hoa, Liên kiều (Trung Y Cương Mục).
(Thục địa, Sơn thù, Sơn dược tư bổ Thận âm; Mạch môn, Bối mẫu, Huyền sâm tư bổ Phế âm, lợi hầu; Hoàng bá, tri mẫu tư âm, giáng hỏa; Cát cánh, Ngân hoa, Liên kiều thanh nhiệt, lợi hầu).
Thuốc thổi: Chu Hoàng Tán (67) ngày 3 lần.
HẦU SA
Chứng: Lúc đầu sốt, rét, họng sưng, nổi vết ban đỏ, nuốt xuống thì đau, khát, ngực đầy, rêu lưỡi vàng nhờn, rìa lưỡi và chót lưỡi đỏ sẫm, mạch Sác hoặc Trầm giống như Phục. Sau đó đầu họng lở loét, hơi thở hôi, khắp cơ thể nổi mụn đỏ.
Vì vết thương lở loét, có những hạt nhỏ như cát, mầu đỏ, vì vậy gọi là Lạn Hầu Đơn Sa.
Nguyên nhân:
Do cảm nhiễm khí dịch lệ, uế khí độc hoặc táo nhiệt gây nên.
Điều trị:
+ Mới bệnh: Tán biểu, dùng bài Kinh Phòng Bại Độc Tán (20)
(Khương hoạt + Kinh giới + Phòng phong có tác dụng tân ôn giải biểu, phát tán phong hàn; Độc hoạt ôn thông kinh lạc; Xuyên khung hoạt huyết, khu phong; Sài hồ giải cơ, thanh nhiệt; Bạc hà sơ tán phong nhiệt;
Tiền hồ + Cát cánh thanh tuyên Phế khí; Chỉ xác khoan trung, lý khí; Phục linh lợi thấp).
Thanh Yết Lợi Cách Thang (46) bỏ Tiêu, Hoàng, thêm Bách thảo sương, Mã bột làm tá.
+ Nếu hỏa đã vào phần vinh: nên dùng phép thanh vinh, giải độc. Dùng thuốc sơ thấu làm tá.
. Nhẹ thì dùng Hắc Cao Thang (16)
. Nặng thì dùng Tê Giác Địa Hoàng Thang (40)
(Tê giác, Đơn bì thanh huyết nhiệt để dẫn huyết xuống; Sinh địa, Bạch thược hòa huyết, bổ huyết)
HẦU TIÊN
Trong họng có những vết loét như mang cá tươi (tiên) vì vậy gọi là Hầu Tiên.
Trên lâm sàng thường gặp hai loại sau:
1- Vị Hỏa Thượng Chưng
Chứng: Họng lở loét, hôi thối, táo bón, nước tiểu vàng, rêu lưỡi vàng, mạch Sác, có lực.
Nguyên nhân: Do ăn thức ăn cay nóng, uống nhiều rượu, nhiệt tụ lại ở Vị, bốc lên nung nấu họng gây nên.
Điều trị: Thanh Vị, tả hỏa, lợi yết.
Dùng bài Thanh Vị Tán Gia Giảm (44).
Hoặc Ngọc Nữ Tiễn Gia Giảm (32).
(Thạch cao, Tri mẫu thanh dư hỏa ở dương minh, làm quân; Thục địa bổ thủy ở thiếu âm bất túc, làm thần; Mạch môn tư âm, sinh tân, làm tá; Ngưu tất dẫn nhiệt ở phần huyết đi xuống, làm sứ).
2- Can Thận Âm Hư
Chứng: Trong họng và vòm họng có những mạch máu đỏ chằng chịt hết các chỗ, giống như những nốt nhỏ mà ngứa, đau, khô. Thức ăn thì may ra có thể nuốt xuống được nhưng nước hoặc thuốc thì một giọt cũng khó xuống được. Họng khô, nháp mà ngứa, về đêm bệnh càng nặng.
Không chữa kịp thì dần dần khan tiếng, mất tiếng, nghẹn mà chết.
Nguyên nhân: Do Can Thận âm hư tổn, hư hỏa bốc lên, tân dịch không nhuận lên trên họng được, Phế nhiệt nung nấu gây nên bệnh. Thường gặp nơi người bị lao.
Điều trị: Không nên dùng thuốc có vị đắng, tính hàn, vì có thể làm cho Vị bị tổn thương. Có thể chọn dùng:
Lục Vị Địa Hoàng Hoàn (27), Dưỡng Âm Thanh Phế Thang (06), Tri Bá Địa Hoàng Hoàn Gia Giảm (55), Đại Bổ Âm Hoàn Gia Giảm (09).
Thuốc thổi: Nên dùng Phàn Tinh Tán (76) để thổi vào.
HẬU MÔN RÒ
Hậu môn rò là di chứng của các loại viêm nhiễm quanh vùng hậu môn.
Nguyên Nhân:
Do thấp nhiệt khiến cho khí huyết ở vùng hậu môn bị ứ trệ, hóa thành mủ, khi vỡ mủ loét không liền miệng, lâu ngày hóa thành lỗ rò.
Triệu Chứng: Thường không thấy triệu chứng toàn thân, chủ yếu chỉ có các triệu chứng tại chỗ: Lỗ dò chảy mủ lỏng, ngứa đau, lúc nhẹ lúc nặng. Thăm hậu môn thấy có lỗ rò ra ngoài, mặt ngoài lỗ rò có chất ba đậu, ấn chung quanh có mủ chảy ra, quanh lỗ rò có các tổ chức xơ hóa, ấn đau, dùng que thông rò thấy lỗ rò thông từ hậu môn đến mặt trong của trực tràng.
Điều trị:
+ Phẫu thuật làm mất lỗ rò.
+ Dùng thuốc loại tiêu viêm để giảm nhẹ triệu chứng nhưng kết quả không hoàn toàn.
Căn cứ vào những triệu chứng bệnh, có thể phân ra:
1- Thể Thấp Nhiệt Ở Đại Trường: Gặp ở thời kỳ lỗ rò đang viêm nhiễm hoặc lỗ rò kín miệng nhưng bên trong đang bị bội nhiễm.
Chứng: Sốt, có lúc sốt lạnh, miệng khô, thích uống lạnh, táo bón, nước tiểu ngắn, đỏ, tại chỗ sưng nóng đỏ, đau tức vùng hậu môn, ấn vết rò thấy lõm, có khi ra mủ mầu vàng loãng, lưỡi đỏ, rêu vàng dầy, mạch nhanh.
Điều trị: Thanh nhiệt hóa thấp. Dùng bài Long Đởm Tả Can Thang gia giảm: Long đởm thảo, Mộc thông, Đương quy, Sinh địa, Trạch tả đều 12g, Xa tiền tử, Sài hồ, Hoàng cầm đều 16g, Chi tử 8g, Cam thảo 4g (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
2- Thể Âm Hư: Gặp ở các trường hợp rò hậu môn trực tràng do lao.
Chứng: Sốt hâm hấp, bệnh kéo dài, nhức trong xương, mồ hôi trộm, mạch Tế Sác.
Điều trị: Dưỡng âm thanh nhiệt. Dùng bài Thanh Cốt Tán: Tần giao, Miết giáp đều 12g, Thanh hao 16g, Địa cốt bì, Tri mẫu, Hồ hoàng liên, Ngân sài hồ đều 8g, Cam thảo 4g. Sắc uống (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
3- Khí Huyết Đều Hư: Gặp ở các trường hợp bệnh kéo dài gây suy nhược toàn thân: Sắc mặt trắng bệch, người gầy, hoa mắt, mêtyj mỏi, chỗ rò không sưng, mầu tía, mủ loãng, đau nhẹ, rêu lưỡi trắng, mạch Nhu Hoãn.
Điều trị: Bổ khí huyết. Dùng bài Bát Trân Thang gia giảm: Thục địa, Đảng sâm, Kê huyết đằng đều 16g, Phục linh, Xuyên khung đều 8g, Đương quy, Bạch truật, Hạ khô thảo, Liên kiều đều 12g, Cam thảo 4g. Sắc uống (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
HEN SUYỄN
(Háo Suvễn – Asthma - Asthme)
Đại Cương
Hen suyễn là một hội chứng bệnh lý của cơ quan hô hấp mà đặc trưng chủ yếu là khó thở và tiếng đờm khò khè trong họng.
Sách ‘Y Học Chính Truyền’ định nghĩa: “Suyễn thì thở không to, háo thì thở có tiếng”.
Sách ‘Y Học Nhập Môn’ viết: “Thở gấp là suyễn, trong họng có tiếng kêu là háo”.
Tuy một vài sách đã tách Háo (hen) và Suyễn ra làm hai bệnh khác nhau, tuy nhiên, trên lâm sàng, hai bệnh này thường đi đôi với nhau, xuất hiện cùng lúc và là triệu chứng chính của bệnh hen suyễn, vì vậy, về nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh, biện chứng luận trị và phương pháp điều trị có thể dùng như nhau.
Chứng háo suyễn thường gặp trong các bệnh hen phế quản, phế quản viêm thể hen, phế khí thủng, tâm phế mạn (hen tim) và nhiều bệnh khác như phổi viêm, áp xe phổi, bụi phổi, lao phổi, giãn phế quản...
Năm 1819 Laenec đã mô tả đờm ‘hạt trai’ và gọi là Hen phế quản để phân biệt với các bệnh khác của phế quản cũng gây nên khó thở.
Năm 1958 Hen phế quản được định nghĩa là tổn thương đặc trưng bởi sự tắc nghẽn toàn thể bộ hô hấp, thay đổi nhanh chóng một cách tự phát hoặc dưới tác dụng của điều trị.
Năm 1975, Hiệp hội lồng ngực và Hội các thầy thuốc về hô hấp của Mỹ định nghĩa: Hen phế quản là bệnh đặc trưng bởi tình trạng tăng hoạt tính của đường hô hấp đối với các kích thích khác nhau, biểu hiện bằng sự kéo dài thời kỳ thở ra. Tình trạng này thay đổi một cách tự nhiên hoặc do tác dụng của điều trị.
Năm 1980 Charpin J (Pháp) cho rằng Hen phế quản là một hội chứng có những cơn khó thở rít kịch phát thường xẩy ra về đêm.
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới. Hen phế quản là tổn thương đặc trưng bởi những cơn khó thở gây ra do các yếu tố khác nhau, do vận động kèm theo các triệu chứng lâm sàng tắc nghẽn toàn bộ hoặc một phần, có thể phục hồi được giữa các cơn.
Phân Loại
. Theo YHCT
YHCT vẫn chưa thống nhất được cách phân loại Hen suyễn, để tiện việc nghiên cứu, tham khảo, chúng tôi ghi lại đây một số quan điểm của người xưa:
+ Đời nhà Minh, năm 1624, Trương Cảnh Nhạc trong bộ ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’ đã phân háo suyễn thành 2 loại chính là Hư và Thực (Sau này Diệp Thiên Sỹ, đời nhà Thanh, thế kỷ 17) bổ sung như sau: bệnh ở Phế là Thực, bệnh ở Thận là Hư).
+ Đời nhà Thanh (1644), Ngô Khiêm trong ‘Y Tông Kim Giám’ chia làm 5 loại: Hoả nhiệt suyễn cấp, Phế hư tắc suyễn, Phong hàn suyễn cấp, Đờm ẩm suyễn cấp, Mã tỳ phong.
+ Sách ‘Trung Y Học Nội Khoa’ dựa theo Suyễn và Háo chia thành: Thực suyễn, Hư suyễn và Lãnh háo, Nhiệt háo.
+ Ban Thế Dân trong bài ‘Thảo Luận Về Cơ Chế Và Biện Chứng Luận Trị Bệnh Hen Phế Quản’ (năm 1958) chia làm hai loại Thực và Hư.
+ Khoa phổi bệnh viện Thượng Hải chia ra: Thực Suyễn (gồm Phong hàn, Phong nhiệt, Đờm thực, Hoả uất) và Hư Suyễn (gồm Phế hư và Thận hư).
+ Trương Kim Hằng trong bài ‘Thảo Luận Về Bệnh Háo Suyễn’ trong ‘Cáp Nhĩ Tân Trung Y Tạp Chí’ số 3/1962 chia háo suyễn thành 5 loại: Hàn suyễn, Nhiệt suyễn, Tâm tạng suyễn, Thận hư suyễn, Phế và Khí quản suyễn.
+ Chu Đức Xuân trong bài ‘Nhận Xét 217 Trường Hợp Hen Điều Trị Bằng Đông Tây Y Kết Hợp’ phân thành: Hen hàn, Hen nhiệt, Hen do khí hư, Hen thể đờm thực.
. Theo YHHĐ
Sách ‘Bệnh Học Nội Khoa’ của đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh năm 1982 phân Hen suyễn thành 2 loại:
+ Hen Ngoại Sinh (Asthme Extrinseque = Asthme Allergique): Nhóm người bệnh thường hen suyễn từ nhỏ, trẻ tuổi, có tiền sử dị ứng rõ ràng.
+ Hen Nội Sinh (Asthme Intrinseque = Asthme infectieux) thường bắt đầu xuất hiện sau nhiều đợt nhiễm trùng hô hấp kéo dài trên bệnh nhân lớn tuổi, không có tiền căn dị ứng.
Nguyên Nhân
Theo y học hiện đại thì các yếu tố được xem là nguồn gốc đưa đếùn cơn hen suyễn là:
1- Dị ứng (có khoảng 20 – 30% do di truyền) mà chất gây nên dị ứng có thể là vi khuẩn, sán lãi, các chất hít vào như phấn hoa, bụi nhà, khói, lông da thú vật, chất độc hoá học, thuốc trị bệnh, có thể là thức ăn… Hoặc cơn hen xuất hiện theo mùa.
2- Thức ăn và thuốc
. Trong một số thức ăn có dị ứng tố như sữa bò, trứng, cá, tôm, cua... hoặc một số hoa quả...
. Thuốc Aspirin và những chất đồng loại có thể gây nên cơn hen trong vòng 2 giờ sau khi uống.
3- Không khí ô nhiễm như trong Hen Tokyo, Yokohama, hen New Orlean...
4- Nghề nghiệp: Có thể do tiếp xúc với dị nguyên đặc biệt hoặc do tác dụng của chất kích thích trên một cơ địa có hen dị ứng tiềm ẩn sẵn.
5- Nhiễm trùng hô hấp: thường là yếu tố làm cho bệnh trở nên kịch phát.
6- Thần kinh: những sang chấn về tâm lý có thể là nguyên nhân gây ra cơn hen.
7- Hoạt động thể học: cơn hen xẩy ra mỗi khi người bệnh vận động gắng sức.
Theo y học cổ truyền: chứng hen suyễn phát sinh do 3 nguyên nhân:
1- Do Ngoại Tà xâm nhập (Theo Thượng Hải và Thành Đô): Thường gặp loại Phong hàn và phong nhiệt.
Phong hàn phạm vào Phế khiến Phế khí bị ủng tắc thăng giáng thất thường, nghịch lên thành suyễn.
Phong nhiệt từ đường hô hấp vào Phế hoặc phong hàn bị uất lại hoá thành nhiệt không tiết ra được gây nên sưng phổi, khí quản bị ảnh hưởng gây ra suyễn.
. Thiên ‘Thái Âm Dương Minh Luận’ (Tố Vấn 29) viết: “Cảm phải phong tà nhập vào lục phủ sẽ phát sinh sốt không nằm được, sinh ra chứng hen suyễn”.
. Thiên ‘Ngũ Tà’ (Linh Khu 20) viết: Bẹnh tà ở Phế sẽ phát sinh đau nhức ngoài da, sợ lạnh, sốt, khí nghịch lên, thở suyễn, ra mồ hôi, ho, đau lan đến vai, lưng”.
. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ ghi: “Do ăn uống không điều độ, do những tà khí phong, hàn, thử thấp làm cho Phế khí trướng đầy gây nên suyễn”.
. Sách ‘Y Tôn Tất Độc’ ghi: “Chứng háo là do đờm hoả uất bên trong, cảm phong hàn bên ngoài hoặc nằm ngồi cảm phải hàn thấp”.
. Sách ‘Y Quán’ viết: “Phong hàn thử thấp... làm cho Phế khí trướng mãn gây ra suyễn”.
. Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’ viết: “Thực suyễn nếu không do phong hàn thì do hoả tà”.
2- Do Phế Thận Hư Yếu: Do ho lâu ngày hoặc bệnh lâu ngày làm Phế bị suy, phế khí và đường hô hấp bị trở ngại gây nên suyễn. Hoặc do Thận hư yếu không nhuận được Phế, không nạp được khí gây nên suyễn.
Như vậy bệnh suyễn chủ yếu ở Phế, có quan hệ với Thận và nếu nặng hơn có quan hệ cả với Tâm.
Vì theo Nội Kinh: mọi chứng ho, đầy tức, hơi thở đều thuộc về Phế. Phế chủ khí, khí chủ thăng giáng. Khí thuận (giáng) thì bình thường, Phế nghịch (đi lên) thì gây nên suyễn. Ngoài ra Tâm Phế suy yếu lâu ngày, Phế khí thiếu làm ảnh hưởng đến tim cũng gây ra suyễn. Tương ứng chứng bệnh Tâm Phế mạn của YHHĐ.
Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ viết: “Chứng đột nhiên suyễn, lo sợ, mạch Phù là phần lý bị hư”.
Sách ‘Chứng Trị Chuẩn Thằng’ viết: “Phế hư thì khí thiếu mà suyễn”.
3- Do Tỳ phế hư yếu: Tỳ hư sinh đàm thấp thịnh ứ đọng tại phế gây tắc phế lạc. khí đạo không thông làm cho khó thở. Hoặc bệnh lâu ngày phế hư không chủ khí sinh khí nghịch khó thở. Thận chủ nạp khí, do bẩm sinh hoặc bệnh lâu ngày ảnh hưởng đến thận, thận không nạp được khi cũng sinh khó thở.
4- Do Đờm Trọc Nội Thịnh (Thượng Hải): Do ăn uống không điều độ hoặc bừa bãi làm ảnh hưởng đến công năng vận hoá của Tỳ, tích trệ lại thấph đờm. Trong thức ăn có những chất làm tổn thương tỳ vị, tỳ vận hoá kém, thuỷ cốc dễ sinh thấp đàm ứ đọng tại phế gây tắc phế lạc, phế khí bị trở ngại gây nên hen. Thường gặp ở những bệnh nhân tỳ hư, đàm thịnh. Hoặc người vốn có đờm thấp tích trệ đi ngược lên lên gây thành đờm, ủng trệ ở Phế, làm cho khí cơ và sự thăng giáng của Phế bị ngăn trở gây ra suyễn. Hoặc do Phế nhiệt nung nấu tân dịch thành đờm, đờm hoả gây trở ngại thành suyễn.
Sách ‘Ấu Ấu Tập Thành’ viết: “Bệnh do đờm hoả nội uất, ngoại cảm phong hàn, có lúc do ngoại cảm, có lúc do nội nhiệt, cũng có khi do tích thực...
Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ ghi: “Do ăn uống không điều độ... làm cho Phế khí đầy trướng sinh ra suyễn”.
Sách ‘Chứng Trị Hối Bổ’ ghi: “Hen là đờm suyễn lâu ngày phát ra, vì bên trong có khí tắc nghẹt, bên ngoài khí hậu trái mùa tác động vào trong ngực, làm cho đờm kết lại, bế tắc đường khí, phát rá tiếng, gây ra hen”.
Sách ‘Nhân Trai Trực Chỉ’ viết: “Tà khí ẩn náu trong nội tạng, đờm dãi đưa lên khó thở, vì vậy khí nghịch lên gây ra thở gấp (suyễn)”.
So sánh với các nguyên nhân mà YHHĐ nêu ra, có thể thấy:
+ Tuy YHCT không nêu lên yếu tố dị ứng (allergy) và vi trùng, nhưng cũng đã thống nhất với YHHĐ về nhận định rằng sự thay đổi thời tiết, ăn uống và lao lực cũng có thể là những yếu tố gây nên hen suyễn.
+ Sự thay đổi về tinh thần như quá sợ, quá giận dữ, bi quan... cũng là những yếu tố làm cho cơ năng vỏ não hỗn loạn, gây nên sự mất thăng bằng giữa hai hệ thần kinh giao cảm và đối giao cảm đều là cơ địa dễ gây nên hen suyễn.
Cơ Chế Sinh bệnh
Theo YHHĐ
Đa số các sách giáo khoa của YHHĐ đều nhắc đến 3 yếu tố chính gây nên hen suyễn:
1- Nguyên nhân dị ứng đối với cơ thể.
2- Cơ địa dị ứng (thường gặp nơi người có cơ địa dễ mất điều chỉnh ở hệ thần kinh).
3- Gai kích thích (có thể ở bộ phận hô hấp như phổi viêm, polyp mũi... hoặc ở ngoài đường hô hấp như ruột viêm, túi mật viêm, sỏi mật...).
Đi sâu vào cơn hen, sách ‘Bệnh Học Nội Khoa’ (ĐHYD thành phố HCM) cho rằng có 3 hiện tượng được ghi nhận như sau:
1- Phế quản hẹp lại: đường kính phế quản đột nhiên bị hẹp lại là cơ chế chính của cơn hen. Có 3 lý do: phế quản co thắt, niêm mạc phế quản phù nề và niêm mạc phế quản tăng tiết.
Ngoài ra, còn có 2 cơ chế phụ:
+ Cơ hô hấp co thắt, đặc biệt là cơ ngực và cơ hoành. Đây có thể là một co thắt phản xạ của các cơ hít vào do phế quản bị co thắt gây ra. Tuy nhiên cũng có thể do việc thần kinh trung ương bị kích thích làm co thắt cùng lúc các cơ của phế quản và cơ hô hấp.
+ Phế nang bị dãn cấp tính: ở thì hít vào của các cơ hô hấp đủ mạnh để thắng một phần nào sức cản do việc phế quản bị hẹp lại, cản trở mạnh lượng không khí từ phế nang đi ra ngoài (do đó sinh ra khó thở, nhất là ở thì thở ra).
Như vậy cơ chế gây ra những hiện tượng kể trên là một chuỗi phản ứng, có thể tóm tắt như sau:
a- Hệ thần kinh đối giao cảm bị kích thích do một yếu tố nào đó, Acetyl choline được tiết ra và làm phế quản co thắt lại.
b- Phản ứng dị ứng kháng nguyên kháng thể tác động vào các dưỡng bào (Mastocystes) làm tiết ra một số hoá chất trung gian như Sérotorine, Bradykinine và đặc biệt là Histamin...
Cơ Chế Sinh Bệnh Hen Suyễn Theo YHCT
Sự giải thích cơ chế sinh bệnh hen suyễn theo YHCT dựa trên học thuyết Ngũ hành và Tạng phủ, trong đó, nổi bật nhất là Phế, Tỳ và Thận (Can và Tâm chỉ quan hệ một phần nhỏ).
Biểu hiện chủ yếu của cơn hen suyễn là khó thở và đờm uất. Khó thở là do chức năng chủ khí của Phế bị rối loạn, khí không giáng xuống được mà lại đi nghịch lên gây ra khó thở.
Chức năng nạp khí của Thạn kém (theo Nội Kinh: Thận chủ nạp khí), Thận không nạp được khí, khí không giáng xuống đi nghịch lên gây ra khó thở.
Tỳ thổ là mẫu (mẹ) của Phế kim, Tỳ hư không sinh được Phế làm cho Phế bị hư yếu gây nên khó thở.
Tỳ hư, chức năng vận hoá kém không biến thuỷ cốc thành tinh chất để nuôi cơ thể mà lại sinh ra đờm thấp, đờm bị tích lại ở Phế làm cho Phế lạc không thông, Phế khí bị uất gây ra khó thở (Đó là ý nghĩa mà sách Nội Kinh nhắc đến: Tỳ là nơi sinh đờm, Phế là nơi trữ đờm).
Thận hư thì thuỷ thấp dâng lên cũng sinh ra đờm làm tắc phế lạc gây ra khó thở.
Ngoài ra, theo quy luật tương khắc của ngũ hành:
. Kim vốn khắc Mộc nhưng nếu Phế kim hư thì mộc có thể phản khắc làm cho Phế hư thêm (vì vậy đa số người bệnh lên cơn khó thở vào khoảng nửa đêm, giờ của mộc khí vượng (Đởm 23-1g, Can 1-3g).
. Tâm hoả vốn khắc Phế kim, tâm chủ thần, vì vậy, sự rối loạn về tinh thần cũng ảnh hưởng đến Phế.
Triệu Chứng
Sách Nội Khoa Học Thượng Hải và Thành Đô đều thống nhất phân làm 2 thể chính: Thực và Hư Suyễn.
A- Thực Suyễn
1- Suyễn Do Phong Hàn Phạm Phế: thở gấp, ngực tức, ho có đờm, lúc mới bị thường sợ lạnh, đầu đau, cơ thể đau nhức, không có mồ hôi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù (Thượng Hải), mạch Phù Khẩn (Thành Đô).
Biện chứng: Phế chủ hô hấp, bì mao, khi bị phong tà xâm nhập vào làm cho bế tắc bên ngoài, phế khí bị uất không thăng giáng được gây ra ho, suyễn, tức ngực. Vì phong hàn bế ở bên ngoài và kinh lạc, do đó, thấy sợ lạnh, đầu đau, không ra được mồ hôi. Mạch Phù là bệnh ở phần Biểu, Khẩn là biểu hiện của hàn.
2- Suyễn Do Phong Nhiệt Phạm Phế (Thượng Hải, Thành Đô): thở gấp, mũi nghẹt, ho, đờm vàng, miệng khô, khát, khan tiếng, tắc tiếng, buồn bực, ra mồ hôi, nặng thì phát sốt, mặt đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Phù Sác (T. Hải), Phù Hồng Sác (T. Đô).
Biện chứng: Bên trong đang có nhiệt lại cảm phải táo và nhiệt ở bên ngoài, hai thứ nhiệt nung đốt Phế, Phế bị nhiệt gây ra ho, suyễn, sốt, mồ hôi ra, Phế và Vị có nhiệt ứ trệ sẽ sinh ra khát, miệng khô, buồn bực. Tâm chủ tiếng nói, Phế chủ âm thanh, nhiệt nung đốt Tâm và Phế gây ra khan tiếng, tắc tiếng. Rêu lưỡi vàng, lưỡi đỏ, mạch Hồng Sác là dấu hiệu nhiệt ở thượng tiêu, Tâm, Phế. Mạch Phù là bệnh ở biểu.
3- Suyễn Do Đờm Trọc Trở Ngại Phế: thở gấp, ho, đờm nhiều, nặng thì ho đờm vướng sặc, hông ngực buồn tức, miệng nhạt, ăn không biết ngon, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Hoạt.
Biện chứng: Đờm trọc ủng tắc ở Phế, làm cho Phế khí không thông giáng xuống được gây ra khó thở, đờm nhiều. Đờm thấp ủng trệ ở Tỳ Vị gây ra hông ngực buồn bực, miệng nhạt, ăn không biết ngon. Mạch Hoạt là biểu hiện của đờm trọc.
B- Hư Suyễn
4- Suyễn do Phế Hư: Thở gấp (suyễn), hơi thở ngắn, mệt mỏi, ho nhẹ, ra mồ hôi, sợ gió, họng khan, rát, miệng khô, lưỡi đỏ nhạt, mạch Nhuyễn Nhược (Thượng Hải), mạch Hư Nhược (Thành Đô).
Biện chứng: Phế chủ khí, Phế hư vì vậy khí yếu, thở ngắn, tiếng nói nhỏ, mệt mỏi. Vệ khí không vững vì vậy sợ gió, họng khan, rát, miệng khô, khí huyết hư yếu nên thấy mạch Nhược.
5- Suyễn Do Thận Hư: Hô hấp yếu, khi cử động mạnh thì thở nhiều, cơ thể gầy ốm, ra mồ hôi, chân tay lạnh, sắc mặt xanh, có khi tay chân và mặt phù nhẹ, tiểu ít, hay mơ, hồi hộp, lưỡi nhạt, mạch Trầm.
Biện chứng: Thận là gốc của khí, Thận yếu không thu nạp được khí vì vậy sinh ra thở ngắn, cử động mạnh thì thở nhiều. Trung tiêu dương khí hư vì vậy ăn uống không tiêu, làm cho cơ thể gầy ốm. Vệ khí yếu vì vậy sợ gió, ra mồ hôi. Dương khí yếu thì chân tay lạnh. Mạch Trầm Tế là biểu hiện của Thận hư, dương khí suy.
C. Điều Trị
Về nguyên tắc điều trị.
+ Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’ hướng dẫn: “Lúc bệnh chưa phát thì dùng phép phù chính là chủ yếu. Lúc đã phát bệnh thì dùng phép công tà làm chính. Phù chính khí phải phân biệt Âm Dương. Âm hư thì bổ âm, dương hư thì bổ dương. Công tà phải chú ý xem tà nặng hoặc nhẹ mà dùng ôn hàn hoặc tán phong hoặc tiêu đờm hoả. Bệnh lâu ngày chính khí thường hư, do đó, trong lúc dùng phương pháp tiêu tán cần thêm thuốc ôn bổ hoặc trong lúc ôn bổ cần thêm thuốc tiêu tán”.
+ Chương ‘Y Trung Quan Kiện’ (Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh) viết: “Uất thì làm cho thông, hoả thì dùng phép thanh đi, có đờm thì làm cho tiêu đi, đó đều là thực tà và cũng dễ chữa. Duy có trường hợp tinh huyết bị kém, khí không trở về nguồn, vì Phế phát khí ra, Thận nạp khí vào. Nay Thận hư không thực hiện được chức năng bế tàng, long lôi hoả do đó mà bốc lên, làm cho Phế khí bị thương, chỉ có thở ra mà không hít vào. Hoả không bị thuỷ ức chế, dương không bị âm liễm nạp, đó là nguy cơ âm vong dương thoát, chết trong chốc lát. Nếu bên ngoài thấy 2 gò má ửng đỏ, mặt đỏ, nửa người trên nóng nhiều, đó là chứng giả nhiệt, chân dương thoát ra ngoài, nếu dùng lầm một ít thuốc hàn, lương thì nguy ngay. Chỉ nên bổ để liễm lại, nạp vào mà thôi…”.
Thuốc trị suyễn theo Đông y thường có tác dụng tán hàn, giáng khí, tiêu đờm, trừ thấp, bổ hư.
1- Tán Hàn
Cơn suyễn thường phát vào lúc trời trở lạnh (mùa Thu, Đông) hoặc lúc gần sáng, khi sương, mưa nhiều, sau một cơn trúng lanh, sau khi tắm, dầm mưa hoặc do dị ứng bởi thức ăn. Trạng thái chung là co thắt. Thuốc tán hàn thường có vị cay, ấm, tính nóng, có tác dụng làm thư giãn cơ trơn, kích thích sự lưu thông máu ở mạch ngoại vi bị ứ trệ.
Những loại thuốc tán hàn như Quế, Gừng, Ngải cứu là những loại có tác dụng ngăn cản sự ứ trệ tuần hoàn mao mạch và chống co thắt, do đó, làm giảm được triệu chứng tức, nặng vùng ngực, vùng rốn phổi mỗi khi lên cơn suyễn.
2- Giáng Khí
Suyễn còn gọi là khí nghịch, để chỉ hiện tượng khó thở, làm cho khí bị đọng lại nhiều trong phế nang, vì phế quản co lại nên điều trị phải làm cho khí giáng xuống, làm cho phế nang giãn ra. Thuốc giáng khí sau
khi uống vào thường làm cho bệnh nhân thở được, trung tiện được, ợ hơi được, làm đỡ tức ngực, bụng.
Thường gồm các loại:
. Tinh dầu (Bạc hà, Trần bì, Thanh bì, Mộc hương, Tử tô...) vừa kích thích hô hấp, dãn phế quản vừa sát trùng.
. Những thuốc có Ancaloid ức chế Phó giao cảm như Cà độc dược, Ma hoàng...
3- Tiêu Đờm
Khi lên cơn suyễn, đờm tiết ra nhiều gây bít phế quản, vì vậy, cần loại tiêu đờm.thường khó tìm được loại thuốc làm cho tan được chất nhầy, do đó, nên làm cho niêm mạc phế quản tiết thêm cho loãng đờm đặc để tống đờm ra ngoài, bằng việc kích thích ho để trục xuất đờm. Những thuốc long đờm thường là loại có Saponin như lá Táo, Bồ kết, Bán hạ...
4- Trừ Thấp
Thấp là ứ các chất Allergotoxin làm tăng sự thẩm thấu thành mạch gây ra hiện tượng phù viêm quanh chu vi mạch của niêm mạc, làm cho đường kính phế quản bị hẹp lại. Các thuốc trừ thấp có tác dụng chống viêm, chống dị ứng thường chứa Flavonoid có tác dụng làm bền vững thành mạch, hạn chế tiết xuất gây viêm.
Trong cơn suyễn, nhất là nơi người mạn tính, lượng nước tiểu thường ít đi, vì thế, cần thêm thuốc lợi tiểu như Mã đề, Ý dĩ, Thổ phục linh...
Tuy nhiên, khi tháo ứ không phải chỉ chú trọng đến Thận mà còn phải chú ý đến Gan, mật, đại trường, do đó, nhiều khi trong bài thuốc trị suyễn, các vị thuốc xổ như Muồng trâu, Vỏ đại, Lô hội cũng có thể dùng được.
5- Bổ Hư
Nơi người bị suyễn, thần kinh thực vật thường bị mất cân bằng. Hệ thần kinh trung ương cũng bị xáo trộn, do đó, cần cho các vị thuốc bổ âm, nâng cao mức ức chế thần kinh.
Hoặc cho thuốc bổ dương để làm tăng hoạt tính giao cảm lên.
Rối loạn thần kinh thực vật trong bệnh suyễn thường gặp trong trường hợp giao cảm thần kinh bị giảm, do đó, khi gần hết cơn suyễn, mồ hôi thường đổ ra nhiều, các chất mũi, đờm tiết ra, các cơ ngực, lưng mệt mỏi vì vừa qua một trạng thái co cứng.
Điều Trị Lúc Lên Cơn
+ Thể phong hàn:
. NKHT. Hải: Tán hàn, tuyên phế, định suyễn.
Dùng bài Tam Cao Thang Gia Vị (Thái Bình Huệ Dân Hoà Tễ Cục Phương, Q. 2): Cam thảo 4g, Hạnh nhân 7 hạt, Ma hoàng 12g, Sắc uống.
(Ma hoàng, Hạnh nhân, Cam thảo (tức là bài Ma Hoàng Thang bỏ Quế chi) để tán hàn, tuyên phế, hoá đàm, định suyễn. Thêm Tiền hồ, Trần bì để chỉ khái, hoá đàm).
. NKHT. Đô: Khứ phong, tán hàn, tuyên Phế, giáng nghịch. Dùng bài Ma Hoàng Thang (Thương Hàn Luận): Ma hoàng, Hạnh nhân đều 12g, Quế chi 8g, Chích thảo 4g. Sắc uống.
(Ma hoàng có tác dụng phát hãn, giải biểu, tán phong hàn, tuyên Phế, định suyễn. Quế chi phát hãn, giải cơ, ôn thông kinh lạc, hỗ trợ cho tác dụng phát hãn của Ma hoàng; Hạnh nhân tuyên Phế, giáng khí, giúp tăng tác dụng định suyễn của Ma hoàng; Chích thảo điều hoà các vị thuốc, làm giảm tính cay táo của Quế chi, giảm tác dụng phát tán của Ma hoàng).
+ Sách ‘Trung Y Nội Khoa Học Giảng Nghĩa’: Ôn Phế, bình suyễn. Dùng các bài:
. Tô Tử Giáng Khí Thang (Cục Phương): Tô tử 36g, Tiền hồ, Hậu phác, Đương quy, Cam thảo đều 4g, Bán hạ 36g, Quất bì 12g, Quế tâm 16g, Sinh khương 50g, Táo 5 trái. Sắc, chia làm 5 lần uống, sáng 3 lần, tối 2 lần.
. Tiểu Thanh Long Thang (Thương Hàn Luận): Ma hoàng, Thược dược, Bán hạ đều 12g, Chích thảo 8g, Quế chi (bỏ vỏ) 8g, Ngũ vị tử, Tế tân, Sinh khương đều 4g, Sắc uống ấm.
. Linh Quế Truật Cam Thang (Thương Hàn Luận): Phục linh 16g, Quế chi (bỏ vỏ) 12g, Bạch truật, Chích thảo đều 8g, sắc uống ấm.
+ Sách ‘Trung Quốc Đương Đại Bí Phương Đại Toàn’ dùng bài Trị Suyễn Phương: Ma hoàng, Bán hạ đều 12g, Tế tân 4g, Can khương, Cam thảo, Ngũ vị tử đều 6g. Sắc uống.
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’ dùng bài ‘Cao Trị Hen Suyễn’: Nam tinh (chế), Bán hạ (chế), Cát cánh, Bối mẫu, Tế tân, Hạnh nhân, Cam thảo (sống), Ngũ vị tử đều 20g, Ma hoàng, Bạch tô tử, Khoản đông hoa, Tử uyển (sống) đều 12g, Dầu mè (Ma du) 200g, Mật ong 120g, nước cốt Gừng 120g. Cho 12 vị thuốc đầu tiên vào ngâm với dầu mè 24 giờ, nấu lên cho đặc, lọc bỏ bã lấy nước, sau đó cho thêm mật và nước Gừng, nấu thành cao, còn khoảng 440g. Mỗi ngày, vào buổi sáng, khi gà gáy canh năm, uống 1 thìa cà phê (4ml) thuốc với nước đun sôi để nguội.
+ Sách ‘Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu’ dùng bài Lãnh Háo Thang: Ma hoàng, Hạnh nhân đều 10g, Thần khúc, Tử uyển, Bạch truật, Phụ tử (hắc), Khoản đông hoa đều 12g, Xuyên tiêu 8g, Tế tân, Bán hạ (chế), Sinh khương đều 6g, Cam thảo 4g, Tạo giáp 2g, Bạch phàn 0,2g. Sắc uống.
+ Sách ‘Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương’ dùng bài Xạ Can Ma Hoàng Thang gia giảm: Xạ can 6g, Ma hoàng 10g, Tế tân, Tử uyển, Khoản đông hoa, Đại táo đều 12g, Ngũ vị tử, Bán hạ (chế) đều 8g, Sinh khương 4g. Sắc uống.
Suyễn Do Phong Nhiệt
+ NKHT.Hải: Thanh nhiệt, tuyên phế, bình suyễn.
Dùng bài Ma Hạnh Thạch Cam Thang Gia Vị (Trương Thị Y Thông, Q. 16): Cam thảo 4g, Hạnh nhân 12g, Ma hoàng 12g, Thạch cao 40g. Thêm Trần bì, Bối mẫu, Tiền hồ, Cát cánh, Sắc uống.
(Ma hoàng tuyên Phế, bình suyễn; Thạch cao thanh phế nhiệt; Hạnh nhân + Cam thảo ôn trợ cho Ma hoàng bình suyễn, chỉ khái. Thêm Trần bì, Bối mẫu, Tiền hồ, Cát cánh để tăng tác dụng thanh nhiệt, chỉ khái, hoá đàm).
+ NKHT. Đô: Thanh nhiệt, giáng nghịch, dưỡng Vị, cứu Phế.
Dùng bài Ma Hạnh Thạch Cam Thang thêm Tang bì, Địa cốt bì.
+ Sách ‘Trung Y Nội Khoa Học Giảng Nghĩa’ dùng bài Định Suyễn Thang (Nhiếp Sinh Chúng Diệu Phương): Ma hoàng, Bán hạ đều 6-12g, Hạnh nhân, Tô tử 6-8g, Tang bạch bì, Khoản đông hoa đều 12g, Hoàng cầm 8-12g, Bạch quả 10-20 quả, Cam thảo 4g, sắc uống.
+ Sách TQĐĐDYNPĐ.Toàn dùng bài Chỉ Háo Định Suyễn Thang: Ma hoàng, Tử uyển, Bối mẫu, Hạnh nhân đều 10g, Sa sâm 12g, Huyền sâm 16g. Sắc uống.
Thể phong đờm
+ NKHT. Hải: Hoá đờm, giáng khí, bình suyễn.
- Điều trị: Nhị Trần Thang hợp Tam Tử Thang gia giảm: Nhị Trần Thang (Bán hạ, Quất hồng, Phục linh, Cam thảo) + Tam Tử Thang (Tử tô tử, Bạch giới tử, La bặc tử).
(Chế Bán hạ táo thấp, hoá đờm, giáng nghịch; Trần bì lý khí, hoá đờm; Bạch linh kiện Tỳ, lợi thấp; Cam thảo hoá trung, kiện Tỳ; Thêm Tô tử, La băïc tử. Bạch giới tử để giáng khí, hoá đàm, bình suyễn. Thêm Hậu phác, Thương truật để táo thấp, hành khí).
Đowøm uất hoá nhiệt thêm Hoàng cầm, Địa cốt bì, Tang bạch bì để thanh phế nhiệt. Tỳ hư thêm Lục Quân Tử Thang để kiện tỳ.
+ Sách TYNKHG Nghĩa: Tiêu đờm, thanh hoả.
Dùng bài Tả Bạch Tán (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết): Địa cốt bì, Tang bạch bì (sao) đều 40g, Chích thảo 4g, thêm Tri mẫu, Qua lâu.
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’ dùng bài Tiền Hồ Thang gia vị: Tiền hồ, Tang diệp, Tỳ bà diệp, Tri mẫu đều 16g, Kim ngân hoa 20g, Hạnh nhân, Mạch môn, Hoàng cầm, Khoản đông hoa, Cát cánh đều 12g, Cam thảo 8g. Sắc uống.
Điều Trị Lúc Không Lên Cơn (Bệnh Ổn Định)
Thể phế hư
+ Dưỡng Phế, định suyễn (NKHT. Hải). Dùng bài Sinh Mạch Tán Gia Vị (Y Học Khải Nguyên, Q. Hạ): Mạch môn 12g, Ngũ vị tử 7 hột, Nhân sâm 12g. Thêm Ngọc trúc, Bối mẫu đều 8g, Sắc uống.
Trong bài: Nhân sâm bổ ích khí để sinh tân, Mạch môn dưỡng âm, sinh tân, thanh Phế, Ngũ vị tử liễm phế, hợp với Mạch môn để tăng tác dụng sinh tan dịch. Thêm Ngọc trúc, Bối mẫu để nhuận phế, hoá đàm. Trường hợp mệt mỏi nhiều, dễ cảm lúc thời tiết thay đổi dùng bài Bổ Trung Ích Khí để bổ tỳ phế.
. NKT. Đô: Ích khí, định suyễn. Dùng bài Bổ Phế Thang (Tam Nhân Cực – Bệnh Chứng Phương Luận): Khoản đông hoa, Quế tâm, Nhân sâm, Tử uyển, Bạch thạch anh đều 40g, Ngũ vị tử, Chung nhũ phấn đều 60g, Tang bạch bì (nướng) 160g, Mạch môn (bỏ lõi) 80g. Tán bột. Mỗi lần dùng 16g, thêm Gừng 5 lát, Táo 3 trái, Gạo tẻ 1 nhúm, sắc uống.
Hoặc dùng bài Bổ Phế Thang (Vân Kỳ Tử Bảo Mệnh Tập): Tang bạch bì, Thục địa đều 60g, Nhân sâm, Tử uyển, Hoàng kỳ, Ngũ vị tử đều 30g. Mỗi lần dùng 12g, thêm ít mật, sắc uống.
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’ dùng bài: Sâm Giới Tán gia vị: Cáp giới 2 con (chặt bỏ đầu và chân), Nhân sâm 20g, Sơn dược 80g, Hạnh nhân 32g, Trầm hương 16g, Nhục quế 16g, Bán hạ 40g, Hoàng kỳ 80g, Tử bì hồ đào 80g, Bạch quả 40g, Tang bạch bì 40g, Cam thảo 20g. Tán bột. Mỗi lần dùng 6-8g, uống ngày 2-3 lần.
+ Sách TQĐĐDYNPĐ Toàn dùng bài Sâm Cáp Ma Hạnh Cao: Đảng sâm 120g, Cáp giới (bỏ đầu, chân) 2 con, Ma hoàng (bỏ mắt) 60g, Hạnh nhân 100g, Chích thảo 40g, Sinh khương 60g, Hồng táo (bỏ hột) 120g, Bạch quả nhục 20 trái. Thêm Đường phèn, nấu thành cao. Ngày uống 2 lần, sáng, tối, mỗi lần 20ml.
Thể Tỳ Hư:
Phép trị: Ích khí, kiện tỳ, hoá đờm. Dùng bài Lục Quân Tử Thang hợp Nhị Trần Thang Gia Vị.
(Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Chích thảo để ích khí, kiện tỳ; Trần bì. Sinh khương, Bán hạ ôn hoá hàn đàm. Thêm chích Hoàng kỳ, Đương qui bổ khí huyết; Đại táo, Gừng nướng để ôn tỳ).
Trường hợp tiêu chảy bỏ Đương qui, Hoàng kỳ thêm Biển đậu, Mạch nha, Thương truật để trừ thấp, tiêu thực.
Thể Thận Hư:
+ NKHT Hải và T. Đô: Bổ thận, nạp khí.
+ Thận âm hư, dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn.
+ Thận dương hư dùng bài Bát Vị Địa Hoàng Hoàn gia giảm.
( Sinh địa, Hoài sơn, Sơn thù, Đan bì, Bạch linh, Trạch tả (Lục Vị Địa Hoàng) bổ thận âm; nếu Khí âm hư thêm Sinh Mạch Tán (Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị) để bổ khí âm).
Thận dương hư: thêm Nhục quế, Chế Phụ tử (bài Bát Vị Địa Hoàng) để ôn bổ thận dương.
Di tinh, liệt dương thêm Thỏ ty tử, Tiên linh tỳ; Ra mồ hôi, tiểu đêm nhiều thêm Kim anh tử, Ích trí nhân... Trường hợp tỳ thận dương hư dùng bài "Chân Vũ Thang " (Chế Phụ tử, Bạch thược, Bạch linh. Bạch truật, Sinh khương) để ôn bổ tỳ thận.
THUỐC NAM TRỊ SUYỄN
+ Bèo cái 100g, cắt bỏ rễ, bỏ lá vàng, rửa nhiều lần bằng nước muối cho thật sạch, cuối cùng rửa thêm một lần bằng nước muối. Rẩy cho ráo nước, giã nhỏ, vắt lấy nước, thêm nước (đã đun sôi để nguội) vào và cho thêm ít đường cho đủ ngọt và đủ 100ml. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 liều như trên.
Thường sau khi uống 10 ngày, cơn suyễn sẽ bớt, uống tiếp trong 2-3 tháng. Khi mới uống có thể thấy ngứa cổ trong vòng 10 phút nhưng sẽ quen dần và hết ngứa (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Bồng bông (Caletropis gigantea R.Br), lấy khăn ướt lau sạch lông, thái nhỏ, sao qua cho héo. Ngày dùng 10 lá, sắcêc với 300ml nước, còn 200ml, thêm đường vào, chia 3-4 lần uống trong ngày.
(Nước thuốc hơi đắng và tanh, uống nhiều một lúc có thể gây nôn, do đó, nên uống sau hoặc xa bữa ăn. Uống vào có thể mỏi chân tay, cơ thể hoặc đôi khi bị tiêu chảy).
Kết quả sau 2-3 ngày, có khi 7-8 ngày. Có khi sau 10 phút đã có kết quả (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Táo 200-300g, sao vàng, sắc với 3 chén nước còn 200ml, chia hai lần uống trước bữa ăn 1 giờ. Uống liên tục 1 tuần đến 2 tháng. Kết quả khá tốt (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Hen 02kg, rửa hết lông, tẩm nước Gừng, sao vàng, hạ thổ, nấu với 10 lít nước, còn 5 lít. Lọc bỏ bã, cho đường vào nấu còn khoảng 1 lít.
Người lớn uống 10ml với nước nóng, ngày 2 lần. Trẻ nhỏ 2-5 tuổi, mỗi lần uống 1-3ml. Trẻ 6-10 tuổi mỗi lần uống 4-6ml (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Hẹ tươi 100g, sắc với 400ml nước còn 300ml, thêm 10ml mật ong, chia làm 2 lần uống. Khoảng 5-6 lần sẽ đỡ. Dùng trong trường hợp suyễn cấp. (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Táo chua (Thanh táo) tươi 30g, rửa sạch, giã nát, lọc lấy khoảng 200ml nước, hoà mật ong cho đủ ngọt, uống. Sau 2 giờ, người bệnh nôn ra đờm dãi thì cơn suyễn sẽ giảm (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tóm lại biện chứng luận trị chứng suyễn chủ yếu dựa theo nguyên tắc là thời kỳ lên cơn chủ yếu dùng phép khu tà và lúc không cơn chủ yếu là phù chính. Nhưng trên thực tế lâm sàng do hen suyễn là một chứng bệnh tái phát nhiều lần, cơ thể người bệnh thường suy nhược cho nên lúc khu tà cũng cần chú ý phù chính và lúc không lên cơn chủ yếu là bổ hư nhưng trên lâm sàng thường biểu hiện hư chứng lẫn lộn như Tỳ phế hư, phế thận hư hoặc tỳ thận dương hư v.v... biện chứng luận trị cần hết sức chú ý.
Ngoài ra, đối với những cơn hen ác tính, bệnh nhân khó thở nặng cần kết hợp với các phương pháp chẩn đoán của y học hiện đại giúp xác định bệnh chính xác để phối hợp với các phương pháp trị bệnh bằng thuốc tây như thở oxy, dùng thuốc trụ sinh (nếu nhiễm khuẩn) thuốc dãn phế quản hoặc thuốc trợ tim (trường hợp hen tim) v.v... đem lại hiệu quả điều trị tốt nhất cho người bệnh.
Y Án Trị Hen Suyễn
(Trích trong Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm)
Bệnh nhân Ngưu, nữ, 56 tuổi, nông dân, nhập điều trị ngoại trú ngày 21/11/1969.
Bệnh nhân trước đây có những cơn hen kịch phát tái diễn khoảng 4 năm và đã được điều trị bằng Ephedrine, Aminophỵlline, Sulfaminidine khi lên cơn. Cơn bệnh dẫn đến sự thăm khám lần này là đột ngột khó thở, xanh tím kéo dài 6 giờ. Các khám nghiệm thấy môi và mặt xanh tím, miệng há và rút vai, thở hổn hển, khò khè trong hai phổi.
Chẩn đoán là hen phế quản.
Điều trị: Phương huyệt: Phong môn và Quyết âm du.
Bệnh nhân ngồi tựa lưng, hai vai buông xuống. Dùng kim dài ba thốn châm xiên góc 12o từ huyệt Phong môn xuyên đến huyệt Quyết âm du, nâng lên (đề), đẩy xuống (án) vàvê kim một lúc. Châm một bên sau đó bên kia, rồi giác các huyệt đã châm khoảng 10 - 15 phút. Sau đó khó thở giảm một cách rõ rệt. 6 giờ sau, sau một lần điều trị nữa, tiếng rít cũng đã giảm nhiều. Hôm sau, bệnh nhân đã trở nên khoẻ hơn, có thể ngủ nằm ngửa và cơn khó thở đã dịu xuống. Khám nghiệm cơ thể: lồng ngực bình thường ngoại trừ âm thở hơi thô ở phổi phải.
Châm trị như cũ, bệnh khỏi hoàn toàn. Tiếp tục điều trị thêm để củng cố hiệu quả chữa bệnh.
Y Án Trị Hen Suyễn
(Trích trong Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm)
Bệnh nhân Trang, nữ, 47 tuổi, nông dân, công nhân, nhập điều trị ngoại trú ngày 01/03/1967.
Bệnh nhân có những cơn hen kịch phát khoảng 5 năm gây ra bởi thuốc trừ sâu. Mỗi năm 2- 3 cơn, thường xẩy ra vào những tháng mùa thu và mùa đông, cơn này đã kéo dài ba ngày và điều trị không kết quả. Khi khám nghiệm, bệnh nhân há miệng và rút vai, ho rít dữ dội, thở hổn hển, xanh tím môi và khó thở, đờm khò khè.
Chẩn đoán là hen phế quản.
Phương huyệt: Phong môn và Quyết âm du.
2- Bệnh nhân ngồi tựa lưng, hai vai buông xuống. Dùng kim dài ba thốn châm xiên góc 12o từ huyệt Phong môn xuyên đến huyệt Quyết âm du, nâng lên (đề), đẩy xuống (án) vàvê kim một lúc. Châm một bên sau đó bên kia, rồi giác các huyệt đã châm khoảng 10 - 15 phút. Ngày trị một lần đối với trường hợp thông thường và ngày hai lần cho trường hợp nặng.
Châm như trên năm lần, các triệu chứng giảm và hai năm sau vẫn không tái phát.
Y Án Trị Hen Suyễn
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Dung XX, nam, 38 tuổi, cán bộ. Khám điều trị năm 1957. Bệnh nhân bị hen phế quản kéo dài đã 6 năm. Thoạt đầu mỗi năm lên cơn 1-2 lần, phần nhiều vào mùa đông xuân, sau khi bị lạnh. Nói chung uống Ephedrin hoặc các thuốc đông y thì có thể dứt cơn được. Hai năm gần đây ngày càng bị nhiều cơn hơn, cứ mấy ngày lại lên một cơn hen, mỗi lần bị mất hàng tuần lễ mới dứt dần, dùng các loại thuốc đông tây y chỉ có thể tạm thời dễ chịu hơn một chút mà không giảm bớt được tần suất cơn hen. Cho uống ‘Cao Trị Hen’ (Chế nam tinh 15g, Pháp bán hạ 15g, Cát cánh 15g, Xuyên bối 15g, Tế tân 15g, Hạnh nhân 15g, Sinh cam thảo 15g, Ngũ vị tử 15g, Sinh Ma hoàng 9g, Bạch tô tử 9g, Khoản đông hoa 9g, Sinh tử uyển 9g, Ma du (dầu gai) 200g, Bạch mật (mật trắng) 120g, Sinh khương trấp (nước gừng tươi) 120g. Trước hết cho 12 vị thuốc đầu tiên vào trong dầu gai ngâm 24 giờ, đem sao cho đặc, lọc bỏ bã, lấy nư­ớc, sau đó cho thêm mật trắng vào nước gừng tươi đun cô thành cao, cho tới lúc đem nhỏ vào nước thì thành giọt châu, lấy được khoảng 440g. Mỗi ngày buổi sớm khi gà gáy canh năm thì uống 1 thìa nhỏ với nước đun sôi để nguội), đề nghị người bệnh kiên trì dùng liên tục, khi dùng hết khoảng 250g, thì dứt hết cơn hen. Lại tiếp tục uống cho tới tất cả 2.500g, đồng thời phối hợp cho dùng một số Kim Quĩ Thận Khí Hoàn, Bột nhau thai, sau khi khỏi bệnh đã theo dõi 21 năm không thấy tái phát.
Y Án Trị Hen Suyễn
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Khu XX, nam, 39 tuổi, nông dân. Từ năm lên 10, người bệnh do bị cảm lạnh thành ho hen suyễn. Điều trị bệnh đã đỡ nhưng về sau mỗi khi bị nhiễm lạnh lại lên cơn hen không dứt được, càng ngày càng nặng, tuy đã điều trị bằng nhiều loại thuốc mà vẫn không khỏi. Một năm trở lại đây, mỗi lần lên cơn hen lại so vai ngửa cổ mà hít thở, trông rất thảm hại. Đã dùng Ephedrein, Aminophylin, mà không cắt được cơn hen. Dùng Corticoid thì có thể giảm cơn hen tạm thời được 20-30 phút, tiêm truyền hormon vào tĩnh mạch thì phải mất khoảng 1 ngày mới cắt được cơn hen. Cho uống ‘Tiêu Suyễn Thang’ (Chích Ma hoàng 9g, Tế tân 9g, Xạ can 9g, Sinh thạch cao 24g, Ngũ vị tử 9g, Chích cam thảo 9g, Pháp bán hạ 9g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang, chia làm 3 lần), uống 1 thang thì hen giảm hẳn, uống hết 2 thang thì cơ bản khống chế được cơn hen. Lại cho dùng Lục Quân Tử Thang và Sinh Mạch Tán, có tác dụng bồi thổ sinh kim, Thất Vị Đô Khí Thang để ôn thận, nạp khí, các bài thuốc này dùng lần lư­ợt thay nhau và đều có gia giảm, khi lên cơn hen thì vẫn uống Tiêu Suyễn Thang. Cứ nh­ư thế tiếp tục điều trị hơn nửa năm, số lần lên cơn hen giảm đi rõ rệt, cường độ cơn hen cũng nhẹ hơn nhiều, thể lực tăng lên rõ rệt. Một năm sau thì bệnh cơ bản khỏi hẳn.
Bàn luận: "Tiêu Suyễn Thang" là bài thuốc tuyển chọn phối hợp chữa hen của đông y dựa trên các bài thuốc Tiểu Thanh Long Thang, Xạ Can Ma Hoàng Thang, Ma Hạnh Thạch Cam Thang. Trong bài thuốc này chú trọng sử dụng Ma hoàng để tuyên phế bình suyễn, Tế tân để ôn phế hoá ẩm, Xạ can để bình nghịch giáng khí, Bán hạ có tác dụng hoá đàm khử ẩm, Ngũ vị tử liễm phế cầm ho và khống chế tác dụng "tán" của Tế tân, Sinh thạch cao để thanh phế giải nhiệt và khống chế tác dụng gây ra mồ hôi của Ma hoàng, Chích cam thảo nhuận phế cầm ho, điều hoà các vị khác, nhằm đạt được hiệu quả phối hợp hoá đàm tuyên phế, bình suyễn chỉ khái. Hen suyễn do phế tuyên mà sẽ bình được, ho do đờm giảm mà cầm được. Người x­ưa có nói "Tế tân bất quá tuyến", nay dùng trong ‘Tiêu Suyễn Thang’ đến 9g, t­ương đương với 3 chỉ, nhưng chỉ cần dùng đúng bệnh, phối hợp đúng phương pháp, trên lâm sàng chư­a thấy có phản ứng nào không tốt. Đó cũng chính là điều mà "Nội kinh" đã nói:"Hữu cố vô vẫn, dược vô vẫn dã".
Y Án Trị Hen Suyễn
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Từ XX, nam, 45 tuổi, cán bộ. Đã hơn 4 năm bị những cơn hen suyễn, nhiều đờm. Bốn năm trước, sau khi mắc bệnh, cứ mỗi lần bị lạnh, hoặc ngửi phải khí than là lại lên cơn suyễn. Khi lên cơn, ngực co rúm lại, khó thở, ho khạc ra đờm dính màu trắng thì cảm thấy có dễ chịu hơn. Bệnh tình mỗi năm một nặng thêm, các cơn hen ngày một xuất hiện nhiều và kéo dài hơn. Tây y chẩn đoán là hen phế quản. Đã dùng Ephedrin, Ainophylin, Adrenalin, lúc đầu có hiệu quả khá tốt, nhưng sau đó cảm thấy hiệu quả chẳng được là bao. Một năm trở lại đây bệnh tình lại nặng thêm, cứ đến hai mùa hạ và thu là lại lên cơn hen nặng, sang mùa đông xuân thì cảm thấy đỡ hơn. Một năm nay, tây y cho dùng Cortison mỗi ngày 3 lần, dùng liên tục dài ngày, vào vụ hè thu không ngày nào là không dùng, còn đồng thời dùng thêm khí dung cắt cơn hen, luôn mang theo người, hơi cảm thấy khó thở muốn ho là phải phun ngay. Bệnh nhân rất dễ bị cảm mạo, hơi bị lạnh là hắt hơi, nhức đầu, toàn thân khó chịu. Bệnh nhân không hút thuốc uống rư­ợu nhiều, đại tiện bình thường. Sắc mặt trắng bệch, lưỡi nhạt rêu trắng, 6 bộ mạch Trầm Hoãn. Chứng thuộc thái âm hư­ suyễn, khí đờm kết lại thăng giáng bất lợi. Cần trị bằng cách khi bệnh phát cơn thì trị triệu chứng, lúc bình thường thì chữa căn nguyên, cả hai mặt cùng chữa trị, l­ưỡng bổ phế tỳ. Vẫn thường xuyên dùng Cortison khí dung để chống lên cơn. Đồng thời dùng ‘Sâm Giới Tán Gia Vị’ (Cáp giới (tắc kè) 2 con (chặt bỏ đầu và chân), Nhân sâm 15g, Sơn dược 60g, Điền hạnh nhân 24g, Trầm hương (loại tốt) 12g, Nhục quế (loại tốt) 12g, Kinh bán hạ 30g, Hoàng kỳ 60g, Tử bì hồ đào 60g, Sa bạch quả 30g, Tang bạch bì 30g, Cam thảo 15g. Các vị trên tán mịn làm một liều thuốc gói kín để dùng dần: mỗi lần 4-6g, mỗi ngày 3 lần, uống với nước đun sôi để nguội) đại bổ phế tỳ, tiêu đờm giáng khí, phù chính cố bản để chữa trị tận gốc. Uống liền 4 liều ‘Sâm Giới Tán Gia Vị’, sau 4 tháng ngừng dùng tất cả các loại thuốc tây y, tinh thần sảng khoái, sức lực dồi dào, thể chất tăng cư­ờng. Dùng bài thuốc này tiếp tục được một năm thì ngừng tất cả các loại thuốc. Hỏi thăm thấy 3 vụ hè thu bệnh không tái phát.
Bàn luận: Thông qua thực tiễn lâm sàng thấy rõ ràng ‘Sâm Giới Tán Gia Vị’ có tác dụng làm thay đổi phản ứng của cơ thể, điều tiết hormon. Trong quá trình phối hợp điều trị cùng với các thuốc tây y, dần dần phải giảm bớt hormon và thuốc chỉ suyễn, lúc đầu thì càng chậm càng ít càng tốt, cho tới khi hoàn toàn không dùng tới các loại thuốc tây y này. Sau đó lại giảm dần cả liều dùng "Sâm Giới Tán Gia Vị', cách tiến hành gồm có giảm dần số lần uống thuốc và giảm dần lượng thuốc uống mỗi lần, cho đến khi hoàn toàn không dùng thuốc nữa. Cả quá trình này cần kéo dài từ nửa năm đến một năm.
HO GÀ
Là một loại bệnh truyền nhiễm, thường gặp vào mùa đông xuân.
Bệnh kéo dài ảnh hưởng đến Phế khí, phế âm và sinh ra các biến chứng.
Thường phát vào khoảng cuối mùa đông, đầu mùa xuân ở những trẻ dưới 10 tuổi.
Hiện nay, đa số các trẻ nhỏ được chích ngừa 6 chứng bệnh lây (trong đó có ho gà) nên trên lâm sàng tương đối rất ít gặp bệnh này.
Đông y gọi là Bách Nhật Khái, Kinh Khái (ho cơn), Thiên Háo, Dịch Khái, Kê Khái, Lô Từ Khái
Nguyên Nhân
Do vi khuẩn Hemophillus Pestuisis gây nên.
Do tà khí qua mũi, miệng vào Phế, làm cho Phế khí bị bế tắc không thông, Phế nghịch lên gây ho. Bên trong có đờm nhiệt ẩn nấp sẵn ở Phế, gây nên các cơn ho dữ dội.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các thể loại sau:
1- Giai Đoạn Đầu: Cảm nhiễm, Phế hàn.
Chứng: Chảy nước mũi, nghẹt mũi, ho liên tục, ngày nhẹ đêm nặng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù Sác, chỉ tay phù, mầu đỏ tía.
Điều trị: Tuyên Phế trừ tà hoặc Tân ôn tuyên Phế. Dùng bài Chỉ Thấu Tán (Kinh giới, Cát cánh, Cam thảo, Bạch tiền, Quất hồng, Bách bộ, Tử uyển), thêm Xa tiền, Cam thảo.
Nếu nhiệt nhiều, bỏ Tử uyển, Trần bì, thêm Tang diệp, Liên kiều, Xuyên bối mẫu. Hoặc dùng bài Ma Hạnh Cam Thạch Thang (Ma hoang, Hạnh nhân, Thạch cao, Cam thảo).
- Lá Chanh non 15 lá, Trà Tầu 1 nhúm, Vỏ Quít ½ nhúm, Củ Sả lùi 5 lát, Chanh giấy 1 quả. Sắc với 400ml nước còn 100ml. Chia làm 2-3 lần cho uống.
- Tỏi 1 củ, giã dập, cho vào một cái tách, rót nước ôi vào, đậy kỹ 10 phút rồi lọc lấy nước uống. Cứ 2 giờ uống 1 thìa canh. Dưới 5 tuổi uống 1 thìa cà phê. Buổi tối không uống. Ban đêm, để dễ ngủ, khỏi ho: lấy Tỏi hoặc Gừng xắt lát mỏng, chà nhẹ dưới cổ.
- Vỏ Quít già (Trần bì), Lá Thuốc cứu, sao vàng, sắc uống.
- Cá Diếc, mổ bụng, rửa sạch, cho thêm đường, chưng cách thủy, ăn cả nước lẫn cái.
2- Giai Đoạn Ho Cơn: Thường do Đờm, Phế nhiệt
Chứng: Sau khi mắc bệnh khoảng một tuần, ho càng ngày càng nặng, ho cơn, sau khi ho có tiếng rít, nôn ra đờm dãi, thức ăn. Thời kỳ này, nếu nhẹ thì mỗi ngày ho vài lần, nếu bệnh nặng ho mấy chục lần, ban đêm có thể ho nhiều hơn. Nếu ho nhiều quá có thể ho ra máu, xuất huyết dưới giác mạc, chảy máu cam, mi mắt nề, rêu lưỡi vàng hoặc vàng dầy, khô, mạch Hoạt Sác.
Điều trị: Thanh kim dưỡng Phế, tiết nhiệt, hóa đờm, giáng khí. Dùng bài A Giao Tán (A giao, Mã đâu linh, Ngưu bàng, Hạnh nhân, Chích thảo, Nhu mễ) hoặc Vi Hành Thang (Vi hành, Ý dĩ, Đào nhân, Đông qua) gia giảm.
+ Hoa Khế, hoa Đu đủ đực, lá Dâu tằm ăn, lá Rau trai đều 0,5kg, Hoa mắc cỡ đỏ 2,3kg. Phơi cho tái, nấu với 2,5 lít nước còn 1 lít, lọc kỹ lấy nước trong, chưng cách thủy với đường khoảng 1 giờ thành xi rô.
Trẻ 1-3 tuổi uống 1 thìa cà phê, 4-6 tuổi: 2 thìa cà phê. 7-10 tuổi: 3 thìa cà phê, uống tước bữa ăn.
+ Mật Gà, 1 cái, hòa với 3g đường.
1 tuổi: 3 ngày 1 cái, 2 tuổi 2 ngày một cái. Trên 2 tuổi ngày 1 cái. Công hiệu tốt.
+ Nước củ cải trắng, thêm đường chưng lên cho uống.
3- Giai Đoạn Hồi Phục: Phế khí hoặc Phế Âm Hư
Chứng: Cơn ho giảm nhẹ dần, số lần ho ít hơn, tiếng rít giảm dần đến hết, cơn ho yếu, thở ngắn, dễ ra mồ hôi, khát, hâm hấp sốt, chất lưỡi đỏ., không rêu, chỉ tay xanh nhạt.
Điều trị: Tư dưỡng Phế âm, Phế khí. Dùng bài Nhân Sâm Ngũ Vị Tử Thang (Nhân sâm, Bạch truật, Phục linh, Ngũ vị, Mạch môn, Chích thảo, Đại táo, Sinh khương) gia giảm.
+ Cát sâm 20g (sao vàng), Thiên môn (sao), Mạch môn (sao) đều 16g, Bách bộ (sao), Tang bạch bì căn (cạo vỏ ngoài, bỏ lõi, tẩm mật sao vàng) 12g. Sắc với 450ml nước còn 200ml. Uống ngày 3 lần, mỗi lần 20-30ml vào lúc đói và trước khi đi ngủ (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Giải Trừ Kinh Khái Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí (1987: 1): Cường tằm, Toàn yết, Thuyền thoái, Địa long, Hạnh nhân, Đởm nam tinh, Thiên trúc hoàng đều 3g, Thanh đại, Cam thảo, Hoàng cầm, Địa cốt bì, Qua lâu nhân, Bách bộ đều 4g. Sắc uống.
TD: Lương Can, giải kính, thanh Phế cổn đờm, ức khuẩn, chỉ khái. Trị ho gà.
Đã trị 50 ca, khỏi hoàn toàn 37, kết quả ít 13. Đạt kết quả 100%.
(Trong bài Cương tằm, Thuyền thoái, Toàn yết, Đại long để sơ Can khứ phong, thông lạc, chỉ kinh, Can được sơ tiết thì không bị co rút, ho sẽ cầm lại; Thanh đại, Hoàng cầm, Địa cốt bì lương Can, thanh Phế, tả hỏa, giải độc; Thiên trúc hoàng, Đởm nam tinh, Qua lâu nhân thanh nhiệt, hóa đờm; Bách bộ, Hạnh nhân nhuận Phế, ức khuẩn, chỉ khái; Cam thảo hoãn cấp giải kinh, điều hòa các vị thuốc).
Tử Trà Nhị Nhân Thang (Hồ Nam Trung Y Tạp Chí 1988: 1): Tử thảo, Ải địa trà, Sa sâm, Tang bạch bì đều 10g, Hạnh nhân Bối mẫu, Đào nhân, Cam thảo đều 5g. Sắc uống.
TD: Hoạt huyết giải độc, khứ đờm chỉ khái. Trị ho gà.
Đã trị 100 ca, khỏi 85, chuyển biến tốt 10, không kết quả 5. Đạt tỉ lệ 95%.
(Tử thảo giải độc thấu biểu, lương huyết; Ải địa trà giải độc khứ đờm, lương huyết; Sa sâm, Cam thảo dưỡng Tỳ Phế; Hạnh nhân, Bối mẫu lợi Phế; Tang bạch bì, Đào nhân tiêu đờm huyết).
Thuần Khái Thang (Lâm Sàng Nghiệm Phương Tập): Tỳ bà diệp (nướng mật) 15g, Bạch giới tử 2,5g, Khổ sâm 15g, Ma hoàng 7,5g, Đại hoàng 2 ~ 5g (tùy tuổi mà gia giảm). Sắc ba vị thuốc đầu trước với 300ml cho sôi, sau đó cho Ma hoàng và Đại hoàng vào sắc còn 45ml. Chia làm 3 lần, uống ấm.
TD: Tuyên giáng Phế khí, cổn đờm, thanh nhiệt, giải kính chỉ khái. Trị ho gà.
Đã trị 224 ca, khỏi 117 chuyển biến tốt 32, không kết quả 6. Đạt tỉ lệ 97,3%.
(Ma hoàng tuyên phế khu biểu, chỉ khái, bình suyễn; Tỳ bà diệp thanh túc Phế khí, giáng nghịch, bình suyễn. Dùng chung với Ma hoàng, một vị thanh một vị túc làm cho Phế khí được tuyên giáng; Bạch giới tử làm tan đờm dính lại, trấn ho, giảm kính; Khổ sâm thanh nhiệt giải độc).
Bách Tuyền Long Giả Thang (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Bách bộ 10g, Tuyền phúc hoa 6g (bọc vào), Địa long 5g, Đại giả thạch 15g, Bối mẫu, Thiên môn, Mạch môn đều 6g, Hoàng cầm 3g, Tỳ bà diệp (nướng) 1 lá. Sắc uống.
TD: Túc Phế giải kính, hóa đờm chỉ khái, dưỡng âm thanh nhiệt. Trị ho gà.
Đã trị 120 cas, toàn bộ đều khỏi, uống 5 ~ 30 thang.
Bách Nhật Khái Thang 2 (Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ): Đình lịch tử, Tô tử, Lai phục tử, Bạch giới tử đều 4,5g, Hạnh nhân, Nhị sửu, Tỳ bà diệp đều 3g, Phòng kỷ 3,5g, Đại táo 1 trái. Sắc uống.
TD: Tuyên Phế, giáng khí, trừ đờm thấp, lợi Tỳ Vị. Trị ho gà.
Thường uống 6 thang là khỏi,
Bệnh Án Ho Gà
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ)
Lý X, nữ, 4 tuổi. Bị ho gà, đã chích kháng sinh nhưng không bớt. Chuyển sang Trung y khám thấy mạch Sác,, mi mắt phù, ho đờm dính máu, không muốn ăn, khi ho thì vãi đái. Cho uống Bách Nhật Khái Phương (Sinh địa, Thục địa, Thiên môn, Mạch môn đều 12g, Bách bộ, Tang bạch bì, Sa sâm, Tỳ bà diệp, Xa tiền, Đông qua tử đều 9g, Đình lịch 1,5g, Tô tử. Bối mẫu đều 3g. Sắc uống 3 thang thì khỏi.
Vương X, nữ 5 tuổi, bị bệnh tháng 2 năm 1978., ho đã 7 ngày, bệnh viện chẩn đoán là ho gà. Người nhà cho biết, trước đó bị cảm, sốt, ho, uống thuốc mà không khỏi ho ngày càng tăng, ngày nhẹ đêm nặng, trong họng khò khè như gà kêu, ho xong trong họng khò khè như gà kêu. Mắt đỏ, hơi thở gấp, bàn tay bị co rút lại. Chẩn đoán là ho gà. Cho dùng bài Tuyên Phế Bình Thấu Thang (Bách bộ 9g, Cát cánh, Bạch tiền, Đởm nam tinh, Bạch thược, Sài hồ, Địa long đều 6g, Đơn bì 4,5g, Đương quy, Cam thảo đều 3g. Sắc uống. Sau khi uống hai thang, chứng ho đã giảm ít. Chứng khò khè và co rút đều giảm nhẹ. Họng còn hơi khô, mũi còn hơi chảy máu, tiểu không thông, đầu lưỡi đỏ, nhiệt tà hãy còn nặng. Dùng bài trên, bỏ Đương quy, Bạch thược, thêm Trắc bá diệp 6g, Mao căn, Lô căn đều 12g. Uống liền 3 thang, khỏi bệnh
HO RA MÁU
(Khái Huyết – Hemoptysis – Hémoptysie)
Là trạng thái máu ở Phổi do ho mà ra hoặc toàn là máu, hoặc máu lẫn trong đờm.
Ho ra máu chỉ là triệu chứng của nhiều nguyên nhân, nhưng triệu chứng lâm sàng có nhiều điểm giống nhau trong mọi trường hợp.
Ho ra máu có thể xẩy ra đột ngột trong lúc người bệnh cảm thấy khoẻ mạnh, hoặc sau khi hoạt động mạnh, sau khi ăn nhiều, nói nhiều, xúc cảm mạnh, thay đổi thời tiết đột ngột hoặc trong giai đoạn hành kinh.
Thông thường 90% trường hợp ho ra máu là do bệnh lao đang tiến triển (Nếu kèm ho kéo dài, sốt nhẹ, sút cân thì càng chắc chắn). Nếu ho ra máu chút ít lẫn trong đờm, tái phát một vài lần mà không có sốt hoặc sút cân cũng nên nghĩ đến bệnh lao kín đáo.
Nguyên Nhân
Theo YHHĐ
. Ở phổi có thể do: Lao phổi, Các bệnh nhiễm khuẩn gây tổn thương ở phổi (viêm phổi, áp xe phổi, cúm)…
. Các bệnh khác của đường hô hấp: Giãn phế quản, ung thư phổi, sán lá phổi, nấm phổi…
. Bệnh ngoài phổi: tim mạch, tắc động mạch phổi, vỡ phồng quai động mạch chủ…
Theo Đông Y
Từ rất xưa, sách Nội Kinh đã đề cập đến tà khí bên ngoài xâm nhập vào, tình chí không điều hoà có thể gây nên ho ra máu.
Thiên ‘Ngọc Cơ Chân Tạng Luận’ (Tố Vấn 19) viết: “Mạch mùa Thu… bất cập thời khiến người ta bị suyễn, hơi thở thiếu khí mà ho, ở phần trên đôi khi thấy có máu…”.
Thiên ‘Chí Chân Yếu Đại Luận’ (Tố Vấn 74) viết: “ Thiếu dương Tư thiên… mắc bệnh đầu thống, phát sốt, sợ lạnh mà sốt rét. Nhiệt phát ra bì phu, bì đau, sắc biến ra vàng hoặc đỏ, gây nên chứng thuỷ, mình, mặt phù, thủng, bụng đầy trướng, phải ngửa lên mà thở, kiết lỵ đỏ hoặc trắng, mụn lở, ho, ho ra máu, Tâm phiền, trong ngực nóng, quá lắm thời cừu, nục (chảy máu cam)…”.
Thiên ‘Kinh Mạch’ (Linh Khu 10) viết: “Túc Thiếu âm Thận kinh… Nếu là bệnh thuộc ‘Thị động’ sẽ gây thành chứng đói mà không muốn ăn, mặt đen như dầu đen, lúc ho nhổ nước bọt thấy có máu, suyễn nghe khò khè…”.
Thiên ‘Mạch Giải’ (Tố Vấn 49) viết: “Nói là Khái thời lại có huyết... Đó là vì Dương mạch bị thương. Dương khí chưa thịnh ở bộ phận trên mà mạch lại mãn. Mãn thời khái, mà thường khi lại ra cả ở mũi”.
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận – Khái Thấu Nùng Huyết Hậu’ viết: Phế bị cảm hàn nhẹ thì thành ho, ho làm thương tổn dương mạch thì có máu”.
Sách ‘Huyết Chứng Luận’ nhận định: “ … Vậy trước phải biết nguồn gốc của bệnh ho rồi sau mới trị được bệnh khái huyết… Hoặc do ngoại cảm ra máu, hoặc do bì mao hợp với Phế gây ho, hoặc do tích nhiệt ở Vị, hoả thịnh lấn kim khiến khí nghịch lên gây ho, đó là thực chứng của chứng mất máu gây nên. Hoặc do âm hoả vượng lên, Phế không yên, không thanh, khô ráo gây nên ho, hoặc hợp với lo nghĩ, u uất của Tỳ cùng với hư hoả của Tâm gây nên ho, hoặc do Thận dương hư, dương khí không nương vào đâu được, bốc lên gây ra ho, đó là hư chứng của bệnh thất huyết mà sinh ho vậy”.
Trên lâm sàng, theo Đông Y, ho ra máu có thể do:
+ Ngoại Tà Lục Dâm xâm nhập vào Phế gây nên ho, nếu tà khí làm tổn thương Phế lạc, huyết tràn vào khí đạo sẽ gây nên ho ra máu.
+ Can Hoả Phạm Phế: Phế khí vốn suy yếu, nay do tức giận, tình chí không thoải mái, Can uất hoá thành hoả, bốc lên làm tổn thương ngược lại Phế, Phế lạc bị tổn thương thì sẽ ho ra máu.
+ Phế Thận Âm Hư: Thận âm là gốc của âm dịch, Phế âm là gốc của Thận âm (Kim sinh thuỷ), bệnh lâu ngày làm cho khí âm bị hao tổn gây nên âm hư, Phế táo, hư hoả quấy nhiễu bên trong, làm cho lạc của Phế bị tổn thương, gây nên ho ra máu.
+ Khí Hư Bất Nhiếp: Khí là vị tướng coi sóc huyết, khí có tác dụng nhiếp huyết, nếu do lao thương quá sức hoặc do ăn uống không điều độ hoặc thất tình nội thương hoặc ngoại cảm lục dâm, bệnh kéo dài trị không khỏi đều có thể làm tổn thương chính khí, khí hư không nhiếp được huyết, huyết có ai cai quản sẽ đi lên vào khí đạo, gây nên hoa ra máu. Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư – Thổ Huyết Luận’ viết: “Ưu tư quá mức làm hại Tâm Tỳ, gây nên thổ huyết, ho ra máu”.
+ Uống Nhiều Loại Thuốc Cay, Ấm, Nóng: Do cơ thể vốn suy nhược, hoặc bệnh lâu ngày hư yếu mà lại thích tư bổ và cường dương, uống những loại thuốc ôn, táo, nhiệt lâu ngày táo nhiệt sẽ sinh ra bên trong, hoá thành hoả, làm tổn thương tân dịch, gây thương tổn Phế lạc sinh ra khái huyết.
Chẩn Đoán Phân Biệt
. Nôn ra máu. Cảm giác trước khi nôn là nôn nao khác với ho ra máu là nóng và ngứa trong ngực và cổ.
. Chảy máu cam: nên xem trong lỗ mũi có máu hay không.
. Chảy máu trong miệng: Không nóng và ngứa trong ngực và cổ. Nên khám miệng, niêm mạc miệng, lợi, lưỡi.
. Giãn phế quản: thường gặp nơi người lớn tuổi, dễ lầm với lao phổi.
. Ung thư phế quản: thường ra máu mầu sẫm hoặc lờ lờ như máu cá, không đỏ tươi như trong lao phổi.
. Viêm loét thanh quản: không ra máu nhiều, kèm ngứa rát trong họng.
. Viêm thuỳ phổi: ra máu lẫn đờm màu rỉ sắt kèm sốt cao.
. Áp xe phổi: khạc ra máu lẫn mủ.
. Nhồi máu phổi: kèm cơn đau ngực dữ dội và khó thở.
Triệu Chứng
Ngay trước khi ho, người bệnh cảm thấy có cảm giác nóng trong ngực, khó thở nhẹ, ngứa trong họng rồi ho.
Giữa cơn ho khạc ra máu tươi lẫn bọt, thường lẫn trong đờm.Mỗi lần có thể là:
. Một vài bãi đờm có lẫn máu.
. Trung bình 300 ~ 500ml.
. Nặng: nhiều hơn, gây tình trạng suy sụp nặng toàn thân và thiếu máu nặng.
. Rất nặng: làm cho bệnh nhân chết ngay vì mất khối lượng máu quá lớn, vì ngạt thở hoặc vì sốc, tuy máu mất đi chưa nhiều.
Cơn ho có thể kéo dài vài phút đến vài ngày. Máu khạc ra dần dần có mầu đỏ thẫm, nâu rồi đen lại, khi thấy mầu đen là dấu hiệu kết thúc ho ra máu vì đó là máu đông còn lại trong phế quản được khạc ra ngoài sau khi máu đã ngừng chảy.
Trên lâm sàng thường gặp:
+ Phong Hàn Phạm Phế: Hơi sốt, sợ lạnh nhiều, đầu đau, mũi nghẹt, ho tiếng nặng, ho đờm xanh, trong đờm có lẫn máu, lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Phù Khẩn hoặc Phù Hoãn.
Điều trị: Sơ tán phong hàn, tuyên Phế, chỉ huyết. Dùng bài Kim Phất Thảo Tán gia giảm: Kim phất thảo, Kinh giới, Tiền hồ, Phục linh, Bán hạ, Tiên hạc thảo, Tây thảo, Bạch mao căn, Sinh khương. Sắc uống.
(Đây là bài Kim Phất Thảo Tán bỏ Ma hoàng, Xích thược, cam thảo, thêm Tiên hạc thảo, Tây thảo, Bạch mao căn tạo thành. Trong bài dùng Kim phất thảo làm chủ dược để ôn tán, giáng nghịch, hoá đờm, chỉ huyết; Kinh giới, Sinh khương sơ phong, tán hàn, tuyên Phế, giải biểu; Tiền hồ hoá đờm, chỉ khái, tuyên giáng Phế khí; Phục linh, Bán hạ hoá đờm, hoà trung; Tiên hạc thảo, Tây thảo, Bạch mao căn để chỉ huyết, hoá ứ).
+ Phong Nhiệt Phạm Phế: Sốt nhiều, sợ lạnh ít, ho nhiều đờm, đờm mầu vàng, khó khạc đờm, trong đờm có lẫn máu, máu mầu đỏ tươi, đầu đau, khát, họng đau, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Phù Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt, tuyên Phế, lương huyết, chỉ huyết. Dùng bài Ngân Kiều Tán gia giảm: Ngân hoa, Liên kiều, Trúc diệp, Kinh giới huệ, Bạc hà, Bản lam căn, Ngưu bàng tử, Tây thảo, Lô căn, Ngẫu tiết, Tiên hạc thảo. Sắc uống.
(Đây là bài Ngân Kiều Tán bỏ Cát cánh, Cam thảo, Đậu xị, thêm Bản lam căn, Tây thảo, Tiên hạc thảo, Ngẫu tiết tạo thành. Trong đó, Ngân hoa, Liên kiều, Trúc diệp thanh nhiệt, thấu tà; Lô căn thanh nhiệt, sinh tân; Ngưu bàng tử, Kinh giới huệ, Bạc hà sơ tán phong nhiệt; Bản lam căn giải độc, lợi hầu; Tây thảo, Lô căn, Ngẫu tiết, Tiên hạc thảo lương huyết, chỉ huyết).
Nếu ho ra máu thêm Vân Nam Bạch Dược hoặc Tam thất (phấn) quấy vào uống để tăng tác dụng cầm máu. Nếu đờm nhiệt ủng Phế mà phát sốt, ho đờm nhiều, mầu vàng, thêm Thiên Kim Vi Hành Thang để thanh nhiệt, hoá đờm, tuyên Phế. Nếu tà ở biểu chưa giải, nhiệt thịnh làm tổn thương tân dịch thấy ho khan, không đờm hoặc ít đờm mà dính, lưỡi đỏ, ít tân dịch, bỏ Kinh giới huệ, Bạc hà, thêm Thiên môn, Mạch môn, Thiên hoa phấn, Nguyên sâm để dưỡng âm, nhuận táo.
+ Táo Nhiệt Thương Phế: Ho khan, ít đờm, khó khạc đờm, trong đờm có lẫn máu hoặc ho ra máu, mũi và họng khô, tâm phiền, khát, thân nhiệt, táo bón, lưỡi đỏ ít rêu hoặc rêu lưỡi vàng nhạt mà khô, mạch Phù Sác.
Điều trị: Thanh Phế, nhuận táo, ninh lạc, chỉ huyết. Dùng bài Tang Hạnh Thang gia giảm: Tang diệp, Chi tử, Sa sâm, Bối mẫu, Lê bì, Hạnh nhân, Ngân hoa, Mạch môn, Trắc bá diệp, Bạch mao căn, Cam thảo. Sắc uống.
(Đây là bài Tang Hạnh Thang bỏ Đậu xị thêm Kim ngân hoa, Mạch môn, Trắc bá diệp, Bạch mao căn và Cam thảo tạo nên. Trong bài dùng Tang diệp, Chi tử, Ngân hoa để thanh tuyên Phế nhiệt; Sa sâm, Mạch môn, Lê bì dưỡng âm, thanh nhiệt; Bối mẫu, Hạnh nhân nhuận Phế, chỉ khái, hoá đờm; Trăc bá diệp, Bạch mao căn thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết.
Nếu tân dịch quá ít, có thể thêm Nguyên sâm, Thiên hoa phấn, Sinh địa để giúp dưỡng âm, nhuận táo. Ra máu nhiều không cầm, có thể thêm Tuên hạc thảo, Bạch cập, Đại kế, Tiểu kế, để lương huyết, cầm máu hoặc hợp chung với bài Thập Khôi Tán gia giảm để tăng cường tác dụng lương huyết, cầm máu.
+ Can Hoả Phạm Phế: Ho, đờm có lẫn máu hoặc ho khạc ra máu
tươi, đầu đau, chóng mặt, ngực và hông sườn trướng, đau, phiền táo, dễ tức giận, miệng đắng, họng khô, tiểu ít, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Tả Can, thanh Phế, lương huyết, chỉ huyết. Dùng bài Tả Bạch Tán hợp với Đại Cáp Tán gia giảm: Đại Cáp Tán, Tang diệp, Địa cốt bì, Sinh địa, Chi tử, Cam thảo, Bạch mao căn, Tiểu kế, Trắc bá diệp, Ngạnh mễ.
(Đây là bài Tả Bạch Tán hợp với Đại Cáp Tán thêm Sinh địa, Chi tử, Cam thảo, Lô căn, Tiểu Kế, Trắc bá diệp tạo thành. Đại Cáp Tán lương Can, chỉ huyết; Tả Bạch Tán thanh tả Phế nhiệt; Chi tử, Sinh địa, Mao căn, Tiểu kế, Trắc bá diệp thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết).
Nếu Can hoả nhiều quá, đầu váng, mắt đỏ, tâm phiền, dễ tức giận có thể dùng Long Đởm Tả Can Thang thêm Đơn bì, Đại giả thạch để thanh Can, tả hoả.
Nếu hoả thịnh làm cho huyết động khiến cho máu ra không cầm, có thể dùng bài Tê Giác Địa Hoàng Thang gia giảm để thanh nhiệt, lương huyết.
Nếu hông sườn đau, máu ra nhiều, mầu đỏ tía. Đó là huyết kết tụ ở Đởm. Dùng phép sơ Can, tiết nhiệt, lương huyết, tiêu ứ. Dùng bài Đan Chi Tiêu Dao tán thêm Tam thất phấn, Hải cáp xác, Hải phù thạch để cầm máu, tiêu ứ, tán kết (Trung Y Cương Mục).
+ Âm Hư Hoả Vượng: Ho khan, ít đờm, họng khô, trong đờm có máu hoặc ho ra máu, máu mầu đỏ tươi, gò má đỏ, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, lòng bàn tay chân nóng, gầy ốm, đầu váng, tai ù, lưng đau, chân mỏi, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư âm. Nhuận Phế, lương huyết, chỉ huyết. Dùng bài Bách Hợp Cố Kim Thang gia giảm: Sinh địa, Thục địa, Bách hợp, Mạch môn, Nguyên sâm, Bối mẫu, Đương quy, Thược dược, Cam thảo, Bạch cập, Ngẫu tiết, Tây thảo.
(Đây là bài Bạch Hợp Cố Kim Thang bỏ Cát cánh thêm Bạch cập, Ngẫu tiết, Tây thảo. Bách hợp, Mạch môn, Nguyên sâm, Sinh địa, Thục địa dưỡng âm, thanh nhiệt, sinh tân, nhuận táo; Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết, nhu Can; Bối mẫu, Cam thảo tuyên Phế, hoá đờm; Bạch cập, Ngẫu tiết, tây thảo lương huyết, chỉ huyết).
Gò má đỏ, sốt về chiều, có thể thêm Thanh hao, Miết giáp, Địa cốt bì, Bạch vi để thanh thoái hư nhiệt. Mồ hôi trộm rõ, thêm Phù tiểu mạch, Mẫu lệ, Ngũ bội tử để thu liễm, cố sáp. Âm hư hoả vượng do Phế lao có thể dùng bài Nguyệt Hoa Hoàn.
+ Khí Bất Nhiếp Huyết: Sắc mặt không tươi, uể oải, mệt mỏi, tiếng nói yếu, nhỏ, chóng mặt, tai ù, hồi hộp, ho, tiếng ho nhẹ, trong đờm có máu hoặc máu ra thành sợi hoặc ho ra máu hoặc kèm chảy máu mũi, tiêu ra máu, da có vết ban đỏ, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mạch Trầm Tế hoặc Hư Tế mà Khổng (Khâu).
Điều trị: Ích khí, nhiếp huyết. Dùng bài Chửng Dương Lý Lao Thang gia giảm: Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Cam thảo, Đương quy, Hoàng kỳ, Tiên hạc thảo, Bạch cập, A giao, Tây thảo, Tam thất.
(Đây là bài Chửng Dương Lý Lao Thang bỏ Nhục quế, Ngũ vị tử, Sinh khương, Đại táo thêm Tiên hạc thảo, Tây thảo, Tam thất, A giao và Bạch cập. Dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ để ích khí, nhiếp huyết; Trần bì lý khí, hoà Vị; Bạch truật, Cam thảo kiện Tỳ, ích khí; Đương quy, A giao dưỡng huyết, hoà huyết; Tiên hạc thảo, Tây thảo, Bạch cập, Tam thất lương huyết, tiêu ứ, chỉ huyết).
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Sinh địa (tươi) 60g, Ngó sen (tươi) 250g. Giã nát, vắt lấy nước cốt uống. Trị ho ra máu do táo nhiệt làm tổn thương Phế (Trung Y Cương Mục).
+ Tiên hạc thảo (tươi) 320g, giã nát, vắt lấy nước cốt, thêm nước cốt 200ml nước cốt Ngó sen vào, chưng sôi, để nguội, uống. Trị ho ra máu do huyết nhiệt vọng hành (Trung Y Cương Mục).
+ Trứng gà 1 trái, Tam thất 3g, Nước cốt Ngó sen một ít, rượu tốt ½ chén, trộn đều, chưng cách thuỷ cho chín, ăn. Liên tục 2~3 ngày. Trị ho ra máu do khí trệ, huyết ứ (Trung Y Cương Mục).
+ Cỏ mực, Lá Sen tươi đều 40g, lá Trắc bá, lá Ngải cứu tươi 20g. Sắc với 600ml nước còn 300ml. Chia làm hai lần uống (Gia Y trị Nghiệm).
+ Vỏ rễ Dâu, toàn cây Chỉ thiên 30g, Bạc hà 12g, Tử tô 8g, Gừng tươi 4g. Sắc với 400ml nước còn 200ml, uống một lần. Trẻ nhỏ tuỳ tuổi, chia làm 2-3 lần uống (Gia Y trị Nghiệm).
+ Tử tô (cọng và lá) 20g Đậu đen 40g, Gừng tươi 4g, Ô mai 2 trái. Sắc với 400ml nước còn 200ml, chia làm hai lần uống (Gia Y trị Nghiệm).
+ Rau Má, cỏ Mực đều 30g, lá Chanh, lá Gai, Tinh tre đều 20g. Sắc với 600ml nước còn 300ml. Uống 2 lần. Trẻ nhỏ tuỳ tuổi chia làm 2-3 lần uống (Gia Y trị Nghiệm).
+ Vỏ rễ Dâu tằm ăn, đập dập, sao mật đều 40g, Mạch môn (bỏ lõi) 40g, Tinh tre 30g, quả Dành dành (sao đen) 20g, Thanh bì (bỏ lớp xơ trắng 16g. Sắc với 600ml nước còn 300ml. Người lớn mỗi lần uống 150ml, trẻ nhỏ tuỳ tuổi chia là nhiều lần uống (Gia Y trị Nghiệm).
+ A giao, Tang bạch bì đều 15g, Đường đỏ 8g, Gạo nếp 100g. Tang bạch bì sắc 2 lần nước, cho gạo nếp vào nấu thành cháo, khi chín cho A giao vào, thêm đường quấy đều, ăn (Thường Dụng Dưỡng Sinh Dược Liệu).
+ A giao 15g, Tam thất, Bạch cập đều 10g. Sắc, chia làm 3 lần uống trong ngày (Thường Dụng Dưỡng Sinh Dược Liệu).
+ Nhị Đông Cao (Từ Hy Thái Hậu Y Phương):Thiên đông, Mạch đông đều 24g, cho vào nước đun kỹ, bỏ bã, thêm Xuyên bối mẫu (tán nhuyễn) 60g, trộn với mật ong thành cao. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 20ml. Trị ho khan, ho lâu ngày, họng khô, đờm có máu.
+ Bạch Hoàng Tứ Vị Tán (Thiên Gia Diệu Phương): Bạch cập 4 phần, Đại hoàng (sống) 3 phần, Nhi trà 2 phần, Bạch phàn 1 phần. Tán bột. Mỗi lần uống 1g, ngày 4 lần.
Tác dụng: Hoá đờm, ninh thoá, chỉ huyết. Trị lao phổi ho ra máu, giãn phế quản khạc ra máu.
+ Bình Suyễn Chỉ Huyết Tán (Thiên Gia Diệu Phương): Giả thạch 12g, Tuyền phúc hoa, Bán hạ, Tử uyển đều 6g, Khoản đông hoa 12g, Tiền hồ, Ma hoàng, Thạch cao, Hạnh nhân đều 6g, Mã đâu linh đều 12g, Ngũ vị tử 3g, Tang bạch bì, Mao căn, Ngẫu tiết, Nam mễ xác đều 6g. Tán bột. Mỗi lần dùng 6g, ngày 2 lần.
Tác dụng: Tư âm, thu liễm, giáng nghịch, chỉ huyết. Trị khạc ra máu do ho làm tổn thương Phế, phế quản dãn.
Bệnh Án Ho Ra Máu
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Khương X, nam, thanh niên. Ho đã lâu không khỏi, trong đờm có lẫn máu, lúc có lúc không, kém ăn, mỏi mệt, hơi thở ngắn, mạch Tế Hoạt, đầu lưỡi đỏ, ít rêu. Cho dùng Bắc sa sâm, Mạch môn, Bách bộ, Bạch truật, Phục linh, Tỳ bà diệp đều 12g, Hải cáp xác 20g, Cát cánh 8g, Ngũ vị tử 2g, Cam thảo (chích) 4g. Uống gần một tháng mới khỏi.
Cát X, nữ, 29 tuổi. Bị ho khan hàng tháng, xem ra không phải là ngoại cảm. Do ho nhiều làm dương lạc bị tổn thương, trong đờm có lẫn máu, mạch Huyền Tế mà Sác. Có thể đoán là chứng Can hoả phạm Phế, Phế lạc bị tổn thương nên ho ra máu. Nếu ho khan lâu không khỏi thì khạc ra máu không ngừng. Cần dùng phép thanh nhẹ đề hoà thượng tiêu, hợp với phép bình Can giáng hoả. Phế khí được thanh thì bệnh sẽ khỏi. Cho dùng: Tang diệp, Bách bộ (chưng, Hoàng cầm, Địa cốt bì, Đan sâm đều 12g, Cam thảo (sống) 4g, Đại Cáp Tán 16g. Sau khi uống, bệnh giảm nhẹ dần.
Bệnh Án Ho Ra Máu
(Trích trong ‘Việt Nam Đông Y Tạp Chí 1968 (96): 19)
Trần Thị… 65 tuổi. Ngày khám: 14-5-1968Ho hơn một năm, đã trị nhiều thuốc Đông Tây y không khỏi. Khám thấy: da nhạt, có lúc đỏ rồi hơi nhạt, tiếng nói yếu, ho đã lâu, có lúc ho ra đờm lẫn máu, ăn kém, khó thở, chân lạnh, hơi khát, mệt mỏi, nước tiểu vàng, đại tiện ít. Mạch hai bộ thốn Hoạt Sác, bộ quan và xích Hoãn.
Chẩn đoán: Bệnh ho lâu thành chứng hư lao và hai bộ thốn Hoạt Sác là do Tâm hoả nung nấu Phế kim khiến cho phổi bị khô thành chứng đờm khô, các bộ khác Hoãn là do Tỳ Thận đều hư, liên hệ đến Phế nên gây ra ho có lẫn máu.
Điều trị: Tư bổ Tỳ Thận, thanh nhiệt, nhuận Phế táo.
Dùng bài Toàn Chân Nhất Khí Thang gia giảm: Thục địa (tẩm Gừng nướng) 12g để bổ Tỳ Thận, Bố chính sâm (Tẩm Gừng sao² 20 để bổ Tỳ Phế, Bạch truật (sao) 8g để bổ Tỳ, Hoài sơn 12 bổ Tỳ Thận, Mạch môn (sao) 20g để nhuận Phế, chỉ khái, Ngũ vị tử 4g liễm âm tư Phế, Ngưu tất 6g dẫn hoả hạ hành, Thán khương 8g chỉ huyết, Tử uyển, Khoản đông hoa đều 12g chỉ khái huyết, Tỳ bà diệp (tẩm mật sao) chỉ khái, Thổ bối mẫu 12g trừ đờm, giáng hoả, A giao 12g nhuận táo, bổ hư lao. Sắc 5 thang.
Uống thuốc xong, bệnh đỡ được 7 phần. Tiếp tục cho uống thêm 10 thang nữa, khỏi hẳn
HOA Ế BẠCH HÃM
Cách chung: Trong mắt bỗng nhiên đau nhức, sưng đỏ và nhặm, chảy nước mắt, sợ ánh sáng, đầu đau, mũi nghẹt, tròng đen mắt đau, sinh màng như hoa cây củ cải hoặc như vẩy cá lõm vào giống như hạt tấm, về sau cứ to dần ra thành như đám mây. Cũng có khi lúc đầu sinh màng từ giữa khoảng tròng trắng và quanh tròng đen, dần dần dầy rộng đến nỗi che hết cả con ngươi mắt và trở nên mù.
Nguyên nhân:
+ Do phong nhiệt độc xâm phạm vào tròng đen mắt.
+ Do Can kinh có hỏa độc nhiều, bốc lên làm hại mắt.
+ Có thể do ngoại thương làm
tổn hại tròng đen mắt gây nên.
Biện chứng luận trị
1. Thể Phong nhiệt bên ngoài
Chứng: Nhãn cầu đau nhức như kim đâm, sợ ánh sáng, chảy nước mắt, tròng trắng đỏ, tròng đen có màng, mầu trắng như tro, giống như hạt gạo, sợ lạnh, sốt, đầu đau, mũi nghẹt, rêu lưỡi trắng, mạch Phù Sác.
Biện chứng: Phong nhiệt độc xâm phạm vào phong luân thì tròng đen sẽ sinh ra màng; mầu trắng như tro, nhãn cầu đau, tròng trắng đỏ, sợ lạnh, sốt, đầu đau, mũi nghẹt, rêu lưỡi trắng, mạch Phù Sác là dấu hiệu phong nhiệt ở biểu.
Điều trị: Sơ phong, thanh nhiệt.
Dùng bài:
Bạt Vân Thoái Ế Hoàn (03), Bạt Vân Thoái Ế Tán (04), Ngân Kiều Tán Gia Giảm (64), Thoái Ế Tán (112).
Gia giảm:
+ Phong tà nhiều: thêm Khương hoạt, Phòng phong, Mộc tặc để khứ phong, tán tà.
+ Nhiệt độc nhiều: thêm Hoàng cầm, Tử thảo, Bồ công anh, Tử hoa địa đinh để tăng cường tác dụng thanh nhiệt, giải độc.
2. Thể Can Đởm Hỏa Thịnh
Chứng: Đầu và mắt đau, mi mắt sưng, sợ ánh sáng, tròng trắng đỏ, tròng đen có màng, giống như vẩy cá, mầu tro vàng, hoặc có dịch mầu vàng (hoàng dịch thượng xung) hoặc đồng tử thu nhỏ hoặc bị lở loét, có màng, biến chứng thành giải tình (mắt cua), miệng khô, họng khô, khát, tâm phiền, tiểu vàng, táo bón, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Khứ phong, thanh nhiệt, giải độc.
Dùng bài Tân Chế Sài Liên Thang Gia Giảm (96) (Trong bài dùng Sài hồ, Mạn kinh tử, Kinh giới, Phòng phong để khứ phong, tán tà, chỉ thống; Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử, Long đởm thảo để tả hỏa, thoái xích; Xích thược lương huyết, hoạt huyết, tiêu ứ; Mộc thông thanh nhiệt, lợi thủy, dẫn nhiệt đi xuống; Cam thảo thanh nhiệt, hòa trung. Có thể thêm Thạch quyết minh, Thảo quyết minh, Hạ khô thảo, Mộc tặc để thanh Can, làm sáng mắt, thoái ế).
3- Lý nhiệt quá
Chứng: Thường tự thấy đầu mắt đau, chói mắt, nước mắt ra nhiều, mi mắt sưng đỏ, tròng trắng đỏ, tròng đen loét thành từng mảnh như miếng sáp thường có mủ, toàn thân có dấu hiệu sốt, khát, gầy ốm, táo bón lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Sác có lực.
Điều trị: Tả hỏa, giải độc.
Dùng bài Tứ Thuận Thanh Lương Ẩm Tử Gia Giảm (137) (Long đởm thảo, Sài hồ thanh hỏa ở Can Đởm; Hoàng cầm, Tang bạch bì thanh Phế hỏa; Sinh địa, Xích thược thanh huyết nhiệt; Phụ có Đương quy, Xuyên khung để hành khí, hoạt huyết; Khương hoạt, Phòng phong, Mộc tặc để khứ phong, thoái ế; Xa tiền tử thanh lợi tiểu tiện; Chỉ xác, Đại hoàng thông lợi đại tiện làm cho uất nhiệt hỏa độc đi xuống mà thoát ra).
+ Nếu mắt sưng đỏ đau nặng: thêm Tê giác, Đơn bì, Nhũ hương, Một dược để lương huyết, hóa ứ.
+ Tà độc quá mạnh: thêm Ngân hoa, Bồ công anh, Cúc hoa, Thiên lý quang để thanh nhiệt, giải độc.
4- Chính hư Tà thịnh
Chứng: Mắt đau, thấy ánh sánh yếu, quanh mắt đỏ, tròng đen mờ dần, lâu ngày không khỏi, lưỡi nhạt, mạch Hư.
Điều trị: Phù chính, khu tà.
Dùng bài Thác Lý Tiêu Độc Tán (98) (Đương quy, Xuyên khung, Bạch thược, Bạch truật, Sâm, Hoàng kỳ, Trần bì, Chích thảo để bồi bổ khí huyết, phù chính, thác độc; Kim ngân hoa, Liên kiều, Bạch chỉ, Tạo giác thích, Cát cánh thanh nhiệt, giải độc, khu tà (Trung Y Ngũ Quan Khoa Học).
Tra Cứu Bài Thuốc
03- BẠT VÂN THOÁI Ế HOÀN (Ngân Hải Tinh Vi): Bạc hà, Bạch tật lê, Cam thảo, Chỉ thực, Cúc hoa, Địa cốt bì, Đương quy, Thiên hoa phấn, Hoàng liên, Khương hoạt, Kinh giới, Mạn kinh tử Mộc tặc, Mật mông hoa, Trùng thoái, Xà thoái, Xuyên khung, Xuyên tiêu. Tán bột, làm thành viên 6g. Ngày uống 3 – 4 viên.
TD: Trị mắt có màng, nhìn ra sáng thì chói, chảy nước mắt.
04- BẠT VÂN THOÁI Ế TÁN (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Sinh địa 20g, Xích thược 15g, Quy vĩ 20g, Hoàng cầm 10g,Cúc hoa, Thuyền thoái, Mộc tặc, Xa tiền tử đều 15g, Hoàng liên, Kinh giới huệ, Phòng phong đều 10g. Tán bột.chia làm 2 gói. Mỗi lần dùng 1 gói, hãm nước sôi uống, hoặc sắc uống.
TD: Sơ phong, thanh nhiệt, lương huyết, thoái ế. Trị mắt có màng mây
64- NGÂN KIỀU TÁN GIA GIẢM (Ôn Bệnh Điều Biện): Ngân hoa, Liên kiều, Cát cánh, Bạc hà, Trúc diệp, Cam thảo, Kinh giới, Đạm đậu xị, Ngưu bàng tử, Lô căn. Sắc uống.
TD: Trị mắt có màng (hoa ế bạch hãm), mắt hột.
98- THÁC LÝ TIÊU ĐỘC TÁN (Y Tông Kim Giám): Hoàng kỳ, Tạo giác thích, Ngân hoa, Liên kiều, Chích thảo, Cát cánh, Trần bì, Bạch chỉ, Xuyên khung, Đương quy, Bạch truật, Bạch thược, Phục linh, Nhân sâm. Tán bột. Mỗi lần dùng 12g, uống với nước nóng.
TD: Trị hoa ế bạch hãm.
112- THOÁI Ế TÁN (Thiểm Tây Trung Y Nghiệm Phương Tuyển Biên): Đương quy, Thục địa, Thiên ma, Hoàng liên, Xà thoái đều 9g, Thạch quyết minh 15g, Tật lê, Vọng nguyệt sa, Mộc tặc đều 9g. Tán nhuyễn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 9g.
TD: Hoạt huyết, khứ phong, thanh Can, làm sáng mắt. Trị mắt có màng mây.
137- TỨ THUẬN THANH LƯƠNG ẨM TỬ Gia Giảm (Thẩm Thị Dao Hàm): Đương quy vĩ, Long đởm thảo, Hoàng cầm, Tang bì, Xa tiền tử, Sinh địa, Xích thược, Chỉ xác, Chích thảo, Thục đại hoàng, Phòng phong, Xuyên khung, Xuyên liên, Mộc tặc, Khương hoạt, Sài hồ. Sắc uống.
TD: Trị mắt có màng như hoa (hoa ế bạch hãm).
HỎA THỐNG
Hỏa thống là một trong những rối loạn giao cảm củ thương tổn dây thần kinh ngoại biên (dây thần kinh trụ, giữa và quay).
Đông y xếp vào loại ‘Thống Phong’
Triệu Chứng
a- Thể Nhẹ: Cảm giác đau buốt, rát bỏng nhưng nhẹ, không phải đắp nước lạnh liên tục. Khi thời tiết nóng lạnh thay đổi đột ngột, phải đắp khăn ướt, tiếng động mạnh làm đau tăng.
b- Thể Nặng: Cảm giác đau buót dữ dội, rát bỏng như chân tay áp vào than hồng. Da khô bỏng, phải đắp nước lạnh liên tục. Kích thích của ánh sáng và tiếng động làm đau tăng. Bệnh nhân thường lánh trong buồng tối, không muốn tiếp xúc.
Nguyên Nhân: Do phong nhiệt xâm phạm vào các đường kinh rồi hóa hỏa gây nên đau.
Điều Trị: Thông kinh hoạt lạc.
Châm Cứu
+ Chi trên: Thần môn, Hợp cốc, Nội quan (sơ thông kinh khí ở tay), Cách du (hoạt huyết, thanh nhiệt, tiêu viêm).
+ Chi dưới: Côn lôn, Dương lăng tuyền, Giải khê, Tam âm giao (sơ thông kinh khí ở chân), Huyết hải (hoạt huyết, thanh hiệt, tiêu viêm).
Ghi Chú: Ddêr tránh trạng thái đau tăng do kích thích của châm, lúc đầu châm bên chi lành, vê mạnh hoặc vừa, vê liên tục 15-30 phút. Nếu có máy điện châm có thể cho xung điện với mức độ người bệnh chịu được. Khi đau đã giảm (thường 1-2 lần), có thể châm bênh bệnh. ngày châm 1-2 lần (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
HOÀNG ĐẢN
Đại Cương
Hoàng đản là một chứng bệnh mà triệäu chứng chủ yếu là da vàng, nước tiểu vàng đậm. Từ xa xưa, sách y học cổ truyền đã nhận thức về chứng bệnh này.
Thiên 'Bình Nhân Khí Tượng Luận’ (Tố Vấn) ghi: “Người bệnh nước tiểu vàng đậm, nằm yên... mắt vàng... người đau, sắc hơi vàng, lợi răng vàng, móng tay chân vàng là chứng hoàng đản”.
Thiên ‘Ngọc Cơ Chân Tạng Luận’ (Tố Vấn 19): “Bệnh ở Can truyền sang Tỳ, gọi là chứng Tỳ phong, phát bệnh đản”.
Thiên ‘Kinh Mạch’ (Linh Khu 10) viết: “Tỳ, kinh mạch túc Thái âm, chủ bệnh Tỳ, sinh ra… hoàng đản”.
Điều 187 Thường Hàn Luận viết: “Bệnh thương hàn mạch Phù Hoãn, chân tay ấm là thuộc về Thái âm… cơ thể sẽ phát vàng, nếu tiểu tiện tự lợi thì không thể phát vàng được. Trải qua 7, 8 ngày, đại tiện cứng là chuyển thành Dương minh bệnh”.
Điều 236 Thường Hàn Luận viết: “Dương minh bệnh phát sốt, mồ hôi ra, là nhiệt độc đã theo mồ hôi ra ngoài được phần nào, không thể phát bệnh hoàng đản được. Nếu mồ hôi chỉ ra ở đầu, còn từ cổ trở xuống hoàn toàn không có mà tiểu tiện không lợi, khát, thích uống nước, nhiệt độc ứ lại ở phần lý, cơ thể sẽ phát vàng”.
Theo y học hiện đại, các bệnh có vàng da. mắt như viêm gan virus, xơ gan, bệnh xoắn khuẩn (Leptospira), viêm túi mật... đều có thể biện chứng luận trị theo chứng hoàng đản.
Phân Loại
Trương Trọng Cảnh căn cứ vào nguyên nhân bệnh chia chứng hoàng đản làm 2 loại do ngoại cảm và do nội nhân. Hoàng đản do ngoại cảm, ông mô tả trong sách 'Thương Hàn Luận’ về chứng thương hàn phát hoàng, còn chứng hoàng đản do nội thương.
Sách "Kim Quỹ Yếu Lược " chia làm 4 loại: ‘Cốc đản, tửu đản, nữ lao đản và hoàng đản ".
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ chia hoàng đản làm 20 loại”.
Sách ‘Thánh Tế Tổng Lục’ nêu ra 9 loại bệnh đản và 36 bệnh phát hoàng.
Sách 'Vệ Sinh Bảo Giám ' đời Nguyên theo tính chất của chứng bệnh chia làm 2 loại là dương hoàng và âm hoàng.
Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’ viết: “Phép lớn về phân loại bệnh Hoàng đản, đời xưa có phân ra 5 bệnh đản… Tóm lại: mầu mồ hôi thấm ra áo, vàng như mầu Hoàng bá, gọi là chứng Hoàng hãn. Thân thể, mặt, mắt đều vàng như mầu vàng kim thuộc, nước tiểu vàng, không có mồ hôi, đó là chứng hoàng đản. Ăn uống không điều độ làm tổn thương Tỳ, đó là chứng Cốc đản. Nghiện rượu quá độ khiến cho bị thương về thấp tà, đó là chứng Tửu đản. Sắc dục tổn thương Thận âm gọi là chứng Nữ lao đản. Tuy có nhiều danh từ nhưng không ngoài hai chứng là Dương chứng (Dương Hoàng) và Âm chứng (Âm Hoàng). Dương chứng thuộc loại thực, âm chứng thuộc loại hư. Hư thực không sai là nắm được mấu chốt của việc trị bệnh”.
Hiện nay, đa số các sách giao khoa đều theo hai cách phân chia trên.
Nguyên Nhân
1. Cảm Thụ Thời Tà Trực Trúng Can Đởm làm cho can mất sơ tiết, đởm dịch tràn ra ngoài ứ đọng tại bì phu sinh vàng da, tràn xuống bàng quang sinh ra nước tiểu vàng, can khí uất nghịch dẫn mật lên mắt gây nên mắt vàng.
Thiên ‘Ngọc Cơ Chân Tạng Luận’ (Tố Vấn 19) viết: “Phong hàn phạm vào người ta… phát bệnh đản”.
Sách ‘Ôn Dịch Luận’ viết: “Dịch tà truyền vào phần lý, dẫn nhiệt đến hạ tiêu, tiểu tiện không lợi… thành bệnh đản. Thân minh và mắt vàng như mầu vàng kim loại thuộc”.
2. Ăn Uống Không Vệ Sinh, no đói thất thường hoặc uống rượu vô độ làm tổn thương tỳ vị sinh ra chức năng vận hóa rối loạn, thấp trọc nội sinh, thấp trệ hóa nhiệt, thấp nhiệt nung nấu can đởm, đởm, dịch tràn ra mà phát bệnh.
Thiên ‘Thông Bình Hư Thực Luận’ (Tố Vấn 28) viết: “Hoàng đản sở dĩ sinh ra là do trái ngược với bình thường đã lâu”.
3. Tỳ Vị Hư Hàn: Do bệnh lâu ngày, chức năng tỳ vị suy giảm sinh hàn thấp ứ trệ làm tắc đởm lạc nên nước mật tràn ra gây chứng hoàng đản.
Chẩn Đoán
+ Chủ yếu dựa trên mặt, mắt, cơ thể, móng tay chân, răng đều vàng. Nước tiểu thường vàng đậm.
. Thiên ‘Bình Nhân Khí Tượng Luận’ viết: “Mắt vàng là bệnh hoàng đản.. Nước tiểu vàng đỏ, nằm yên (mỏi mệt chỉ muốn nằm) là bệnh hoàng đản”.
Thiên ‘Luận Tật Chẩn Xích’ (Linh Khu) viết: Cơ thể đau mà mầu hơi vàng, răng vàng bẩn, móng tay mầu vàng là hoàng đản”.
+ Về mầu sắc:
. Dương hoàng thì mầu vàng tươi như mầu quả quít chín hoặc như mầu vị thuốc Hoàng bá. Âm hoàng mầu vàng tối như mầu ám khói.
Biện Chứng Luận Trị
Biện chứng chứng hoàng đản chủ yếu phân làm 2 loại: Dương hoàng và âm hoàng.
Dương hoàng thường thời gian mắc bệnh ngắn, cơ thể khỏe, sắc da vàng tươi, thuộc nhiệt chứng, thực chừng.
Âm hoàng thường thời gian mắc bệnh dài, người yếu. sắc da vàng tối (vàng sạm) thuộc hàn chứng, hư chứng.
Nhưng dương hoàng và âm hoàng đều có thể chuyển hóa. Chứng dương hoàng mà trị không khỏi, bệnh kéo dài cũng chuyển thành âm hoàng. Chứng âm hoàng nhưng do cảm nhiễm thời tà trở lại, thấp nhiệt uất trệ gây can đởm, mạch lạc không thông lợi mà mật tràn ra phát sinh triệu chứng của dương hoàng. Bệnh chứng có thể lẫn lộn: trong hư có thực, khi biện chứng cần chú ý.
+ Dương hoàng thuộc loại thực nhiệt không được dùng loại thuốc ôn nhiệt. Âm hoàng thuộc loại hư hàn, cấm dùng loại thuốc hàn lương.
+ Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: “Hoàng đản do Tỳ Vị có nhiệt mà sinh ra, xét về nguyên nhân của nó, trước hết phải dùng phép phân lợi sau đó mới dùng phép giải độc”… Và “Bệnh ngũ đản… trước hết chỉ nên thông lợi tiểu tiện, hễ tiểu tiện thông lợi, nước tiểu trong thì chứng hoàng đản sẽ tự khỏi”.
+ Sách ‘Y Học Nhập Môn’ viết: “Phép trị bệnh hoàng đản giống như phép trị bệnh thấp, nhẹ thì dùng thuốc có tính thẩm lợi, hòa giải, nặng thì phải thông lợi mạnh, hễ thông lợi được thủy độc thì bệnh hoàng đản tự khắc lui”.
+ Chương ‘Hoàng Đản’ (Kim Quỹ Yếu Lược) viết: “Các loại bệnh hoàng đản, chỉ cần thông lợi tiểu tiện. Nhưng nếu mạch Phù, phải dùng phép hãn giải, nên dùng bài Quế Chi Gia Hoàng Kỳ Thang”.
Qua các y văn cổ xưa có thể thấy: Hoàng đản đa số do ảnh hưởng của thấp tà làm cho cơ năng của Tỳ Thận bị trở ngại, vì vậy phép trị phải lấy trừ hoàng, lợi thủy làm chính.
Tuy nhiên, còn phải dựa vào chứng trạng, diễn biến bệnh trên lâm sàng mà biện chứng điều trị cho phù hợp. Thí dụ, chứng hoàng đản mà bắt mạch thấy Phù là dấu hiệu bệnh độc còn tập trung ở phần biểu, chính khí có dấu hiệu đang kháng lại tà độc cho nên phải dùng phương pháp hãn giải, tức là dùng bài Quế Chi Gia Hoàng Kỳ Thang để trị.
Hoặc nhiều khi gặp hội chứng không đơn thuần, phải biện chứng cho thích hợp. Thí dụ, điều 5 thiên Hoàng đản sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ nêu lên trường hợp: “Bệnh tửu đản, không nóng, nói năng như thường, bụng đầy, muốn nôn, mũi khô, mạch Phù. Trước hết dùng phép Thổ. Mạch trầm Huyền, trước hết dùng phép Hạ”…
+ Điều trị hoàng đản, dùng phép trừ hoàng lợi thủy làm chính. Trừ hoàng lợi thủy là thông lợi thủy độc cho sắc tố mật tiết ra ngoài. Tuy nhiên, nên hiểu theo nghĩa rộng, không nên thu hẹp trong phạm vi thông lợi tiểu tiện mà phải lấy sự khôi phục công năng bài tiết thủy dịch làm chính. Thí dụ: Khi thấy mạch và chứng thuốc biểu, dùng phép phát hãn cho ra mồ hôi để giải, mồ hôi ra thì đởm sắc tố cũng theo ra, đây cũng là một cách trừ hoàng lợi thủy.
I- DƯƠNG HOÀNG
1- Thấp nhiệt: Sắc da vàng tươi, người nóng sốt, phiền khát, ngực tức, bụng đầy, ăn kém, nước tiểu vàng đậm.
Phép trị chung là thanh nhiệt, lợi thấp. Có thể chia 2 thể khác nhau:
a. Thấp Thắng: Sốt không cao hoặc không sốt, miệng nhạt, không khát, đầu nặng, ngực nặng, tiểu ít, tiêu lỏng, thân lưỡi bệu, rêu dày, mạch Hoãn.
Điều trị: Lợi thấp làm chính, kèm thanh nhiệt. Dùng Nhân Trần Ngũ Linh Tán gia giảm.
(Trong bài, Bạch linh, Trư linh, Trạch tả có vị ngọt, nhạt để thấm thấp; Bạch truật kiện tỳ, trừ thấp. Nhân trần thanh nhiệt lợi thấp, làm cho bớt vàng da.
b- Nhiệât Thắng: Sốt, bứt rứt, khát nước, tiểu tiện ít, nước tiểu vàng đậm, táo bón, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch Sác.
Điều trị: Thanh lợi thấp nhiệt. Dùng bài Nhân Trần Cao Thang gia giảm.
(Trong bài, Nhân trần thanh nhiệt, lợi thấp, giảm vàng da; Chi tử, Đại hoàng thanh nhiệt độc, tả hạ. Thêm Xa tiền tử, Trư linh, Trạch tả để lợi thấp).
Sốt thêm Trúc nhự, Bán hạ, Gừng tươi, Trần bì. Bụng ngực đầy thêm Chỉ thực, Hậu phác để hành khí, hóa trệ.
2. Nhiệt Độc Thịnh (Cấp Hoàng): Phát bệnh đột ngột, toàn thân vàng tươi, sốt cao, khát nước, bụng ngực đầy tức, hôn mê nói sảng, tiêu có máu hoặc chảy máu mũi hoặc ban chẩn đỏ, lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch Huyền, Sác hoặc Tế Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, tư âm. Dùng bài: Tê Giác Tán gia vị.
(Trong bài, Tê giác để thanh nhiệt giải độc, lương huyết; Hoàng liên, Chi tử thanh nhiệt giải độc; Đại thanh diệp, Thổ phục linh, Bồ công anh thanh nhiệt giải độc. Thêm Nhân trần thanh nhiệt thối hoàng, Sinh địa, Đơn sâm, Huyền sâm, Xích thược để lương huyết tư âm).
Trường hợp hôn mê nói sảng, thêm ‘An Cung Ngưu Hoàng Hoàn’ hoặc ‘Chí Bảo Đơn’ (thành phẩm) để thanh tâm, khai khiếu.
II- ÂM HOÀNG
1- Hàn thấp (Tỳ Dương Hư): Sắc da vàng tối, ăn ít, bụng đầy hoặc có cổ trướng, sợ lạnh, tiêu lỏng, mệt mỏi, lưỡi nhạt, rêu dày, mạch Nhu, Hoãn.
Điều trị: Kiện tỳ hòa vị, ôn hóa hàn thấp. Dùng bài Nhân Trần Truật Phụ Thang gia vị.
(Trong bài Nhân trần, Phụ tử cùng dùng để ôn hóa hàn thấp; Bạch truật, Can khương, Cam thảo kiện tỳ, ôn trung. Thêm Trạch tả, Phục linh để thấm thấp).
Bụng đầy, sườn đau âm ỉ, chán ăn, chân tay nặng nề, mạch Huyền Tế do can uất tỳ hư dùng bài ‘Tiêu Dao Tán’ để sơ can, kiện tỳ.
2. Khí Huyết Hư: Sắc da vàng, mệt mỏi, da không tươi nhuận, hoa mắt, chóng mặt, hồi hộp, mất ngủ, tiêu lỏng, chất lưỡi nhợt, rêu mỏng, mạch Tế Nhược.
Điều trị: Bổ dưỡng khí huyết. Dùng bài Bát Trân Thang gia giảm.
(Trong bài, ‘Tứ Quân’ bổ khí, kiện Tỳ, bài ‘Tứ Vật’ bổ huyết. Thêm Trần bì để lý khí, kiện Tỳ, tiêu thực; Sài hồ, Liên kiều, Địa cốt bì để thanh can nhiệt (hư nhiệt do khí huyết hư); Nhân trần thanh nhiệt thối hoàng; Táo, Sinh khương điều hòa Vinh vệ.
Bệnh Án Trị Hoàng Đản Do Phong Hàn + Thấp Nhiệt
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Dương X, nữ, 48 tuổi.
Khám lần đầu: Phát sốt đã 4 ngày, triệu chứng sợ lạnh chưa khỏi. Khát nước mà không muốn uống, nước tiểu vàng đỏ, đại tiện khô cứng, muốn nôn, đau hạ sườn bên phải. Sáng nay phát hiện mặt mắt đều vàng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền Sác mà Phù. Đây là chứng Hoàng đản biểu tà phong hàn chưa giải, trong lý có thấp nhiệt, dùng Ma Hoàng Liên Kiều Xích Tiểu Đậu Thang để giải bỏ biểu tà ở ngoài và thanh thấp nhiệt ở trong (y học hiện đại chẩn đoán: Viêm Gan truyền nhiễm cấp tính). Cho dùng Ma hoàng 4g, Liên kiều 16g,Tang bạch bì 20g, Xích tiểu đậu 40g, Hạnh nhân 12g, Nhân trần 40g, Tiêu sơn chi 12g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 4 quả.
Khám lần 2: Sau khi uống 4 thang đơn trên, nhiệt lui hàn trừ, ngoại tà đã giải mà thấp nhiệt chưa sạch, đổi uống bài Nhân Trần Cao Thang gia giảm; Uống được 1 tuần, hết Hoàng đản, các triệu chứng khác cũng khỏi. Sau 2 tuần kiểm tra chức năng Gan, cơ bản bình thường.
Nhận xét: Bệnh án này ngoài có biểu tà trong có thấp nhiệt, thấp và nhiệt uất át ra ngoài biến thành chứng mình vàng thuộc loại Dương hoàng tức như loại Thái dương, Dương minh hợp bệnh trong Thương hàn luận. Dùng Ma hoàng, Hạnh nhân để giải biểu tán hàn, tuyên Phế lợi khí; Liên kiều, Tang bạch bì, Xích tiểu đậu phối hợp với Sơn chi, Nhân trần để thanh nhiệt lợi thấp.
Bệnh Án Trị Hoàng Đản Do Nhiệt Độc
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Bệnh nhân: Tôn X, nam, 17 tuổi.
Bệnh sử: Phát bệnh đã 5 ngày, thoạt tiên thấy kém ăn, muốn nôn, nôn mửa; Hai ngày sau xuất hiện Hoàng đản. Khi vào viện trong tình trạng nói sảng, cuồng táo, đại tiểu tiện không tự chủ.
Chẩn đoán: Cấp hoàng (Tây y: Viêm Gan truyền nhiễm thể cấp tính).
- Y án: Phát bệnh nhanh gấp, xuất hiện Hoàng đản đột ngột, cuồng táo nói sảng, nhị tiện không tự chủ, rêu lưỡi vàng ráo mà khô, chất lưỡi đỏ tía, mạch Tế Sác là do nhiệt độc quá thịnh, tà khí lọt vào Tâm bao, cần lương huyết giải độc, thanh Tâm khai khiếu. Dùng Sinh địa tươi 20g, Thủy ngưu giác 12g (mài ra cho uống), Thạch xương bồ 12g, Đại thanh diệp 20g, Huyền sâm 12g, Uất kim 12g, Kim ngân hoa 12g, Nhân trần 12g, Hoàng bá 12g, Hắc sơn chi 12g, Thần Tê Đơn 1 viên (uống với nước thuốc sắc).
Đồng thời phối hợp với truyền dịch, tiêm sinh tố B12. Ngày hôm sau, bệnh yên tĩnh, về chiều thần trí tỉnh táo. Sang ngày thứ ba tỉnh táo hoàn toàn. Về sau, vẫn dùng đơn cũ bỏ Thần Tê Đơn, Huyền sâm, Hoàng bá. Tây y cũng
giảm kháng sinh. Điều trị như vậy 1 tuần, Hoàng đản giảm, sau ba tuần khỏi hẳn, sang tuần thứ tư làm các xét nghiệm đều âm tính, cho ra viện.
Nhận xét: Cấp hoàng còn gọi là ôn hoàng, thuộc ôn bệnh thường gặp ở bệnh Gan hoại tử cấp tính hoặc bán cấp; Cũng có thể gặp ở viêm Gan truyền nhiễm cấp tính thời kỳ nghiêm trọng hoặc viêm túi mật nhiễm độc. Điều trị chia hai giai đoạn, giai đoạn đầu là nhiệt độc ủng thịnh, bệnh ở khí phần, dùng Hoàng Liên Giải Độc Thang phối hợp với Thần Tê Đơn, Chí Bảo Đơn để thanh tâm khai khiếu. Bệnh nhân họ Tôn điều trị theo giai đoạn hai.
Bệnh Án Trị Hoàng Đản Do Tỳ Thận Đều Suy
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Chu X, nam. Do tư lự quá độ, mệt nhọc đến Tỳ ; do phòng lao không hạn chế, hao tổn đến Thận, Tỳ Thận đều suy, thấp khí của thủy cốc sinh ra từ bên trong, thấp theo hàn hóa, dương khí không vận hành, Đởm chấp bị thấp làm ngăn trở, thấm sang Tỳ, lan ra cơ thịt, tràn ra bì phu khiến cho vàng toàn thân, mặt mắt đen sạm, tiểu tiện vàng nhạt, đại tiện phân đen, kém ăn, muốn nôn, tinh thần mỏi mệt yếu ớt, rêu lưỡi mỏng nhớt, mạch Trầm Tế.
Dương hư thì âm thịnh; Khí trệ thì huyết ứ, chất ứ trọc dồn xuống Đại trường cho nên bài tiết ra phân đen và khó đi. Cho uống Nhân Trần Truật Phụ Thang gia vị, chủ yếu để trợ dương giúp cho Tỳ kiện vận, hỗ trợ thuốc hóa thấp trừ ứ. Thục khối 6g, Phục linh (cả vỏ) 16g, Đan sâm 8g, Sa nhân 4g, Sinh bạch truật 12g, Trần bì 4g, Hồng hoa 3g, Sao mạch nha 12g, Nhân trần 10g, Bán hạ 8g, Trạch tả 8g, Sao ý dĩ 16g, Thương bì 8g.
Nhận xét: Bệnh án này thuộc âm hoàng, vừa hàn thấp vừa kèm ứ huyết: Phụ tử dùng chung với Nhân trần nhằm ôn hóa hàn thấp, phối hợp với Phục linh bì, Thương bì, Trần bì, Ý dĩ nhân, Bạch truật để kiện Tỳ lợi thấp. Đan sâm dùng chung với Hồng hoa để hoạt huyết hóa ứ.
Bệnh Án Hoàng Đản Do Đởm Lạc Ứ Trệ (Túi Mật Viêm)
(Trích trong (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Trần X, nữ, 34 tuổi, công nhân, sơ chẩn ngày 10/1/1976. M­ười năm trước, bệnh nhân bị sỏi mật nên cắt bỏ túi mật, sau đó thỉnh thoảng phát sốt, ớn lạnh, phía phải bụng trên khó chịu, mắt vàng, nước tiểu vàng. Mỗi lần điều trị bằng thuốc thanh nhiệt lợi đởm có chuyển biến tốt, nhưng ít lâu sau lại tái phát. Bệnh nhân kêu tinh thần mệt mỏi, kém ăn đại tiện lúc lỏng lúc đặc, miệng khô đắng, tiểu tiện hơi vàng. Lưỡi nhạt, rêu trắng, mạch Huyền. Bụng trên ấn đau không rõ rệt. Chụp đường mật không thấy sỏi, đó là lạc của đởm bị ứ trệ không được thanh lọc. Cho dùng Sài Hồ Nga Truật Thang (Sài hồ 12g, Bạch thư­ợc 12g, Thanh bì 10g, Thái tử sâm 30g, Nga truật 12g), uống liền 7 thang, hết hẳn đau bụng, các chứng khác giảm nhiều, bệnh nhân ra viện, sau đó có uống mấy thang nữa, bệnh khỏi hoàn toàn. Theo dõi mấy năm chư­a thấy tái phát.
Tham Khảo
Sách Kim Quỹ Yếu Lược đề ra các phương pháp điều trị Hoàng đản chi tiết như sau:
Dương Hoàng
+ Sốt, mồ hôi tự ra, sợ gió, mạch Phù Hoãn, Phù Nhược, dùng bài Quế Chi Gia Hoàng Kỳ Thang.
+ Sốt, không mồ hôi, sợ rét, mạch Phù Khẩn dùng Ma Hoàng Thuần Tửu Thang (Độc vị Ma hoàng 20g. Mùa lạnh sắc với rượu, bình thường sắc với nước lạnh).
+ Biều hàn lý nhiệt cao: Mạch Phù, Hồng, Khẩn, sốt cao, không mồ hôi, phiền táo, môi khô, miệng táo hoặc rêu lưỡi trắng khô, khát… dùng Ma Hoàng Ngũ Vị Thang (Ma hoàng, Cát căn, Thạch cao, Sinh khương, Nhân trần).
+ Biểu hàn lý nhiệt vừa: sốt, sợ lạnh, không mồ hôi, không khát,nước tiểu đỏ, tiểu ít, mạch Phù Khẩn. Dùng Ma Hoàng Liên Kiều Xích Tiểu Đậu Thang (Ma hoàng, Liên kiều, Hạnh nhân, Sinh khương, Chích thảo, Xích tiểu đậu, Đại táo, Sinh tử bạch bif (hoặc Nhân trần).
+ Sốt, phiền khát, mạch Phù Sác, uóng nước vào lại nôn ra ngay mà vẫn khát, nước tiểu vàng sậm, tiểu ít, dùng Nhân Trần Ngũ Linh Tán (Bôt Nhân trần 10 phần, bột Ngũ linh 5 phần, trộn đều. Uống trước bữa ăn, mỗi lần 8g, ngày 3 lần).
+ Bụng đau mà nôn, dùng Sài Hồ Thang (Nếu có mạch chứng Thiếu dương thì dùng Tiểu Sài Hồ Thang, nếu có mạch chứng Thiếu dương bệnh kèm Dương minh dùng Đại Sài Hồ Thang.
+ Nội nhiẹt, bộ xích mạch Sác, cơ thể nóng, nước tiểu nóng đỏ, không có biểu chứng, không có lý chứng cũng không có chứng bán biểu bán lý và Tam âm chứng, đó là do Thận bị nhiệt gây ảnh hưởng đến bàng quang. Dùng Chi Tử Bá Bì Thang.
+ Trường vị có thực nhiệt ủng trệ ảnh hưởng đến bàng quang, bụng đầy. Dùng Nhân Trần Cao Thang.
Âm Hoàng
+ Đại tiện không thực, nước tiểu vàng, không khát, bụng đầy, thích xoa bóp, mỏi mệt, kém ăn, mạch Trầm Trì không lực. Dùng Nhân Trần Lý Trung Thang.
+ Cơ thể lạnh, sợ lạnh, tự ra mồ hôi, tiêu lỏng, tiểu tiện tự thông, mạch Trầm Vi như sắp đứt, Dùng Nhân Trần Tứ Nghịch Thang.
+ Cơ thể lạnh, sợ lạnh, bụng đau, bụng đầy, trong bụng cảm thấy lạnh mà ấn nặng tay vào thấy khó chịu, mạch Trầm Trì. Đây là dương hư kèm tích trệ do ăn thức ăn lạnh không tiêu. Dùng Nhân Trần Tứ Nghịch Thang bỏ Cam thảo thêm Chỉ thực, Bạch truật, Bạch đậu khấu.
HÓC XƯƠNG
Đại cương
Là tình trạng xương vướng ở họng. Thường là xương cá hoặc xương gà.
Trẻ nhỏ và người lớn tuổi thường dễ bị, nhất là khi ăn cá.
Được xếp vào loại Dị Vật Hô Hấp.
YHCT gọi là Cốt Ngạnh, Ngạnh Yết, Ngạnh Hầu.
Từ thời Đông Tấn (thế kỷ thứ 4), Cát Hồng, trong sách ‘Bị Cấp Trửu Hậu Phương’ đã có ghi về phương pháp trị hóc xương như: “ Bàng kim phương trị hầu ngạnh... họng đau như kim đâm...”.
Đời nhà Đường (thế kỷ thứ 7), sách ‘Ngoại Đài Bí Yếu’ hướng dẫn 30 cách trị hóc xương.
Đời nhà Tống, thế kỷ 11, sách ‘Thái Bình Thánh Huệ Phương’ nêu lên 22 phương thuốc trị hóc xương.
Nguyên nhân
Do ăn uống không để ý, hoặc ăn quá vội đã nuốt luôn cả xương vào, xương đâm vào thịt ở họng gây nên.
Triệu Chứng
Lúc đầu xương mới hóc, nuốt vào có cảm giác vướng, khạc ra thấy có ít máu lẫn trong nước miếng. Nếu xương vướng ở đấy lâu ngày sẽ làm cho họng sưng đau, làm mủ, lở loét.
Điều trị
Giai đoạn đầu: Nhuyễn hóa cốt thích, làm cho xương tiêu tan.
Uy linh tiên 30g, sắc với 2 chén nước còn ½ chén, thêm Bạch thố (giấm) 100ml vào, uống dần. Mỗi ngày uống 1 - 2 lần.
(Uy linh tiên, Bạch thố có vị chua, mặn để làm mềm xương, vị cay để mở ra (khai), vị đắng để giáng xuống).
Nếu dùng 4 thang mà không có hiệu quả thì phải chuyển đến chuyên môn để trị.
+ Kim ngân hoa 15g, Cam thảo (sống) 10g, sắc, ngậm nuốt dần để thanh nhiệt, giải độc.
Giai Đoạn Làm Độc
Chứng: Họng đau như kim đâm, nuốt khó kèm sốt, rét run, táo bón, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt, giải độc, tả hỏa, khứ hủ.
Dùng bài Tam Hoàng Lương Cách Tán gia giảm (39).
(Đây là bài Tam Hoàng Lương Cách Tán thêm Đại hoàng. Dùng Hoàng cầm, Hoàng liên, Đại hoàng để thanh hỏa nhiệt ở Tam tiêu, tả hỏa, giải độc; Xạ can, Ngân hoa, Huyền sâm, Thiên hoa phấn thanh nhiệt độc ở họng để ích âm huyết; Xuyên khung Đương quy, Xích thược, Bạc hà, Thanh bì hành khí, hoạt huyết để trừ khí huyết bị ngưng trệ (Trung Y Cương Mục).
+ Uy linh tiên 15g, Rượu lâu năm 30ml, Đường cát 6g. sắc Uy linh tiên với 2 chén nước, còn ½ chén, bỏ bã, cho rượu và đường vào, đun cho sôi. Ngậm một lúc rồi nuốt xuống (Trung Y Cương Mục).
+ Uy linh tiên, Sa nhân, Thảo quả, Ô mai đều 10g, Đường 30g, sắc với 3 chén nước, ngậm nuốt dần (Trung Y Cương Mục).
HỒI HỘP
( Tâm Quý)
Hồi Hộp là một chứng trạng tự cảm thấy trong Tâm hồi hộp không yên, tục gọi là Tâm Khiêu. Sách Hồng Lô Điểm Tuyết viết: “Chứng Quý là chỉ vùng Tâm đột ngột rung động không yên, sợ sệt, trong Tâm trằn trọc không yên, sợ sệt như có người muốn bắt...”. Sách ‘Y Học Chính Truyền’ viết: "Chứng Kinh quý là chỉ đột ngột như sợ hãi, hồi hộp, trong Tâm không yên và có cơn từng lúc. Chứng Chinh xung là chỉ trong Tâm sợ sệt dao động không yên, có cơn liên tục"...
Theo những quan điểm trên, nhân tố gây bệnh có khi do sợ hãi gây nên, có khi không do sợ hãi gây ra.
Tâm hồi hộp lúc có lúc không, gọi là Kinh quý, bệnh tương đối nhẹ. Không do hãi mà phát sinh, trong Tâm dao động không yên và cơn liên tục, gọi là Chinh xung, bệnh tình khá nặng. Nhưng chứng trạng lâm sàng, đều coi trong Tâm hồi hộp không yên là chính, gọi là Tâm quý.
Các loại rối loạn thần kinh thực vật và các loại bệnh tim dẫn đến nhịp tim không đều trong y học hiện đại, đều có thể xuất hiện chứng trạng Tâm quý.
Nguyên Nhân
1 . Tâm Thần Không Yên: Sợ hãi đột ngột có thể dẫn đến tâm thần không yên. Thiên ‘Cử Thống Luận’ (Tố Vấn 39) viết: "Kinh thì Tâm không nơi dựa, thần không chốn về, lo lắng không được yên cho nên khí loạn" và "sợ thì khí nén xuống", "sợ thì thần khiếp".
Kinh thì khí loạn, thần chí không yên cho nên Tâm kinh, thần dao động, hồi hộp không yên. Sợ (khủng) thì thương Thận, Thận hư yếu không giao thông được với Tâm khiến cho Tâm hồi hộp không yên.
Ngoài ra, giận dữ đột ngột khí nghịch khiến cho Can mất chức năng điều đạt. Bệnh Can liên lụy đến Tỳ, Tỳ mất chức năng vận hóa, thì tinh vi thủy cốc tụ lại thành đờm. Khí uất lại có thể hóa hỏa, đờm hỏa quấy rối Tâm thần cũng dẫn đến Tâm quý không yên.
2. Tâm Huyết Bất Túc: Bị bệnh lâu ngày thân thể suy yếu hoặc mất máu quá nhiều, hao thương tâm huyết; Hoặc tư lự quá độ, mệt nhọc làm thương Tỳ, Tỳ mất chức năng kiện vận làm cho nguồn tạo nên huyết dịch bất túc, Tâm mất sự nuôi dưỡng, thần không tiềm tàng cho nên Tâm hồi hộp không yên. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: "Chinh xung là do huyết hư, chinh xung liên tục, phần nhiều là do thiếu huyết”.
3. Âm Hư Hỏa Vượng: Mắc bệnh lâu ngày, cơ thể suy nhược hoặc do bệnh nhiệt làm thương âm... đều có thể dẫn đến Thận âm khuy tổn, tâm hỏa vọng động gây nên Tâm hồi hộp không yên.
4. Phong Thấp Xâm Phạm: thiên ‘Tý Luận’ (Tố Vấn 43) viết: "Bị chứng Mạch tý không khỏi lại bị nhiễm ngoại tà, ẩn náu trong Tâm" và “Chứng Tâm tý làm cho mạch máu không thông". Nói lên tà khí phong hàn thấp phạm huyết mạch ảnh hưởng tới Tâm ở trong, Tâm mạch bị nghẽn, doanh huyết vận hành không thông cho nên hồi hộp không yên.
5. Dương Khí Suy Nhược: Sau khi bị bệnh lâu ngày, dương khí suy không làm ấm áp Tâm mạch, Tâm dương không mạnh cho nên hồi hộp không yên. Nếu dương hư nước ứ đọng thành chứng ẩm, ẩm tà phạm lên trên cũng làm cho hồi hộp không yên. Sách ‘Thương Hàn Minh Lý Luận’ viết: "Nói khí hư dương là dương khí
hư nhược, dưới Tâm rỗng không động ở trong mà thành hồi hộp. Nếu ẩm ứ đọng là do thủy đọng ở dưới Tâm... Tâm không được yên sẽ thành Tâm quý".
Triệu Chứng Lâm Sàng
+ Tâm Thần Không Yên: Tiâm hồi hộp, dễ kinh sợ, nằm ngồi không yên, ít ngủ hay mê, nói chung lưỡi và mạch bình thường hoặc mạch thấy Hư Sắc.
Biện chứng: Hãi thì khí loạn, sợ thì khí hạ, đến nỗi Tâm không thể chứa thần, phát sinh chứng tim hồi hộp, ít ngủ hay mê. Mạch Hư Sắc là dấu hiệu tâm thần không yên. Bệnh nhẹ thì lúc phát lúc ngừng; Loại nặng thì Tâm sợ sệt, thần rối loạn, hồi hộp không yên, không tự chủ được.
Điều trị: Trấn kinh an thần. Dùng bài An Thần Định Chí Hoàn gia giảm.
(Trong bài có Nhân sâm, Long xỉ để bổ khí trấn kinh; Phục thần, Viễn chí, Xương bồ an thần hóa đờm làm thuốc hỗ trợ).
Cũng có thể dùng các vị như Từ thạch, Mẫu lệ, Táo nhân, Bá tử nhân để trấn kinh an thần. Nếu Tâm hồi hộp mà phiền, ăn kém, muốn nôn, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sắc là bệnh kiêm có đờm nhiệt quấy rối ở trong, Vị mất chức năng hòa giáng, có thể thêm Bán hạ, Trần bì, Trúc nhự. Nếu sắc mặt kém tươi, mệt mỏi, chất lưỡi nhạt, có thể luận trị theo thể Tâm huyết bất túc.
2) Tâm Huyết Bất Túc: Tim hồi hộp, choáng váng, sắc mặt kém tươi, móng chân tay nhạt, tay chân không có sức, chất lưỡi đỏ nhạt, mạch Tế.
Biện chứng: Tâm chủ huyết mạch, vinh nhuận ra mặt, huyết hư không nuôi được Tâm gây nên chứng Tâm quý, không tưới nhuận lên đầu mặt gây ra chóng mặt và sắc mặt không tươi. Huyết hư không làm ấm áp tay chân cho nên móng chân xanh nhợt, tay chân không có sức. Chất lưỡi đỏ nhạt, mạch Tế... đều là dấu hiệu khí huyết bất túc.
Điều trị: Ích khí bổ huyết, dưỡng tâm an thần. Dùng bài Quy Tỳ Thang gia giảm.
(Trong bài có Sâm, Kỳ, Truật, Thảo để ích khí kiện Tỳ, tăng cường nguồn sinh ra huyết; Đương quy, Long nhãn nhục để dưỡng huyết, Táo nhân, Viễn chí để an thần, Mộc hương hành khí, khiến cho bổ mà không bị trệ).
Nếu tâm động hồi hộp mà mạch Kết Đại là huyết không nuôi Tâm, kèm theo Tâm dương mạnh, huyết dịch tuần hành không thư sướng gây nên, cho uống Chích Cam Thảo Thang gia giảm để dưỡng Tâm thông mạch theo phép song bổ cả khí và huyết.
3) Âm hư hỏa vượng: Hồi hộp không yên, tâm phiền, ít ngủ, chóng mặt, hoa mắt, tai ù mỏi lưng, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác.
Biện chứng: Thận âm bất túc, Tâm hỏa vượng, gây nên chứng tâm quý, phiền táo, ít ngủ, âm suy thì ở dưới mỏi lưng, Dương quấy rối ở trên thì hoa mắt, chóng mặt ù tai; chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác... đều là đặc trưng của âm hư hỏa vượng.
Điều trị: Dục âm thanh hỏa. Dùng bài Hoàng Liên A Giao Thang gia giảm.
(Trong bài có Hoàng liên, Hoàng cầm để thanh Tâm hỏa; A giao, Thược dược, Kê tử hoàng để nuôi âm huyết). Thêm Đan sâm, Trân châu mẫu v.v... để tăng sức an thần, bớt kinh sợ. Nếu âm hư mà hỏa không vượng, có thể dùng Thiên Vương Bổ Tâm Đơn.
(4) Phong Thấp Xâm Phạm: Hồi hộp, hơi thở ngắn, ngực đau hoặc khó chịu, hai gò má đỏ tía, thậm chí môi và móng tay chân tím tái hoặc ho suyễn khạc ra máu, chất lưỡi xanh nhợt hoặc có nốt ứ huyết, mạch Tế hoặc Kết Đại.
Biện chứng: Bệnh Tý chữa không khỏi, truyền vào trong Tâm làm cho huyết mạch bị nghẽn, Tâm mất sự nuôi dưỡng nên hồi hộp không yên. Khí trệ huyết ứ, Tâm dương bị uất, khiến cho ngực khó chịu hoặc ngực đau và hơi thở ngắn. Nếu chứng Tý làm nghẽn lạc mạch, Phế mất túc giáng thì ho suyễn, nặng hơn thì tổn thương Phế lạc cho nên khạc ra máu. Hai gò má đỏ tía hoặc môi và móng tay chân tím tái, lưỡi có nốt ứ huyết, mạch Kết Đại đều là dấu hiệu Tâm dương không mạnh, ứ huyết tích đọng gây nên.
Điều trị: Hoạt huyết hóa ứ, trợ dương thông mạch. Dùng bài Đào Nhân Hồng Hoa Tiễn gia giảm.
(Dùng Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm, Đương quy để hoạt huyết hóa ứ là chủ yếu; Huyền hồ, Xuyên khung, Hương phụ làm thuốc hỗ trợ).
Có thể thêm Quế chi, Cam thảo để thông Tâm dương; Long cốt, Mẫu lệ để trấn tâm thần. Trong bài có Sinh địa, nếu muốn tập trung vào thông Dương thì không nên dùng. Nếu ho suyễn khạc ra máu, đơn thuốc trên bỏ Xuyên khung, Hương phụ, thêm Tô tử, Trầm hương, Sâm Tam thất để thuận khí chỉ huyết.
(5) Dương Khí Suy Nhược: Tim hồi hộp không yên, thở suyễn, ngực khó chịu, thân thể ớn lạnh, chân tay lạnh, phù toàn thân, tiểu không lợi, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Vi Tế hoặc Kết Đại.
Biện chứng: Dương khí trong ngực bất túc, thủy khí bốc lên tâm gây nên hồi hộp, ngực khó chịu mà thở suyễn; thậm chí Thận dương suy vi không làm ấm áp tay chân, cho nên người ớn lạnh, tay chân lạnh. Vì dương hư nên nước trào lên, Bàng quang khí hóa không lợi, cho nên phù toàn thân, tiểu không lợi. Chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch Vi Tế hoặc Kết Đại, đều là dấu hiệu Tâm Thận dương suy, huyết mạch ngưng trệ gây nên.
Điều trị: Ôn vận dương khí, hành thủy giáng nghịch. Dùng bài Chân Vũ Thang gia giảm.
(Trong bài dùng Phụ tử, Sinh khương chủ yếu để ôn dương tán hàn, phối hợp với Phục linh, Bạch truật kiện Tỳ lợi thủy làm thuốc hỗ trợ).
Có thể thêm Nhục quế, Trạch tả, Xa tiền để tăng cường sức ôn Thận hành thủy. Nếu suyễn không nằm được có thể thêm Hắc Tích Đan để ôn phận nạp khí và bình suyễn.
Bệnh Án Hồi Hộp Huyết Áp Cao
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Dương X nam, 53 tuổi. Thường hồi hộp sợ sệt, chóng mặt, hoa mắt, mất ngủ, ba tháng nay bệnh nặng thêm, có lúc sợ hãi, hồi hộp, nặng hơn thì hồi hộp không ngừng, nhiều đờm, kém ăn.
Khám: Thể trạng béo bệu, nhịp tim đều, mỏm tim đập có lực, vùng hai chủ động mạch có tiếng vang kim loại, huyết áp 160/100mgHg, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền.
Chẩn đoán: Tâm quý (bệnh Cao huyết áp).
Điều trị: Bình Can ôn đởm, hóa đờm, an thần. Dùng: Khương bán hạ 12g, Trần bì 6g, Chỉ thực (sao) 6g, Trúc nhự 12g, Phục linh 12g, Long cốt (sắc trước) 20g, Mẫu lệ (sắc trước) 40g, Chế nam tinh 6g, Chích cam thảo 4g, Từ Chu Hoàn 12g (uống với thuốc sắc). Sau khi uống liên tục 10 thang, các chứng kinh sợ hồi hộp khỏi hết, thần trí ổn định.
- Nhận xét. Bệnh này do sợ hãi gây nên đến nỗi Tâm thần không yên, Can dương cùng với đờm quấy rối xuất hiện các chứng hồi hộp, chóng mặt, mất ngủ, đờm nhiều, kém ăn, do đó dùng Ôn Đởm Thang thêm Long cốt, Mẫu lệ, Từ Chu Hoàn để trấn tâm anthần, tiềm dương, hóa đờm.
Bệnh Án Chinh Xung
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’).
Tôn X, nữ, 39 tuổi.
Bệnh sử: Khi Tâm quý nặng thì hồi hộp, bệnh đã 6 năm, nửa tháng nay liên tục bị hồi hộp, chóng mặt, hoa mắt, miệng khô, họng ráo, tai ù, mỏi lưng, đêm ít ngủ.
- Khám: Thể trạng cao gầy, hình dung tiều tụy, nhịp tim đều, 80 lần/phút. Hai bên Phổi sáng, Gan dưới hạ sườn 1 khoát, mềm, không đau, chất lưỡi đỏ, mạch Tế Sác.
Chẩn đoán: Tâm quý (bệnh thần kinh).
Điều trị: Tư âm thanh hỏa, trấn tâm an thần. Cho uống: Thục địa 16g, Sơn thù 12g, Sinh địa 16g, Xuyên liên 4g, Kỷ tử 12g, Phục thần 16g, Từ thạch (sắc trước) 40g, Đương qui 12g. Sau khi uống 7 thang, hết triệu chứng chinh xung. Sau khi uống hết 10 thang, chứng Tâm quý giảm rõ rệt.
Nhận xét: Bệnh này do Thận âm bất túc không giúp lên Tâm hỏa ở trên; Tâm hỏa vượng thịnh không giáng xuống được đến nỗi gây nên chứng tâm quý, chinh xung. Điều trị: nên tư Thận âm, thanh Tâm hỏa. Là một loại hình gặp nhiều trong lâm sàng.
Bệnh Án Tâm Quý
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’).
Chu X, nam, 18 tuổi. Có bệnh sử thấp tim từ nhỏ, năm gần đây hễ cử động nặng là hồi hộp không yên.
- Khám thấy sắc mặt tối sạm, môi và móng tay chân tím tái nhẹ, vùng trái ngực hơi gồ, mỏm tim ở rãnh sườn 6 về phía ngoài 1,5cm có rung động, có tiếng thổi tâm thu, nhịp tim không đều, 84 lần/phút, Gan dưới hạ sườn 1 khoát, chi dưới hơi phù, chất lưỡi có nốt ứ huyết nhỏ, rêu lưỡi mỏng, mạch Kết Đại, XQ lộ rõ Phế động mạch, tâm thất trái dãn to hướng bên phải, hai Phổi có hình tụ huyết nhẹ. Điện tâm đồ: Trục xoay bên trái, Tâm thất trái dãn to.
Chần đoán: Bệnh Tâm Tý (thấp tim, hẹp và hở van hai lá)
Phép trị: Hoạt huyết hóa ứ, ích khí thông dương, dưỡng tâm trấn thần. Cho uống Đào nhân 12g, Quế chi 12g, Hồng hoa 6g, Đảng sâm 16g, Đan sâm 16g, Phục thần 16g, Táo nhân 6g, Long cốt (sắc trước) 20g, Mẫu lệ (sắc trước) 40g. Sau khi uống 10 thang, chứng Tâm quý giảm rõ rệt, nhịp tim 78 lần/phút.
Nhận xét: Bệnh Tâm Tý, mạch không thông, khí huyết bị nghẽn thì trệ mà thành ứ, làm cho Tâm không được nuôi dưỡng, do đó sử dụng phép hoạt huyết hóa ứ. Tâm dương không mạnh mà thấy mạch Kết Đại, cho nên dùng phép ích khí không dương; lại
thêm các vị dưỡng Tâm trấn thần.
HUNG HIẾP THỐNG
Hung hiếp thống là chứng trạng tự cảm thấy. Hung thống là chỉ chứng trạng đau vùng ngực, bao gồm vị trí hai tạng Tâm Phế ở Thượng tiêu. Hiếp thống là chỉ chứng đau ở một hoặc hai bên sườn, có liên quan đến Can, Đởm.
Chứng Chân tâm thống mà sách Linh Khu đề cập đến là chứng Hung thống nặng. Khi chân tâm thống có cơn đau nặng, tuy phần nhiều xuất hiện tình trạng dương khí suy vi, nhưng quá trình phát sinh, phát triển, biểu hiện không giống nhau.
Chứng Hung tý giới thiệu trong sách ‘Kim Quĩ Yếu Lược’, loại nhẹ thuộc chứng ngực đầy ngày nay, loại nặng là chỉ chứng Hung thống ngày nay, những bàn luận đó lại nghiêng về hung dương bất túc, âm hàn ngăn trở, chứ không bao quát tất cả các loại Hung thống.
Phân tích theo lý luận y học cổ truyền, Hung thống và Hiếp thống tuy vị trí khác nhau, nhưng nguyên nhân, bệnh lý và trị liệu lại có chỗ thông với nhau. Do đó, đem Hung thống, Hiếp thống bao quát cả Hung tý và Chân tâm thống cùng thảo luận chung.
Trong lâm sàng, các chứng Phế viêm, Hung mạc viêm, đau thần kinh liên sườn, Viêm túi mật, giun chui ống mật, sỏi mật, viêm gan,, sơ vữa động mạch v.v.. triệu chứng xuất hiện ở mức độ kh.ác nhau đều nằm trong phạm vi Hung Hiếp Thống.
Nguyên Nhân
Hung ở thượng tiêu, bên trong Tâm Phế; Hiếp ở hai bên, nơi ở của Can, Đởm. Vì vậy, Hung hiếp thống có quan hệ chặt chẽ với Tâm, Phế, Can, Đởm, Tâm chủ huyết mạch, Phế chủ túc giáng, Can Đởm coi về sơ tiết; cho nên, nguyên nhân nào dẫn đến Can Phế thăng giáng mất bình thường, sơ tiết không lợi, mạch lực không thông, ứ huyết ngưng trệ, dương khí trong hung tê nghẽn hoặc kinh mạch không được nuôi dưỡng, đều gây nên Hung thống.
Hung Hiếp thống có thể chia ra hai loại Hư và Thực. Thực chứng lại chia ra khí trệ, huyết ứ, phong nhiệt vít lấp Phế, Can đởm thấp nhiệt. Hư chứng lại chia ra âm hư, Dương hư. Lâm sàng gặp thực chứng nhiều hơn.
1. Khí Trệ: thường do tình chí tổn thương, Can khí uất kết, Phế mất sự túc giáng. Cho nên thường do nhân tố tinh thần gây nên hoặc bệnh nặng thêm. Nhưng ăn uống quá no, cũng ảnh hưởng tới chuyển vận khí cơ, mà phát sinh khí trệ.
2. Huyết Ứ: Khí là soái của Huyết. Khí trệ kéo dài, huyết khó trôi chảy, mạch lạc mất điều hòa thì sinh ra huyết ứ. Cho nên khí trệ và huyết ứ đồng thời tồn tại và xuất hiện. Nói chung, bệnh mới mắc ở khí, phần nhiều là khí trệ. Bệnh mắc lâu ở huyết, thường là huyết ứ.
3. Phong Nhiệt Ủng Tắc Ở Phế: Ngoại cảm tà khí phong nhiệt, bế tắc khí cơ, tà nhiệt tích chứa tổn thương Phế lạc thường dẫn đến hung hiếp thống. Tổn thương huyết lạc thì hung thống mà ho ra máu; Nhiệt độc uất kết thành nhọt thì ho mửa ra đờm có mùi tanh. Nếu sau khi cảm ngoại tà, biểu hiện đau sườn nghiêm trọng, là do phong tà làm tổn thương Phế, khí cơ không giáng xuống do đó dẫn đến Can khí hoành nghịch; mạch lạc Can Đởm mất điều hòa hoặc Phế khí không phân bố đều khắp, thủy ẩm đọng lại ở dưới sườn, sẽ biểu hiện Hiếp thống.
4. Can Đởm Thấp Nhiệt: Lạc mạch của Can rải ra ở dưới sườn, Đởm mạch men theo cạnh sườn; nếu trung tiêu có tà khí thấp nhiệt, uất kết ở Can Đởm làm Can Đởm mất điều đạt và sơ tiết cũng gây nên Hiếp thống.
5. Hung Dương Tắc Nghẽn: Dương khí bất túc, cũng phát sinh Hung thống. Sách ‘Y Môn Pháp Luật’ viết: “Gây nên Hung tý là do dương hư, vì dương hư mà âm lấn lên”. Nói lên, dương hư là gốc bệnh. Hàn tà lấn lên chỗ bất túc của dương khí mà xâm phạm vùng ngực, làm tắc nghẽn mạch lạc gây nên chứng Hung tý. Cũng có thể do nghiện rượu, ăn béo ngọt nhiều, tổn hại công năng vận hóa của Tỳ Vị, tích chứa thành đờm, nghẽn trệ Hung dương gây ra chứng Hung tý.
6- Âm Hư Nội Nhiệt: Can mạch tỏa ra ở sườn, bệnh Can lâu ngày không khỏi, Can âm suy kém, nội nhiệt khuấy động, lạc mạch mất sự nuôi dưỡng cũng dẫn đến Hiếp thống.
Triệu Chứng Lâm Sàng
Hung hiếp thống trước hết phải chia Hư, Thực. Lâm sàng thường gặp thực chứng nhiều hơn hư chứng.
Hung hiếp thống thuộc Thực chứng phần nhiều thấy ở loại khí trệ và huyết ứ. Đặc điểm biện chứng Khí trệ và Huyết ứ là: Khí trệ thường kèm theo các chứng trạng ngực khó chịu, khí trướng (nữ giới thấy bầu vú căng tức) và ợ hơi. Huyết ứ thường kèm theo
chứng trạng sắc mặt tối trệ, môi miệng tím tái hoặc có nốt ứ huyết.
Hung hiếp thống thuộc Hư chứng lấy chứng Hung dương tê nghẽn làm loại hình trọng yếu. Vì tê nghẽn cực độ, dẫn đến các hiện tượng nguy hiểm như mặt trắng nhợt, chân tay lạnh, tự ra mồ hôi, móng chân tay xanh tím do dương khí suy bại.
Trên lâm sàng thường gặp một số trường hợp sau:
1- Khí Trệ: Ngực sườn trướng đau, chủ yếu là đau sườn, đau xiên nhói không cố định, thường lên cơn đau khi tình chí bị xúc động, ngực khó chịu, ăn kém, ợ hơi, mạch Huyền.
Biện chứng: Can khí uất kết, Phế mất sự túc giáng cho nên ngực sườn trướng đau mà chủ yếu là đau sườn. Đau xiên nhói không cố định là đặc điểm đau do khí trệ. Biến đổi tình tự có quan hệ chặt chẽ với sự uất kết của khí cơ, cho nên cơn đau có liên quan tới xúc động tình tự. Can khí hoành nghịch, dễ xâm phạm Tỳ Vị cho nên ăn kém và ợ hơi. Mạch Huyền là dấu hiệu Can khí vượng.
Điều trị: Sơ Can lý khí. Dùng bài Sài Hồ Sơ Can Tán.
(Trong bài, dùng thuốc Sài hồ để sơ Can, phối hợp với Hương phụ, Chỉ xác để lý khí). Bệnh nặng, có thể thêm Thanh bì, Bạch giới tử, vì hai vị này là thuốc chủ yếu để chữa Hung hiếp thống do khí trệ. Nếu khí uất hóa hỏa có chứng ngực sườn đau như bị đâm, phiền nhiệt, miệng khô, đại tiểu tiện không thông, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác, nên thêm Kim Linh Tử Tán, Tả Kim Hoàn và Đan bì, Chi tử để thanh Can điều khí. Nếu Can khí hoành nghịch, Tỳ vận hóa không đều, có chứng đau sườn, sôi bụng, tiêu chảy, nên thêm Phục linh, Bạch truật để kiện Tỳ khỏi tiêu chảy. Nếu do Vị mất hòa giáng, có chứng đau sườn và muốn nôn, nôn mửa, nên dùng thêm Toàn phúc hoa, Đại giả thạch, Bán hạ và Sinh khương để hòa Vị khỏi nôn.
+ Huyết Ứ: Hông sườn đau nhói cố định không di chuyển, nặng về ban đêm, dưới sườn có khối rắn, chất lưỡi tía tối, mạch Trầm Sáp.
Biện chứng: Khí uất lâu ngày, huyết ứ đọng khiến lạc mạch không thông, cho nên ngực sườn đau nhói. Huyết mạch ngưng trệ thì đau không di chuyển. Huyết thuộc âm, ban đêm cũng thuộc âm cho nên đau nặng về đêm. ứ kết đọng lại lâu ngày không tan dần dần thành hàn khối. Chất lưỡi tía tối, mạch Trầm Sáp đều là chứng trạng huyết ứ đọng ở trong.
Điều trị: Hoạt huyết khứ ứ. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang.
(Trong bài dùng Đương quy, Xích thược, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa đều là những vị hoạt huyết trừ ứ; Sài hồ để sơ Can; Chỉ xác để lý khí là lấy ý nghĩa ‘Khí là soái của huyết, khí hành thì huyết hành’).
Nếu huyết ứ nhẹ, cũng có thể đổi dùng Đan Sâm Ẩm (Đan sâm để hóa ứ; Đàn hương, Sa nhân để điều khí. Hơn nữa bài này còn thích hợp với người bệnh không ưa dùng thuốc cay ráo. Nếu huyết ứ nặng, xuất hiện dưới sườn có hòn khối mà chính khí chưa suy có thể dùng các thứ thuốc phá huyết, tiêu cứng như Tam lăng, Nga truật, Xuyên sơn giáp, Địa miết trùng. Cũng có thể cho uống Miết Giáp Tiễn Hoàn. Nếu nôn ra máu, có thể dùng thêm các vị có tác dụng hóa ứ, chỉ huyết như Sâm Tam thất, Hoa nhị thạch.v.v...
+ Phong Nhiệt Nghẽn Đọng Ở Phế: Đau vùng ngực, ho, khó thở, ho ra máu, hoặc ho khạc ra mủ đờm hôi tanh, sợ lạnh, sốt, miệng khô, họng ráo, nặng hơn thì phiền táo, rêu lưỡi vàng dầy, mạch Hoạt Sác.
Biện chứng: Phong nhiệt ứ đọng ở Phế, làm cho khí không tuyên thông được thì ho, đau ngực, suyễn đầy. Nhiệt làm tổn thương Phế lạc thì ho ra máu. Ứ nhiệt kết ở trong thành ung thì khạc ra đờm mủ hôi tanh. Tà khí với chính khí xung đột nhau, thì sợ lạnh phát sốt. Miệng khô, lưỡi ráo là do nhiệt làm hao thương tân dịch. Nhiệt độc nung nấu ở trong nên phiền táo. Rêu lưỡi vàng dầy, mạch Hoạt Sác đều là chứng Phế có Thực nhiệt.
Điều trị: Tuyên Phế thanh nhiệt. Dùng bài Ma Hạnh Thạch Cam Thang, Ngân Kiều Tán gia giảm.
(Trong bài có Ma hoàng, Hạnh nhân để tuyên tiết Phế khí, phối hợp với Thạch cao để thanh nhiệt. Ngân Kiều Tán tân lương thấu biểu, giải độc. Nhiệt làm tổn thương huyết lạc thì ho ra đờm lẫn huyết, bỏ Ma hoàng, Kinh giới, Đậu si thêm Chi tử, Hoàng cầm, Huyền sâm, Mao căn, Ngẫu tiết v.v... để thanh nhiệt, lương huyết. Nhiệt độc thành nhọt, có thể đổi dùng Thiên Kim Vi Hành Thang và Cát Cánh Thang để thanh nhiệt hóa ứ, tiêu mủ).
Chứng này nếu biểu tà đã giải mà nước ứ đọng ở dưới sườn, ho mà suyễn đầy, nên điều trị theo Huyền ẩm.
+ Can Đởm Thấp Nhiệt: Miệng đắng, sườn đau, ngực khó chịu, biếng ăn, muốn nôn, nôn mửa, mặt đỏ hoặc hoàng đản, nước tiểu vàng đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Sác.
Biện chứng: Sườn là nơi đường kinh Can Đởm vận hành ngang qua, thấp nhiệt kết đọng ở Can Đởm, đường lạc của Can không hòa, Đởm không sơ tiết, cho nên miệng đắng sườn đau. Can khai khiếu lên mắt, Can hỏa nghịch lên, cho nên mắt đỏ. Thấp nhiệt nung nấu, đởm trấp tràn ra ngoài da gây nên Hoàng đản. Thấp nhiệt nghẽn ở trong làm cho ngực khó chịu, biếng ăn, lợm lòng, nôn mửa. Rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Sác đều là triệu chứng Can Đởm thấp nhiệt.
Điều trị: Thanh nhiệt lợi thấp. Dùng bài Long Đởm Tả Can Thang gia giảm.
(Trong bài dùng Long đởm thảo để tả thấp nhiệt ở Can Đởm; Sài hồ để sơ đạt Can khí; Hoàng cầm, Chi tử để thanh nhiệt tiết hỏa; Mộc thông, Trạch tả, Xa tiền tử để thanh lợi thấp nhiệt).
Cũng có thể tùy nghi thêm Xuyên luyện tử, Diên hồ sách, Mộc hương, Bán hạ để sơ Can hòa Vị, lý khí, giảm đau. Nếu ống dẫn mật có sỏi, đau sườn xiên lên vai phải thì thêm Kim tiền thảo, Hải kim sa, Uất kim và Tiêu Thạch Phàn Thạch Tán... Nếu kiêm cả Trường Vị táo nhiệt, đại tiện không thông, bụng chướng đầy, thêm Đại hoàng, Mang tiêu. Nếu phát sốt, Hoàng đản, thêm Nhân trần, Hoàng bá, Đại hoàng. Nếu sườn bên phải đau thắt, nôn mửa ra giun, trước hãy cho uống Ô Mai Hoàn để yên giun, tiếp theo cho uống các vị thuốc khác kèm theo thuốc trừ giun như Sài hồ, Hoàng cầm, Xuyên luyện tử, Diên hồ sách, Bán hạ, Mộc hương, Tân lang, Sử quân tử, Khổ luyện căn bì....
+ Hung Dương Tắc Nghẽn: Đau vùng ngực lan tỏa sau lưng, hồi hộp, hơi thở ngắn, mạch Huyền. Bệnh nặng thì suyễn thở không nằm được, sắc mặt xanh nhợt ra mồ hôi lạnh, tay chân quyết lạnh, mạch Trầm Tế.
Biện chứng: Ngực ở vùng thượng tiêu, Dương khí không chuyển vận, Khí cơ tắc nghẽn cho nên ngực đau lan ra lưng. Phần dương ở ngực không mạnh, Khí cơ bị ngăn trở, gây nên hồi hộp, hơi thở ngắn thậm chí suyễn, không nằm được. Nếu dương khí suy yếu, không làm ấm áp cả trong lẫn ngoài, xuất hiện sắc mặt xanh nhợt, tự ra mồ hôi, tay chân quyết lạnh, rêu lưỡi trắng, mạcch Trầm Tế v.v...
Điều trị:
+ Bệnh nhẹ dùng phép Tân ôn thông dương. Dùng Quát Lâu Giới Bạch Bán Hạ Thang.
+ Bệnh nặng dùng phép Hồi dương cứu nghịch, dùng Tứ Nghịch Thang thêm Nhân sâm.
Khi dùng Quát Lâu Giới Bạch Bán Hạ Thang có thể thêm Chỉ thực, Quế chi, Quất bì, Sinh khương, Phục linh, Hạnh nhân v.v.... Quát lâu, Bán hạ, Chỉ thực để khai thông tê dại, Giới bạch, Quế chi để thông dương. Âm tà tê nghẽn, Hung dương bất túc, thì dùng Quế chi liều cao. Đờm thấp ở trong quá thịnh thì dùng Sinh khương, Quất bì, Bán hạ liều cao. Nếu đau nhiều, có thể dùng thêm loại phương hương khai tiết như Quan Tâm Tô Hợp Hương Hoàn, để tuyên tý giảm đau, hoặc thêm các vị phương hương tân ôn như Trầm hương, Đàn hương, Tất bát, Lương khương v.v...Nếu có ứ huyết, môi tím tái, lưỡi xám, có thể thêm các vị hoạt huyết, hóa ứ như Đan sâm, Hồng hoa, Uất kim, Mao
đông thanh.v.v.. Nếu vùng ngực đau mà trắng nhợt, chân tay lạnh, tự ra mồ hôi là dương khí hư suy không làm ấm áp kinh mạch gây nên, dùng Tứ Nghịch Thang thêm Nhân sâm để hồi dương cứu nghịch.
Nếu dương hư chưa hồi phục mà thấy xuất hiện chứng trạng âm hư, phải chiếu cố điều trị cả 2 mặt.
+ Âm Hư Nội Nhiệt: Hai bên sườn đau âm ỉ, thường phát cơn sau khi lao động nhọc mệt, miệng khô, trong tâm phiền nhiệt, chóng mặt, hoa mắt, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Huyền.
Biện chứng: âm huyết hư yếu, không nhu dưỡng được mạch lạc cho nên ngực sườn đau âm ỉ, mệt nhọc thì đau nhiều, âm hư nội nhiệt, cho nên miệng khô, trong tâm phiền nhiệt, đau đầu, chóng mặt, lưỡi đỏ, mạch Tế Huyền là dấu hiệu âm hư Can dương khuấy động gây nên.
Điều trị: Tư âm dưỡng can. Dùng bài Nhất Quán Tiễn.
(Trong bài dùng Sa sâm, Mạch đông, Đương qui, Sinh địa, Câu kỷ để tư dưỡng Can thận; Xuyên luyện tử để sơ Can lý khí giảm đau. Nếu đau tăng có thể thêm Trầm hương, Huyền hồ, Uất kim theo phương châm ‘Cấp thì trị tiêu').
Nếu bệnh tình phức tạp, Can Thận suy yếu lại kèm Can Đởm có thấp nhiệt, miệng đắng và khô, lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng nhớt, lúc này, muốn tư âm thì sợ vướng thấp, muốn hóa thấp lại sợ thương âm; có thể dùng bài Ôn Đởm Thang phối hợp Nhất Quán Tiễn, sử dụng các vị như Sa sâm, Hài nhi sâm, Mạch đông, Bạch thược, Nữ trinh tử, Xuyên luyện tử, Bán hạ, Quất bì, Phục linh, Trúc nhự, Chỉ xác v.v...
Phân tích theo y học cổ truyền, thống tắc bất thông, thông tắc bất thống, nhưng phép 'thông" cũng phải phân tích cụ thể: Hàn thì làm ấm để thông; Nhiệt kết thì dùng khổ tiết để thông. Cho nên đối với Hung hiếp thống loại thực chứng, có các phép lý khí, hoạt huyết, tuyên Phế, hóa thấp. Hung Hiếp thống loại chứng Hư có các phép thông dương tuyên Tý, hồi dương cứu nghịch, tư dưỡng Can âm... Các phép trên, tuy khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích 'thông tắc bất thống’.
HUYẾT ÁP CAO
A- Đại Cương
- Huyết áp cao là danh từ để chỉ trạng thái tăng áp lực của máu trong động mạch.
- Danh từ này do YHHĐ đặt ra căn cứ trên phát hiện của áp huyết kế (máy đo huyết áp).
- YHCT trước đây không có danh từ huyết áp cao nhưng có những tên gọi như Huyễn Vựng (Vậng), Can Dương Vượng... mà nội dung rất gần với các chứng trạng của bệnh Huyết áp cao.
B- Bệnh Danh
- YHHĐ trước đây gọi chung là HA cao, gần đây, dựa trên sinh lý học, các nhà nghiên cứu đè xuất nên gọi là HA tăng hoặc tăng HA.
- YHCT trước đây không có tên gọi là HA cao nhưng hiện nay giới YHCT cũng đã quen dần với tên gọi: HA cao, HA tăng.
C- Phân Loại
1- Theo YHHĐ.
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
a- Dựa vào 2 trị số Tối Thiểu và Tối Đa, người ta chia ra làm 2 loại sau:
+ HA Cao Thể TÂM THU: khi chỉ có HA tối đa tăng cao, HA tối thiểu vẫn ở trong giới hạn bình thường. Thí dụ: 170/80mmHg, 195/80mmHg...
+ HA Cao Thể TÂM TRƯƠNG: khi cả 2 trị số HA tối đa và tối thiểu tăng cao hơn bình thường. Thí dụ: 180/95mmHg, 195/100mmHg...
Dựa vào sự tăng của HA tối thiểu, các nhà nghiên cứu có thể xếp loại mức độ nặng nhẹ trong bệnh HA tăng như sau:
* HA cao nhẹ (giai đoạn 1): HA tối thiểu 90 - 104mmHg
* HA cao trung bình (giai đoạn 2): HA tối thiểu 105 - 114mmHg
* HA cao nặng,trầm trọng (giai đoạn 3): HA tối thiểu 115mmHg.
Viện Dinh Dưỡng Việt Nam dựa trên cơ sở mức phân loại của Uỷ Ban Liên Kết Quốc Gia Về Tăng Huyết Áp Của Hoa Kỳ (1993) phân độ nặng của huyết áp cao thành 4 giai đoạn:
Bảng Phân Loại Độ Nặng Tăng Huyết Áp
Giai đoạn
Huyết Áp Tâm Thu (mmHg)
Huyết Áp Tâm Trương (mmHg)
1
2
3
4
140 ~ 159
160 ~ 179
180 ~209
± 210
90 ~99
100 ~ 109
110 ~ 119
± 120
b- Một số tác giả dựa vào tính chất nặng nhẹ, lành tính, ác tính mà chia ra như sau:
+ HA cao thường xuyên, có thể là lành tính và ác tính.
+ HA cao theo cơn: dựa trên cơ sở bình thường hoặc gần bình thường, có những cơn cao vọt.
+ HA dao động: trị số HA có lúc tăng lúc không.
c- Dựa vào nguyên nhân gây bệnh 1 số tác giả lại chia ra:
+ HA cao thứ phát: thường gặp ở người trẻ và trẻ em.
+ HA cao nguyên phát: thường gặp nơi người cao tuổi.
2- Theo YHCT.
YHCT chưa thống nhất về cách phân loại bệnh HA cao.
+ Nguyễn Như Lệ (VNam) trong ‘Tạp Chí Đông Y ‘ số 11\1967 phân loại HA cao theo Tạng: HA cao thể Can, Tâm, Thận, Tỳ...
+ Thịnh Quốc Vinh (T.Quốc) phân loại theo Aâm Dương và Tạng.
+ Vương Kiến Dân (T.Quốc) phân loại theo Hàn - Nhiệt, Hư - Thực và Khí - Huyết.
+ Sở Nghiên Cứu Nội Khoa Viện Nghiên Cứu Trung Y (T.Quốc) phân loại theo Âm Dương, Tạng, Hàn Nhiệt và tên bệnh.
+ Sở Nghiên Cứu HA Cao của Trung Y Học Viện Thượng Hải phân loại theo Aâm Dương.
Trong các cách phân loại trên mỗi cách đều có ưu khuyết điểm riêng, tuy nhiên để cho phù hợp với quan điểm của YHCT, các nhà nghiên cứu đề nghị dùng cách phân loại theo Âm Dương của Viện Trung Y Thượng Hải.
Theo cách phân loại này, ta có 5 loại sau:
* Dương Thịnh: Can dương thượng cang, Can nhiệt thượng xung.
* Dương Hư: Thận dương hư, Dương khí trong ngực hư.
* Âm Hư Dương Thịnh: Âm hư Can vượng, Thận suy Can vượng.
* Âm Hư : Can Thận lưỡng hư, Tâm huyết hư.
* Âm Dương đều hư.
So sánh với YHHĐ, Sở Nghiên Cứu Nội Khoa của Viện Nghiên Cứu Trung Y nhận xét như sau:
+ Thể Dương Thịnh: tương đương thời kỳ 1 giai đoạn 1 và thời kỳ 2 (giai đoạn HA cao chưa có xơ cứng động mạch).
+ Thể Âm Hư Dương Hư: Tương đương với thời kỳ I (giai đoạn có xơ cứng động mạch và triệu chứng về tim, thận, não...)
+ Thể Âm Dương Đều Hư: tương đương với giai đoạn II thời kỳ III là lúc đã mất sức lao động.
+ Thể Âm Hư Dương Thịnh: là thời kỳ chuyển tiếp giữa giai đoạn II và III.
D- Nguyên Nhân
a- Theo YHHĐ.
Theo TCYTế thế giới thì 1 số ít trường hợp HA cao đã có nguyên nhân được biết rõ nhưng phần lớn (trên 90% số trường hợp) cho đến nay người ta vẫn chưa xác định rõ được nguyên nhân. Đối với những trường hợp này y học gọi là HA vô căn ( HA không rõ nguyên nhân).
Theo TCYTế thế giới, một số nguyên nhân gây ra HA cao là:
1+ Yếu Tố Thần Kinh, Tâm Lý Xã Hội.
. Trong thời kỳ chiến tranh, HA cao nhiều hơn.
. Trạng thái căng thẳng thần kinh, không thoải mái, môi trường xã hội không thuận lợi: ở thành phố ồn ào, nhiều kích động hơn nông thôn...HA cũng cao hơn.
2+ Do Tăng Các Chất Nội Tiết.
Khi bị sợ hãi nhiều,cơ thể tiết ra chất Adrenalin và Noradrenalin làm mạch máu co lại gây ra HA cao.
3+ Yếu Tố Dinh Dưỡng
. Chế độ ăn uống hàng ngày có thể ảnh hưởng đến HA: ăn thừa năng lượng (calori) dẫn đến thừa cân nặng ở cơ thể, thừa mỡ cũng gây nên bệnh HA cao và bệnh nhiễm mỡ xơ mạch. Giữa 2 bệnh này có sự thúc đẩy qua lại: sự phát triển của bệnh này làm bệnh kia tiến triển hơn.
- Ăn thừa muối (Nacl) có ảnh hưởng đến việc tăng HA.
4+ Yếu Tố Di Truyền.
Có gia đình cả nhà hoặc cả họ đều bị HA cao.
Ngoài ra, tổ chức y tế thế giới cũng lưu ý đến 3 nhóm nguyên nhân chính thường gặp:
1+ HA cao do dùng thuốc.
. Thuốc ngừa thai loại Hormon tổng hợp.
. Cam thảo và Carbenoxolone.
. ACTH và Corticoide.
2+ HA cao trong thai nghén.
Với 3 dấu hiệu kinh điển: HA cao + Protein Niệu + Phù.
3+ HA cao do 1 số bệnh thực thể.
. Hẹp động mạch chủ (tật bẩm sinh).
. Các bệnh của Thận (cầu thận, bể thận viêm...)
. Các bệnh của vỏ thượng thận: hội chứng Cushing, U thượng
thận gây ra tăng Aldosteron...
. Các bệnh của thượng thận: u pheochromocytome...
Một số tác giả hiện nay phân loại nguyên nhân gây HA cao thành 2 nhóm chính, dựa theo trị số của HA tâm thu và HA tâm trương.
HA CAO TÂM THU HA CAO TÂM TRƯƠNG
Tăng năng tuyến giáp Tăng áp lực nội sọ và 1 số bệnh của hệ
TK trung ương
Động mạch chủ xơ cứng Hẹp động mạch chủ
Bệnh tăng hoạt động của thượng thận
Thông rò tĩnh mạch Bệnh của thận và động mạch thận
Sốt HA cao không rõ nguyên nhân.
b- Theo YHCT.
Theo Sở Nghiên Cứu Nội Khoa Viện Nghiên Cứu Trung Y Thượng Hải:
- Nguyên nhân chủ yếu của HA cao là Thất Tình (7 loại tình chí của YHCT: vui, buồn, giận...).
- Từ nguyên nhân thất tình dẫn đến 1 số yếu tố gây bệnh khác mà YHCT thường hay đề cập đến là Phong, Hỏa, Đờm, Hư.
Cụ thể là:
+ Lo buồn suy nghĩ, tinh thần căng thẳng đều có thể làm cho khí bị mất. Khí mất lâu sẽ hóa hỏa. Giận dữ (nộ) làm hại Can (Nội Kinh:”Nộ thương Can”), Can hỏa vượng lên gây ra nội phong.
+ Lo buồn,suy nghĩ làm hại Tỳ (Nội Kinh: “ Tư thương Tỳ”), Tỳ hư khí suy không chế ngự được Thận sẽ sinh ra đờm thấp. Đờm thấp có thể sinh ra nhiệt và nhiệt có thể sinh ra nội phong.
+ Tỳ hư ảnh hưởng đến việc dinh dưỡng kém sút, làm cho tinh hậu thiên của các tạng suy kém gây ra Hư, nhất là đối với Thận âm.
+ Thận âm hư làm cho Can huyết hư không nuôi dưỡng được Can, nhẹ thì gây ra chứng Âm hư Can vượng, nặng thì sinh ra Can mộc nội phong.
Các yếu tố này tuy bao gồm Phong, Hỏa, Đờm, Hư nhưng chủ yếu là do Nội Phong và Hỏa vượng.
So sánh với các yếu tố gây bệnh của YHHĐ và YHCT có thể nhận thấy:
+ Về nhận thức: YHHĐ và YHCT đều cho rằng hoạt động tinh thần là nguyên nhân gây bệnh.
+ Về các yếu tố gây bệnh:
* Phong Hỏa, cụ thể là Can Hỏa, Can phong rất gần với hội chứng Stress, tinh thần căng thẳng...
* Đờm tương ứng với chứng Cholesterol máu cao.
* Hư ở đây có thể hiểu là hiện tượng thoái hóa của cơ thể, động mạch xơ cứng...
E- Cơ Chế Sinh Bệnh
a- Theo YHHĐ.
Theo các tác giả Liên Xô, có 3 cơ quan góp phần vào cơ chế sinh ra HA cao:
1- Rối Loạn Thần Kinh Thể Dịch: được nêu ra từ năm 1942, theo đó, trong vỏ bán cầu đại não thường xuyên có kích thích, ở đó phát xung động xuống trung tâm điều hòa vận mạch làm mạch máu co lại và khi mạch máu bị co thắt sẽ làm HA tăng lên. Khi HA tăng lên lại gây rối loạn huyết, gây ra thiếu máu ở một số cơ quan, nhất là não, rồi lại trở lại vòng lẩn quẩn giữa não và mạch máu.
2- Tuyến Yên: chủ yếu là tiền yên nơi sản xuất ra ACTH, tiền yên kích thích thượng thận sản xuất ra Corticoid, muối và nước bị ứ lại, mạch máu bị co lại làm cho HA tăng lên.
3- Thận: chủ yếu là nhu mô Thận có men Prostaglandine có tác dụng kềm hãm Rénin do ống lượn điều tiết ra. Nếu bị thiếu máu thì men Prostaglandin bị ức chế không làm được nhiệm vụ kềm hãm Rénin, Rénin tăng trong máu làm cho HA tăng lên.
b- Theo YHCT.
Theo YHCT, cơ chế sinh bệnh HA cao chủ yếu dựa vào thuyết ‘Thượng Thực Hạ Hư’.
- Thượng Thực nghĩa là Can hỏa bốc lên trên, Can dương cũng bùng lên hợp với phong đờm làm rối loạn ở phần trên (thượng). Can dương bốc lên làm cho khí huyết bị kéo lên theo gây ra đầu váng, mắt hoa, đầu nặng, chân nhẹ, đầu đau, mắt đỏ, mặt đỏ, ngực bứt rứt...
- Hạ Hư nghĩa là Thận Thủy không đủ, không nuôi được Can Mộc. Can âm kém không chế ngự được Can dương làm cho Can dương bốc lên. Mộc sinh hỏa, Can dương vượng tức là hỏa vượng, hỏa vượng quá sinh phong gây ra rối loạn ở phần trên (thượng ).
- Âm hư sinh nội nhiệt, hư hỏa cũng bốc lên hợp với nội phong gây ra các chứng chân nhẹ đầu nặng, lưng đau mỏi, đầu đau, tim đập nhanh, ngực bứt rứt...
- Bệnh chủ yếu ở tạng Can nhất là Can hỏa, Can dương nhưng tạng Thận và Tâm cũng giữ vai trò quan trọng, vì vậy, trong các triệu chứng của bệnh HA cao có triệu chứng của:
+ Can: đầu đau, mắt hoa...
+ Tâm: tim đập nhanh, bồn chồn không yên...
+ Thận: lưng đau, tai ù...
So sánh với cơ chế sinh bệnh của YHHĐ, có thể thấy rõ là YHHĐ và YHCT đều có 1 quan điểm thống nhất là quan hệ giưã trên và dưới:
* Quan hệ trên dưới của YHHĐ là quan hệ giưã vỏ não và nội tạng. Công năng của vỏ não bị rối loạn gây ra trương lực mạch máu tăng, động mạch xơ cứng, thận bị thiếu máu (nội tạng - bên dưới). Nội tạng bên dưới lại tác động ngược lại làm cho công năng của vỏ não bị rối loạn... và cứ trong vòng lẩn quẩn đó bệnh tiếp tục phát triển làm tổn thương đến các cơ quan: tim, thận, não...
* Quan hệ trên dưới của YHCT dựa vào Thượng Thực Hạ Hư. Thượng Thực ở đây là Can dương, Can hỏa bốc lên trên. Hạ hư ở đây là Thận thủy ở dưới bị suy kém. Can hỏa càng thịnh càng làm hao tổn Thận thủy ở dưới. Thận thủy càng suy kém càng không nuôi dưỡng được Can mộc làm cho Can mộc vượng lên và cứ như vậy bệnh tiếp tục phát triển làm tổn thương đến các tạng Can, Thận, Tâm.
Giữa 2 quan điểm trên có thể nhận thấy:
YHCT YHHĐ
. Can dương hỏa bốc lên. Vỏ não bị rối loạn
. Hỏa vượng bốc lên trên. Rối loạn do căng thẳng gây nên
. Thận thủy suy. Trương lực mạch máu tăng cao, động mạch nhỏ bị xơ
cứng, thận thiếu máu.
(Vì Thận thủy thuộc âm, âm là vật thể (hữu hình) tương đương với mạch máu, thận... Còn suy kém ở đây tương đương với việc trương lực cao, xơ cứng của động mạch và thiếu máu của Thận².
F- Triệu Chứng Lâm Sàng
a- Theo YHHĐ
Tổ chức YTT.Giới phân bệnh HA cao làm 3 giai đoạn:
+ Giai Đoạn I: người bệnh ở trạng thái dễ bị kích thích, thường hay kêu đầu đau, đau về buổi sáng và sau khi làm việc căng thẳng, đau từng cơn, cơn ngắn vài giờ hoặc cả ngày, có thể có cơn đau vùng tim (30%), có triệu chứng này chứng tỏ có dấu hiệu co thắt của động mạch vành. Người bệnh mệt mỏi, hồi hộp mặt đỏ hoặc tái do co thắt mạch máu (HA tăng lên có người mặt đỏ có người mặt tái không nhất định). Sờ mạch tay quay thấy đập căng, mỏm tim đập mạnh, có tiếng thổi Tâm thu cơ năng, HA dao động, trường hợp này nên làm các nghiệm pháp xem HA có cao không:
1- Nghiệm pháp ngừng thở: gây hiện tượng thiếu oxy, gây co mạch, HA sẽ cao (ngưng chừng một phút sẽ đo).
2- Ngâm chân vào nước lạnh 40C chừng 2 - 3 phút, gặp lạnh mạch máu sẽ co lại, HA sẽ tăng lên (nếu đúng thì HA sẽ cao lên).
* Giai Đoạn 2: HA cao thường xuyên có cơn cao kịch phát, đầu đau dữ dội, thở khó, phù phổi cấp do thất trái suy cấp. HA tối đa có khi lên đến 220/100mmHg, có thể bị xuất huyết não, hôn mê.
. Dấu hiệu rối loạn tuần hoàn não: chóng mặt, tai ù, muốn ói, đầu nhức dữ dội, có khi phát âm không rõ, có khi có hơi thoáng liệt, có khi ngất lịm...
. Đối với võng mạc: thị lự c giảm, có dấu hiệu ruồi bay hoặc sương mù, soi đáy mắt thấy mao mạch ngoằn ngoèo, phù nề hoặc xuất huyết.
. Đối với tim: có tiếng thổi tâm thu, nghe được tiếng thứ 2 do động mạch xơ cứng. Có cơn đau thắt ngực, loạn dưỡng cơ tim, nhồi máu cơ tim.
. Đối với thận: bị thiếu máu nhẹ ở thận gây rối loạn chức năng thận,nước tiểu có hồng cầu hình trụ.
+Giai Đoạn 3: Triệu chứng lâm sàng giống giai đoạn II nhưng nặng hơn. HA cao cố định, nếu tụt xuống là nguy vì đã suy tuần hoàn nặng rồi.
Người bệnh thấy đầu đau, mất ngủ, trí nhớ giảm, mất khả năng lao động.
Cơn đau thắt tim tăng lên nhiều, suy tim độ 3,4, đe dọa nhồ máu cơ tim, xuất hiện phù nề, gan to, cổ trướng, tổn thương tuần hoàn não, muốn ói, co giật, bán hôn mê, xuất huyết não, không có đe dọa phù phổi cấp vì tuần hoàn đã giảm nhiều rồi.
. Mắt: tổn thương mắt nặng, có thể bị mù.
. Thận: tổn thương + thận viêm rõ, u rê huyết cao. Ở giai đoạn này (III) xuất huyết não và lượng đàm trong máu cao, người bệnh thường chết do nhồi máu cơ tim.
b- Triệu Chứng Lâm Sàng Của HA Cao Theo YHCT
Sách ‘Nội Khoa Học’ của Trung Y Thượng Hải và Thành Đô đều nêu ra 4 thể loại HA cao như sau:
1- Huyết Áp Cao Thể CAN DƯƠNG THƯỢNG CAN
a - Chứng: Chóng mặt, đầu đau mỗi khi căng thẳng, khi tức giận thì đau tăng, ngủ ít, hay mơ, dễ tức giận, miệng đắng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền.
b- Biện Chứng:
+ Chóng mặt, tai ù, đầu đau do Can dương bốc lên.
+ Mặt đỏ, dễ tức giận, ngủ ít, hay mơ, miệng đắng, lưỡi đỏ là biểu hiện của dương vượng.
+ Mạch Huyền là biểu tượng của Can.
c- Nguyên Nhân: Giận dữ làm hại Can, Can uất hóa hỏa, Can âm bị tổn thương, hao tổn, làm cho Can dương bùng lên gây ra bệnh.
d- ĐiềuTrị:
. Bình Can, tiềm dương, thanh hỏa, tức phong (T. Hải).
. Bình Can, tiềm dương, tư dưỡng Can Thận. (T. Đô).
+ Sách ‘Nội Khoa Học’ T. Hải và T. Đô cùng dùng bài: Thiên Ma Câu Đằng Ẩm (Tạp Bệnh Chứng Trị Tân Nghĩa): Thiên ma 8g, Tang ký sinh 16g, Ngưu tất 12g, Chi tử 8g, Dạ giao đằng 16g, Đỗ trọng 16g, Câu đằng 12g, Ích mẫu 16g, Hoàng cầm 12g, Phục linh 12g, Thạch quyết minh 20g. Sắc uống.
(Thiên ma, Câu đằng, Thạch quyết minh để bình Can, tiềm dương ; Hoàng cầm, Chi tử để thanh Can hỏa; Tang ký sinh để bổ Can, Thận; Dạ giao đằng, Phục linh để dưỡng tâm an thần).
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’ giới thiệu 3 bài thuốc sau:
Giáng Áp Hợp Teà (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Huyền sâm 16g, Hạ khô thảo 16g, Táo nhân (sao) 10g, Địa long 10g, Dạ giao đằng 16g, Câu đằng (cho vào sau) 16g. Sắc uống.
Trấn Can Tức Phong Thang Gia Giảm (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Bạch thược 40g, Nhân trần 24g, Mẫu lệ (sống) 40g, Huyền sâm 24g, Ngưu tất 40, Hoa hòe ( sống) 40g, Thiên môn 24g, Sinh địa 40g, Đại giả thạch 40g, Đan sâm 40g, Sung úy tử 24g, Dạ giao đằng 40g, Sắc uống.
Ích Âm Tiềm Dương Thang Gia Vị (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Huyền sâm 12g, Cúc hoa 10g, Đại giả thạch 16g, Mạch môn 10g, Câu đằng 10g, Mẫu lệ (sống) 16g, Ngưu tất 10g, Phục linh 10g, Long cốt (sống) 16g, Thuyền thoái 6g, Viễn chí 6g. Sắc uống.
Tam Long Thang (Viện Nghiên Cứu Trung Y Trung Quốc): Long cốt (nấu trước) 30g, Long đởm thảo 10g, Tang chi 16g, Mẫu lệ (nấu trước) 16g, Linh từ thạch 30g, Tang diệp 10g, Địa long (khô) 16g. Sắc uống.
Thanh Huyễn Giáng Áp Thang (Y Viện Thiên Tân): Trúc nhự 10g, Long đởm thảo 10g, Xương bồ 10g, Phục linh 16g, Tang ký sinh 10g, Long cốt 12g, Thiên ma 10g, Hạ khô thảo 10g, Mẫu lệ 16g, Hoàng cầm 10g, Xuyên khung 6g, Chi tử 10g. Sắc uống.
Hạ Ký Cầm Thược Thang (Trung Y Viện Thường Xuân): Hạ khô thảo 30g, Hoàng cầm 16g, Mẫu lệ 50g, Tang ký sinh 20g, Bạch thược 24g, Câu đằng 16g, Ngưu tất 36g. Sắc uống.
Thanh Giáng Thang (Y Viện Giang Tô): Tang bạch bì 30g, Địa cốt bì 30g. Sắc uống.
Linh Dương Giác Thang (Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương): Linh dương giác 4g, Quy bản 32g, Đơn bì 6g, Hạ khô thảo 6g, Sinh địa 24g, Sài hồ 4g, Thạch quyết minh 32g, Bạch thược 8g, Bạc hà 4g, Thuyền thoái 4g, Cúc hoa 8g, Táo 10 trái. Sắc uống.
Linh Giác Câu Đằng Thang (Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương): Linh giác phiến 4g, Sinh địa 20g, Cúc hoa 12g, Tang diệp 8g, Câu đằng 12g, Bạch thược 12g, Bối mẫu 8g, Phục thần 12g, Trúc nhự 20g, Cam thảo 2,8g. Sắc uống.
Trấn Tĩnh Khí Phù Pháp (Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương): Thanh long xỉ 6g, Đại giả thạch 6g, Bá tử nhân 12g, Mẫu lệ (sống) 24g, Ích trí nhân 12g, Phục thần 12g, Tuyền phúc hoa 12g. Sắc uống.
Tiềm Dương Tư Giáng Pháp (Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương): Quy bản (nướng ) 18g, Nữ trinh tử 16g, Thục địa12g, Linh từ thạch 4g, Thuyền thoái 4g, Sinh địa 12g, Hắc đậu y 12g, Cúc hoa 12g, A giao 8g. Sắc uống.
Trị Can Phong Thượng Thoán Phương (Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương): Sinh địa 24g, Câu đằng 12g, Bạch tật lê 12g, Bạch thược 12g, Cúc hoa 12g, Thiên ma 12g, Đơn bì 4g, Quất hồng 4g. Sắc uống.
Trị Nội Phong Thần Bất Mỵ An Phương (Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương): Đan sâm 12g, Táo nhân 16g, Sinh địa 20g, Huyền sâm12g, Viễn chí 6g, Thiên môn 8g, Phục thần 16g, Xương bồ 32g, Mạch môn 8g, Cát cánh 4g, Chu sa 1,6g. Sắc uống.
Tiêu Dao Hạ Áp Thang (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học): Đơn bì, Chi tử, Hoàng cầm, Cúc hoa, Sài hồ, Bạch linh, Câu đằng, Hạ khô thảo, Đương quy, Bạc hà. Sắc uống.
2- Huyết Áp Cao Thể ĐỜM TRỌC TRUNG TRỞ
a- Chứng: Đầu choáng váng và nặng nề, hông bụng buồn đầy, muốn ói, ăn ít, ngủ li bì, lưỡi trắng, mạch Nhu Hoạt (T.Hải), Huyền Hoạt(T.Đô)
b- Biện Chứng:
. Đầu choáng, nặng nề: do đờm trọc ngăn trở thanh khí không đưa được lên đầu.
. Bụng đầy, muốn ói, ăn ít, ngủ li bì: do đờm trọc ngăn trở trung tiêu gây ra.
. Mạch Nhu biểu hiện của Thấp, mạch Hoạt biểu hiện của Đờm.
c- Nguyên Nhân : Do ăn nhiều các thức béo, bổ làm cho Tỳ Vị bị tổn thương khiến cho thanh dương không hóa thành tân dịch mà biến thành đờm thấp, khiến cho thanh dương không thăng lên được và trọc âm không giáng xuống được gây ra bệnh.
d- Điều Trị: + Táo thấp, tiêu đờm (T.Hải).
+ Táo thấp, bổ Tỳ, hóa đờm, khứ phong (T.Đô).
- Sách ‘ Nội Khoa Học’ T.Hải và T.Đô đều dùng bài: Bán Hạ Bạch Truật Thiên Ma Thang (Y Học Tâm Ngộ): Bán hạ (chế) 6g, Câu đằng 16g, Cam thảo 6g, Ý dĩ 16g, Tang ký sinh 16g, Thiên ma 16g, Trần bì 6g, Bạch truật 12g, Ngưu tất 16g, Phục linh 12g. Sắc uống.
(Bán hạ, Phục linh, Trần bì, Cam thảo để hóa thấp, trừ đờm; Bạch truật kiện Tỳ; Thiên ma trị chóng mặt (huyễn vậng), Ngưu tất hạ áp; Tang ký sinh làm nhẹ đầu, hết chóng mặt).
Một Số Bài Thuốc Tham Khảo
Tức Phong Giáng Áp Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q. Thượng): Toàn phúc hoa 16g, Ngưu giác tai 20g, Ngô công 3 con, Trân châu mẫu 24g, Thiên ma 16g, Toàn yết 6g, Thạch quyết minh 40g, Câu đằng 16g, Ngưu tất 16g, Đại giả thạch 30g, Qua lâu 16g, Đởm tinh 10g. Sắc uống.
Bát Vị Giáng Áp Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q. Thượng): Câu đằng (song) 16g, Mã đâu linh 30g, Ngưu tất 16g, Thích tật lê 16g, Hạ khô thảo 30g, Đan sâm 30g, Đại giả thạch 30g, Đơn bì (phấn) 16g. Sắc uống.
Hoàng Tinh Tứ Thảo Thang (Y Viện Bắc Kinh): Hoàng tinh 20g, Ích mẫu thảo16g, Hy thiêm thảo 16g, Hạ khô thảo 16g, Xa tiền thảo 16g. Sắc uống.
* Phương Thuốc Đơn Giản
+ Theo Nội Khoa Học Thành Đô:
- Trạch tả 30g, Bạch truật 12g. Sắc uống.
- Trần bì 6g, Bán hạ 10g. Sắc uống.
- Phục linh 10g, Sinh khương 10g. Sắc uống.
3- Huyết Áp Cao Thể THẬN TINH BẤT TÚC
a- Chứng: Chóng mặt, mệt mỏi, hay quên, lưng gối đau yếu, tai ù, mất ngủ, di tinh, chân tay lạnh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm,Tế. (Dương hư).
. Nếu thiên về âm hư: lòng bàn tay, chân và ngực nóng + bứt rứt (ngũ tâm phiền nhiệt), lưỡi đỏ, mạch Huyền, Tế (T.Hải) hoặc Huyền Tế Sác (T.Đô).
b- Biện Chứng:
+ Thận tàng tinh, sinh tủy, Thận hư yếu gây ra di tinh, Thận hư tủy không thông được lên não gây ra chóng mặt, hay quên.
+ Lưng đau: dấu hiệu Thận hư (Nội Kinh: Lưng là phủ của Thận).
+ Thận chủ xương, Thận hư làm cho xương đau.
+ Thận khai khiếu ra tai, Thận hư sinh ra tai ù.
+ Chân tay lạnh: dấu hiệu thiên về dương hư.(dương hư sinh ngoại hàn).
+ Mạch Trầm,Tế: Thận dương hư.
+ Lòng bàn tay, chân và ngực nóng, lưỡi đỏ, mạch Tế, Sác là dấu hiệu thiên về âm hư (âm hư sinh nội nhiệt).
c- Nguyên Nhân: Do tiên thiên suy yếu hoặc lao lực khó nhọc làm cho Thận tinh khô, Thận suy không sinh được tủy, tủy không thông được lên não gây ra bệnh.
d- Điều Trị:
+ Thiên về dương hư: bổ Thận, trợ dương, dùng bài Hữu Quy Hoàn.
+ Thiên về âm hư: bổ Thận, ích âm, dùng bài Tả Quy Hoàn.
Hữu Quy Hoàn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Thục địa 320g, Phụ tử (chế) 80g, Nhục quế 80g, Sơn thù 120g, Câu kỷ tử 160g, Sơn dược 160g, Lộc giác giao 160g, Thỏ ty tử 180g, Đỗ trọng 160g, Đương quy 120g. Tán bột, làm hoàn, ngày uống 8 - 12g, với nước muối nhạt.
(Thục địa tư âm, bổ thận, thêm tinh, ích tủy, sinh huyết ; Sơn thù bổ Can Thận, thu sáp tinh khí ; Sơn dược kiện Tỳ ; Câu kỷ tư,û Thỏ ty tử, Đỗ trọng để ôn dương cho Can Thận; Đương quy, Lộc giác giao bổ sung tinh huyết ; Nhục quế, Phụ tử để bổ Thận dương (theo ý: ‘Khéo bổ dương tất phải trọng cầu âm’).
Tả Quy Hoàn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Thục địa 320g, Quy bản (cao) 160g, Sơn dược 160g, Sơn thù 160g, Lộc giác giao 160g, Ngưu tất 120g, Câu kỷ tử 160g, Thỏ ty tử 160g. Tán bột, làm hoàn, ngày uống 8 - 12g, với nước muối loãng.
(Thục địa tư âm, bổ Thận, thêm tinh, sinh huyết ; Sơn thù bổ Can, Thận, thu sáp tinh khí; Sơn dược kiện Tỳ ; Câu kỷ tử, Thỏ ty tử bổ ích Can, Thận ; Quy bản, Lộc giác giao bổ tinh huyết, Ngưu tất cường tráng gân cốt, dẫn hỏa xuống).
Một Số Bài Thuốc Tham Khảo
Thất Tử Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q. Thượng): Quyết minh tử 24g, Kim anh tử 16g, Câu kỷ tử 12g, Tang thầm tử 12g, Nữ trinh tử 16g, Sa uyển tử 12g, Thỏ ty tử 12g. Sắc uống.
Liên Thầm Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q. Thượng): Nữ trinh tử 12g, Hạn liên thảo 24g, Địa long 10g, Quy bản 24g, Mẫu lệ (sống) 24g, Hoài sơn 16g, Liên tu 12g, Tang thầm tử 12g, Câu đằng 10g, Ngưu tất 16g. Sắc uống.
Dưỡng Huyết Giáng Áp Thang (Y Viện Tứ Xuyên): Mẫu lệ (sống) 30g, Bạch thược 24g, Hoàng cầm 12g, Trân châu mẫu 30g, Địa phu tử 20g, Phòng kỷ12g, Tang thầm tử 30g, Tật lê 16g, Cúc hoa 12g. Sắc uống.
Cầm Trọng Giáng Áp Thang (Học Viện Trung Y TQ): Hoàng cầm 16g, Thạch quyết minh 10g, Phục thần 10g, Bá tử nhân 10g, Cam cúc hoa 10g, Sinh địa 16g, Câu đằng 10g, Phục linh 10g, Ngưu tất 12g, Sơn thù 10g, Đơn bì 8g, Đỗ trọng 16g, Sắc uống.
Dưỡng Âm Hòa Dương Pháp (Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương): Bá tử nhân 8g, Phục thần 12g, Thiên môn 12g, Hắc chi ma 16g, Lỗ đậu y 12g, Sa sâm 12g, Hà thủ ô 20g. Sắc uống.
Tư Thủy Bình Mộc Pháp (Tân Biên Trung Y Kinh Nghiệm Phương): Bạch tật lê 12g, Thiên môn 8g, Sinh địa 16g, Bá tử nhân 8g, Hà thủ ô 16g, Ngưu tất 12g, Nữ trinh tử 8g, Cúc hoa 12g, Hồ ma nhân 16g, Tang diệp 8g. Sắc uống.
* Các Phương Thuốc Đơn Giản.
. Hắc chi ma 120g, Tang thầm tử 120g, Hồ đào nhục 120g. Nấu cho thật nhừ, thêm Mật ong vào, quậy đều, chia làm 2 lần uống (Nội Khoa Học Thành Đô).
3B- Huyết Aùp Cao Thể CAN THẬN ÂM HƯ (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học)
Triệu chứng: Hoa mắt, chóng mặt, tai ù, đau nóng trong đầu, mặt đỏ, ngực tức, bứt rứt hoặc chân tay tê dại, ngũ tâm phiền nhiệt, lưng đau, lưỡi thon đỏ, rêu mỏng, mạch Huyền, Tế, Sác.
Thường gặp trong trường hợp thể chất vốn có sẵn âm hư hoặc bị huyết áp cao thời gian dâì, dương thịnh làm tổn thương chân âm.
Biện chứng:
+ Thận tàng tinh, sinh tủy, Thận hư tủy không thông được lên não gây ra chóng mặt, hay quên.
+ Lưng đau: dấu hiệu Thận hư (Nội Kinh: Lưng là phủ của Thận).
+ Thận khai khiếu ra tai, Thận hư sinh ra tai ù.
+ Lòng bàn tay, chân và ngực nóng, lưỡi đỏ, mạch Tế, Sác là dấu hiệu thiên về âm hư (âm hư sinh nội nhiệt).
Điều trị: Tư âm, tiềm dương. Dùng bài Kỷ Cúc Địa Hoàng Thang gia vị (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học): Câu kỷ tử, Dã cúc hoa, Hoài sơn, Bạch linh, Đơn bì, Trạch tả, Địa cốt bì, Bạch mao căn đều 12g, Sinh địa, Hạ khô thảo đều 16g, Sơn thù, Câu đằng đều 10g, Thạch quyết minh 20g. Sắc uống).
4- Huyết Áp Cao Thể KHÍ HUYẾT ĐỀU HƯ (T.Hải)
TÂM TỲ LƯỠNG HƯ (T.Đô).
a- Chứng: Chóng mặt, hoa mắt, sắc mặt nhạt, hồ hộp, mất ngủ, mệt mỏi, biếng ăn, lưỡi nhạt, mạch Tế, Nhược.
b- Biện Chứng:
+ Chóng mặt, hoa mắt, sắc mặt nhạt, lưỡi nhạt là do khí huyết hư.
+ Hồi hộp, mất ngủ do Tâm huyết suy.
+ Mệt mỏi, biếng ăn do Tỳ khí suy.
+ Mạch Tế, Nhược biểu hiện khí
huyết suy.
c- Nguyên Nhân: Do bệnh lâu ngày không khỏi, khí huyết bị tổn hao hoặc sau khi mất máu, bệnh chưa hồi phục hoặc do Tỳ Vị hư yếu, không vận hóa được thức ăn để sinh ra khí huyết dẫn đến khí huyết bị hư. Khí hư thì dương bị suy, huyết hư thì não bị bệnh không nuôi dưỡng được, gây ra bệnh.
d- Điều Trị: + Bổ Dưỡng Khí huyết, kiện vận Tỳ Vị.
+ Bổ ích Tâm Tỳ.
Cả 2 trường phái trên đều dùng bài Quy Tỳ Thang (Tế Sinh phương): Đảng sâm 12g, Hoàng kỳ 12g, Toan táo nhân 12g, Phục thần 12g, Quế chi 8g, Viễn chí 4g, Chích thảo 2g, Bạch truật 12g, Đương quy 8g, Mộc hương 2g, Sinh khương 4g, Táo 3 trái. Sắc uống.
Một Số Bài Thuốc Tham Khảo
Nhân Sâm Dưỡng Vinh Thang (Tạp Chí Đông Y Việt Nam số 11/ 1967): Nhân sâm 8g, Hoàng kỳ16g, Đương quy 16g, Bạch truật 12g, Bạch thược 12g, Ngũ vị tử 4g, Táo nhân 12g, Viễn chí 4g, Mộc hương 4g, Thục địa 20g, Đan sâm 20g, Chích thảo 8g, Nhãn nhục 12g, Trần bì 8g, Chi tử 4g, Sài hồ 8g, Phục linh 12g, Táo12g. Sắc uống.
Khô Thảo Sinh Địa Thang (Tạp Chí Đông Y Việt Nam số 11/ 1967): Hạ khô thảo 40g, Tang diệp 20g, Thiên ma 12g, Sinh địa 12g, Đỗ trọng 12g, Cúc hoa 12g, Ngưu tất 12g. Sắc uống.
Tiên Quyết Giáng Áp Thang (Y Học Viện Tô Châu): Tang chi (tẩy rượu hoặc tẩm rượu ) 60g, Đương quy 16g, Cương tằm (sao) 16g, Đan sâm 16g, Quế chi 8g, Câu đằng (song) 30g, Ngưu tất 16g. Sắc uống.
* Phương Thuốc Đơn Giản.
+ Nội Khoa Học Thành Đô:
. Hoàng kỳ 30g, Đương quy 16g. Sắc uống.
. Đảng sâm 16g, Hoàng kỳ 16g, Chích thảo 6g, Nhục quế 6g. Sắc uống.
* MỘT SỐ NGHIỆM PHƯƠNG TRỊ HUYẾT ÁP CAO
+ Cao Huyết Aùp Nghiệm Phương: Khổ sâm 16g, Sung úy tử 16g, Ngũ vị tử 10g, Sơn tra 16g, Quyết minh tử 20g, Ngưu tất 16g, Hòe hoa 20g, Thiên trúc hoàng 16g, Từ thạch 16g. Sắc uống (Y Viện Liêu Tử).
+ Huyết Bình Thang: Câu đằng 12g, Đỗ trọng 8g, Ngưu tất 6g, Đương quy 12g, Tang ký sinh 8g, Hoàng cầm 8g, Chỉ thực 8g. Sắc uống (Cổ Phát Trai - Y Viện Hình Đài ).
+ Khô Thảo Thang: Bạch thược 12g, Hạ khô thảo 20g, Đỗ trọng 20g, Hoàng cầm8g. Ba vị trên sắc trước khoảng nửa giờ, cho thêm Hoàng cầm vào sắc tiếp khoảng 10 phút. Ngày uống 2 lần (Thường Nhất Sơn, Sơn Hải Trung Quốc).
+ Định Phong Bình Can Thang: Thiên ma 6g, Sung úy tử 20g, Hy thiêm thảo 20g, Quyết minh tử 40g, Hoàng cầm 8g, Xuyên khung 4g. Sắc uống (Trung Y Thượng Hải).
- Thông U Hạ Áp Cao: Bố chính sâm, Hoàng tinh, Ngưu tất, Thạch xương bồ, Hà thủ ô, Nga truật, Thổ phục linh, Binh lang, Đào nhân, Kim ngân hoa, Hồng hoa, Cam thảo, Mạn kinh tử, Tang chi, Sinh địa, Liên kiều, Tỳ giải, Trạch tả, Xích thược. Nấu thành cao. Ngày uống 30 - 60ml (Trần Chưởng - Tạp Chí Đông Y (Việt Nam), 1967 : 11).
+ Dẫn Hỏa Quy Nguyên Thang (Phương Bá Trà): Địa hoàng 16g, Sơn dược, Trạch tả, Phục linh, Táo bì, Ngưu tất đều 10g, Đơn bì 19g, Quan quế 4g.Sắc uống
-TD: Ích Thận, giáng hỏa, trị huyết áp cao thể Thận hư (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Hạ Khô Thảo Thang Phức Phương: Hạ khô thảo, Cúc hoa đều 10g, Quyết minh tử, Câu đằng đều 16g. Sắc uống.
-Ghi Chú: Sau 1 tuần, chỉ dùng Quyết minh tử 30g, sắc, chia làm 2 lần uống trong ngày (Lưu Kỳ Hiệu - Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Ôn Dương Ích Khí Thang: Phụ tử 4g, Phục linh 16g, Hán phòng kỷ12g, Nhục quế 6g, Hoàng kỳ20g, Xích tiểu đậu 20g, Quế chi 6g, Ngưu tất 20g, Bạch truật 12g. Sắc uống.
- TD: Ôn dương, ích khí, kiện Tỳ, thấm thấp, hoạt huyết, thông lạc (Sài Bái Nguyên - Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Tam Thảo Thang: Hạ khô thảo 12g, Long đởm thảo 6g, Ích mẫu thảo 10g, Bạch thược 10g, Cam thảo 6g. Sắc uống.
- TD: Thanh nhiệt, bình Can, hạ áp (Lưu Độ Châu - Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Thất Diệu Thang (Hà Thiệu Kỳ): Thạch quyết minh 30g, Kim ngân hoa 16g, Hạ khô thảo 12g, Thanh phòng phong 10g, Xích thược 10g, Tang chi 12g, Cam thảo 6g, Hoàng kỳ (sống) 30g, Đương quy 10g. Sắc uống.
- TD: Khu phong, thanh nhiệt, giáng áp. Trị huyết áp cao (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Thất Vị Điều Đại Thang: Bạch tật lê 16g, Hạnh nhân 16g, Huyền sâm16g, Xa tiền tử 16g, Binh lang 6g, Hổ phách 1g, Đan sâm 16g. Sắc uống.
-TD: Khu phong, sơ Can, tư âm, giáng hỏa, hoạt huyết, an thần, giáng khí, lợi thấp.
-Ghi Chú: Thường phải uống 5 - 10 thang mới có hiệu quả, nhiều nhất là 15 thang (Trương Trung - Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Tiêu Dao Hạ Áp Thang: Đơn bì, Hoàng cầm, Hạ khô thảo, Chi tử 16g, Phục linh 16g, Bạch thược 30g, Sài hồ 16g, Câu đằng 16g, Đương quy12g, Bạc hà 10g. Sắc uống.
-TD: Thanh Can, giải uất, bình Can, hạ áp (Trương Trung - Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Tiên Linh Tỳ Hạ Áp Thang: Dùng phần thân và lá Tiên linh tỳ (phần trên mặt đất) nấu thành cao, dùng đường bọc ngoài làm viên. Ngày uống 30g. Một liệu trình là một tháng (Sở Nghiên Cứu Trung Y Triết Giang).
+ Trạch Tả Hạ Áp Thang: Trạch tả 60g, Thảo quyết minh 12g, Ích mẫu thảo 20g, Câu đằng 16g, Tang ký sinh 12g, Hạ khô thảo 12g, Đơn bì 12g, Xa tiền tử 12g, Sắc uống (Chu Văn Ngọc – Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Viễn Cúc Nhị Tiên Tán Viễn chí (sống) 16g, Thiên ma 16g, Cúc hoa 6g, Thạch xương bồ 10g, Xuyên khung 16g, Sài hồ 10g, Thiên trúc hoàng 12g, Cương tằm10g. Tán bột, mỗi lần uống 10g, ngày 3 lần, trước bữa ăn 30 phút.
TD: Bình Can, hóa đờm, an thần, định kinh (Vương Chí Ưu - Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Hoàng tinh 2kg, Lá dâu già 3kg, Câu đằng 1,5kg, Cành dâu 2kg, Hạ khô thảo 1kg, Hoa hòe 1,5kg. Nấu thành cao, ngày uống 50ml (Tạp Chí Đông Y Việt Nam số 11/1967).
+ Lạc tiên 12g, Thảo quyết minh 12g, Màn kinh 4g, Lá vông 12g, Dâu tằm (lá) 12g, Đỗ trọng 12g, Táo nhân 12g, Hòe hoa 12g, Cúc hoa12g. Sắc uống (Tạp Chí Đông Y Việt Nam số 11/1967).
+ Sơn tra phấn 120g, Tiêu thạch phấn 24g, Minh thiên ma phấn 16g, Linh dương giác phấn 4g, Sinh minh phàn phấn 8g. Tán nhuyễn, trộn đều. Ngày uống 2 lần mỗi lần 4g ( Tân Tân Hữu Vị Đàm).
+ Đỗ trọng 12g, Hạ khô thảo 15g, Thổ ngưu tất 10g, Dã cúc hoa 9g. Sắc uống liên tục 10~15 ngày (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
+ Hạ khô thảo 15g, Xa tiền tử 15g, Đại kế 10g, sắc uống (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
+ Tang diệp 10g, Hạ khô thảo 15g, Cúc hoa 9g. Sắc uống hàng ngày (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
+ Hy thiêm thảo 30g, Địa cốt bì 10g. Sắc uống (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
+ Lá trà 3g, Bạch cúc hoa 10g, Hoa mai khôi (hoa Hồng) 7 hoa. Sắc uống (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
* Thuốc Ngoại Khoa Chữa HA Cao
- Thuốc Gối Đầu: (Cát Hòa Phổ, tỉnh Giang Tây): Cúc hoa, Đạm trúc diệp, Đông tang diệp, Thạch cao (sống), Bạch thược, Xuyên khung, Từ thạch, Mạn kinh tử, Mộc hương, Tằm sa. Cho tất cả vào 1 cái gối. Mỗi đêm gối ít nhất 6 giờ.
- Thuốc Đắp:
1- Tỳ ma nhân (nhân hạt Đu đủ tía) 60g, Ngô thù du 20g, Phụ tử 20g,. Tán bột. Lấy 200g Gừng sống giã nát, trộn với thuốc bột trên, thêm 10g Băng phiến, làm thành cao. Mỗi tối đắp vào lòng bàn chân (huyệt Dũng tuyền). Mỗi liệu trình là 7 ngày. Dùng liên tục 3-4 liệu trình (Lưu Thành Báo).
2- Ngô thù du, tán nhỏ. Mỗi lần dùng 10 - 30g. Tối khi đi ngủ, lấy Dấm đun sôi, trộn thuốc bột trên cho sền sệt, đắp vào lòng bàn chân (huyệt Dũng tuyền), dùng vải (băng) quấn lại, để khoảng 12 giờ (Trung Dược Lâm Sàng).
3- Đào nhân, Hạnh nhân đều 12g, Chi tử 3g, Hồ tiêu 7 hột, Gạo tẻ 14 hột. Giã nát, trộn với 1 tròng trắng trứng gà cho sền sệt đắp vào huyệt Dũng tuyền dưới lòng bàn chân. Mỗi ngày một lần. Mỗi ngày đắp một bên chân, thay đổi đắp cả hai chân. 6 ngày là một liệu trình (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
* THUỐC NAM CHỮA HUYẾT ÁP CAO
+ Cá diếc tươi, rửa sạch, không mổ, không đánh vẩy, cho vào nước có pha ít muối chừng 20 phút cho cá quẫy và nhả dãi nhớt ra. Đem nấu sôi cho chín, gỡ lấy thịt nạc, bỏ ruột đi. Cho lá dâu vào nấu thành canh, ăn cả nước lẫn cái (Tạp Chí Đông Y Việt Nam số 11/1967).
+ Dùng con Trai sống (tiên Bạng), đem nướng cho chảy nước ra, hứng lấy nước đó. Pha chung với sữa Đậu nành, uống.
TD: Bình Can tiềm dương, hạ áp rõ, các chứng đầu đau, mắt mờ giảm nhanh (Tiên Dược Liệu Trị).
+ Địa long (sống) 6 con, Thiên ma 6g, Câu đằng, Cúc hoa, Sinh địa đều 12g, Thạch quyết minh (rang) 20g, sắc uống. 15 ngày là một liệu trình.
Đã trị 34 ca, sau khi uống 2 liệu trình thuốc, kết quả: huyết áp hạ xuống 28, không kết quả 6 (Tiên Dược Liệu Trị).
+ Rau cần tươi 500g, Vỏ dưa hấu 500g. Giã nát, vắt lấy nước, mỗi lần uống 30ml, ngày 3 lần.
Đã trị 8 ca, sau 5 ngày, có 6 ca thấy triệu chứng giảm nhẹ, lượng nước tiểu tăng nhiều, huyết áp hạ xuống. 2 ca không có kết quả (Tiên Dược Liệu Trị).
+ Trà Sơn Tra: Mỗi ngày dùng 20g Sơn tra nấu uống thay trà. Mới uống 2 - 3 ngày đầu, HA có thể xuống nhanh, ngày thứ tư trở đi tốc độ xuống sẽ giảm dần. Khi HA trở lại bình thường thì ngưng uống (Tân Tân Hữu Vị Đàm).
+ Trư Yêu Đỗ Trọng Thang: Đỗ trọng 24g, thận heo 2 cái, nấu nhừ, ăn còn nước thì uống ( Tân Tân Hữu Vị Đàm).
+ Hoa Hồng 15g, sắc uống hàng ngày.
Tại Bắc Kinh người ta thử dùng trà Hoa hồng trị cho 62 ca huyết áp cao, kèm Cholesterol cao. Mỗi ngày cho uống 15g trà Hoa hồng, sau 6 tháng, hiện tượng tê mỏi chân tay do cao huyết áp và lượng Cholesterol trong máu dần dần hết. Chỉ cá biệt có người bị khô miệng (Ẩm Thực Liệu Pháp).
+ Cúc hoa 24g, Kim ngân hoa 24g. trộn đều, chia làm 4 phần, mỗi lần lấy 1 phần, đổ nước sôi vào hãm uống, ngày 2 lần. Báo cáo của bệnh viện Long Hoa (Thượng Hải) cho thấy dùng bài thuốc này trị 46 người huyết áp cao thể Can dương thượng cang, uống liên tục 1 tuần. Kết quả 35 người huyết áp trở lại bình thường, 9 ca có chuyển biến tốt.
+ Củ cải sống ½ kg, nghiền nát, ép lấy nước cốt, them 2 thìa cà phê Mật ong, quấy đều uống (Trung Hoa Ẩm Thực Liệu Pháp).
+ Tỏi, cắt thành từng miếng, ngâm vào dấm, thêm ít đường hoặc mật ong trong 5-7 ngày. Mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 2-4g, ngày 2 lần.liên tục 10-15 ngày, huyết áp hạ và giữ được độ ổn định (Trung Hoa Ẩm Thực Liệu Pháp).
+ Bẹ thân cây chuối hoặc quả chuối xanh (còn non) 50g, nấu lấy nước uống hàng ngày (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
CÁC Y ÁN CHỮA HUYẾT ÁP CAO
- Y Án Huyết Áp Cao Thể Can, Tỳ, Thận
(Trích trong Tạp Chí Đông Y Việt Nam số 11/1967)
“Lê Trung Ch...65 tuổi, trước đây vẫn khỏe mạnh, năm 1958 bắt đầu thấy đau vùng Thận. Khám thấy Thận có sỏi và HA cao. Đã điều trị Đông Tây Y nhưng bệnh chỉ tạm bớt rồi lại tái phát. HA dao động không nhất định, có khi 195/120mmHg, có khi 160/100mmHg. Khi HA lên cao thì hoa mắt, tai ù và ói mửa, lưng thường đau. Khi đau nhiều, ngồi xuống đứng lên khó khăn, nước tiểu thường đục, chân bên phải bị tê từ năm 1959.
Khám thấy người gầy, da hơi xanh, mặt có khi bị ửng đỏ, hình thái yếu đuối, mệt mỏi, rêu lưỡi thường, chất lưỡi hơi nhạt, tiếng nói yếu, ngủ kém, mạch 88 lần\ phút, 6 bộ mạch đều Huyền, hơi Sác.
Chẩn đoán là Huyết áp cao liên hệ với Can, Thận và Tỳ.
Điều Trị: Kiện Tỳ, trừ thấp, bình Can, Thận và Tỳ.
Xử Phương: Bán Hạ Bạch Truật Thiên Ma Thang Gia Giảm: Bán hạ 12g, Khiếm thực 20g, Tang ký sinh 12g, Đỗ trọng 12g, Thiên ma 12g, Bạch truật 12g, Mộc qua 12g, Phục linh 12g, Bạch thược 12g, Ngưu tất 12g, Trần bì 8g, Tỳ giải 20g, Cam thảo 4g, Ý dĩ 24g. Sắc uống ngày 1 thang.
Kết quả: Uống 20 thang, các chứng đầu đau, chóng mặt, tai ù, lưng đau đều hết, chỉ còn chứng hoa mắt mới giảm ít. Dùng phương cũ thêm Cúc hoa 12g để thanh Can, minh mục.
Uống thêm 8 thang nữa các chứng đều đỡ dần. Vì trời mưa nhiều nên chân bên phải lại đau. Dùng nguyên phương thêm Độc hoạt 12g, uống thêm 16 thang thì các chứng đều bớt, người thoải mái dễ chịu, HA xuống còn 150/90mmHg, tiểu bớt đục. Uống thêm 24 thang các chứng đều hết, HA duy trì 150/80mmHg”.
Y Án HA Cao Thể Tâm Thu - Can Dương Vượng
(Trích trong Tạp Chí Đông Y Việt Nam số 11/1967)
“ Phạm Thiên L. 48 tuổi, HA cao đã 15 năm khi khám tại bịnh viện nhưng các triệu chứng lâm sàng chưa rõ, dần dần xuất hiện các triệu chứng mất ngủ, đầu đau, đã điều trị nhiều nơi nhưng HA chỉ ổn định 1-2 tháng rồi lại tái lại. HA thường 220/80mmHg.
Khám thấy đầu đau, mắt hoa, chóng mặt, muốn ói, mất ngủ, trí nhớ kém, thỉnh thoảng bị ngất, HA đo lúc đó là 225/80mmHg, mạch 100 lần /phút.
Ngày 15/05/1966 : châm bổ Thận du, Phục lưu, Tâm du, Nội quan. Châm tả Can du, Phong trì, lưu kim 15 phút.
Đêm hôm đó người bệnh cảm thấy ngủ ngon.
Ngày 16.05.1966 HA đo được 180/80mmHg. Tiếp tục châm theo phác đồ trên.
Sau 17 ngày châm cứu, các triệu chứng như đầu đau, mất ngủ, muốn ói đều hết.
Ngày 25.6.1966 kiểm tra lại, HA vẫn 120/80mmHg.
Ngày 15.8.1966 kiểm tra lại, HA vẫn như trên.
Ngày 15.12.1966 kiểm tra lại thấy ổn định “.
Y Án HA Cao Do Can Kinh Nhiệt Thịnh + Đờm Trọc Trung Trở
(Trích Trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Trần X. nam, 53 tuổi, đã phát hiện tăng HA từ hơn 5 năm. Đầu váng, tai ù, nhìn mờ, có cảm giác trống rỗng trong tim, chân tay có lúc run rẩy mà không biết, khớp tay bên phải và 2 bên gót chân đau. Vọng chẩn thấy mặt xám, trong mắt có quầng của người cao tuổi, môi hơi tím tái, rêu lưỡi vàng mỏng, lưỡi đỏ, miệng hôi, ăn uống được những sau khi ăn no thì ợ hơi, bụng trên đau âm ỉ, đêm nằm mơ vẩn vơ. Mạch bên trái Trầm Tế mà Sác, bên phải Hồng Đại mà Sác. HA đo được 200/132mmHg.
Chẩn Đoán: HA cao do Can kinh nhiệt thịnh, đờm trọc trung trở.
Điều Trị: Thanh Can, tức phong, hoạt huyết, tán ứ.
Xử phương: Bát Vị Giáng Áp Thang: Tử đan sâm 30g, Phấn Đơn bì 16g, Thích tật lê 16g, Hoài ngưu tất 16g, Mã đâu linh 16g, Đại giả thạch 30g, Hạ khô thảo 30g, Song câu đằng 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Uống 8 thang thì HA hạ xuống còn 180/120mmHg.
Bao tử hết bệnh, có cảm giác đói, tuy nhiên mồ hôi trán ra khá nhiều. Như vậy người bệnh thuộc thể hư, lại thêm huyết ứ bế tắc, uất trệ đã lâu, lạc mạch không thông suốt được.
Dùng bài thuốc trên bỏ Đan sâm, Mã đâu linh để tránh khổ (đắng) lạnh (hàn) làm hại sinh khí của Tỳ Vị. Dùng tiếp 6 thang, tất cả các triệu chứng đều chuyển biến tốt và rõ rệt. HA hạ xuống còn 180/140mmHg.
Uống 46 thang, HA hạ xuống còn 169/90mmHg.”
Y Án HA Cao Do Phong Đờm Thượng Nghịch
(Trích Trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng).
“ Trương X. nam, 48 tuổi, phát hiện tăng HA đã 2 năm. Thường thấy đầu đau dữ dội, mất ngủ, hoa mắt, tay chân tê dại, có lúc nói khó, phản ứng chậm chạp. Đã từng dùng các loại thuốc hạ áp như Reserpin đều ít hiệu quả. Chất lưỡi đỏ, rêu trắng bẩn, mạch Huyền Hoạt.
-Chẩn Đoàn: HA cao do phong đờm ngược lên gây ra bệnh.
-Điều Trị: Trấn Can, tức phong, thanh nhiệt, hóa đàm.
-Xử Phương: dùng bài Tức Phong Giáng Áp Thang: Toàn phúc hoa 16g, Thiên ma 16g, Đởm tinh 10g, Trân châu mẫu 24g, Bán hạ10g, Ngô công 3 con, Thạch quyết minh 40g, Câu đằng 16g, Toàn yết 4g, Đại giả thạch 30g, Qua lâu 16g, Ngưu tất 16g, Ngưu giác ty 20g. Sắc uống ngày 1 thang.
Uống 18 thang các triệu chứng hoàn toàn mất hết, HA hạ xuống còn 140/95mmHg.
Dùng nguyên phương bỏ Thiên ma, Đởm tinh, Ngô công, Toàn yết, thêm Sa sâm 16g, Bách hợp 30g, Đương quy 30g. Uống liền 6 thang nữa, HA hạ xuống còn 138/85mmHg. Hai tháng sau, hỏi lại, tình trạng tốt đẹp, chưa thấy HA lên cao”.
- Y Án Huyết Áp Cao Do Thận Hư.
(Trích trong ‘ Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
“ Dư X... nữ, 51 tuổi, bị tăng HA đã hơn 5 năm, HA thường ở mức 210/110 và 180/100mmHg. Thường chóng mặt, đầu đau, hay cáu gắt, mất ngủ, hay mơ, lưng gối đau, tay chân tê, sắc mặt đỏ hồng, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Huyền,Tế, Sác.
Chẩn Đoán: HA cao do Can, Thận âm hư.
Điều trị: tư bổ Can, Thận, giáng áp, tức phong.
Xử phương: dùng bài Thất Tử Thang (Quyết minh tử 24g, Câu kỷ tử 12g, Thỏ ty tử 12g, Nữ trinh tử 16g, Kim anh tử 10g, Tang thầm tử 12g, Sa uyển tử 12g.Thêm Câu đằng 12g, Bạch thược 10g, Tang ký sinh 12g. Ngày uống 1 thang. Uống được 6 thang thì các triệu chứng chuyển biến tốt, HA giảm1 ít còn175/95mmHg. Uống tiếp 15 thang nữa, các triệu chứng về cơ bản đã hết. HA ổn định ở 150 - 140 / 90mmHg. Uống thêm 1 tháng nữa để củng cố. Sau hơn 1 năm chưa thấy HA tăng lại “.
Y Án Huyết Cao Do Can - Đờm
(Trích trong ‘ Trung Quốc Đương Đại Danh Y Nghiệm Phương Đại Toàn).
“ Phan X. nam, 48 tuổi, bị HA cao đã hơn 10 năm, gần đây hơn 1 tháng, đầu bị đau, chóng mặt, chi dưới phù, hoạt động khó khăn, nửa lưng bên phải đau, hồi hộp, lo sợ, phiền táo, mất ngủ, hay mơ, tiểu không thông, HA 226/133mmHg, lưỡi trắng dầy, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Huyền Hoạt hơi Sác.
Cho dùng bài: Hoàng Tinh Tứ Thảo Thang: Hoàng tinh 20g, Hạ khô thảo 16g, Ích mẫu thảo 16g, Xa tiền thảo 16g, Hy thiêm thảo 16g. Sắc uống. Uống 7 thang chứng chóng mặt giảm nhẹ, chi dưới bớt phù. Điều trị hơn một tháng, chóng mặt và phù tiêu hết, HA bình thường.”
Y Án HA Cao Do Thận Hư
(Trích trong ‘ Trung Quốc Đương Đại Danh Y Nghiệm Phương Đại Toàn).
“ Trần X... nam, 53 tuổi, bị HA cao đã hơn 10 năm, HA đo là 253/159mmHg, tai ù nghe không rõ, trong tai như có ứ nước, tay chân tê, hoạt động khó khăn.
Dùng Tam Long Thang: Long cốt 30g, Long đởm thảo 6g, Địa long (khô) 16g, Từ thạch 30g, Tang chi 16g, Tang diệp 10g, Mẫu lệ 30g. Sắc uống ngày 1 thang.
Uống hơn một tháng HA trở lại bình thường, tai hết kêu, ù...”
Y Án HA Cao Do Can Dương Vượng.
(Trích trong ‘ Trung Quốc Đương Đại Danh Y Nghiệm Phương Đại Toàn).
“Kim X... 59 tuổi,nam, bị HA cao đã hơn 2 năm, nửa đầu đau, căng, chóng mặt, gáy cứng, mắt hoa, đi đứng khó khăn, tâm phiền, hay giận dữ, miệng khô, lòng bàn tay chân và ngực nóng, táo bón, nước tiểu đỏ, mặt đỏ như uống rượu, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Huyền Tế Sác. HA 279/159mmHg.
Cho uống Hạ Ký Cầm Thược Thang: Hạ khô thảo 30g, Tang ký sinh 20g, Hoàng cầm 16g, Bạch thược 24g, Ngưu tất 36g, Mẫu lệ 50g, Câu đằng 16g. Thêm Thạch quyết minh 20g, Thiên ma 10g, Quy bản 20g, Xuyên luyện tử 10g, Sinh địa 20g, Địa long 16g, Nguyên sâm 16g.
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 4 thang, các triệu chứng giảm nhẹ, HA còn 239/141mmHg. Uống thêm 4 thang nữa, các triệu chứng giảm nhiều, HA còn 226/125mmHg. Thêm 4 thang nữa, các triệu chứng đều hết. HA trở lại bình thường “.
Y Án Huyết Áp Cao
(Trích trong ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’)
Bệnh nhân Mạnh, nữ, 44 tuổi, giáo viên, nhập điều trị ngoại trú ngày 03/03/ 1979.
Bị cao huyết áp đã 3 năm, áp huyết tăng trong khoảng 180/120 mmhg, chóng mặt, khó ngủ, kích động, ngón tay chân tê, cảm giác tức và nặng trên đỉnh đầu, ấn vào thì đỡ.
Thăm khám: Cơ thể gầy yếu, có vẻ đau đớn, áp huyết cao 180/130 mmhg.
Chẩn đoán tăng huyết áp.
Điều trị: Châm Bách hội và Thượng tinh châm xiên, sâu 0.5- 1 thốn, lưu kim khoảng 1- 2 giờ.
Khám lần thứ hai vào ngày 5/3/1979 thấy áp huyết còn 160/100 mmHg, ngủ nhiều hơn, chóng mặt đã giảm. Châm như cũ.
Khám lần thứ ba vào ngày 10/03/1979: áp huyết 130/80 mmhg. Hết hẳn chóng mặt, đỉnh đầu hết căng tức, những triệu chứng khác cũng đỡ nhiều. Châm các huyệt Bách hội (XIII 20), An miên II và Nội quan (IX 6), vê và lưu kim 30 phút.
3 ngày châm một lần. Châm như trên tổng cộng 5 lần để củng cố hiệu quả trị liệu.
Y Án Huyết Áp Cao
(Trích trong ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’).
Gia X, nữ, 45 tuổi, giáo viên. Khám lần đầu ngày l0/06/1979.
Bệnh nhân bị chóng mặt, mờ mắt
và không thể đứng dậy được. Khám thấy cô ta béo phì, mặt hơi đỏ, tiếng nói chói tai và mạnh, áp huyết 190/130 mmhg, mạch Huyền Sác.
Chẩn đoán: Tăng huyết áp.
Điều trị: Châm hai bên cột sống phía sau cổ bằng hai kim, xoay kim không định hướng mỗi 10 phút một lần, lưu kim 30 phút. Bệnh nhân cảm thấy giảm chóng mặt một cách đáng kể ngay sau khi rút kim và áp huyết giảm còn 180/125 mmHg.
Sau 5 lần châm áp huyết giảm còn 135/90 mmHg và các triệu chứng mất hẳn. Một năm sau bệnh nhân trở lại để kiểm tra: nhận thấy áp huyết giữ ở mức 130 - 140/90 - 100 mmHg.
Bệnh Án Huyết Áp Cao
(Trích trong ‘Tiên Dược Liệu Trị’)
Bệnh nhân nam 68 tuổi. Tháng 3-1992, sốt cao, đau đầu, tinh thần mê mệt, nói sảng, thân nhiệt 4002C, huyết áp 240/167mmHg. Trong thang thuốc Bình Can Tức Phong, cho thêm 50ml nước Trai sống và sữa đậu nàh vào uống. Sau khi uống thuốc 3 ngày, thân nhiệt hạ xuống, đầu hầu như hết đau, tinh thần tỉnh lại, huyết áp hạ xuống dần, đến ngày thứ 8, huyết áp hạ xuống 200/133mmHg, bệnh giảm, cho xuất viện về nhà tiếp tục điều trị như trên.
HUYẾT ÁP THẤP
Đại Cương
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, huyết áp thấp là biểu hiện của sự rối loạn chức năng vỏ não của trung khu thần kinh vận mạch. Bệnh huyết áp thấp có thể bao gồm huyết áp thấp triệu chứng và huyết áp thấp tư thế...
Huyết áp thấp là khi trị số huyết áp tâm thu dưới 90mmHg và huyết áp tâm trương dưới 60mmHg, mạch áp có hiệu số thường dưới 20mmHg.
Triệu chứng chủ yếu là hoa mắt, chóng mặt.
Huyết áp thấp theo Y HCT thuộc thể hư của chứng huyễn Vựng
Triệu Chứng Lâm Sàng
Chẩn Đoán: Chủ yếu dựa vào váng đầu, mệt mỏi, tỉ số huyết áp dưới 90/60mmHg.
Có triệu chứng thiếu máu não kèm theo huyết áp thấp tư thế. Có một trong 2 điểm trên có thể xác định là huyết áp thấp tư thế.
Biện Chứng Luận Trị
Chứng huyết áp thấp bất kỳ do nguyên nhân nào, theo YHCT, đều thuộc chứng hư. Nhẹ thì do Tâm dương bất túc, Tỳ khí suy nhược. Nặng thì thuộc thể Tâm Thận dương suy, vong dương, hư thoát.
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
1- Tâm Dương Hư Thoát: Váng đầu, hoa mắt, tinh thần mỏi mệt, buồn ngủ, ngón tay lạnh, chất lưỡi nhạt, thân lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Hoãn, không lực hoặc Trầm Tế.
Điều trị: Ôn bổ Tâm dương. Dùng bài Quế Chi Cam Thảo Thang gia vị: Nhục quế, Quế chi, Chích cam thảo đều 10g, mỗi ngày sắc một thang, uống liên tục 9 – 12 thang hoặc hãm với nước sôi uống như nước trà.
Gia giảm: Chất lưỡi đỏ, rêu vàng khô là chứng khí âm bất túc, thêm Mạch môn, Ngũ vị tử để ích khí, dưỡng âm. Khí hư, ít nói, ra mồ hôi: Bổ khí thêm Hồng sâm để bổ khí, trợ dương. Huyết áp tâm thu dưới 60mm/Hg, chân tay lạnh, có triệu chứng vong dương, bỏ Quế chi, thêm Hồng sâm, Phụ tử (chế) để hồi dương, cứu thoát.
2) Trung Khí Bất Túc, Tỳ Vị Hư Yếu: Váng đầu, hồi hộp, hơi thở ngắøn, tinh thần mệt mỏi, chân tay mềm yếu, sợ lạnh, dễ ra mồ hôi, ăn kém, ăn xong bụng đầy, chất lưỡi nhợt, rêu trắng nhuận, mạch Hoãn, vô lực.
Điều trị: Bổ trung, ích khí, kiện Tỳ Vị. Dùng bài Hương Sa Lục Quân Thang gia giảm (Đảng sâm 8g, Bạch truật 10g, Bạch linh 10g, Đương quy 12g, Hoàng kỳ 12g, Bạch thược 12g, Chỉ thực 8g, Trần bì 8g, Mộc hương 6g, Sa nhân 6g, Quế chi 6g, Chích thảo 4g, Đại táo 12g, Gừng tươi 3 lát. Sắc uống ngày 1 thang.
3) Tỳ Thận Dương Hư: Váng đầu, ù tai, mất ngủ, mệt mỏi, hơi thở ngắn, ăn kém, đau lưng, mỏi gối, chân tay lạnh, sợ lạnh hoặc di tinh, liệt dương, tiểu đêm, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch Trầm Nhược.
Điều trị: Ôn bổ Tỳ Thận dương. Dùng bài Chân Vũ Thang gia vị: Đảng sâm 12g, Chế phụ tử 6 - 8g (sắc trước), Bạch truật 12g, Bạch thược 12g, Bạch linh 12g, Quế nhục 6g, Câu kỷ tử 12g, Liên nhục 12g, Bá tử nhân 12g, Ích trí nhân 10g, Toan táo nhân (sao) 20g, Dạgiao đằng 12g, Gừng tươi 3 lát, sắc uống.
4) Khí Âm Lưỡng Hư: Đau đầu, chóng mặt, khát, họng khô, lưỡi thon đỏ, ít rêu, khô, mạch Tế Sác .
Điều trị: Ích khí, dưỡng âm. Dùng bài Sinh Mạch Tán gia vị: Tây dương sâm 20g, Mạch môn 16g, Ngũ vị tử 4g, Hoàng tinh 12g, sắc uống.
Những Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Quế Cam Trà (Vương Hưng Quốc, tỉnh Sơn Đông, Sở Nghiên cứu trung y Tế Ninh). Quế chi, Cam thảo đều 9g, Quế tâm 3g, ngày 1 gói, hãm nước sôi uống. Liệu trình 50 ngày.
- Kết quả lâm sàng: Dùng trị 48 ca huyết áp dưới 86/60mmhg, có 36 ca huyết áp lên trên 100v70mm/Hg, 8 ca huyết áp ổn định mức 90/60mm\Hg, 4 ca không kết quả, tỉ lệ kết quả 91,66%.
+ Quế Chi Cam Phụ Thang (Dương Vạn Lâm, tỉnh Hắc Long Giang Trung quốc): Quế chi, Cam thảo, Xuyên phụ tử đều 15g, ngày 1 thang, hãm nước sôi uống thay trà.
- Kết quả lâm sàng: Đã dùng trị 38 ca, thường sau khi dùng 4 - 12 thang, huyết áp lên với mức độ khác nhau. Trước khi dùng thuốc, huyết áp bình quân 90 - 80/70 – 50mm\Hg, sau điều trị huyết áp lên bình quân 110,5/68,5mm\hg. 85% bệnh nhân huyết áp được củng cố.
- Ghi chú: Lúc dùng thuốc bệnh nhân ngủ kém thêm Dạgiao đằng 50 - 70g.
Trường hợp nặng có thể thêm Hồng sâm 15 - 25g, Phụ tử tăng lên đến 30g, sắc trước 1 giờ. Trước khi dùng bài này tác giả đã dùng các bài ‘Bổ Trung Ích Khí Thang, Qui Tỳ Thang’, nhưng kết quả không rõ rệt.
+ Thục Địa Hoàng Kỳ Thang (Vương Triệu Khuê, Hà Bắc): Thục địa 24g, Sơn dược 24g, Đơn bì, Trạch tả, Phục linh, Mạch môn, Ngũ vị tử đều 10g, Sơn thù 15g, Hoàng kỳ 15g, Nhân sâm 6g (Đảng sâm 12g) sắc uống.
Biện chứng gia giảm: Khí hư rõ dùng Hoàng kỳ 20 - 30g; Khí âm lưỡng hư, thay Nhân sâm bằng Thái tử sâm 20g; Huyết hư thêm Đương qui; Váng đầu nặng thêm Cúc hoa, Tang diệp; Âm hư hỏa vượng thêm Hoàng bá, Tri mẫu; Kèm thấp, trọng dụng Phục linh; Lưng gối nhức mỏi, chân sợ lạnh thêm Phụ tử, Nhục quế.
Kết quả lâm sàng: Đã dùng trị 31 ca, kết quả tốt (huyết áp hồi phục lên 120/80mmHg) 21 ca, tỷ lệ 67,7%, có kết quả (huyết áp hồi phục trên 90/60mm\hg) 10 ca (32,3%. Lượng thuốc uống nhiều nhất là từ 8 đến 20 thang, ít nhất 8 thang.
+ Trương Thị Thăng Áp Thang (Trương Liên Ba, tỉnh Giang Tô): Đảng sâm 12g, Hoàng tinh 12g, Nhục quế 10g, Đại táo 10 quả, Cam thảo 6g. Sắc uống. 15 ngày là một liệu trình.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 30 ca liên tục 1 liệu trình, hầu hết trở lại bình thường, huyết áp trở lại bình thường 15 ca. Uống thuốc 2 liệu trình, triệu chứng bệnh hết 18 ca, còn 2 ca không kiên trì chữa bệnh.
+ Thăng Áp Thang (Y Học Văn Tuyển 1988 (1): Quế chi, Nhục quế đều 30g, Cam thảo 15g. Sắc uống.
TD: Trợ dương thăng áp. Trị huyết áp thấp.
Thường uống 2-3 thang là huyết áp có thể tăng lên, phục hồi lại như bình thường.
+ Phù Chính Thăng Áp Thang Gia Vị (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Nhân sâm 10g (hoặc Nam Ngũ gia bì 15g), Mạch môn, Chích thảo, Trần bì, A giao đều 15g, Ngũ vị tử 12g, Sinh địa 20 ~ 30g, Chỉ xác 10g, Hoàng kỳ 30g. Sắc uống.
TD: Ích khí dưỡng âm. Trị khí âm đều hư, huyết áp thấp.
Bệnh Án Huyết Áp Thấp
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Ngụy X, nữ, 49 tuổi. Thường bị huyết áp thấp, thường trong khoảng 100 – 90/60-50mmHg. Mệt mỏi, trèo lên cao hoặc hoạt động mạnh thì váng đầu, tim hồi hộp, thở gấp. Một tháng nay, bệnh càng nặng thêm, đã bị ngất hai lần. Ngày 13-8-1979 sơ chẩn thấy thể trạng tương đối khá, gầy ốm, sắc mặt vàng, tim đập nhanh 94 lần/phút, nhịp đều, lưỡi nhạt, đầu lưỡi đỏ, rêu bình thường, mạch tế nhược, huyết áp 86/56mmHg. Cho dùng Phù Chính Thăng Áp Thang Gi Vị: Nhân sâm 10g (hoặc Nam Ngũ gia bì 15g), Mạch môn, Chích thảo, Trần bì, A giao đều 15g, Ngũ vị tử 12g, Sinh địa 20 ~ 30g, Chỉ xác 10g, Hoàng kỳ 30g. Sắc uống. Uống ba thang thì các triệu chứng đỡ rõ rệt. Huyết áp tăng lên 96/70mmHg. Uống thêm 9 thang nữa, cơ bản hết các triệu chứng, huyết áp tăng lên 116/80mmHg
HUYẾT HƯ
(Bần Huyết)
Là loại bệnh mà số lượng hồng cầu trong máu ít đi, dưới mức 4 triệu hồng cầu trong 1 ly khối máu. Trường hợp nặng chỉ còn hơn 1 triệu hồng cầu trong một ly khối máu. Chất lượng hồng cầu bị thay đổi: hồng cầu to ra, bé đi, thay hình dạng, mầu sắc sẫm lại hoặc nhạt đi.
Thuộc loại Hư Lao của YHCT.
Nguyên nhân:
Do hai tạng Tâm và Tỳ suy yếu.
Triệu chứng: Da và niêm mạc trắng bệch, đánh trống ngực, làm việc chóng mệt, hoa mắt, chóng mặt, váng đầu, ù tai, có thể bị ngất. Phụ nữ thường kinh nguyệt không đều, ít hoặc không thấy kinh, lưỡi nhạt, rêu ít hoặc không rêu, mạch Hư, Nhược.
Điều trị:
Bổ huyết, dưỡng huyết, kiện Tỳ, dưỡng Tâm.
Một Số Bài Thuốc Tham Khảo
+ Kiện Tỳ Ôn Thận Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đảng sâm, Bạch truật, Cam thảo, Trần bì, Thục địa, Nhục quế, Bổ cốt chỉ, Lộc giác phiến, Hoàng kỳ, Đương quy, A giao, Ba kích. Sắc, uống chung với Hồng sâm phấn 3g, Lộc nhung phấn 0,3g.
TD: Kiện Tỳ, ôn Thận, ích khí, sinh huyết. Trị thiếu máu không tái tạo, bần huyết.
Đã trị hơn 100 ca, đa số đều khỏi.
+ Sâm Kỳ Tiên Bổ Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Nhân sâm 6g, Hoàng kỳ 24g, Bổ cốt chỉ 15g, Tiên hạc thảo 24g. Sắc uống.
TD: Ích khí, bổ Thận, lương huyết, chỉ huyết. Trị thiếu máu mạn tính.
+ Lương Huyết Giải Độc Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Linh dương giác 1g (uống chung với thuốc sắc), Đơn bì, Bản lam căn đều 10g, Sinh địa, Tây thảo đều 24g, Hoàng cầm 6g, Thương nhĩ tử 12g, Tân di 9g, Tam thất, Hổ phách đều 2g (uống chung với nước thuốc).
TD: Tư âm, thanh nhiệt, lương huyết, giải độc. Trị thiếu máu cấp.
Đã trị 11 ca, kết hớp với truyền máu, truyền dịch. Kết quả khỏi hẳn.
+ Ích Huyết Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ): Nhân sâm 6g (hoặc Đảng sâm 30g), Bạch truật, Quy bản giao (nấu chảy ra), A giao (nấu chảy), Trần bì, Mộc hương, Đương quy, Bạch thược, Cam thảo đều 9g, Nhục quế 3g, Long nhãn nhục 12g, Đại táo 10g. Sắc uống.
TD: Ôn bổ khí huyết, kiện Tỳ ích Thận. Trị thiếu máu (Tỳ Thận hao tổn, khí huyết bất túc).
Uống bài này 3-5 tháng, đa số đều có kết quả tốt.
+ Bát Trân Thang hợp Tam Giao Thang gia giảm (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Tây đảng sâm, Thục địa, Tiên hạc thảo, Kê huyết đằng đều 30g, Bạch truật (sao), Đương quy, Lộc giác giao (hòa tan ra uống), S A giao (hòa tan ra uống), Quy bản giao (hòa tan ra uống) đều 15g, Hoàng kỳ (chích) 60g, Chích cam thảo, Mộc hương đều 6g, Phụ phiến 15 ~ 30g, Tam thất 5g. Sắc uống.
TD: Bổ khí dưỡng huyết, phù dương ích âm. Trị khí huyết suy yếu, âm dương đều hư, thiếu máu.
Từ 1974 – 1980 đã trị 18 ca, trong đó có 5 ca dùng thuốc chưa được nửa tháng thì tự chuyển sang viện khác, 13 ca còn lại kiên trì uống hai bài thuốc trên thì 11 ca khỏi hẳn, 2 ca chuyển biến tốt.
+ Ích Thận Song Bổ Thang (Tứ Xuyên Trung Y 1987, 12): Hoàng kỳ 20g, Thái tử sâm, Đương quy, Thục địa, Câu kỷ tử, Ba kích, Tiên linh tỳ đều 15g, Bạch thược 20g, Bạch truật, Liên kiều, Sơn thù nhục đều 10g, Ngũ vị tử, Nhục quế, Hắc phụ tử đều 6g, A giao 3g (nấu chảy). Sắc uống.
TD: Tư Thận, tráng dương, ích huyết song bổ. Trị thiếu máu.
Đã trị 27 ca, khỏi hẳn 6, có tiến bộ 5, kết quả chậm 11, không hiệu quả 3, chết 2. Đạt tỉ lệ 81,5%.
Nếu bần huyết do Giun móc câu, châm có thể kết hợp với dùng thuốc xổ giun để làm giảm nhẹ các chứng da xanh, bụng đau, nôn mửa, biếng ăn. Châm tả huyệt Huyết hải, lưu kim 30 phút. Bổ Can du, Tỳ du, Vị du, trung quản, Chương môn, Túc tam lý, lưu kim 5 phút, ngày một lần trong 4 ngày liền, sau đó cứ một tuần hoặc hai tuần trị 1-2 lần, mỗi đợt 12 lần.
Bệnh Án Trị Thiếu Máu Không Tái Tạo
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Hoạn X, nữ 35 tuổi, nhân viên y tế. Năm 1975, người bệnh bị đau bụng tiêu chảy, uống Chloromycin rồi bị thiếu máu. Sau đó nhập viện được chẩn đoán là thiếu máu không tái tạo, điều trị kéo dài mà kết quả không tốt. Sắc mặt trắng bệch, đầu đau, đầu váng, mắt mờ, tai ù, tim đập mạnh, thở ngắn, mệt mỏi, lưng đau, gối mỏi, khó ngủ, hay mơ, hay quên, sợ lạnh, buổi chiều hơi sốt, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng táo, họng khô, đại tiện có khi bị lỏng, nước tiểu vàng, chân hơi phù, da chân và tay có điểm ứ huyết, chất lưỡi nhạt, rêu trắng bẩn, mạch Huyền, Tế, Sác không lực. Cho uống bài Bát Trân Thang hợp Tam Giao Thang gia giảm (Tây đảng sâm, Thục địa, Tiên hạc thảo, Kê huyết đằng đều 30g, Bạch truật (sao), Đương quy, Lộc giác giao (hòa tan ra uống), S A giao (hòa tan ra uống), Quy bản giao (hòa tan ra uống) đều 15g, Hoàng kỳ (chích) 60g, Chích cam thảo, Mộc hương đều 6g, Phụ phiến 15 ~ 30g, Tam thất 5g. Sắc uống). Vì thiếu A giao nên không dùng, cho thêm Hà thủ ô 30g, Táo nhân sao 30g. Uống 5 thang thì các chứng đều tốt lên. Ngưng f truyền máu. Dau đó liên tục uống bài thuốc trên gia giảm 3 tháng. Các vị gia giảm gồm có Tiên linh tỳ, Tiên mao, Ba kích, Thỏ ty tử, Xuyên tục đoạn, Đạm đại văn, Kỷ tử, Hoàng tinh (chế), Quế viên nhục, Sa nhân. Sau khi uống thuốc, các chứng đều hết. Xét nghiệm máu đều bình thường, tinh thần phấn chấn, trở lại công tác như thường.
HUYẾT LỰU
Đại Cương
Huyết lựu là do mạch máu vùng da bị dãn tạo thành. Y học hiện đại gọi là U mạch máu (Huyết quản lựu).
Triệu Chứng
Huyết lựu có thể mọc ở bất kỳ nơi nào trong cơ thể nhưng phần lớn ở chân tay và mặt. Bệnh sinh ở một nơi hoặc ở nhiều nơi, có thể ở trẻ lúc mới sanh hoặc sau sanh một thời gian và to dần theo tuổi đến một mức độ thì dừng lại.
Có 2 loại thường gặp:
+ U Lành Mao Quản: do mạch mao quản phần nông ở da dãn mạch sinh ra ngoằn ngoèo, phát sinh ở thân mình và gặp nhiều ở mặt, màu đỏ tối, bằng hoặc hơi nổi lên ở da, to nhỏ không đều, nhỏ chỉ vài ly hoặc vài centimet, to có thể chiếm gần nửa mặt.
+ U Lành Tĩnh Mạch: cũng gọi u mạch san hô, do tĩnh mạch nông giãn tạo thành, mầu đỏ tối hoặc xanh tím, mềm, ấn vào thì nén lại và tự phình ra, không thấy mạch đập. Có thể kèm theo chảy máu, loét hoặc nhiễm khuẩn.
Chẩn Đoán
Chẩn đoán chủ yếu căn cứ:
. U Mao Mạch : bên ngoài màu đỏ xẩm, mặt bằng hoặc hơi lồi lên, to nhỏ không đều, thường mọc ở mình, lúc sinh đã có.
. U Mạch San Hô: thường gặp đơn độc, hình dạng ngoằn ngoèo, bờ không rõ, mầu da đỏ sẫm, tối hoặc tím nhạt, gồ lên, mềm, ấn vào khối u thu lại.
. Kim chọc hút có máu.
Chẩn Đoán Phân Biệt
+ Với loại bớt máu: bớt máu to nhỏ không đều, dùng ngón tay đè lên màu sắc và hình dạng khối u không thay đổi rõ.
Điều Trị
Uống thuốc: dùng cho loại bệnh không điều trị tại chỗ được có hiệu quả nhất định.
Biện chứng chia 2 thể:
+ Tâm Hoả Thịnh: hình lựu bán cầu hơi nổi lên bờ rõ, mềm, sắc đỏ, ấn ngón tay mất mầu, buông ngón tay màu sắc trở lại như cũ.
Điều trị: lương huyết, hoạt huyết, chế hoả, tư âm. Dùng bài Cầm Liên Nhị Mẫu Hoàn (Y Tông Kim Giám): Hoàng cầm, Hoàng liên, Tri mẫu, Bối mẫu (bỏ tim), Đương quy (sao rượu), Bạch thược (sao rượu), Linh dương giáp, Sinh địa, Thục địa, Bồ hoàng, Địa cốt bì, Xuyên khung đều 30g, Sinh cam thảo 15g, tán bột mịn, sắc nước Trắc bá diệp và hồ làm hoàn. Mỗi lần uống 6 - 9g, uống với nước sắc Đăng tâm.
+ Khí Huyết Ứ Trệ: Sắc lựu đỏ tía hoặc đỏ xanh, thành mảng, hơi nổi lên hoặc hình hạch, cục nổi trên mặt da.
Điều trị: Hành khí, hoạt huyết, hoá ứ, thông lạc. Dùng bài Đào Hồng Tứ Vật Thang (Y Tông Kim Giám), Đương quy, Xích thược, Sinh địa, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa.
Tham Khảo
+ Sài Long Tiêu Lựu Thang: Sài hồ, Long đởm thảo đều 9g, Hạ khô thảo, Bản lam căn đều 15g, Chích miết giáp, Phượng vĩ thảo đều 24g, Địa cốt bì, Cường tàm, Thuyền thoái, Địa long đều 12g, Sinh khương 2 lát sắc uống (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn).
+ Tân Thông Huyết Lựu Phương: Xuyên khung, Xích thược đều 6g, Bạch chỉ, Sinh khương đều 9g, Đào nhân, Hồng hoa, Chỉ xác, Cát cánh, Sài hồ, Sinh địa đều 12g, Đương quy, Ngưu tất đều 18g, Đại táo 5 quả, Hành 3 củ, bột Xạ hương một ít (nuốt). Sắc uống 1 thang 3 ngày, uống xong nghỉ 1 ngày (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn).
+ Ba Băng Tiêu Lựu Phương: Ba đậu 2g, Băng phiến 5g, Chế thảo ô, Xuyên khung đều 10g, Sinh địa hoàng, Thanh mộc hương, Thổ miết trùng, Hồng hoa đều 15g, Uy linh tiên 30g, tất cả tán bột mịn, luyện với mật thành viên để dùng. Dùng một ít bột hoà với Bạch lạp và rượu trắng tỷ lệ 1: 2, trộn đắp vùng đau (đối với trẻ dễ dị ứng; dùng ít hoặc trộn dầu Đu đủ để bôi. Ngày thay 1 lần, thuốc khô có thể tẩm thêm dấm và rượu. Trong lúc dùng thuốc kiêng ăn chất tanh và sống lạnh (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn).
+ Ngũ Linh Chi Tiêu Lựu Phương: Sinh hoàng kỳ 45g, Quế chi, Can khương, Phòng phong, Ngũ linh chi, Tri mẫu đều 15g, Tam lăng, Nga truật, Trạch tả, Đương quy, Đơn bì đều 9g, Bạch linh 13g, Bạch truật sao 24g, Sinh khương 30g, Phụ phiến, Đào nhân, Chế thảo ô đều 12g, Đại táo 5 quả, sắc nước uống.
Bướu máu khó tiêu thêm Lệ chi hạch 15g, Trần bì 9g, Đậu khấu 6g. Chán ăn thêm Sơn tra sống, Mạch nha sống đều 15g (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn)
Phép Trị Ngoài: tuỳ theo tình hình bệnh mà chọn các phép sau:
- Nén: dùng gối bông hoặc mút ép lên huyết lựu, dùng băng dính cố định.
HUYẾT QUÁN ĐỒNG NHÂN
Đại cương
Là tình trạng mắt có nhiều tia máu hoặc mắt bị xuất huyết do chấn thương… Mắt thấy đỏ rực lên, khó chịu, mờ không rõ, ở mắt như thấy một lớp lụa mỏng.
Cũng còn gọi là Huyết Quán Đồng Thần.
Nguyên nhân
+ Do huyết nhiệt ở kinh Can tích lại lâu ngày, thấm vào con ngươi, ngư tụ lại ở phía trước con ngươi gây nên. Liên hệ đến Can và Thận.
+ Do tổn thương bên ngoài làm cho mắt bị tổn thương, gây chảy máu, máu thấm vào đồng tử mắt gây nên.
Điều trị:
. Nếu do chấn thương bên ngoài gây nên thì trị nhanh hơn.
. Nếu do Can kinh huyết nhiệt thì trị tương đối khó khỏi hơn.
+ Hành huyết, chỉ thống. Dùng bài Một Dược Tán (62).
+ Tả nhiệt, trừ ứ, dùng bài Đại Hoàng Đương Quy Tán (27).
+ Dưỡng âm, bình Can, thanh nhiệt, trừ ứ huyết (do Can nhiệt bức huyết bốc lên), dùng bài Trụy Huyết Minh Mục Ẩm (131).
+ Hóa ứ, chỉ thống, dùng bài Sinh Bồ Hoàng Thang (84) thêm Đan sâm, Uất kim, Tam thất, Tam lăng, Nga truật để hành khí, phá huyết, tiêu ứ.
Thuốc đắp ngoài:
. Sinh địa giã nát, đắp để tán ứ huyết.
. Phù dung (rễ) giã nát, đắp.
Tra Cứu Bài Thuốc
27- ĐẠI HOÀNG ĐƯƠNG QUY TÁN (Ngân Hải Tinh Vi):Chi tử 20, Cúc hoa 12g, Đại hoàng 40g, Đương quy 8g, Hoàng cầm 40g, Hồng hoa 40g, Một tặc 20g, Tô mộc 8g. Tán bột. Mỗi lần dùng 20g, sắc uống sau bữa ăn.
TD: Trị xuất huyết tiền phòng, huyết thấm vào con ngươi mắt (huyết quán đồng nhân), chấn thương gây xuất huyết ở mắt, mắt sưng đỏ đau do phong nhiệt.
62- MỘT DƯỢC TÁN (Ngân Hải Tinh Vi): Đại hoàng, Một dược, Phác tiêu. Lượng bằng nhau, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước trà, sau bữa ăn.
TD: Hành huyết, chỉ thống. Trị mắt có tia máu, xuất huyết tiền phòng (Huyết quán đồng nhân).
84- SINH BỒ HOÀNG THANG gia giảm (Trung Y Nhãn Khoa Lục Kinh Trị Yếu): Sinh bồ hoàng, Hạn liên thảo, Đan sâm, Đơn bì, Kinh giới (đốt thành tro), Uất kim, Sinh địa, Xuyên khung. Sắc uống.
TD: Thủy tinh dịch có vật chơi vơi, túi lệ tắc (viêm lệ đạo).
131- TRỤY HUYẾT MINH MỤC ẨM (Thẩm Thị Dao Hàm): Tế tân, Nhân sâm đều 4g, Xích thược, Xuyên khung, Ngưu tất,, Thạch quyết minh, Sinh địa, Sơn dược, tri mẫu, Bạch tật lê, Quy vĩ, Phòng phong đều 3,2g, Ngũ vị tử 10
hột. Sắc uống.
TD: Trị huyết thấm vào con ngươi (huyết quán đồng nhân).
HƯ LAO
A. Đại Cương
Hư lao cũng gọi là hư tổn, là trạng thái bệnh lý của cơ thể suy nhược ở nhiều bệnh mạn tính, cũng có thể là một chứng bệnh độc lập như suy nhược cơ thể, chứng suy mòn, lão suy.
Thiên ‘Thông Bình Hư Thực Luận’ (Tố Vấn 28) viết: “Tinh khí đoạt thì tinh bị hư”.
Thiên ‘Điều Kinh Luận’ (Tố Vấn 62) viết: “Dương hư thì ngoại hàn, âm hư thì nội nhiệt”.
Nan thứ 14 (Nan Kinh) nêu lên triệu chứng và phương pháp điều trị chứng Ngũ tổn, cho thấy mối quan hệ hư tổn của ngũ tạng.
Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ có nguyên một chương bàn riêng về chứng hư lao, trong đó bàn đến mạch, chú trọng chứng dương hư, đề ra các phương pháp trị như ôn bổ, phù chính khu tà, trừ ứ sinh tân… là những nguyên tắc cơ bản để trị hư lao.
Đời nhà Kim, Nguyên điều trị bệnh hư lao thường dùng phương pháp cam ôn bổ Tỳ, tư âm nhuận Phế, thanh Tâm giáng hỏa và bổ dưỡng Can Thận.
Đời nhà Minh, sách ‘Lý Hư Nguyên Giám’ nêu lên lý luận về chứng lý hư và chú trọng đến ba tạng Phế, Tỳ và Thận.
Đời nhà Thanh, sách ‘Bất Cư Tập’ ngoài các yếu tố nếu trên, còn thêm trường hợp ngoại cảm gây nên hư tổn.
B. Nguyên Nhân
Hư lao là một trạng thái bệnh lý khá phức tạp do nhiều nguyên nhân gây nên sự giảm sút chức năng các tạng phủ sinh ra âm dương khí huyết đều hư nhưng do có sự thiên thắng nên biểu hiện lâm sàng có những thể bệnh khác nhau. Những nguyên nhân chủ yếu có:
+ Tiên thiên bất túc: Yếu tố bẩm sinh, suy yếu, dị dạng từ trong bụng mẹ, dễ mắc cảm nhiễm ngoại tà, tạng Phế bị bệnh trước, từ ngoại cảm dần dần vào nội thương, lúc đầu có thể bị ở một tạng dần dần lan sang các tạng khác, chuyển thành hư lao. Ngoài ra cơ thể suy yếu dễ nhiễm một số bệnh do di truyền: ngũ trì, ngũ nhuyễn từ tuổi nhỏ phát triển thành hư lao. Cũng có khi do sự phát dục kém, khi trưởng thành, thể lực yếu, ốm đau liên miên hoặc sau khi bệnh thể lực yếu, lâu hồi phục, dương khí và âm huyết ngày càng suy dần dần dẫn đến tổn thương ngũ tạng.
b- Mắc bệnh ngoại cảm hay nội thương lâu ngày không được chữa trị tốt dẫn đến chức năng tạng phủ suy yếu mà thành hư lao.
c- Sinh hoạt, làm việc quá sức, ăn uống thiếu điều độ, uống rượu, hút thuốc, nghiện ngập, gây thương tổn tỳ phế, không hóa sinh được tinh chất, không sinh được khí huyết. Nguồn sinh ra khí huyết không đủ, không điều dưỡng được tạng phủ bên trong, không làm đầy phần doanh vệ bên ngoài, lại kèm bị ngoại cảm hoặc phòng dục tùy tiện gây tổn thương Can Thận... đều dẫn đến hư lao.
d- Thất tình (tư tưởng tình cảm thiếu điều hòa) như tức giận nhiều hại can, vui mừng quá độ hại tâm, lo nghĩ nhiều hại Tỳ, buồn phiền hại Phế, kinh sợ hại Thận , đều là nguyên nhân về tâm thần làm âm dương mất cân bằng, khí huyết hư tổn, tinh hư lao.
C- Biện Chứng Luận Trị
Biện chứng về hư lao, các y gia y học cổ truyền thường dựa trên bốn yếu tố cơ bản là Âm, Dương, Khí và Huyết trong cơ thể để chia làm 4 loại: Khí hư, huyết hư, dương hư, âm hư kết hợp với ngũ tạng, trên lâm sàng thường gặp các thể bệnh sau đây:
I- Khí Hư
a- Phế khí hư: Mệt, hơi thở ngắn, lúc nóng lúc lạnh, dễ ra mồ hôi, dễ mắc bệnh ngoại cảm, ho khan, sắc da trắng nhạt, lưỡi nhạt, mạch Nhuyễn, Nhược.
- Biện chứng: Hơi thở ngắn, ra mồ hôi là dấu hiệu Phế khí yếu, bì phu không kín vững. Lúc nóng lúc lạnh: vinh vệ không điều hòa. Dễ cảm, ho khan, thở yếu: dấu hiệu Phế khí hư không bảo vệ được phần biểu. Sắc mặt nhạt, lưỡi nhạt, mạch Nhược: dấu hiệu hư nhược.
Điều trị: Ích khí cố biểu.Dùng bài Bổ Phế Thang gia giảm.
(Trong bài dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ bổ dưỡng phế khí; Tang bạch bì, 'I'ử uyển để nhuận Phế, chỉ khái; Thục địa, Ngũ vị tử ích Thận, nạp khí).
Ra mồ hôi nhiều thêm bài Mẫu Lệ Tán để ích khí, cố biểu, liễm hãn. Hoặc thêm Mẫu lệ, Tang diệp để hỗ trợ cho Hoàng kỳ liễm hãn. Khí âm hư: thêm Miết giáp, A giao để liễm bổ Phế âm.
2. Tỳ Khí Hư: Mệt mỏi, ăn ít, tiêu lỏng, sắc mặt vàng nhạt, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Nhược.
Điều trị: Ích khí kiện Tỳ. Dùng bài Sâm Linh Bạch Truâït Tán gia giảm.
(Trong bài dùng Nhân sâm, Bạch truật, Cam thảo để ích khí, kiện Tỳ, hòa trung; Sơn dược, Biển đậu, Liên nhục, Ý dĩ, Bạch linh để kiện Tỳ, trừ thấp, chỉ tả).
Do tỳ khí hạ hãm, tiêu chảy lâu ngày không khỏi hoặc ở phụ nữ khí hư bạch đớì kéo dài hoặc kèm theo sa trực tràng, sa tử cung: dùng bài ‘Bổ Trung Ích Khí Thang’ để bổ khí thăng đề.
Các chứng khí hư nói trên, tuy chủ yếu là do Phế và Tỳ nhưng thực ra 5 tạng đều có thể bị khí hư. Tâm Phế ở cùng vị trí thượng tiêu, nếu Phế khí hư, nặng hơn thì Tâm khí cũng hư (Biểu hiện hồi hộp, thở gấp, nhiều mồ hôi). Nếu Tỳ khí hư quá thì Thận khí cũng hư (biểu hiện dương hư, tiêu chảy không ngừng, chân tay lạnh, mạch Vi). Vì vậy, các chứng khí hư, thời kỳ đầu, nên coi trọng Phế và Tỳ, thời kỳ cuối liên hệ đến Tâm, Thận.
II- Hnyết Hư
+ Tâm huyết hư: Hồi hộp hay quên, mất ngủ, mộng nhiều, sắc mặt tái nhợt kém tươi nhuận, môi lưỡi nhợt, mạch Trầm Tế.
Điều trị: Dưỡng tâm, an thần. Dùng bài Qui Tỳ Thang gia giảm.
(Trong bài, Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Cam thảo để ích khí, kiện tỳ, bồ khí để sinh huyết; Đương qui, Long nhăn, Táo nhân, Viễn chí để dưỡng huyết an thần; Mộc hương, Sinh khương, Đại táo để lý khí hòa trung).
+ Can huyết hư:Váng đầu, hoa mắt, ù tai, sườn đau, bứt rứt, tính nóng nảy, phụ nữ kinh nguyệt không đều, sắc mặt tái sạm, môi lưỡi nhợt, mạch Huyền Tế.
Điều trị: Bổ dưỡng can huyết, hoạt huyết, hóa ứ. Dùng bài Tứ Vật Thang gia vị.
(Trong bài, Đương qui, Thục địa tư bổ âm huyết; Bạch thược dưỡng huyết, hòa can; Xuyên khung điều khí, hoạt huyết).
Chóng mặt, ù tai thêm Nữ trinh tử, Mẫu lệ, Long cốt để dưỡng âm, tiềm dương. Trong người bứt rứt khó ngủ thêm Táo nhân, Viễn chí, Thạch quyết minh để an thần. Bệnh gan đau vùng sườn phải thêm Uất kim, Sài hồ, Hương phụ để sơ can giải uất. Bệnh lâu ngày có triệu chứng huyết ứ như đau cố định, tê chân tay thêm Đào nhân, Hồng hoa, Đơn sâm để hoạt huyết, hóa ứ. Trường hợp khí huyết đều hư dùng "Bát Trân Thang" để song bổ khí huyết.
Tuy chỉ giới thiệu tâm huyết và can huyết hư là thường gặp trên lâm sàng vì 'Tâm chủ huyết’, ‘Can tàng huyết’ nên trực tiếp liên quan đến huyết nhưng đều có liên quan đến các tạng khác. Nếu Phế, Thận huyết hư thường thuộc về âm hư vì âm huyết đồng nguyên. Tỳ là nguồn gốc của sinh hóa khí huyết cho nên bổ huyết cũng phải chú ý kiện tỳ. Huyết hư có thể do nguồn sinh của nó bị bất túc hoặc do xuất huyết quá nhiều, vì vậy trong điều trị Tâm huyết hư và Can huyết hư đều dùng phương pháp bổ Tỳ, ích khí, sinh huyết như bài Qui Tỳ Thang (bao gồm cả huyết hư của tạng tỳ bên trong).
III- Dương Hư
1- Tỳ Dương Hư: Sợ lạnh, chân tay lạnh, mệt mỏi, lúc gặp lạnh dễ đau bụng, tiêu chảy, sắc mặt vàng sạm hoặc tái nhợt, lưỡi nhợt, bệu, rêu trắng, mạch Trì, Nhược hoặc Tế Nhược.
Điều trị: Ôn trung, kiện tỳ. Dùng bài Phụ Tử Lý Trung Thang gia giảm.
(Trong bài, Chế Phụ tử cay nóng trợ dương; Gừng nướng ôn trung tán hàn; Đảng sâm, Bạch truật, Chích thảo bổ khí, kiện tỳ).
Đau bụng tiêu chảy kéo dài, thêm Ích trí nhân, Nhục đậu khấu để ôn thận, chỉ tả. Ăn dễ nôn thêm Khương Bán hạ, Trần bì, Bào khương.
2. Thận Dương Hư: Sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng gối nhức mỏi, trời lạnh nhức nhiều, di tinh, liệt dương, tiểu nhiều, nước tiểu trong hoặc tiểu gấp khó cầm, sắc mặt tái nhợt, giọng nói yếu, có thể hơi ngắn, hụt hơi, thân lưỡi bệu, sắc nhợt, rêu trắng, mạch Trầm Trì.
Điều trị: Ôn bổ thận dương, dưỡng tinh huyết. Dùng bài Hữu Qui Hoàn gia giảm.
(Trong bài, Chế Phụ tử, Nhục quế ôn hổ thận dương, Thỏ ti tử, Lộc giác giao ôn thận (trị di tinh, liệt dương, tiểu nhiều), Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Đỗ trọng ôn thận tráng dương kiêm bổ thận tinh; Đương qui, Kỷ tử bổ huyết.
Thận tả bỏ Đương qui, Kỷ tử thêm Bổ cốt chỉ, Nhục đậu khấu, Kha tử nhục để ôn thận, chỉ tả. Khí hư nặng thêm Nhân sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ, Chích thảo.
Ngoài 2 thể bệnh dương hư trên đây, trên lâm sàng nội khoa thường gặp ngoài những triệu chứng dương hư có thêm triệu chứng chức năng của tâm như hồi hộp, khó thở, hay quên, đau ngực... nhưng hay kết hợp với thận dương hư, Phế dương hư hoặc kèm theo phế khí hư, ít khi biện chứng độc lập.
IV. Âm Hư
1- Phế Âm Hư: Ho khan, ho có máu, họng khô, miệng khô, có khi khàn giọng, người gầy, da nóng, hay sốt về chiều hay về đêm, mồ hôi trộm gò máù hồng, lưỡi đỏ, khô, ít rêu, mạch Tế Sác.
Điều trị: Dưỡng âm, thanh nhiệt, nhuận phế, chỉ khái. Dùng bài Sa Sâm Mạch Đông Thang gia giảm.
(Trong bài, Sa sâm, Mạch môn, Ngọc trúc tư dưỡng phế âm; Tang diệp, Thiên hoa phấn, Cam thảo thanh phế, sinh tân).
Sốt về chiều và đêm thêm Địa cốt bì, Ngân sài hồ, Miết giáp. Nhiều mồ hôi trộm: thêm Sinh hoàng kỳ, Mẫu lệ, Lá dâu, Cốc nha, Phù tiểu mạch. Ho ra máu thêm A giao, Trắc bá diệp (sao cháy), Hoa hòe...
2- Tâm Âm Hư: Hồi hộp, khó ngủ, hay quên, bứt rứt, ra mồ hôi trộm, miệng lở, lưỡi loét, gò má đỏ, sốt về chiều, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư âm, thanh nhiệt, dưỡng Tâm, an thần. Dùng bài Thiên Vương Bổ Tâm Đơn gia giảm.
(Trong bài, Sinh địa, Thiên môn, Mạch môn, Huyền sâm tư dưỡng tâm âm; Đơn sâm, Đương qui, Viễn chí, Táo nhân, Bá tử nhân, Phục thần dưỡng tâm an thần; Nhân sâm bổ tâm khí; Ngũ vị tử liễm tân dịch; Cát cánh dẫn thuốc đi lên).
Hỏa vượng bứt rứt, miệng lở loét: thêm Hoàng liên, Mộc thông, Trúc diệp. Sốt về chiều và đêm thêm Ngân Sài hồ, Địa cốt bì.
3. Tỳ Vị Âm Hư: Miệng khô, môi khô, chán ăn, thích uống nước mát, táo bón nặng, có thể nôn khan, mặt đỏ, lưỡi thon, khô, đỏ, có điểm loét hoặc hình địa đồ, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư dưỡng Tỳ Vị. Dùng bài Ích Vị Thang gia giảm.
(Trong bài, Sa sâm, Mạch môn, Sinh địa, Ngọc trúc tư dưỡng vị âm. Thêm đường phèn để dưỡng vị, hòa âm).
Táo bón uống với mật ong hoặc bột chuối chín. Miệng lở loét, thêm Thạch hộc, Cát căn để tư âm, thanh nhiệt.
4. Can Âm Hư: Đau đầu, chóng mặt, ù tai, mắt khô, sợ ánh sáng, người nóng nảy, dễ giận hoặc gân cơ giật, lưỡi kho,â đỏ tía, mạch Huyền Tế Sác.
Điều trị: Tư âm, tiềm dương. dùng bài Bổ Can Thang gia giảm.
(Trong bài, bài Tứ Vật (Qui, Thục, Thược, Khung) để dưỡng huyết, hòa can; Táo nhân, Mộc qua, Mạch môn, Cam thảo sống tư dưỡng can âm).
Đau đầu, chóng mặt, ù tai hoặc gân cơ giật thêm Thạch quyết minh, Cúc hoa, Câu đằng để bình can, tiềm dương. Mắt khô, mắt mờ, sợ ánh sáng thêm Câu kỷ tử, Nữ trinh tử, Thạch quyết minh để dưỡng can, minh mục. Tính tình nóng nay, táo bón, tiểu vàng thêm Long đởm thảo, Hoàng cầm, Chi tử để thanh can, tả hỏa.
5. Thận Âm Hư: đau lưng, mỏi gối, chân yếu, má đỏ, ù tai, dễ rụng tóc, lưỡi đỏ thẫm, khô bóng, mạch Trầm Tế.
Điều trị: Tư bổ thận âm. Dùng bài Đại Bổ Âm Hoàn gia giảm.
(Trong bài, Quy bản, Thục địa, Tri mẫu, Hoàng bá tư âm thanh nhiệt).
Di tinh hoặc tiểu nhiều thêm Long cốt, Mẫu lệ, Kim anh tư, Liên tu để cố thận sáp tinh.
Tuy các tạng phủ mắc bệnh đều có chứng âm hư nhưng trên lâm sàng can thận âm hư thường gặp nhất.
Tóm lại, trong bài chúng ta chia chứng hư lao ra 4 hội chứng bệnh lý với nhiều thể bệnh khác nhau nhưng trên lâm sàng, bệnh lý thường kết hợp nên trong lúc biện chứng cần chú ý. Thông thường chứng hư lao, thời gian mắc bệnh còn ngắn chủ yếu biểu hiện là khí hư. huyết hư hoặc khí huyết đều hư. Nếu thời gian mắc bệnh kéo dài hoặc bệnh nặng phần lớn tổn thương đến âm dương hoặc âm hư, dương hư hoặc âm dương đều hư.Và giữa âm dương và khí huyết có quan hệ mật thiết nên bệnh lý thường cũng lẫn lộn
HYSTERIA
Là một bệnh rối loạn thần kinh chức năng do sang chấn tinh thần, hoạt động tinh thần cao cấp quá khẩn trương và do loại hình thần kinh cá thể thuộc loiạ yếu và thiên về đời sống bản năng gây ra.
Xuất hiện đầu tiên trong sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ dưới tên ‘Tạng Táo’.
Thường gặp ở thanh niên, trung niên, nhất là nữ.
Bệnh Hysteria thuộc phạm vi chứng Uất của Đông y.
Còn gọi là Ý Bệnh, Tạng táo, Cà Hước.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng, phức tạp với nhiều triệu chứng ở những vị trí, tạng phủ khác nhau của cơ thể.
Đây là một loại cơn thần kinh, tự nhiên hoặc do tức giận hoặc thấy người thì lên cơn giật, nghe tiếng ồn ào hoặc do một nguyên nhân không ra gì thì phát cơn, tay chân co giật, nói nhảm nhí, một lát sau đỡ dần và trở lại bình thường.
Theo Đông y bệnh này đa số do ăn uống hoặc suy nghĩ làm cho Tỳ bị tổn thương, Tỳ mất chức năng kiện vận nên thổ khí bị ngưng, mộc khí bị uất. Hoặc do uất ức, giận dữ làm cho Can bị tổn thương, tràn sang làm tổn thương Tỳ (Can khí phạm Vị), mộc uất, thổ ngưng làm cho Can Tỳ mất điều hoà, Can bị uất, Tỳ bị hư gây nên bệnh. Hoặc đờm hoả bên trong nhiều quá, bốc lên làm hại tâm thần. Hoặc đờm trọc theo Can khí bốc lên che lấp thanh khiếu gây nên bệnh.
Dùng châm hoặc bấm huyệt kết hợp với tâm lý liệu pháp (kiểu ám thị gián tiếp), thường đạt được kết quả tốt.
Nên ăn thức ăn có nhiều chất calcium (vôi), tránh các thức ăn có potassium (nhất là trứng).
Đông y biện chứng chữa trị bệnh này chủ yếu là phải bồi bổ nguyên khí cho đầy đủ thì tự nhiên thần kinh sẽ mạnh theo.
Trên lâm sàng thường gặp một loại điển hình Hysteria do sang chấn tinh thần, Đông y gọi là Tâm Can Khí Uất.
Chứng: Tinh thần uất ức, hay xúc động, ngực sườn đầy tức, bụng đầy, ợ hơi, kém ăn, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền.
Điều trị: Sơ Can, lý khí, giải uất, an thần.
+ Tiêu Dao Tán: Bạch truật Bạch linh, Bạch thược, Hoàng cầm, Sài hồ đều 12g, Uất kim, Chỉ xác đều 8g, Trần bì, Cam thảo đều 6g, Sinh khương 4g.
Nấc thêm Lệ chi 6g, Thị đế 6g. Khó nuốt thêm Tô ngạnh 12g, Bán hạ (chế) 8g, Hậu phác 6g. Thống kinh thêm Ích mẫu 20g, Tam lăng 8g, Hồng hoa 8g... (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
Một Số Bài Thuốc Tham Khảo
THANH TÂM KHOÁT ĐỜM HOÀN (Trung Quốc Y Dược Học Báo 1988: 2): Bạch truật 10g, Phục linh 15g, Cát hồng, Bán hạ (chế), Hương phụ, Chỉ xác, Hồi hương, Ô dược, Uất kim, Cửu tiết xương bồ, Sơn chi tử, Đởm tinh (chế) đều 10g, Long cốt (sống) 15g, Liên tử tâm 5g, Hổ phách, Cam thảo đều 3g. Sắc uống ngày một thang, chia làm ba lần uống.
TD: Sơ Can, kiện Tỳ, khoát đờm, giáng nghịch, thanh tâm, ninh thần,
Đã trị 51 ca, khỏi 43, có hiệu quả ít 6, có chuyển biến tốt 2, đạt tỉ lệ 100%.
HOÀ CAN THANG (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đương quy 12g, Bạch thược, Bạch truật, Sài hồ, Phục linh đều 9g, Bạc hà 3g (cho vào sau), Sinh khương 3 lát, Cam thảo (chích) 6g, Đảng sâm 9g, Tô ngạnh, Hương phụ đều 9g, Đại táo 4 trái. Sắc uống.
TD: Điều hoà khí huyết, sơ Can, lý khí, bổ tả cùng dùng.
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:200.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh