Snack's 1967
KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
CAMNHÃN
Đại cương
Loại bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ bị cam tích.
Còn gọi là Cam Mắt, Nhãn Cam (Thánh Huệ Phương, Q. 87), Cam Tích Thượng Mục.
Nguyên nhân
+ Do cam nhiệt, Can hỏa bốc lên gây nên.
+ Do cam tích, tiêu chảy, nóng về chiều lâu ngày làm cho tinh khí bị suy hao, không nuôi dưỡng được mắt gây nên.
Triệu chứng
Lúc đầu mắt đỏ, nhặm, ngứa, dính, chói, đau nhức, chảy nước mắt. Về sau mắt mờ dần, tròng đen có màng trắng hoặc màng xanh, khát, uống nhiều mà vẫn gầy ốm, tiêu chảy, bụng trướng, mũi khô.
+ Do Can Tỳ suy yếu
. Chứng: Ăn ít, bụng trướng, mặt vàng, cơ thể gầy ốm, quáng gà, tròng trắng mắt khô.
Điều trị: Kiện Tỳ, tiêu thủng, dưỡng Can, làm sáng mắt.
Dùng bài Bát Trân Thang (02b) thêm Sơn tra, Trần bì, Dạ minh sa, để kiện Tỳ, ích khí, tiêu tích, dưỡng Can, bổ huyết, làm sáng mắt.
+ Do Tỳ hư, Can nhiệt
Chứng: Bụng đầy, tiêu lỏng, sốt về chiều, trong người bứt rứt không yên, tròng đen có màng hoặc mắt bị lở loét.
Điều trị:
Kiện Tỳ, thanh Can, sát trùng, tiêu cam. Dùng bài Phì Nhi Hoàn (74).
(Nhân sâm, Bạch truật, Phục linh, Cam thảo, Sơn tra, Thần khúc, Mạch nha để kiện Tỳ, tiêu tích; Hoàng liên, Hồ hoàng liên thanh thấp nhiệt; Lô hội, Sử quân tử thanh nhiệt, sát trùng, tiêu cam).
+ Sơ Can, tả nhiệt, dùng bài Tả Can Thang (89b).
+ Thanh nhiệt, thoái ế, dùng bài Thanh Nhiệt Thoái Ế Thang (107b).
+ Dùng bài Vu Di Hoàn (139) để trị Cam tích đồng thời kết hợp với bài Bổ Can Hoàn I (07) để bổ ích Can Tỳ.
+ Thảo quyết minh sấy khô, Gan gà (hoặc heo), thêm rượu vào chưng chín, ăn (Bản Thảo Cương Mục).
+ Gan dê hoặc gan heo, đem phơi sương một đêm, chấm với Dạ minh sa, ăn (Trung Y Học Khái Luận).
Thuốc nhỏ mắt:
. Sữa người hợp với Nhất Cửu Đơn (68b) nhỏ vào mắt.
Tra Cứu Bài Thuốc
02b- BÁT TRÂN THANG (Hòa Tễ Cục Phương): Bạch thược, Bạch truật, Cam thảo, Đương quy, Nhân sâm, Phục linh, Thục địa, Xuyên khung. Sắc uống.
TD: Bồi bổ khí huyết.
74- PHÌ NHI HOÀN (Y Tông Kim Giám): Nhân sâm, Bạch truật, Phục linh, Hồ hoàng liên, Hoàng liên, Sử quân tử, Thần khúc, Mạch nha (sao), Sơn tra, Lô hội, Chích thảo. Tán bột, trộn mật làm hoàn, mỗi hoàn 4g. Ngày uống 2 – 3 viên.
TD: Trị cam nhãn, cam mắt.
89b- TẢ CAN THANG (Chứng Trị Chuẩn Thằng): Chích thảo 20g, Địa cốt bì 80g, Tang bạch bì 40g. Mỗi lần dùng 12g, sắc uống.
TD: Trị Tỳ và Can có nhiệt, nước mắt chảy ra nóng.
107b- THANH NHIỆT THOÁI Ế THANG (Y Tông Kim Giám, Q. 52): Chi tử (sao sơ), Hồ hoàng liên, Mộc tặc, Xích thược, Sinh địa, Linh dương giác, Long đởm thảo, Ngân sài hồ, Thuyền thoái, Cam thảo, Cúc hoa, Tật lê. Thêm Đăng tâm thảo, sắc uống. Trị cam nhiệt bốc lên gây nên chứng cam nhãn, mi mắt sưng, ngứa, lở loét, mắt có màng, chảy nước mắt.
139- VU DI HOÀN (Ngân Hải Tinh Vi): Vu di, Hoàng liên, Thần khúc, Mạch nha. Lượng bằng nhau, tán thành bột. Trộn với nước hồ làm thành viên, to bằng hạt đậu lớn. Mỗi lần uống 10 – 15 viên với nước cơm.
TD: Trị cam nhãn.
07- BỔ CAN HOÀN I (Thẩm Thị Tôn Sinh Thư): Bạch thược, Đương quy, Khương hoạt, Phòng phong, Sinh địa, Xuyên khung. Lượng bằng nhau. Tán bột, trộn mật làm thành viên 6g. mỗi lần uống 2 hoàn. Ngày 2 lần.
TD:Trị mắt có màng mây (Mã não ế).
68b- NHẤT CỬU ĐƠN (Nhãn Khoa Cẩm nang): Âm đơn 0,8g, Dương đơn 3,6g, Bằng sa (đốt khô) 0,36g, Đởm phàn (sống) 0,2g. Tán nhuyễn, trộn đều. Cho vào bình sành cất, để dành dùng dần. Khi dùng, lấy một ít chấm vào khóe mắt.
TD: Trị các chứng mắt đau, mắt có màng, xuất huyết ở mắt, mộng thịt, mắt loét…
CẬN THỊ
(Myopia - Myopie)
Đại cương
Cận: gần Thị: thấy. Cận thị là chỉ nhìn thấy ở gần.
Theo nguyên ngữ: Myopia thì My: mở một nửa, Opia: con mắt. Nghĩa là hé mở một nửa, mở lim dim. Trên thực tế người cận thị khi muốn nhìn xa thường phải nheo mắt, lấy mi hoặc bàn tay che bớt con ngươi để nhìn xa được rõ hơn.
Theo quang học, Cận thị là 1 tật chiết xạ làm cho mắt chỉ thấy rõ vật gần trước mắt.
Mắt cận thị chỉ có thể nhìn rõ khi sự vật được đưa lại gần mắt để hình ảnh được hội tụ tại võng mạc. Điểm xa nhất mà mắt nhận thấy được rõ gọi là viễn điểm. Đối với cận thị, viễn điểm ở 2 mét cách mắt độ cận thị sẽ là 1 Diôp (Diôp, đơn vị để đo sức nhìn của mắt), ở 0,5m độ cận là 2 Diôp…
Phân loại:
Theo các sách chuyên sâu về mắt có 2 loại cận thị:
1) Cận thị nhẹ :
Dưới 6 diôp: đáy mắt không có tổn thương ở mạch võng mạc. Độ cận tăng dần từ tuổi học đường đến trưởng thành, tuổi thành niên rồi cố định. Đeo kính phân kỳ thì thị lực trở lại bình thường. Nếu cận thị nhẹ diễn biến bình thường nơi người có sức khỏe bình thường, độ cận sẽ không thay đổi cho đến lúc lớn tuổi, lúc đó lão thị sẽ làm giảm số Diôp, khi đọc sách có thể hạ số kính hoặc bỏ kính.
2) Cận thị nặng (Cận thị bệnh):
Trên 7 Diôp, dù đeo kính thị lực vẫn không đạt được mức bình thường, mắt trông lớn có vẻ như hơi lồi, đáy mắt có nhiều suy biến nơi mạch mạc và võng mạc.
Nguyên nhân: Có nhiều nguyên nhân gây ra cận thị.
- Do Thủy tinh thể quá phồng hoặc do nhãn cầu dài quá làm cho hình ảnh hiện lên trước võng mô. Bình thường đường kính trước sau của nhãn cầu vào khoảng 20mm, nơi người Cận thị đường kính đó gia tăng làm cho mắt dài quá khổ, hình ảnh thu vào võng mạc bị khuếch tán gây ra mờ, không rõ.
- Do không biết điều tiết mắt, bắt mắt làm việc (đọc sách, xem truyền hình…) quá lâu gây mỏi cơ mắt, đọc sách ở nơi không đủ ánh sáng.
- Theo YHCT do Thận và Can suy, Can khai khiếu ở mắt, Can lại tàng huyết, nếu huyết không đủ đem lên nuôi dưỡng phần trên làm mắt sẽ suy kém. Thận sinh Can, nếu Thận Thủy suy kém không nuôi dưỡng được Can mộc làm cho Can không khai khiếu được ở mắt, mắt sẽ kém. Thường là do dương khí hư kém bên trong.
Điều trị
+ Kiện Tỳ, ích Thận, cố tinh, làm sáng mắt. Dùng bài
Bổ Thận Từ Thạch Hoàn (10).
Tang Phiêu Tiêu Phương (95).
(Tang phiêu tiêu vào kinh Can, Thận để ích âm, sinh tinh, thu sáp; Phúc bồn tử vào kinh Can, Thận để ích Thận, cố tinh, bổ Can, làm sáng mắt; Thỏ ty tử tính không ôn cũng không táo, để bình bổ âm dương, bổ Thận, dưỡng Can; Đảng sâm bổ trung ích khí, kiện Tỳ, trợ vận; Bạch truật bổ Tỳ, táo thấp; Tiêu lục khúc tiêu thực, hòa Vị; Sơn dược ích Phế Thận, bồi bổ cho hậu thiên. Các vị thuốc hợp lại có tác dụng kiện Tỳ, cố Thận, sáp tinh, bổ tiên thiên bất túc. Tinh huyết được nuôi dưỡng, thị lực sẽ tăng lên, nhìn xa được, có tác dụng tăng cường thị lực, nâng cao thị lực).
+ Tư bổ Can Thận, hoạt huyết, thông khiếu, dùng bài Ngũ Tử Cận Thị Hoàn (68).
10- BỔ THẬN TỪ THẠCH HOÀN (Trung Y Tạp Chí (10) 1958): Cam cúc hoa, Hà từ thạch, Nhục thung dung, Thạch quyết minh, Thỏ ty tử đều 40g. Tán bột.
Dùng 10 con chim sẻ trống, bỏ lông, mỏ và chân đi, để ruột và bụng lại, lấy Thanh diêm 80g, đổ 2 lít nước nấu cho đến khi thịt chim sẻ nát bấy, gần cạn hết nước là được. Lấy xác chim ra, giã nát như cao, trộn với thuốc bột làm thành viên, mỗi viên 10g. Mỗi ngày uống 2 viên với rượu nóng, lúc bụng đói.
TD: Trị cận thị.
68- NGŨ TỬ CẬN THỊ HOÀN (Quảng Tây Trung Y Dược) (4) 1986): Tang thầm tử 15g, Câu kỷ tử 18g, Hoàng kỳ 15g, Viễn chí, Hồng hoa, Thạch xương bồ, Phúc bồn tử đều 12g, Thanh tương tử 18g, Ngũ vị tử 21g, Thăng ma 9g, Băng phiến 0,15g. Tán bột, trộn mật làm viên, mỗi viên 9g. ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên.
TD: Tư bổ Can Thận, hoạt huyết, thông khiếu, thăng dương, ích khí. Trị cận thị.
(Trị 34 ca, toàn bộ có hiệu quả, thị lực tăng 0,2 – 1,2).
95- TANG PHIÊU TIÊU PHƯƠNG (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Tang phiêu tiêu 9g, Phúc bồn tử, Thỏ ty tử đều 15g, Đảng sâm, Bạch truật đều 9g, Sơn dược 15g, Lục khúc (tiêu) 16g. Sắc uống.
TD: Kiện Tỳ, ích Thận, cố tinh. Trị cận thị.
CẦU THẬN VIÊM MẠN
Đại Cương
Thuộc phạm vi chứng Phù Thũng của YHCT (thể Âm Thủy).
Nguyên Nhân
Thường do cảm nhiễm phong tà, thủy thấp và thấp nhiệt (thể dương thủng), rồi lâu ngày vì mệt nhọc, cảm nhiễm, ăn uống không cẩn thận, bệnh không khỏi, thường tái phát, làm giảm sút công năng vận hóa thủy thấp của Tỳ và công năng khí hóa thủy thấp của Thận khiến cho nước ứ đọng lại sinh ra phù lâu ngày.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp 3 thể sau:
1- Tỳ Dương Hư: Phù ít, không rõ ràng, phù ở mi mắt, sắc mặt xanh trắng, thở gấp, tay chân mỏi mệt, ăn kém, bụng thường hay bị đầy, phân nhão, tiểu ít, chân tay lạnh, chất lưỡi bệu, có vết răng, mạch Hoãn.
Ôn bổ Tỳ dương, lợi niệu.
+ Dùng bài Thực Tỳ Ẩm: Phụ tử (chế), Hậu phác, Mộc hương, Thảo quả, Mộc qua, Đại phúc bì đều 8g, Phục linh 16g, Bạch truật 12g, Can khương 4g (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
Hoặc bài Vị Linh Thang gia giảm: Quế chi, Hậu phác 6g, Ý dĩ 16g, Thương truật, Phục linh bì, Trạch tả đều 12g, Xa tiền 20g, Xuyên tiêu 4g. Sắc uống (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
+ Dùng: Ý dĩ 30g, Hoài sơn, Biển đậu, Mã đề, Xích tiểu đậu đều 20g, Đại hồi, Can khương đều 8g, Đăng tâm, Nhục quế đều 4g (Y Học Cổ Truyền Dân Tộc).
+ Tuyên Phế Lợi Thủy Ẩm (Thiên Gia Diệu Phương q Hạ): Cát cánh, Hạnh nhân, Mộc thông đều 5g, Ý dĩ nhân, Phục linh, Trư linh, Trạch tả, Đại phúc bì, Ngũ gia bì đều 10g, Trần bì 5g, Thông bạch 1 khúc.
TD: Tuyên Phế, sơ biểu, lý Tỳ, lợi thủy. Trị Thận viêm mạn (Phế khí không tuyên, Tỳ không vận hóa được, nước ứ lại gây phù).
Châm Cứu: Cứu Tỳ du, Vị du, Túc tam lý, Tam tiêu du, Thủy phân (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
2- Tỳ Thận Dương Hư: Phù không rõ, ít kéo dài (nhất là ở 2 mắt cá chân), bụng trướng, nước tiểu ít, sắc mặt trắng, lưng mỏi, lanh, chân tay lạnh, sợ lạnh, tiêu chảy, mạch Trầm Tế.
Điều trị: Ôn Thận và Tỳ dương.
+ Dùng bài Chân Vũ Thang gia vị: Bạch truật, Bạch thược, Bạch linh, Trạch tả, Xa tiền đều 12g, Phụ tử (chế), Trư linh đều 8g, Can khương 6g, Nhục quế 4g (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
+ Đậu đỏ, Cỏ xước, Đậu đen đều 20g, Thổ phục linh, Tỳ giải, Hoài sơn đều 16g, Mã đề, Tiểu hồi đều 12g, Đại hồi 10g, Nhục quế, Can khương đều 6g. Sắc với 600ml nước, còn 200ml. Ngày uống 2 lần (Y Học Cổ Truyền Dân Tộc).
+ Thổ phục linh, Tỳ giải, Hoài sơn đều 16g, Đậu đỏ, Đậu đen đều 20g Đại hồi 10g, Nhục quế 8g, Tiểu hồi, Mã đề đều 12g, Can khương 6g. Sắc uống (Y Học Cổ Truyền Dân Tộc).
+ Thanh Hóa Ích Thận Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Hoàng kỳ, Ba kích đều 30g, Bạch mao căn, Tiêu bạch truật, Sơn dược đều 20g, Lộc giác giao (hoặc Lộc giác sương 30g), Sơn thù nhục, Tỳ giải đều 15g,
Mộc thông, Nhục quế đều 10g, Sa nhân 9g. Sắc uống. Uống 5 ngày, nghỉ 2 ngày lại tiếp tục uống. 3 tháng là một liệu trình.
TD: Ôn Thận, kiện Tỳ, phân thanh giáng trọc.
Trị 40 ca đều tiêu hết phù, hết albumin trong nước tiểu.
+ Ích Thận Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Sinh địa, Bạch truật đều 15g, Bạch mao căn 50g, Phục linh 20g, Đơn bì 10g, Mạch môn 15g, Tây thảo 20g, Tiểu kế, Đại kế đều 20g, Hoạt thạch, Trạch tả đều 20g, Cam thảo 10g.
TD: Ích Thận, trừ thấp, lương huyết, chỉ huyết. Trị thận viêm mạn.
Khí hư thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm; Thận âm bất túc thêm Nữ trinh tử; Thận dương hư thêm Thỏ ty tử, Bổ cốt chỉ.
+ Ích Khí Tiết Độc Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Hoàng kỳ (sống) 30g, Đảng sâm 15-30g, Bán biên liên, Bồ công anh, Thạch vi đều 30g, Hổ trượng 15-30g, Mẫu lệ (sống) 30g (nấu trước), Đan sâm 15-30g, Nhục quế 0,3g (tán nhuyễn, cho vào thuốc uống).
TD: Ích khí, trợ vận, tiết độc, lợi thấp. Trị Tỳ Thận đều suy, khí huyết bất túc, thấp độc uẩn kết bên trong gây nên thủy thủng.
+ Tiêu Thủy Thuyên Dũ Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Thiên hùng (nướng), Mẫu quế, Ma hoàng, Tri mẫu đều 10g, Cam thảo (nướng) 5g, Sinh khương 19g, Đại táo 7 trái. Sắc Ma hoàng với 3 chén nước trước cho sôi, vớt bỏ bọt, cho thuốc vào sắc còn 8 phân.Chia làm 3 lần uống.
TD: Kiện Tỳ, ích Thận, lợi trọc, giáng trọc. Trị Thận viêm, đường tiểu viêm, thủy thủng.
(Ghi chú: Có thể dùng Phụ tử thay Thiên hùng).
Sau khi đã hết phù, tình trạng sức khỏe người bệnh tiến bộ, bệnh ổn định, để duy trì kết quả, nên tiếp tục cho uống thêm thuốc bổ Tỳ, bổ Thận, hợp với các loại thuốc lợi thấp như:
. Kiện Tỳ lợi thấp: Sâm Linh bạch Truật Tán.
. Ôn Thận lợi thấp: Tế Sinh Thận Khí Hoàn.
3- Âm Hư Hỏa Vượng (Thường gặp trong thể Viêm Cầu Thận mạn có huyết áp cao): Phù không nhiều hoặc đã hết phù, nhức đầu, chóng mặt, hồi hộp, khát, môi đỏ, họng khô, lưỡi đỏ, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Bình Can, tư âm, lợi thủy.
+ Dùng bài Kỷ Cúc Địa Hoàng Thang gia giảm: Thục địa, Hoài sơn, Câu kỷ tử, Ngưu tất đều 12g, Sơn thù, Trạch tả, Đơn bì, Phục lính đều 8g, Cúc hoa 10g, Xa tiền tử 16g. Sắc uống (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
+ Tang ký sinh, Câu đằng, Xa tiền đều 16g, Cúc hoa, sa sâm, Ngưu tất, Đan sâm, Quy bản, Trạch tả đều 12g. Sắc uống (Y Học Cổ Truyền Dân Tộc).
4- Viêm Cầu Thận Mạn Tính Có Urê Máu Cao: Muốn nôn, nôn mửa, sắc mặt đen, tức ngực, bụng trướng, tiêu lỏng, tiểu ngắn, tiểu ít, chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng dầy, mạch Huyền Tế, Nhu Tế.
Nguyên nhân: Do công năng của Tỳ và Thận dương suy yếu nên âm trọc nghịch lên gây ra chứng Urê huyết cao, gọi là dương hư, âm nghịch.
Điều trị: Ôn dương, giáng nghịch.
+ Dùng bài: Phụ tử (chế), Đại hoàng 12-16g,, Bạch truật, Phục linh, Bán hạ (chế) đều 12g, Đảng sâm 20g, Đơn bì, Sinh khương đều 8g, Hậu phác 6g. Sắc uống (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
Nếu nôn nhiều, dùng bài Bán Hạ Tả Tâm Thang (Bán hạ (chế) 12g, Can khương 4g, Đảng sâm 16g, Cam thảo 4g, Hoàng liên 3g, Đại táo 12g).
CHÀM
(Thấp Chẩn – Eczema)
Đại cương
Là một bệnh ngoài da, tương đối phổ biến, điều trị dai dẳng do viêm lớp nông ở da cấp hoặc mạn tính, tiến triển từng đợt, hay tái phát và đa dạng về triệu chứng.
Nguyên Nhân
a- Thể trạng: Có tính chất gia đình và di truyền, xuất hiện trên một cơ địa có rối loạn nội tiết, thần kinh, chuyển hóa.
b- Kháng nguyên: Có thể là hóa chất, thảo mộc, vi sinh vật, tác nhân vật lý, gây mẫn cảm một cách từ từ.
c- Theo Đông y: do phong, nhiệt và thấp kết hợp, uẩn tích trong da thịt, kết hợp với ngoại phong mà ra.
Triệu Chứng
a- Thương tổn căn bản là mụn nước xếp thành từng mảng trên một dát đỏ. Có giới hạn hoặc không giới hạn rõ rệt.
b- Ngứa: Nhiều, ít tùy nhưng lúc nào cũng ngứa.
Tiến triển qua ba giai đoạn:
+ Cấp tính: đỏ, phù, chảy nước.
+ Bán cấp: hết phù, bớt đỏ, còn chảy nước ít.
+ Mãn tính: Vẩy dầy, khô, da dầy lên, ngứa nhiều. Càng gặp nóng thì mụn càng nhiều thêm. Ngứa gãi phá thì chảy ra nước vàng.
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Thể Cấp tính: Lúc đầu thấy da hơi đỏ, ngứa, sau một thời gian ngắn nổi cục, mụn nước, loét, chảy nước, đóng vẩy, bong vẩy và khỏi.
Thường thấy dưới hai dạng:
a) Thấp Nhiệt: Da hồng đỏ, ngứa, nóng rát, có mụn nước, loét, chảy nước vàng.
Điều trị:
Thanh nhiệt, hóa thấp.
+ Thanh Nhiệt Hóa Thấp Thang Gia Giảm (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu): Hoàng cầm, Hoàng bá, Bạch tiên bì, Phục linh bì, Khổ sâm đều 12g, Kim ngân hoa, Hoạt thạch, Sinh địa đều 20g, Đam trúc diệp 16g. Sắc uống.
+ Vị Linh Thang Gia giảm (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu): Hậu phác, Phục linh, Trư linh, Bạch tiên bì đều 12g, Nhân trần 20g, Trạch tả 16g, Trần bì 8g. Sắc uống.
+ Tiêu Phong Đạo Xích Thang (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu): Sinh địa, Xa tiền tử đều 16g, Ngưu bàng tử, Hoàng liên, Mộc thông, Khổ sâm, Hoàng bá 12g, Bạch tiên bì, Phục linh đều 8g, Bạc hà 4g. Sắc uống.
+ Thanh Nhiệt Thấm Thấp Thang (Hứa Lý Hòa Ngoại Khoa Y Án Y Thoại Tập): Sinh địa (tươi) 60g, Đạm trúc diệp 12g, Sơn chi (sống), Liên kiều, Xích thược đều 9g, Đông qua bì 12g, Ngũ gia bì, Phục linh bì, Xuyên tiêu bì đều 12g, Lô căn (bỏ đốt) 30g, Đăng tâm 2 khúc, Cúc hoa 9g, Bản lam căn 15g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, thấm thấp.
+ Ngân Thanh Tam Y Thang (Giang Tây trung Y Dược 1983, 6): Ngân hoa, Liên kiều, Đại thanh diệp, Thuyền y, Lục đậu y, Thổ phục linh, Bạch tiên bì, Cam thảo. Sắc uống.
Đã trị 40 ca, khỏi hoàn toàn 32, có chuyển biến 6, không kết quả 2. Tổng kết đạt 95%.
Châm Cứu: Cách chung: trừ phong dùng Hợp cốc, trừ thấp: Túc tam lý, Hoạt huyết dùng Huyết hải.
Tùy vị trí chàm ở cơ thể mà chọn huyệt cho phù hợp:
+ Vùng tay: Khúc trì, Hợp cốc.
+ Vùng chân: Tam âm giao, Dương lăng tuyền (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
Dùng châm và cứu (nhất là cứu sáp) ở các điểm quanh vùng bị đau và ở các huyệt gần đó có thể mau khỏi.
b) Phong Nhiệt: Da hơi đỏ, có mụn nước,phát ra toàn thân, ngứa gãi chảy nước, ít loét.
Điều trị: Sơ phong, thanh nhiệt, trừ thấp.
+ Tiêu Phong Tán (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu): Kinh giới, Phòng phong, Ngưu bàng tử, Khổ sâm, Mộc thông đều 12g, Sinh địa 16g, Tri mẫu 8g, Thuyền thoái 6g, Thạch cao 20g. Sắc uống.
+ Long Đởm Tả Can Thang gia giảm (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu): Long đởm thảo, Hoàng cầm, Chi tử, Mộc thông, Xa tiền tử, Sài hồ đều 8g, Sinh địa, Trạch tả đều 12g, Thuyền thoái 6g, Cam thảo 4g. Sắc uống.
+ Tiêu Phong Đạo Xích Thang (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu): Sinh địa, Xa tiền tử đều 16g, Ngưu bàng tử, Hoàng liên, Mộc thông, Khổ sâm, Hoàng bá 12g, Bạch tiên bì, Phục linh đều 8g, Bạc hà 4g thêm Thạch cao 40g, Tri mẫu 16g. Sắc uống.
2- Thể Mạn Tính: Da dày, khô, thô nhám, ngứa, nổi cục, có mụn nước, thường gặp ở vùng đầu mặt, cổ chân, cổ tay, khủy tay, đầu gối.
Điều trị: Khu phong, dưỡng huyết, nhuận táo.
+ Tứ Vật Tiêu Phong Ẩm gia giảm (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu): Thục địa, Sinh địa, Kinh giới đều 16g, Đương quy, Bạch thược, Thương truật, Phòng phong, Địa phu tử đều 12g, Khổ sâm, Thuyền thoái, Bạch tiên bì, Bạch tật lê đều 8g. Sắc uống.
+ Nhị Diệu Thang gia giảm (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu): Hoàng bá, Hy thiêm thảo, Thương nhĩ tử, Bạch tiên bì, Phù bình đều 12g, Thương truật, Phòng phong đều 8g. Sắc uống.
+ Thanh Nhiệt Hóa Thấp Thang (Hứa Lý Hòa Ngoại Khoa Y Án Y Thoại Tập): Hoàng liên 2g, Hoàng cầm 6g, Chi tử (sao)9g, Bạch tiên bì 6g, Địa phu tử 9g, Sinh địa 12g, Phục linh bì 12g, Khổ sâm 4,5g, Liên kiều 9g. Sắc uống chung với Ngọc Tuyền Tán 15g.
Thuốc Nam
+ Lá Thồm lồm tươi 5kg, cho vào 10 lít nước, đun cạn còn 2 lít, lọc và cô thành cao hoặc lấy lá tươi giã nát, thêm nước lạnh đun sôi, để ấm, lọc qua gạc thành một dung dịch đặc. Ngày bôi 2-3 lần. Kết quả tương đối cao.
Chú ý: Tránh chà xát làm bật máu, tróc da thêm (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Bèo cái, số lượng nhiều ít tùy vết thương to hoặc nhỏ, rửa sạch bằng nước 3-4 lần, thêm ít muối vào giã nát, đắp vết thương. Thường chỉ đắp 1-2 lần chỗ vết thương không chảy nước nữa và điều trị 7-10 ngày là khỏi hẳn (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Lá Trầu không tươi 2-3 lá, cắt thật nhỏ, cho vào 1 ly nhỏ. Dội nước sôi vào cho ngập lá. Đợi chừng 10-15 phút cho chất thuốc trong lá Trầu thấm ra. Dùng nước này rửa vết thương. Ngày làm 2-3 lần. Kết quả tốt (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Vỏ cây Dâm bụt 20g, cạo vỏ bên ngoài, thái nhỏ. Bồ kết 10 quả, bỏ hột. Gừng tươi 1 miếng chừng 6g, thái nhỏ. Cho vào 2 lít nước, sắc còn 200ml, lọc bỏ bã, rồi lại sắc cho cô đặc sệt lại, để nguội, cho vào chai để dùng dần (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Biến Chứng
. Chàm nhiễm khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết, viêm thận cấp.
. Chàm ở trẻ nhỏ suy nhược dễ bị tai biến nhiễm khuẩn, cơn sốc trụy tim mạch.
CHÀM BÌU
Là một loại bệnh ngứa ở bìu dái, hăm.
Triệu Chứng: Mọc mụn rất nhỏ, rất ngứa, gãi thì trầy da, đau rát, chảy nhựa dính, tanh hôi, lâu ngày không khỏi thì da bìu dái dầy cứng và đau.
Nguyên nhân:
Thấp nhiệt làm tổn thương da gây nên.
Điều trị:
Tiêu độc, Lợi thấp.
+ Lá Lốt 10 phần, giã nát, trộn với 2 phần Diêm sinh cho đều, phơi khô, cuốn thành điếu thuốc. Đốt cháy, đặt dưới bìu dái mà xông. Ngày xông một lần.
Cẩn thận: Khi xông, nên dùng khăn hoặc vải che phía dưới bụng cho khói độc khỏi xông lên mặt (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Hạt Máu chó, nhiều ít tuỳ dùng, rang dòn, tán bột, tán bột, hoà với dầu Mè, bôi. Ngày bôi 2 lần (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
CHÀM ỐNG TAI
Thường gặp nơi trẻ nhỏ.
Nguyên nhân:
+ Theo YHHĐ: Do nguyên nhân toàn thân, cơ địa ứng, tạng khớp. Hoặc nguyên nhân tại chỗ do kích thích mạn tính như chảy mủ tai kéo dài.
+ Theo YHCT:
Thiên ‘Chí Chân Yếu Đại Luận’ (Tố Vấn) ghi: Các chứng thấp đều thuộc về Tỳ”. Tỳ có chức năng kiện vận thủy cốc tinh vi và thủy dịch. nếu Tỳ Vị hư yếu, mất chức năng kiện vận, đờm thấp sẽ sinh ra ở bên trong, bên ngoài phong tà xâm nhập vào, phong hợp với thấp đưa lên tai, đờm thấp đình trệ ở tai, làm cho tai sưng, chảy nước.
Triệu chứng: Lúc đầu thấy nóng bỏng ở tai, rồi có những mụn nước, da ống tai sưng lên, ống tai hẹp lai và có nhiều vết xuất tiết lẫn vẩy da. Lau sạch ống tai sẽ
thấy màng nhĩ đỏ chứng tỏ rằng màng nhĩ bị viêm do tổn thương từ ống tai lan đến mà không phải là viêm tai giữa.
Điều trị:
Khứ đờm, tán kết, sơ phong, thông lạc.
Dùng bài Nhị Trần Thang (36) gia giảm
(Trần bì lý khí, táo thấp, thuận khí, tiêu đờm; Bán hạ hóa đờm, táo thấp; Phục linh kiện Tỳ, táo thấp; Cam thảo điều hòa các vị thuốc. Thêm Trúc nhự, Chỉ thực Đởm tinh để tăng cường tác dụng khứ đờm; Thêm Cương tằm, Địa long, Sài hồ, Ty qua lạc để sơ phong, thông lạc; Thêm Đương quy, Đan sâm, Uất kim để hoạt huyết (Trung Y Cương Mục).
Hợp với Ngũ Vị Tiêu Độc Ẩm (29).
+ Trần bì 10g, Bán hạ 10g, Phục linh 15g, Cam thảo 10g, Cương tằm 10g, Đan sâm 15g, Trạch tả 15g, Miêu trảo thảo 10g, Bồ công anh 10g, Ý dĩ nhân 12g, Sài hồ 10g, Hạ khô thảo 10g. Sắc uống (Trung Y Cương Mục).
CHÀM VÀNH TAI
Thường gặp nơi trẻ nhỏ. Chàm vành tai bao giờ cũng lan vào ống tai và có thể lan rộng xuống má và cả cổ. Nếu điều trị đúng, bệnh có thể khỏi nhanh và hết hẳn. Tuy nhiên, nếu cứ để như vậy hoặc không điều trị đúng mức, bệnh sẽ kéo dài và dễ gây biến chứng.
Nguyên nhân:
+ Theo YHHĐ: Do nguyên nhân toàn thân, cơ địa ứng, tạng khớp. Hoặc nguyên nhân tại chỗ do kích thích mạn tính như chảy mủ tai kéo dài.
+ Theo YHCT:
Thiên ‘Chí Chân Yếu Đại Luận’ (Tố Vấn 74) ghi: Các chứng thấp đều thuộc về Tỳ”. Tỳ có chức năng kiện vận thủy cốc tinh vi và thủy dịch. Nếu Tỳ Vị hư yếu, mất chức năng kiện vận, đờm thấp sẽ sinh ra ở bên trong, bên ngoài phong tà xâm nhập vào, phong hợp với thấp đưa lên tai, đờm thấp đình trệ ở tai, làm cho tai sưng, chảy nước.
Triệu chứng: Chứng là ngứa khó chịu, đau không rõ. Gờ luân tai hoặc dái tai sưng đỏ sau đó xuất hiện những mụn nước rồi chảy nước vàng, nước đục, hình thành vẩy vàng, khi mất đi, để lại những khe nứt ở rãnh luân tai, nếp sau tai hoặc ở dái tai.
Điều trị:
Khứ đờm, tán kết, sơ phong, thông lạc.
Dùng bài Nhị Trần Thang (36) gia giảm
(Trần bì lý khí, táo thấp, thuận khí, tiêu đờm; Bán hạ hóa đờm, táo thấp; Phục linh kiện Tỳ, táo thấp; Cam thảo điều hòa các vị thuốc. Thêm Trúc nhự, Chỉ thực Đởm tinh để tăng cường tác dụng khứ đờm; Thêm Cương tằm, Địa long, Sài hồ, Ty qua lạc để sơ phong, thông lạc; Thêm Đương quy, Đan sâm, Uất kim để hoạt huyết (Trung Y Cương Mục).
Hợp với Ngũ Vị Tiêu Độc Ẩm.(29).
Ngoại Khoa:
+ Dùng Ngải cứu cuốn thành điếu, cứu để ôn kinh, khứ thấp, thông lạc (Trung Y Cương Mục).
CHẮP LẸO
Đại cương
Lẹo là một áp xe của tuyến Zeiss ở ngay chân lông mi, viêm mủ tuyến bã ở bờ mi hoặc trong chiều dầy của mi phát bệnh cấp, thích tái phát.
Chắp là tuyến sụn mi bị viêm nhiễm.
YHCT: Gọi là Thâu Châm, Du Thâu Châm, Thổ Âm, Thổ Dương, Nhãn Đơn, Châm Nhãn, Mạch Lạp Thủng.
Lẹo tương đối dễ khỏi hơn Chắp.
Triệu chứng
+ Lẹo: Mi mắt mọc lên những mụt dính vào mi mắt trên hoặc dưới, sưng nóng đỏ, đau, tiến triển nhanh, có khi sưng ít, có khi sưng nhiều, to cả mắt và ứ phù màng tiết hợp, nhẹ từ 3 – 5 ngày sau lẹo làm mủ rồi vỡ, dập mủ thì có thể khỏi. Thường hay tái phát hết mi này sang mi khác. Đây là trường hợp viêm cấp.
+ Chắp: Như mụn bọc, cứng, nhỏ, u tròn, nằm sâu trong sụn mi, không sưng đỏ, ít đau khi sờ nắn, khi lật mi ra thấy màu tím đỏ hoặc trắng (màu mủ) nằm ở trong ăn lấn vào sụn mi và lan rộng. Đây là trường hợp viêm bán cấp.
Nguyên nhân
- Theo YHHĐ:
+ Lẹo: Viêm, áp xe mủõ tuyến Zeiss.
+ Chắp: Tắc hạch Mêbomius.
-Theo YHCT: Do nhiệt độc lẫn thức ăn cay nóng quá ở Tỳ Vị bốc lên gây bệnh, vì theo nhãn chẩn mi mắt thuộc về Tỳ.
Điều trị:
Thanh nhiệt, tiêu độc.
Tra Cứu Các Bài Thuốc
Huyền Địa Hoàng Cúc Thang (39), Long Đởm Cầm Liên Thang (51), Mạch Thoái Tán 56), Thanh Giải Tán (104), Tiêu Thủng Tán Kết Thang (124), Tiêu Thủng Thang (125).
Thuốc nhỏ mắt: Long Não Hoàng Liên Cao (54).
39- HUYỀN ĐỊA HOÀNG CÚC THANG (Hồ Nam Trung Y Tạp Chí (1) 1987): Huyền sâm, Sinh địa đều 20g, Cúc hoa, Hoàng cầm, Thiên hoa phấn, Ngưu tất đều 12g, Chỉ xác, Đơn bì, Đại hoàng đều 9g, Cam thảo 6g, Tần bì 30g, Thuyền thoái 5g. Trừ Đại hoàng, các vị thuốc đem ngâm nước 15 phút, sau đó đun cho sôi rồi mới cho Đại hoàng vào. Mỗi ngày uống một thang, chia làm 3 lần uống trong ngày.
TD: Tư âm, tả hỏa, thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, khứ phong, lý khí, tiêu thủng. Trị chắp, lẹo mắt.
51- LONG ĐỞM CẦM LIÊN THANG (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Long đởm thảo, Hoàng cầm, đều 6g Hoàng liên 3g, Chỉ xác 3 – 4g, Cam thảo (sống) 3g. Sắc uống còn bã, để cho nguội, đắp vào mắt.
TD: Thanh nhiệt, giải độc. Trị lẹo mắt.
(Trị 272 ca, khỏi 170. Có 11 ca tái phát, còn lại hoàn toàn khỏi. Đạt 93,53%).
56- MẠCH THOÁI TÁN (Nhãn Khoa Lâm Chứng Lục): Long đởm thảo, Đại hoàng (sống), Hoàng bá, Kim ngân hoa, Cam thảo, Hoàng cầm, Tri mẫu. Lượng bằng nhau. Tán nhuyễn. Thêm Địa du phấn 20%, trộn đều. Lấy nước lạnh trộn bột thuốc, đắp vào chỗ lẹo, khoảng 7 – 8 giờ thay một lần thuốc.
TD: Tiêu nhiệt, tả hỏa, tiêu thủng, chỉ thống. Trị lẹo mắt vỡ mủ.
104- THANH GIẢI TÁN (Thiên Gia Diệu Phương, Q. Hạ): Toàn yết 4g, Đại hoàng 2g, Song hoa 12g, Cam thảo 1,2g. Tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1g.
TD: Thanh nhiệt, giải độc. Trị mắt lẹo.
124- TIÊU THỦNG TÁN KẾT THANG (Quảng Tây Trung Y Dược (4), 1986): Hạ khô thảo, Phục linh đều 15g, Bán hạ, Khô hồng, Hải tảo đều 12g, Hương phụ, Triết bối mẫu đều 10g. Sắc uống.
TD: Hóa đờm, tán kết, thanh nhiệt, tiêu thủng. Trị lẹo mắt.
(Trị 15 ca, khỏi 9, đỡ 4, không khỏi 2. Đạt kết quả 86,7%).
125- TIÊU THỦNG THANG (Nhãn Khoa Thực Nghiệm): Kim ngân hoa, Bồ công anh đều 15g, Thiên hoa phấn, Hoàng cầm, Xích thược, Kinh giới, Phòng phong đều 9g, Cam thảo 3g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, giải độc, tán phong, hành huyết. Trị chắp, lẹo mắt.
Thuốc nhỏ mắt:
54- LONG NÃO HOÀNG LIÊN CAO (Chứng Trị Chuẩn Thằng): Hoàng liên 320g, Long não 4g. thái nhỏ Hoàng liên ra, cho 600ml nước vào trong bình sành, bỏ Hoàng liên vào rồi đun nhỏ lửa, còn lại 300ml. Lọc bỏ bã, chưng cách t cho thành cao chừng 100ml. Khi dùng, hòa 4g Long não vào, nhỏ vào mắt.
CHẢY NƯỚC MẮT
Đại cương
Chảy nước mắt trong trường hợp này là mỗi khi gặp gió thì nước mắt chảy ra, vì vậy cho nên có tên là Mục Phong Lệ Xuất, Nghênh Phong Xuất Lệ. Nặng hơn thì lúc nào nước mắt cũng chảy ra.
Cách chung có thể chia làm hai loại: Loại Hàn và Nhiệt.
Loại Hàn gồm chứng ra gió thì chảy nước mắt và bệnh tại tuyến lệ hoặc do tuyến lệ bị tắc gây nên bệnh, tương đương thể Tắc Lệ Đạo của YHHĐ.
Loại Nhiệt: thuộc loại Bạo Phong Khách Nhiệt, Thiên Hành Xích Nhãn (Viêm Kết mạc), Tụ Tinh Chướng (Loét Giác mạc).
Nguyên nhân
. Do Phong. Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ ghi: “Do phong tà làm tổn thương Can, Can khí bất túc thì nước mắt chảy ra”.
. Do Can Thận âm hư, tinh huyết suy hao gây nên.
Đa số do Can Thận đều suy, tinh huyết suy hao Can không ước thúc được dịch và phong tà bên ngoài khiến cho nước mắt chảy ra.
Do Phong: Theo YHCT, dựa vào hàn nhiệt, có thể phân làm hai loại:
a- Nghênh Phong Lãnh Lệ: Cứ gặp gió lạnh (nghênh phong) thì nước mắt cứ chảy ra, nhiều ít tùy cơ thể.
b- Nghênh Phong Nhiệt Lệ: Sách ‘Nhãn Khoa Tinh Luận, Q. Thượng’ viết: “Dù gặp gió hoặc không gặp gió vẫn chảy nước mắt nhiều, do Can, Đởm, Thận thủy, tân dịch bất túc, chỗ khiếu của mắt bị hư không giữ lại được nên phong tà làm cho vước mắt chảy ra vậy”.
Do Can Thận Đều Hư: Mắt không đỏ, không sưng, nước mắt chảy ra nhiều, mắt mờ hoặc ngứa, gặp gió thì chảy nhiều hơn, kèm đầu đau, tai ù, lưng đau, chân mỏi, mạch Tế Nhược.
Điều trị:
Bổ ích Can Thận. Dùng bài Cúc Tinh Hoàn (21) Gia Giảm.
(Ba kích, Câu kỷ, Nhục thung dung bổ Can Thận, chỉ lãnh lệ; Ngũ vị tử vị chua để thu liễm, chỉ lệ; Cúc hoa dưỡng Can, làm sáng mắt, sơ phong, chỉ lệ).
Nếu do hàn nhiều: thêm Xuyên khung để ôn Can, chỉ lệ.
Mắt ngứa: thêm Thích tật lê, Phòng phong để sơ phong, chỉ dưỡng, hỗ trợ tác dụng chỉ lệ.
Phần Biểu hư yếu: thêm Hoàng kỳ, Bạch truật, Phòng phong để ích khí, cố biểu.
Long Đởm Mông Hoa Thang (52), Minh Mục Lưu Khí Thang II (59), Minh Mục Tế Tân Thang (60), Ninh Huyết Thang (73), Sinh Bồ Hoàng Thang (84) gia giảm, Tam Nhân Thang gia giảm (94), Thanh Nhiệt Tuyên Phế Thang (108), Thông Khiếu Thang (115), Tư Âm Chỉ Lệ Thang (136).
CHẢY NƯỚC MẮT DO CAN THẬN HƯ HÀN
(Trích trong ‘ Cuộc Đời Và Kinh Nghiệm Của Người Thợ Già Trị Bệnh’ của Lê Đức Thiếp Việt Nam).
Ông Vũ Bá H, 50 tuổi, hai tròng trắng tinh, không đỏ, không sưng nhức gì cả, cứ chảy nước mắt sống (mắt, không nóng), ròng ròng cả ngày, mỗi ngày phải dùng 5 -7 khăn nhỏ để thấm ướt đẫm, nhiều khi nước mắt còn chảy xuống giấy tờ trên bàn làm việc, bệnh đã ba tháng. Mạch hai bộ xích Trầm và không lực, mạch tả quan Huyền và Trì. Đã được khám theo YHHĐ và được kết luận phải mổ, nhưng mổ vẫn chưa chắc đã khỏi hẳn. Vì sợ mổ nên tìm thuốc YHCT uống.
Dựa vào mạch, tôi chẩn đoán là Can Thận hư hàn, cho dùng bài Lý Âm Tiễn (Xuyên quy 20g, Thục địa 40g, Hắc khương 8g, Cam thảo 4g, Phụ tử 8g), thêm Ngũ vị tử 12 hạt (1g), Ngưu tất 4g, Xa tiền tử 6g). Uống 3 thang, bệnh bớt 7/10, uống thêm 3 thang nữa, khỏi hẳn.
Tra Cứu Bài Thuốc
21- CÚC TINH HOÀN Gia Giảm (Thẩm Thị Dao Hàm): Cúc hoa, Ba kích, Nhục thung dung,Câu kỷ tử, Ngũ vị tử. Lượng bằng nhau. Tán bột, trộn với mật làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30 viên.
TD: Trị túi lệ viêm tắc, chảy nước mắt sống.
52- LONG ĐỞM MÔNG HOA THANG (Thiên Gia Diệu Phương, Q. Hạ): Long đởm thảo, Mật mông hoa, Đương quy đều 6 – 15g, Hoàng liên 3 – 12g, Thảo quyết minh 9 – 12g, Câu kỷ tử 9 – 15g, Cúc hoa 9 – 18g. Sắc uống.
TD: Thanh Can, tả hỏa. Trị túi lệ viêm mạn.
59- MINH MỤC LƯU KHÍ THANG II (Tạp Bệnh Nguyên Lưu Tê Chúc): Cam thảo, Chi tử, Cúc hoa, Đại hoàng, Hoàng cầm, Huyền sâm, Kinh giới, Mộc tặc, Ngưu bàng tử, Tật lê, Tế tân, Thảo quyết minh, Thương truật, Xuyên khung. Lượng bằng nhau. Sắc uống.
TD: Lợi khí, làm sáng mắt. Trị mắt mờ, nhìn không rõ, chảy nước mắt sống, mắt nhức không mở ra được.
60- MINH MỤC TẾ TÂN THANG (Thẩm Thị Dao Hàm, Q. 5): Cảo bản 2g, Đào nhân 11 hạt, Hoa tiêu 10 hạt, Hồng hoa 0,8g, Khương hoạt 2,4g, Kinh giới 2,4g, Ma hoàng 3,2g, Mạn kinh tử 2,4g, Phòng phong 2,4g, Phục linh 2g, Quy thân 2g, Sinh địa 2,4g, Tế tân 0,8g, Xuyên khung 1,6g. Sắc uống.
TD: Trị mắt sưng đau, chảy nước mắt, sợ nhiệt.
73- NINH HUYẾT THANG (Ngũ Quan Khoa Học): Hạn liên thảo, Sinh địa, A giao, Bạch thược, Chi tử (tro), Trắc bá diệp, Bạch mao căn; Tiên hạc thảo, Bạch cập, Bạch liễm. Sắc uống
TD: Trị thủy tinh dịch có vật chơi vơi, túi lệ viêm tắc.
84- SINH BỒ HOÀNG THANG gia giảm (Trung Y Nhãn Khoa Lục Kinh Trị Yếu): Sinh bồ hoàng, Hạn liên thảo, Đan sâm, Đơn bì, Kinh giới (đốt thành tro), Uất kim, Sinh địa, Xuyên khung. Sắc uống.
TD: Thủy tinh dịch có vật chơi vơi, túi lệ tắc (viêm lệ đạo).
94- TAM NHÂN THANG GIA GIẢM (Ôn Bệnh Điều Biện): Ý dĩ nhân, Hạnh nhân, Hoạt thạch, Khấu nhân, Thông thảo, Hậu phác, Bán hạ (chế), Trúc diệp. Sắc uống.
TD: Trị thủy tinh dịch có vật chơi vơi, túi lệ viêm tắc.
108- THANH NHIỆT TUYÊN PHẾ THANG (Tứ Xuyên Trung Y Dược (11) 1990): Ma hoàng (nướng), Hạnh nhân, Cát cánh, Cúc hoa, Mật mông hoa đều 3g, Thạch cao (sống) 9g, Tạo giác thích, Bạch chỉ đều 6g, Mộc tặc 4g, Chích thảo 2g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, tuyên Phế, bài nùng, giải độc. Trị túi lệ viêm, lệ đạo tắc.
115- THÔNG KHIẾU THANG (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Ngân hoa, Liên kiều, Bồ công anh, Sinh địa, Thiên hoa phấn đều 20g, Hoàng cầm, Bạch chỉ đều 12g, Cát cánh, Phòng phong đều 10g, Đan sâm 15g, Cam thảo 6g, Thông thảo, Nga bất thực thảo đều 3g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, hoạt huyết, khứ phong, thông khiếu. Trị túi lệ viêm mạn tính.
136- TƯ ÂM CHỈ LỆ THANG (Trung Y Nhãn Khoa Lâm Sàng Thực Tiễn): Thục địa 15g, Sơn dược, Câu kỷ tử, Nữ trinh tử đều 12g, Địa cốt bì, Ích trí nhân, Cúc hoa, Tang diệp 9g, Hoàng cầm 6g, Ngũ vị tử 3g. Sắc uống.
TD: Tư âm, ích Thận, nạp khí, dưỡng Can. Trị chảy nước mắt khi ra gió.
CHIẾN CHẤN
Còn gọi là Chiến Chấn, Chấn Điệu.
Chỉ tình trạng đầu hoặc tay lắc, rung. Nhẹ thì đầu hoặc tay hơi rung, còn có thể tự lo liệu được các công việc sinh hoạt thường ngày. Bệnh nặng, đầu và tay rung mạnh, hai tay rung liên tục hoặc kèm cứng cổ, tay chân bị co rút. Bệnh phát triển chậm nhưng dần dần nặng hơn.
Thường gặp nơi người lớn tuổi, nam nhiều hơn nữ.
Sách Nội Kinh không có tên bệnh Chiến Lật nhưng có mô tả loại gần giống. Thiên ‘Chí Chân Yếu Đại Luận’ (Tố Vấn) viết: “Chư phong trạo huyễn giai thuộc ư Can”, chứng ‘Trạo’ ở đây có ý nghĩa gần giống với chứng run trên. Thiên ‘Mạch Yếu Tinh Vi Luận’ (Tố Vấn) viết: “Cốt là phủ của tuỷ, nếu không bình thường sẽ gây nên chứng Chấn Điệu”. Thiên ‘Ngũ Thường Chính Đại Luận’ có nhắc đến kỳ bệnh (bệnh lạ) là chứng ‘Dao động’ (lắc qua lại), chứng ‘Điệu Huyễn Điên Bệnh’ và ‘Điệu Chấn Cổ Lật’. Các thầy thuốc sau này mới đề cập đến rõ hơn. Sách ‘Chứng Trị Chuẩn Thằng – Tạp Bệnh’ viết: “Chứng chiến (run) là dao (lắc), chấn là động. Gân mạch co lại mà không cầm nắm được, đó là tượng của phong… Cũng có thể thấy đầu lắc mà tay chân không run… tay chân động mà đầu không động. Đó là mộc khí thái quá mà kèm hoả hoá ra”. Sách ‘Y Học Cương Mục – Chiến Chấn’ viết: “Chiến là lắc, chấn là động. Phong hoả tương thừa, là tượng của động và lắc… Sách ‘Nội Kinh’ viết “Chư phong trạo huyễn, giai thuộc ư Can”, Trạo là chỉ chiến chấn vậy”.
Nguyên Nhân
+ Phong Dương Nội Động: Thường do Thận suy lâu ngày, phòng dục quá sức, uống rượu nhiều hoặc ngộ độc thuốc khiến cho Thận khí bị bất túc, thận tinh suy hao, tinh khí suy giảm, hư dương nội động, não tuỷ không được nuôi dưỡng, thần cơ không đều, huyết mạch không thông, tâm thần bị xáo trộn gây nên. Cũng có thể do thận thuỷ bất túc thì can mộc không được nuôi dưỡng, hoặc do tức giận làm cho Can bị tổn thương, khí không thông, dương khí uất ở bên trong hoá thành nhiệt, sinh ra phong gây nên bệnh.
+ Tuỷ Hải Bất Túc: Bệnh lâu ngày làm cho thận suy, tinh thiếu hoặc do thất tình gây xáo trộn. Khi ưu tư quá thì làm tổn thương thần. Tinh sinh khí, khí sinh thần, thần bị tổn thương thì tinh bị tổn, khí bị hao, não tuỷ bất túc, thần không được nuôi dưỡng, gân mạch, cơ thể bị xáo trộn gây nên bệnh.
+ Khí Huyết Đều Hư: Tỳ là nguồn của khí, nếu Tỳ bị tổn thương thì trung khí sẽ bất túc, trung tiêu mất chức năng vận hoá, không sinh ra được tinh huyết, cho nên khí bị hư, huyết bị thiếu. Âm suy thì dương mạnh lên, dồn vào Can, Can dương tích độc hoặc tâm khí suy thiếu, tâm hoả không thông, âm khí bốc lên thần cơ bị tổn thương, gân mạch, cơ thể bị rối loạn gây nên bệnh.
+ Đờm Nhiệt Động Phong: Đa số do Phế, Tỳ và Thận hư yếu. Phế hư thì thuỷ dịch không thông điều được, đờm ẩm sẽ sinh ra bên trong. Tỳ hư thì trung châu không kiện vận được, tân dịch bị đình kết lại thành đờm, ẩm, thấp. Thận khí bất túc không ức chế được thuỷ, đờm thấp sẽ theo đó mà sinh ra. Đờm tích lâu ngày hoá thành nhiệt, nhiệt cực sinh phong, đờm nhiệt làm cho phong động khiến cho khí mất quân bình, công lên não gây nên bệnh.
Tóm lại bệnh có liên hệ đến não và các tạng Can, Tỳ, Thận. Do Thận hư, tinh suy, gân mạch không được nuôi dưỡng; Tỳ hư, chức năng sinh hoá bị giảm, não tuỷ không được phấn chấn. Hoặc do đờm nhiệt động phong khiến cho tâm thần rối loạn, gân mạch bị rỗng… gây nên bệnh.
Triệu Chứng
+ Phong Dương Nội Động: Chóng mặt, đầu căng, mặt đỏ, miệng lưỡi khô, dễ tức giận, lưng đau, chân yếu, đầu lắc, tay run, không thể tự làm được việc gì, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Tư âm, tiềm dương. Dùng bài Tư Sinh Thanh Dương Thang.
(Sinh địa, Thạch quyết minh (sống), tư âm, tiềm trấn, liễm dương làm quân; Từ thạch dẫn Phế khí xuống Thận để bổ Thận, ích tinh, liễm dương, trừ phiền, trấn nghịch; Thạch hộc, Mạch môn dục âm, sinh tân; Đơn bì thanh hư hoả, đều là thần; Bạch thược bổ Tỳ âm, tả Can hoả, hoà huyết mạch, trợ âm khí, liễm nghịch khí; Cam cúc bình Can, làm nhẹ đầu, sáng mắt, hạ hư phong; Bạc hà sơ phong giải uất, thanh hoả, minh mục; Sài hồ sơ Can, thăng thanh, tán kết, hoà lý, thoái nhiệt, điều sướng khí, làm cho khí hoá có nơi ở, âm tinh được hỗ trợ, phong dương tự yên, làm tá; Thiên ma và Tang diệp vào kinh Can, thông huyết mạch, khứ phong đờm, tư táo, lương huyết, làm cho khí huyết bình hoà, làm tá).
+ Tuỷ Hải Bất Túc: Đầu váng, hoa mắt, tai ù, hay quên, đầu lắc, tay run, đi tiểu khó, nằm xuống là ngã lăn ra, nặng hơn thì dại khờ, khóc cười thất thường, nói năng lộn xộn, lưỡi đỏ nhạt kèm nhờn nhiều, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch thường Trầm Huyền không lực hoặc Huyền Tế mà Sác.
Điều trị: Chấn tinh, ích tuỷ. Dùng bài Quy Bản Nhị Tiên Cao.
(Lộc giác thông mạch Đốc; Quy bản thông mạch Nhâm, một vị thông dương, một vị thông âm, đều là loại thuốc huyết nhục có tinh, làm cho âm dương điều hoà, bổ cho chân khí; Nhân sâm đại bổ trung khí, trợ cho nguồn khí hoá, làm cho điều hoà khí huyết; Câu kỷ tử tư bổ Can Thận).
Có thể dùng bài Ích Tuỷ Cường Thân Hoàn (Trung Y Thượng Hải): Lộc giác giao, Ô mai, Quy bản giao, Yến thái, Tây hồng hoa, Thạch xương bồ, Ngũ vị tử đều 50g, Xạ hương 4g, Đại mạo, Câu kỷ tử, Hà thủ ô, Hoàng tinh, Hy thiêm thảo, Hoè mễ (sống) đều 100g, Sơn thù nhục, Thục địa đều 75g, Đào nhân 25g. Tán nhuyễn, trộn với mật làm thành viên 10g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 hoàn, uống với nước muối pha loãng.
+ Khí Huyết Hư Suy: Chóng mặt, hồi hộp, phiền muộn, hễ cử động thì mệt, ngại nói, đầu lắc, tay run, uể oải, sợ lạnh, tay chân lạnh, ra mồ hôi, tiêu tiểu thất thường, gốc lưỡi to, mầu hồng nhạt, rêu lưỡi trắng, nhờn, mạch Trầm Nhu không lực hoặc Trầm Tế.
Điều trị: Bổ trung ích khí. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang hoặc Tứ Quân Tử Thang uống chung với Thiên Vương Bổ Tâm Đơn.
(Bổ Trung Ích Khí Thang điều bổ Tỳ Vị, ích khí, thăng thanh. Tứ Quân Tử Thang kiện Tỳ, ích khí. Thiên Vương Bổ Tâm Đơn tư âm, dưỡng huyết, ninh tâm, an thần).
Có thể dùng bài Tâm Tỳ Lưỡng Bổ Hoàn (Nhân sâm, Huyền sâm, Ngũ vị tử, Viễn chí nhục, Mạch môn, Thần khúc, Toan táo nhân, Bá tử nhân, Bối mẫu, Cam thảo, Đan sâm, Cát cánh, Sinh địa, Hoàng liên, Hương phụ, Chu sa. Tán nhuyễn, lấy Long nhãn nhục chưng nhừ thành cao, trộn với thuốc bột làm thành hoàn 10g, ngày uống 3 hoàn.
+ Đờm Nhiệt Động Phong: đầu váng, hoa mắt, đầu lắc, tay run, tay mất cảm giác, không cầm được vật gì, có khi không còn cảm giác đau, ngứa gì nữa, ngực đầy, khó chịu, nôn mửa đờm dãi, ho suyễn, đờm dính như sợi, khạc nhổ liên tục, lưỡi sưng to, có ngấn, mầu đỏ sẫm, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch Trầm Hoạt hoặc Trầm Nhu.
Điều trị: Cổn đờm, tức phong. Dùng bài Đạo Đờm Thang.
(Bán hạ táo thấp, giáng nghịch; Phục linh kiện Tỳ, thấm thấp, thấp hết thì đờm không sinh ra nữa; Trần bì lợi khí; Cam thảo ích Tỳ, Tỳ năng thắng thấp, lợi khí thì đờm không ứ lại được, đó là ý của bài Nhị Trần Thang. Thêm Nam tinh để trị phong đờm; Tăng Chỉ xác để lý khí, thuận giáng, khoan trung; Thêm Tạo giác để tuyên ủng, đạo trệ, thông khiếu, lợi khí, khai Vị; Bằng sa trừ nhiệt đờm, tán kết).
Hoặc dùng bài Hoá Đờm Thấu Não Hoàn (Trung Y Thượng Hải): Nam tinh (chế) 25g, Thiên trúc hoàng, Viễn chí nhục, Thạch hoa thái đều 100g, Tạo giác (nướng), Uất kim, Bán hạ, Xà đởm trần bì, Trầm hương, Hải đởm đều 50g. Tán nhuyễn, trộn với mật làm thành hoàn 10g. Ngày uống 3 hoàn.
Tóm lại:Do nội thương, bệnh mạn tính làm tổn thương não tuỷ, Thận, Tỳ, Can bị bệnh gây nên đầu lắc, tay run. Người lớn tuổi thường khó trị. Điều trị, chủ yếu là chấn tinh, bổ tuỷ, ích khí, hoá đờm là chính. Nếu phong dương nội động, dùng phép tư âm, tiềm dương. Do tuỷ hải bất túc, nên chấn tinh, ích tuỷ. Khí huyết suy hư, nên bổ trung, ích khí. Đờm nhiệt phong động nên khoát đờm, tức phong
CHÍN MÉ
(Giáp Sang – Paronychia – Paronychie)
Là loại mụn mọc ở đầu gốc móng tay, móng chân.
Xuất xứ: Được mô tả đầu tiên trong sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ (thế kỷ thứ 6) dưới tên gọi là Đại Chỉ.
Sách ‘Chứng Trị Chuẩn Thằng – Dương Khoa’ viết: “Chứng Đại chỉ, lúc đầu sưng, sốt, đau, mầu không đen, viền móng chân, tay có mủ, có thể làm cho móng bị rụng”.
Còn được gọi là Đại Giáp, Tao Chỉ, Thổ Đậu, Luân Chỉ, Tao Chỉ.
Y học hiện địa gọi là Viêm Chân Móng, Viêm Quanh Móng (Giáp Câu Viêm).
Nguyên Nhân
Do tạng phủ có nhiệt nung nấu, kết hợp với hỏa độc tụ lại, nhiệt độc thịnh quá gây nên. Móng chân tay là phần dư ra của gân, do nhiệt độc theo đường kinh xâm nhập vào khiến cho khí cơ ở đó không lưu thông được. Kết mủ gây nên.
Bên ngoài có thể do tổn thương (gai, kim đâm, xương cá đâm...) hoặc do cắn móng tay, làm móng… gây xước thịt, nhiễm độc gây nên..
Đông y cho là do hoả nhiệt gây nên.
Triệu Chứng
Thường bệnh tiến triển qua 3 giai đoạn:
+ Thời kỳ chớm viêm: 1-3 ngày, ở đầu ngón tay, chân xuất hiện một chỗ sưng bằng hạt đậu hoặc nhỏ hơn, tấy đỏ, ngứa, sau đó trở thành sẫm đỏ, nhức, khó chịu, có khi làm cứng ngón tay, khó cử động nhưng chưa có dấu hiệu toàn thân.
+ Nếu không điều trị hoặc điều trị không tốt sẽ tiến triển sang thời kỳ viêm lan toả, từ ngày thứ 4-7, lan rộng ra chung quanh cả ngón tay, lan lên mu và gan bàn tay (trường hợp viêm ở đốt thứ I). Đặc biệt có những trường hợp nặng, sưng cả lên cẳng tay hoặc viêm theo đường bạch huyết thành vệt tấy đỏ lên phái trong cánh tay, nhức nhối, căng tức, đau giật giật theo theo nhịp mạch đập, sốt nhẹ.
Cuối cùng là thời kỳ làm mủ ở điểm sưng đỏ lúc đầu.
Nếu không điều trị kịp thời và đúng có thể gây những biến chứng như viêm xương, viêm bao hoạt dịch, viêm khớp hoặc nhiễm khuẩn huyết do nhiễm khuẩn lan toả, có thể gây ra tử vong.
Triệu Chứng Lâm Sàng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Nhiệt Độc Uẩn Kết: Lúc đầu khóe móng sưng, đỏ, đau, kèm đau đầu, sốt, táo bón, tiểu ít, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt.
Điều trị: Thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, chỉ thống. Dùng bài Thanh Nhiệt Giải Độc Ẩm gia giảm: Ngân hoa, Bồ công anh, Đơn bì, Xích thược, Cam thảo (sống), Đại hoàng (sống), Chi tử đều 10g, Liên kiều, Bối mẫu, Xích tiểu đậu đều 12g, Chỉ xác (sao) 6g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học).
Thuốc Đắp
- Lá Cúc hoa trắng, giã nát với ít muối, đắp. Đồng thời có thể dùng 20g Cúc hoa trắng, giã nát, hoà với ít nước đun sôi để nguội, uống.
- Cà (loại cà ghém, cà pháo) 1 quả, ướp muối, xẻ đôi, úp vào chỗ sưng đỏ, ngày thay 2-3 lần (293 Bài Thuốc Gia Truyền Đông Y).
- Chanh 1 quả, khoét một lỗ to bằng đầu ngón tay, cho vào đó ít muối ăn, nướng cho nóng lên, để cho vừa ấm chịu được, đút ngón tay bị chín mé vào, để khoảng 30phuts đến 1 giờ. Có thể làm 2~3 lần/ngày (293 Bài Thuốc Gia Truyền Đông Y
CHOÁNG
Đại Cương
Choáng là tình trạng bệnh lý cấp diễn, do lưu lượng máu giảm xuống nhanh chóng, biểu hiện trên lâm sàng là huyết tụt nhanh.
Triệu chứng
Triệu chứng choáng thường xuất hiện từ từ:
+ Giai đoạn đầu của choáng thường có các triệu chứng sau:
. Da mặt nhợt nhạt, có vẻ ngây dại.
. Mạch nhanh, huyết áp thấp.
+ Giai đoạn hai: Choáng đã xuất hiện với triệu chứng:
. Bệnh nhân nằm dài, im lặng, không cử động.
. Mặt lộ ra đau đớn nhưng không kêu đau mà kêu mệt, lạnh, đụng đến bệnh nhân ít có phản ứng, da mặt xanh, mũi tóp, môi thâm, mắt lờ đờ.
. Da sờ thấy lạnh vì nhiệt độ hạ thấp, dưới 37oC, thường nhiệt độ hạ thấp một độ.
. Huyết áp tối đa 90, 80, 60 và có khi thấp hơn nữa, huyết áp tối thiểu hạ thấp 40, 30 và có khi không định được. Khoảng cách giữa hai mức huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu cũng hạ xuống. Nếu khoảng cách này dưới 2 là dấu hiệu của choáng nặng.
. Hơi thở nhanh, nhẹ, 14-20 lần/phút.
. Mạch đập nhanh, 100-120 có khi không đếm được.
Những triệu chứng lâm sàng kể trên sẽ biến chuyển, thường là choáng nặng dần lên rồi bệnh nhân mạch yếu dần, da lạnh thêm, thở nhanh hơn, yếu hơn, dần dần bệnh nhân không còn phản ứng gì nữa.
Đông Y chia làm ba loại sau:
1- Vong Dương: Sắc mặt xanh nhạt, ra mồ hôi, chân tay lạnh, hơi thở yếu, lưỡi trắng bệch, môi tím, huyết áp 80/60mmhg, mạch tế, không lực.
2- Vong Âm: Có thêm các triệu chứng khát, bứt rứt, lưỡi trắng bệch, mạch Vi mà Sác hoặc Khâu (gặp nơi người mất máu).
3- Âm Dương Đều Thoát: Từ tỉnh chuyển sang hôn mê, hơi thở yếu, mạch không bắt được.
Nguyên Nhân
YHHĐcho rằng choáng là do 3 yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau và giữ một vai trò quan trọng làm choáng xuất hiện và diễn biến.
+ Diễn Biến Ở Trung Tâm Thần Kinh: Từ chỗ bị thương, xuất phát những luồng thần kinh kích thích bệnh lý ở vỏ não. Vỏ não có khả năng điều chỉnh phản ứng cơ thể đối với những luồng kích thích đó. Nếu luồng kích thích quá mạnh, kéo dài trong một thời gian, khả năng điều chỉnh của vỏ não bị tổn thương làm choáng xuất hiện.
Khởi đầu não ở trong tình trạng hưng phấn, rồi chuyển sang tình trạng ức chế và cuối cùng là tình trạng suy nhược, biểu hiện bằng các triệu chứng lâm sàng kể trên.
+ Biến Đổi Tuần Hoàn, Biến Đổi Ở Động Lực Máu: Sự thấm ở các mao quản tăng, khối lượng máu tuần hoàn giảm sút, lưu lượng tim giảm sút, huyết áp hạ thấp và máu cô lại.
+ Biến Đổi Thành Phần Hoá Chất Máu: Trong máu, có hiện tượng nhiễm độc, chất Kali trong máu tăng cao, chất Phosphor tăng cao, thiếu oxy gây nhiễm độc toan và phù nề ở các tổ chức.
Theo Đông Y
Đông y cho rằng:
+ Vong âm thường do mồ hôi ra nhiều, nôn hoặc tiêu chảy nhiều quá, tân dịch bị hao tổn nặng.
+ Do âm dương khí huyết có quan hệ mật thiết với nhau, âm bị suy thì dương cũng suy theo, huyết thoát. Tinh suy thì khí cũng suy theo, vì vậy dẫn đến vong dương.
+ Cũng có trường hợp nguyên dương vốn hư yếu, hàn tà thừa cơ xâm nhập, chính khí hư nên không ức chế được hàn tà gây nên hàn quyết và vong dương.
Tuy nhiên thường do:
. Mất một lượng máu lớn.
. Nhiễm trùng nặng toàn thân.
. Nhiễm độc: các chất độc và các chất thoái hóa của tổ chức bị hủy hoại tràn vào máu làm thay đổi thành phần hóa học của máu.
. Do chấn động tinh thần, quá sợ hãi, mệt mỏi, lạnh đột ngột, nóng quá sức... dễ gây nên choáng.
Điều Trị
Nguyên tắc điều trị choáng là phải điều trị toàn diện, điều trị thật sớm và phải kiên trì.
+ Ngăn cản điều kiện thuận lợi của choáng:
. Để người bệnh nằm nghỉ nơi yên tĩnh để chống mỏi mệt, sợ hãi, chống lạnh nếu bệnh nhân bị lạnh (ủ nóng, đắp chăn, ủ bằng bình nước nóng, uống nước chè nóng...).
. Chống đau: Nếu bệnh nhân đau quá, nên châm để phong bế hệ thần kinh cho giảm đau. Có thể dùng bài thuốc giảm đau sau đây: Huyền hồ 100g, Náo dương hoa 10g, Phòng kỷ 100g, Ô đầu 100g. Ngâm với 1 lít rượu 300, mỗi ngày uống 10ml (Trung Y Tạp Chí 1963, 5).
. Chống chảy máu: chảy máu là con đường dẫn đến choáng. Chảy máu nhiều thì phải thắt mạch máu, băng ép bằng dây garô. Đông y có nhiều phương thuốc tốt có thể dùng trong trường hợp này. Dùng
- Nghệ già, phơi sấy khô, tán bột, cất kỹ dùng.
+ Điều Trị Choáng
Sau khi đã ngăn cản những điều kiện thuận lợi gây nên choáng, lúc đó mới tập trung vào điều trị choáng. Chủ yếu là chống các biến loạn tuần hoàn và điều chỉnh hệ thần kinh.
+ Chống các biến loạn tuần hoàn
Tây y điều trị rối loạn tuần hoàn bằng truyền máu và các chất dịch.
Đông y tuy không có những chất trực tiếp truyền vào cơ thể để bổ sung cho khối lượng tuần hoàn, nhưng Đông y cho rằng hiện tượng khối lượng tuần hoàn máu giảm sút là biểu hiện của triệu chứng âm dịch vị hao tổn. Do đó, nếu ngay từ lúc chưa có hiện tượng choáng xẩy ra, có thể dùng các loại thuốc sinh tân dịch, có thể phần nào phục hồi được khối lương máu tuần hoàn và mức độ huyết áp. Thường dùng bài Độc Sâm Thang hoặc Sinh Mạch Tán (Nhân sâm, 8-12g, Mạch môn 8g, Ngũ vị tử 20 hột). Hoặc Sâm Phụ Thang (Nhân sâm 16-20g, Phụ tử (chế) 8-12g). Hoặc dùng nước Dừa non, uống 200 – 500ml trong ngày.
CHOLESTEROL MÁU
(Cao Chỉ Huyết Chứng – Hypercholesterolmia – Hypercholestérolémie)
Đại Cương
Cholessterol là thành phần cần thiết cho sự sống, cấu tạo mật và sinh tố D. Nó tạo màng tế bào để tổng hợp một số Hormon.
Ở tuổi 45-50 nên xét nghiệm nồng độ Chloesterol máu thường xuyên hoặc định kỳ để theo dõi sự gia tăng của Chloesterol trong máu.
Thường gặp nơi người lớn tuổi, béo phì. Phụ nữ nhậy cảm với Lipoprotein HDL và Triglyceride hơn nam giới. Trái lại, nam giới lại nhậy cảm với Lipoprotein LDL do ăn uống, nhậu nhẹt rượu thịt nhiều...
Gần đây, sau những công bố cho rằng Cholessterol là nguyên nhân gây nên các bệnh tim mạch, xơ động mạch, huyết áp cao, thiểu năng mạch vành, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não... rất nhiều người (đa số ở thành phố lớn) đã đi xét nghiệm máu và kết quả cho thấy đa số có Cholesterol huyết cao. Siêu âm cho kết quả: Mỡ trong gan... rất đông.
Những người béo phì, huyết áp cao, tiểu đường, trên 50 tuổi, nên xét nghiệm máu để biết hàm lượng Cholesterol. Chỉ cần nhịn đói trước khi lấy máu vào buổi sáng. Nếu Cholesterol cao, nên làm xét nghiệm lại trong vài ngày sau. Nếu cả hai lần đều cao, cần chú ý đến mức độ HDL và Triglycerid để có hướng điều trị cho phù hợp.
Theo thời sinh học, lượng Cholesterol được sản xuất ở gan nhiều vào ban đêm, vì vậy bữa ăn tối nên hạn chế bớt thức ăn có dầu mỡ, nếu có thể được thì lượng thuốc uống tập trung vào buổi tối sẽ có hiệu quả cao hơn.
Đông Y không có tên bệnh này nhưng các chứng trạng của bệnh Cholesterol giống với các bệnh Đờm Ẩm, Huyễn Vựng, Đầu Thống, Hung Tý, Chi Thể Ma Mộc của Đông y.
Cũng gọi là Cao Chỉ Đản Bạch Huyết Chứng, Huyết Chỉ Quá Cao Chứng.
Chứng Cholesterol Máu cao, Mỡ Trong Máu (Lipit huyết cao), Gan Nhiễm Mỡ… tuy tên gọi khác nhau, về cơ chế gây bệnh theo YHHĐ có khác nhau nhưng đối với YHCT cùng chung một cách biện chứng là luận trị gần như nhau.
Đông Y xếp vào loại Trọc Trở, Đờm Thấp, Thấp Nhiệt.
Có thể tham khảo thêm ở bài Mỡ Máu Cao.
Nguyên Nhân
Theo Đông y nguyên nhân gây nên Cholesterol cao có thể do:
+ Ăn uống không điều độ: Ăn nhiều những thức ăn mỡ, béo, uống rượu… làm tăng lượng mỡ lên, trong khi đó chức năng vận hóa của Tỳ lại bị suy giảm khiến cho lượng mỡ ứ đọng lại gây nên, hoặc do ăn uống thất thường làm cho Tỳ Vị bị tổn thương không vận hóa được dưỡng trấp, các chất béo không tan đi được, tụ lại gây nên.
+ Tỳ Hư yếu kèm thấp tà ứ đọng: Tỳ ở trung tiêu, có chức năng vận hóa, Tỳ thích khô ráo chứ không thích ẩm ướt, nếu ăn nhiều chất lạnh, mát quá làm Tỳ Vị bị tổn thương, chức năng vận hóa bị mất đi sẽ gây nên béo phì, thủy thấp sẽ thịnh. Tỳ bị tổn thương khiến cho dưỡng trấp không chuyển hóa thành các chất nuôi dưỡng cơ thể, Cholesterol sẽ tụ lại, gây nên Cholesterol cao.
+ Tình Chí Bị Thương Tổn: Suy tư, giận dữ làm hại Tỳ, Can. Can mất chức năng sơ tiết, khí cơ bị uất trệ, khí bị trệ, huyết bị ứ, hoặc Can khí uất kết lấn sang làm tổn thương Tỳ Vị, Tỳ mất chức năng vận hóa, lượng mỡ không chuyển hóa được tụ lại gây nên chứng Cholesterol cao.
+ Thận Khí Hư Suy: Người lớn tuổi cơ thể bị suy yếu, thận khí hư hoặc lao thương quá sức, tinh khí bị tổn hại, sẽ làm cho tinh khí bất túc, khí hóa bị bất cập, tân dịch không đều hòa, lượng mỡ không chuyển hóa được, tụ lại thành chất mỡ xấu làm cho Cholesterol tăng cao.
+ Đờm ngưng huyết kết: Bình thường, lượng mỡ hóa sinh vào với thủy cốc, dưỡng trấp, mỡ cùng với tân dịch đều là loại chất dịch, tân dịch và huyết cùng hỗ sinh cho nhau, mỡ và máu cùng quy vào phần dinh. Tân dịch tụ lại sinh ra đờm, huyết dịch ứ trở gây nên huyết ứ. Đờm ngưng, huyết trở đều làm cho lượng mỡ chuyển hóa thất thường, tụ lại thành trọc tà, gây nên Cholesterol cao.
Cũng có thể do Can âm bị hao tổn, Can dương quá vượng, làm cho phong ở bên trong bị động, bốc lên thanh khiếu bên trên gây nên hoặc do Tỳ bị hư yếu, nguồn vận hóa bị kém khiến cho tinh khí của ngũ tạng kém, Thận không tàng trữ lại được, khiến cho Thận thủy bất túc, Can không được tư dưỡng gây nên bệnh.
Cơ Chế
Cholesterol là một hợp chất có cấu trúc Sterol, là một trong những thành phần Lipid có trong cơ thể con người.
Cholesterol có hai nguồn gốc: Nội sinh (do chính cơ thể tự tổng hợp) và Ngoại sinh (có trong thức ăn được đưa vào cơ thể). Cholesterol được tổng hợp ở nhiều cơ quan nhưng nhiều nhất ở gan. Gan vừa làm nhiệm vụ tổng hợp Cholesterol, vừa làm nhiệm vụ điều hoà, dự trữ Cholesterol trong cơ thể.
Cholesterol nhũ hóa Triglycerid để ngấm qua thành ruột, theo hệ bạch huyết rồi vào máu. Chúng di chuyển trong máu dưới dạng Chylomicron. Các cơ và mô mỡ thu hút chất béo nhờ Liporotein lipase. Phần dư thừa trở về gan và Cholesterol tự do được phóng thích. Cholesterol dùng để tổng hợp màng tế bào, nội tiết tố... hoặc dự trữ dưới dạng Chloesterol esther.
Cholesterol là một chất béo, để di chuyển trong máu, nó cần một chất vận chuyển, đó là các Lipoprotein. Có hai loại Lipoprotein:
+ Lipoprotein tỉ trọng thấp (LDL - Low Density Lipoprotein) xuất phát từ gan, chuyển Chlesterol đến tận các tế bào để làm chất ‘đốt’, tạo năng lượng.
+ Lipoprotein tỉ trọng cao (HDL – High Density Lipoprotein) có chức năng ngược lại, chuyển Cholesterol từ các tế bào trở về gan để được tái biến dưỡng.
Khi thừa trong máu, trên đường di chuyển từ gan đến các tế bào, Cholesterol LDL thừa, được gọi là Cholesterol xấu, không vào hết tất cả trong tế bào, mà tồn đọng tại động mạch và sau đó xâm nhập vào vách thành động mạch. Tại đây, Chloesterol bị oxy hóa tạo thành những tảng xơ động mạch và góp phần làm nghẽn tắc động mạch (dân gian quen gọi là máu nhiễm mỡ). Dần dần sẽ dẫn đến nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não hoặc viêm động mạch.
Còn Cholesterol được Lipoprotein HDL vận chuyển là Cholesterol tốt, làm thông động mạch, tống khứ Chloesterol thặng dư ra khỏi động mạch.
Để chẩn đoán Cholesterol máu, cần xác định nồng độ:
+ Cholesterol toàn phần.
+ LDL – Cholesterol (Cholesterol xấu).
+ HDL – Cholesterol (Cholesterol tốt).
+Triglycerid.
Từ 4 nồng độ này sẽ xác định được nguy cơ thừa Cholesterol.
Bình thường, nồng độ của 4 yếu tố trên là:
. Cholestrol toàn phần: 156 ± 20/100ml huyết tương.
. HDL: 60mg/l
. LDL: 160mg/l
.Triglycerid: 1,65g/lít.
HDL thường hạ thấp ở phụ nữ mãn kinh. HDL dưới 35mg/dl có nguy cơ gây bệnh tim dù Cholesterol toàn phần trong phạm vi cho phép.
Phụ nữ gần tuổi mãn kinh bắt đầu phát phì, lượng mỡ dự trữ tăng, Triglyceride trong máu cũng tăng nên dễ bị hiện tượng ‘Mỡ trong máu’ khi đi xét nghiệm.
Để chẩn đoán Cholesterol Máu, cần làm xét nghiệm máu:
Nhịn ăn từ 12 giờ đồng hồ, xét nghiệm máu 2-3 lần liên tiếp, cách nhau 2-4 tuần (tại cùng một phòng xét nghiệm), tỉ lệ Cholesterol máu trên 2,7g/l (270mg/l) = 7,0mmol/l.
Triệu Chứng
Triệu chứng chính là đầu đau, chóng mặt, lưng đau, gối mỏi, tâm phiền, ngực đầy, Cholesterol trong máu cao.
Biện Chứng Luận Trị
+ Đờm Trọc Ngăn Trở Bên Trong: Cholesterol trong máu tăng cao, đầu váng, đầu nặng, cơ thể béo phì, ngực bụng đầy trướng, khó chịu, người nặng nề, không muốn hoạt động, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Hoạt, Thực.
Điều trị: Táo thấp, khứ đờm, hóa trọc, giáng chỉ (hạ Cholesterol). Dùng bài Ôn Đởm Thang gia giảm: Bán hạ, Trần bì, Phục linh, Chỉ xác, Quát lâu, Hải tảo, Hoàng cầm.
(Đây là bài Ôn Đởm Thang bỏ Trúc nhự, Sinh khương, Cam thảo thêm Quát lâu, Hải tảo, Hoàng cầm. Trong bài dùng Bán hạ, Trần bì, Quát lâu để táo thấp, khứ đờm; Phục linh thấm thấp, kiện Tỳ; Chỉ xác lý khí, trừ mãn, điều sướng khí cơ; Hải tảo, Hoàng cầm thanh nhiệt tiêu đờm, hóa trọc, giáng chỉ).
+ Tỳ Hư Thấp Khốn: Cholesterol trong máu tăng cao, hoạt động thì mệt, ăn ít, bụng đầy, hụt hơi, sắc mặt không tươi, chân hơi sưng phù, phân lỏng nát, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Hoãn, Nhược.
Điều trị: Ích khí, kiện Tỳ, thấm thấp, giáng chỉ (hạ Cholesterol). Dùng bài Sâm Linh Bạch Truật Tán gia giảm: Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Sơn dược, Sa nhân, Thần khúc, Sơn tra, Cát cánh, Ý dĩ.
(Đây là bài Sâm Linh Bạch Truật Tán bỏ Biển đậu, Liên nhục, thêm Thần khúc, Sơn tra. Trong bài dùng Đảng sâm, Bạch truật ích khí, kiện Tỳ; Phục linh, Ý dĩ, Cam thảo, Sơn dược, Sa nhân lý khí, kiện Tỳ, thấm thấp, hòa Vị; Thần khúc, Sơn tra hòa Vi, tiêu thực, trừ mãn, hóa trọc, giáng chỉ).
+ Can Uất Khí Trệ: Cholesterol máu tăng, hai bên hông sườn trướng đau, nấc, ợ hơi, phiền táo, dễ tức giận, đầu váng, đầu đau, miệng đắng, họng khô, lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Huyền.
Điều trị: Sơ Can, lý khí, hòa Vị, giáng chỉ (hạ Cholesterol). Dùng bài Sài Hồ Sơ Can Tán gia giảm: Sài hồ, Bạch thược, Chỉ xác, Cam thảo, Xuyên khung, Sơn tra, Hạ khô thảo, Xuyên luyện tử, Diên hồ sách.
(Đây là bài Sài Hồ Sơ Can Tán bỏ Hương phụ, thêm Xuyên luyện tử, Diên hồ, Sơn tra, Hạ khô thảo. Trong bài dùng Sài hồ, Chỉ xác, Xuyên khung để sơ Can, lý khí, giải uất; Bạch thược, Cam thảo, Xuyên luyện tử, Diên hồ lý khí, chỉ thống, hòa trung, hoãn cấp; Hạ khô thảo vị mặn, tính hàn, vào kinh Can, Sơn tra hòa Vị, hai vị này dùng chung có tác dụng sơ Can, hòa Vị, tiêu đờm, giáng chỉ (hạ mỡ).
+ Can Thận Hư Tổn: Cholesterol trong máu cao, đầu váng, hoa mắt, cử động thì hụt hơi, lưng đau, chân yếu, mắt mờ, tai ù, tai kêu, mất ngủ, hay mơ, trí nhớ giảm, lưỡi hơi đỏ, mạch Huyền, Tế.
Điều trị: Dưỡng huyết, nhu Can, ích Thận, giáng chỉ (hạ mỡ).
Dùng bài Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn gia giảm: Câu kỷ tử, Cúc hoa, Sinh địa, Sơn thù, Trạch tả, Đơn bì, Hà thủ ô, Nữ trinh tử, Tang ký sinh, Đan sâm, Hoàng tinh.
(Đây là bài Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn bỏ Phục linh, Sơn dược, thêm Hà thủ ô, Nữ trinh tử, Tang ký sinh, Đan sâm, Hoàng tinh. Trong bài dùng Câu kỷ tử, Sinh địa, Tang ký sinh để ích Thận, làm mạnh lưng; Hà thủ ô, Nữ trinh tử, Hoàng tinh tư âm, dưỡng huyết, nhu Can; Trạch tả, Đơn bì thanh nhiệt, tiết trọc, giáng chỉ).
+ Ứ Huyết Ngăn Trở: Cholesterol máu cao, ngực đau lan ra sau lưng, phiền muộn, đầu váng, đầu đau, đau không di chuyển, chân tay và cơ thể tê dại, lưỡi đỏ tím hoặc có vết ứ huyết, mạch Tế Sáp.
Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ, thông kết, giáng chỉ (hạ mỡ).
Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang gia giảm: Đương quy, Sinh địa, Đào nhân, Hồng hoa, Chỉ xác, Cát cánh, Xuyên khung, Xích thược, Sơn tra, Bồ hoàng.
(Đây là bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang bỏ Sài hồ, Cam thảo, Ngưu tất, thêm Sơn tra, Bồ hoàng. Trong bài dùng Đương quy, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa, Xích thược để hoạt huyết, khứ ứ, thông huyết mạch; Cát cánh, Chỉ xác lý khí, tán kết; Sinh địa tư âm, lương huyết, tiêu ứ, thông lạc, giáng chỉ).
Khi nồng độ Cholesterol máu cao, phương thức điều trị đầu tiên là tiết thực, dù 70% lượng Cholesterol được tổng hợp ở gan, không liên quan đến thực phẩm ăn vào.
Cần nhớ là dù thay đổi nếp sống, thay đổi thực đơn... cần phải có một thời gian để Cholesterol giảm dần, nếu Chlesterol giảm nhanh quá cũng không tốt.
Chọn thực phẩm có tác dụng giảm và trị Cholesterol cao:
. Rau cải xanh và trái cây có chứa nhiều sinh tố C.
. Hạt Dẻ, hạt Điều, hạt nẩy mầm: giá đậu, chứa nhiều Sinh tố E.
. Cà chua nấu chín, Dưa hấu, Đu đủ, Bưởi có chứa Lycopen.
. Hành, Táo, Nho, Dâu, Trà xanh, Xà lách, Ớt xanh Đà lạt chứa nhiều Fllavonoide.
Đây là các thực phẩm có chất kháng oxy hóa có tác dụng làm giảm Choleterol trong máu.
Dưa hành có Selenium cũng phụ giúp chống oxy hóa Lipoprotein LDL.
Theo nghiên cứu của Viện Trung Y Thượng Hải: một số vị thuốc có tác dụng hạ Cholesterol như: Hà thủ ô, Sơn tra, Linh chi, Tỏi, Đan sâm, Tang ký sinh, Hoàng tinh, Sâm tam thất, Bồ hoàng, Trạch tả.
Qua kinh nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên cứu đã rút ra được một số nguyên tắc dùng thuốc trị Cholesterol cao như sau:
1- Thuốc thanh nhiệt lợi thấp: Dùng cho chứng bệnh Cholesterol máu cao, kèm thấy hay khát, phát nhiệt, tiểu ít, bụng trướng, phù thũng, đốm lưỡi nhờn, dính, mạch Hoạt.
Dùng các vị Hà diệp, Kim ngân hoa, Cúc hoa, Liên kiều, Ngọc mễ tu, Trạch tả, Thảo quyết minh, Phục linh, Hổ trượng, Nhẫn đông đằng.v.v:..
2. Thuốc khứ đàm lợi thấp: Dùng cho người Cholesterol máu cao kèm theo tay chân mệt mỏi, bụng trướng, ho có đờm, đại tiện lỏng, đốm lưỡi nhờn dính, mạch Hoạt.
Thuốc dùng Trần bì, Bán hạ, Trúc nhự, Phục linh, Chỉ xác, Qua lâu, Đởm nam tinh, Hạnh nhân, Bạch Kim Hoàn v.v...
3. Thuốc thanh lý thông hạ: Dùng cho những người Cholesterol máu cao, thân hình to chắc, táo bón, bụng trướng, đốm lười dày, nhờn, dính, mạch có lực.
Người bên trong nóng, kết đờm bị nhẹ dùng thuốc chế từ Đại hoàng, Sơn tra, Mạch nha, Hạn cần thái, Nhân trần, Hoàng kỳ, Chỉ xác, Hồ hoàng liên;
Người bị nặng thêm Sinh đại hoàng, hoặc Mang tiêu, Phan tả diệp.
4. Thuốc bổ Can thận: Dùng cho những người Cholesterol máu cao lại thấy cơ thể mệt mỏi, lưng đau, chân yếu, tuổi già sức yếu, tai ù, mắt hoa, chất lưỡi đỏ, đốm lưỡi mỏng, mạch Trầm Tế.
Thuốc dùng Thủ ô, Câu kỷ, Mạch đông, Sinh địa, Sa sâm, Thỏ ty tử, Hắc chi ma, Tang ký sinh, Hoàng tinh, Đỗ trọng, Hạn liên thảo, Hàng cúc hoa, Sơn thù nhục, Sung úy tử v.v...
5- Thuốc hoạt huyết hóa ứ: Dùng cho những người Cholesterol máu cao kèm theo ngực tê dại, tim đau, chỗ đau cố định, đốm lưỡi mỏng, chất lười sẫm hoặc sẫm tím, có vết
hoặc điểm ứ, mạch Huyền.
Thuốc dùng Đan sâm, Xuyên khung, Hồng hoa, Giáng hương, Xích thược, Sinh bồ hoàng, Sung úy tử, Khương hoàng, Ngũ linh chi, Tam thất v.v...
6. Thuốc thanh Can tả hỏa: Dùng cho những người Cholesterol máu cao, hình dáng to chắc, mắt đỏ, mặt đỏ, miệng khô, lưỡi rát, nước tiểu vàng, đại tiện khô, đốm lưỡi nhờn dính, mạch Huyền.
Thuốc dùng: Câu đằng, Cát căn, Thảo quyết minh, Sinh địa, Long đởm thảo, Trạch tả, Sơn chi, Hoàng cầm, Đại hoàng v.v…
Qua thực nghiệm chứng minh các vị thuốc trên có công hiệu hạ Cholesterol máu.
Những Vị Thuốc Hạ Cholesterolõ Máu Thường Dùng
+ Sơn tra (Crataegus cuneata S et. Z) sơ chế qua, ngâm thành cao có hiệu quả đối với Cholesterol,Triglycerid, Lipoprotein.
+ Hà thủ ô (Polygonum multiflorum Thunb): Gần đây nghiên cứu thấy có thể làm giảm bớt sự hấp thu Cholesterol đường ruột, ngăn cản Cholesterol lắng đọng trong gan, làm chậm sự xơ cứng động mạch.
+ Trạch tả (Alisma plantago Aquatica L): Nghiên cứu hiện nay cho thấy nó có tác dụng can thiệp sự hấp thụ Cholesterol, phân giải hoặc bài tiết đồng thời hạ đường trong máu, chống gan mỡ.
+ Quyết minh tử (Haliotis Sp): hạ Cholesterol, Triglycerid.
+ Đại hoàng (Rheum palmatum Baill): Nghiên cứu gần đây cho thấy Đại hoàng làm cho ruột tăng nhịp co bóp, từ đó thúc đẩy sự bài tiết Cholesterol, giảm bớt sự hấp thụ Cholesterol và giảm béo phì.
+ Linh chi: Có tác dụng hạ Cholesterol.
+ Hổ Trượng (Polygonum cuspidatum Sieb et Zucc): Có tác dụng làm hạ Cholesterol và Triglycerid.
+ Tam thất (Panax pseudo gigseng Wall): Có tác dụng làm tan ứ, chống đau, tiêu thủng, hạ Cholesterol.
+ Bồ hoàng (Typha anguslata Bory et Chaub): Nghiên cứu gần đây thấy có tác dụng hạ Cholesterol và Triglycerid, ngoài ra còn có tác dụng nâng cao Lipoprotein mật độ cao, cải thiện sự xơ cứng động
mạch.
+ Hải tảo (Sargassum Sp): Có tác dụng hạ Cholesterol và Triglycerid.
+ Hồng hoa (Carthamus Tinctorius): Có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, thông kinh và hạ Cholesterol.
+ Sung úy tử (hạt cây Ích mẫu - Fructus Leonuri): có tác dụng hạ Triglyceride và Cholesterol.
+ Địa long (Perichaela sieboldii Horst): Có tác dụng lợi thấp đối với Cholesterol, Triglycerid và Lipoprotein.
+ Sơn thái: Có thể làm tăng tốc độ thay cũ đổi mới, vị chát làm cho các thất thải mang tính acid trong cơ thể trở thành có tính kiềm, làm cho muối dư thừa trong cơ thể bài tiết ra ngoài, trong thành phần vị chát có Kali (K), có thể hỗ trợ cho mỡ phân giải.
+ Cùi trắng trong trái Cam, có chứa Pectin, có tác dụng ngoại hấp Cholesterol, giúp làm giảm Cholesterol huyết.
+ Rau quả tươi có Vitamin C, Cà rốt, Cà chua, Dưa hấu, Rau xanh có những chất có khả năng ngăn cản oxy hoá LDL – đồng nghĩa với giảm tác hại của LDL.
. Bồ hoàng: Dạng bột hoặc viên, mỗi ngày liều dùng tương đương với 3g thuốc sống, thuốc cớ tác dụng hạ Cholesterol. Thực nghiệm chứng minh Bồ hoàng sống có tác dụng nhưng rượu Bồ hoàng thì tác dụng ngược lại.
. Đại hoàng: tăng nhu động ruột gây tăng bài tiết Cholesterol và giảm sự hấp thụ. Dùng viên hoặc bột Đại hoàng 0,25g, ngày 3 - 4 lần.
. Đậu xanh: Thực nghiệm chứng minh bột Đậu xanh sống uống có tác dụng hạ Cholesterol. Không có tác dụng đối với Triglycerit.
. Đơn sâm: nhiều báo cáo nghiên cứu cho là thuốc có tác dụng hạ mỡ máu cao nhưng chưa thống nhất. Thuốc có tác dụng làm giảm thoái hóa mỡ tại gan.
. Hà thủ Ô: chiết thô làm viên 0,25g (tương đương thuốc sống 0,18g), ngày uống 3 lần, có tác dụng hạ Cholesterol, nên uống liên tục 3 tháng.
Tác dụng phụ: Thuốc gây tiêu chảy nhẹ, có thể uống viên Bình Vị hoặc Hương Sa Lục Quân.
. Hổ trượng: Dạng viên, mỗi lần uống 3 viên (tương đương thuốc sống 15g) 3 lần mỗi ngày. Có tác dụng hạ Cholesterol và Triglycerit.
. Hồng hoa: Uống dầu Hồng hoa 20ml. Ngày 3 lần có làm giảm Cbolesterol thực nghiệm cũng chứng minh điều đó, nhưng ngưng thuốc, cholesterol dễ tăng lại..
. Linh chi: trên thực nghiệm thuốc có tác dụng hạ Cholesterol, Triglyceridkhông chịu ảnh hưởng mấy. Về lâm sàng tác dụng hạ lipit của các báo cáo có khác nhau.
. Quyết minh tử: Dạng thuốc viên, sắc, xi rô đều có tác dụng hạ Cholesterol, Triglycerit. Thuốc sắc mỗi ngày dùng 30g. Có thể gây tiêu chảy, đầy bụng hoặc buồn nôn.
. Sơn tra: Chiết xuất cao thô có tác dụng hạ Cholesterol, Tryglycerit, (-Lipoprotein, cồn chiết 0,12g, ngày uống 3 lần.
. Tam thất: Mỗi ngày uống 3g. Trên lâm sàng thuốc có tác dụng hạ Cholesterol, trên thực nghiệm chưa thấy.
. Tỏi: Dùng nang tinh dầu tỏi, ngày 3 lần, mỗi lần 2 - 3 nang, hoặc lượng mỗi ngày 2 - 8 nang (0,12g tương đương thuốc sống 50g), liệu trình 30 ngày. Đã trị 274 ca. Thuốc có tác dụng hạ lipit huyết, làm tăng HDL (Tạp Chí Trung Y 1985, 2: 42). Tỏi có thể ngâm dấm hoặc ngâm rượu uống ngày 3- 5 múi vừa tỏi tươi.
. Trạch tả: trên làm sàng thuốc có tác dụng hạ Cholesterol, thuốc gây tiêu chảy nhẹ.
CHẾ ĐỘ ĂN KHI CHOLESTEROL MÁU CAO
Chế độ ăn đóng góp một phần khá lớn trong việc điều chỉnh lượng Chloesterol trong máu, vì vậy, cần chú ý thêm về mặt dinh dưỡng này.
+ Hạn chế Cholesterol thức ăn: 250-300mg/ngày.
Giảm tối đa mỡ thành phần (có trong thịt, cá, trứng, sữa). Mỡ này chứa rất nhiều acid béo bão hòa làm gia tăng Chlesterol. Nếu cần, dùng dầu thực vật (dầu nành, dầu phộng…).
Thức Ăn Cần Kiêng Để Tránh Tăng Cholesterol Máu
+ Lòng đỏ trứng, một lòng đỏ trứng có trung bình 215mg Cholesterol (nhu cầu hàng ngày là 300mg. Mỗi tuần chỉ nên ăn 2-3 trái trứng, vừa đủ chất bổ mà không dư Cholesterol. Tuy nhiên lòng trắng trứng lại phụ giúp HDL quét sạch vết bợn ở thành mạch máu nghĩa là giảm tác hại của LDL và Cholesterol (vì vậy, nếu ăn trứng, nên ăn cả lòng trắng).
+ Thịt đỏ, loại này có nhiều Cholesterol và chất béo bão hoà.
+ Không dùng mỡ động vật mà nên thay bằng dầu thực vật (dầu Đậu nành, Mè, dầu Hướng dương).
+ Không nên ăn quá nhiều chất đường vì chất đường đưa vào cơ thể quá thừa so với nhu cầu năng lượng và khả năng dự trữ sẽ chuyển hoá thành chất béo, trong đó có Cholesterol.
+ Không nên uống rượu vì rượu sẽ làm gan tổng hợp nhiều chất béo hơn trong đó có Cholesterol.
Tham Khảo
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Bạch Kim Giáng Chỉ Phương (Trần Vũ, sở nghiên cứu y học khu Nghi Xuân tỉnh Giang Tây): Uất kim 210g, Bạch phàn 90g, tán bột mịn, trộn đều, tẩm nước làm hoàn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g, uống sau bữa ăn, mỗi liệu trình 20 ngày, liên tục trong 2 - 3 liệu trình (Trung Quốc Y Học Đại Từ Điển).
- Kết quả: Đã trị 344 ca, Cholesterol giảm bình quân 85,84mg%, Triglycerid giảm bình quân 70,61mg%, (- Lipoprotein giảm bình quân 175,96%. So sánh trị số máu lipit khác biệt có ý nghĩa (P nhỏ hơn 0,001). Có 170 ca béo phì được điều trị, cân nặng giảm rõ, giảm bình quân 3,5kg. Có 138 ca huyết áp cao được điều trị có kết quả 59,4% (23,2% kết quả tốt).
- Theo kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại, thành phần chủ yếu của Bạch phàn là Aluminium sulfate và Kalium sulfate có tác dụng thu liễm làm giảm hấp thụ thành phần mỡ Cholesterol. Tinh dầu Uất kim làm tăng tiết mật làm bài tiết Cholic acid (sản vật chuyển hóa của Cholesterol) ra ngoài bằng đường ruột, do đó làm hạ lipit huyết (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Cát Căn Phức Phương: Cát căn 15g, Hà thủ ô chế 30g, Sơn tra sống 45g, Bột trân châu 0,6g (liều 1 ngày) chế thành viên. Mỗi lần uống 5 viên, ngày 3 lần, 1 liệu trình là 1 tháng. Thuốc có tác dụng tốt đối với Cholesterol (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Đơn Điền Giáng Chi Hoàn (Hoàng Chấn Đông, Sở nghiên cứu bệnh tim mạch tỉnh Quảng Đông): Đơn sâm 9 - 12g, Điền thất 0,3 - 1,5g, Xuyên khung 6 - 9g, Trạch tả 9 - 12g, Nhân sâm 5 - 10g, Đương quy 9 - 12g, Hà thủ ô đỏ 10 - 15g, Hoàng tinh 10 - 15g, tán bột mịn làm hoàn, mỗi ngày uống 4g chia 2 lần sáng và tối, 45 ngày là một liệu trình.
- Kết quả: Trị 251 ca, trong đó cholesterol cao 115 ca, kết quả tốt 88 ca, (33%) khá 45 ca (39,1%), Cholesterol so sánh trước và sau điều trị giảm bình quân 52,8mg Triglycerid cao có 186 ca, kết quả tốt 97 ca (71,3%, có kết quả 14 ca (10,3%), Triglycerid so sánh trước và sau điều trị giảm bình quân 147,2mg% (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Giáng Chi Ích Can Thang : Trạch tả 20 - 80g, Sinh thủ ô, Thảo quyết minh, Đơn sâm, Hoàng tinh đều 15 - 20g, Sinh Sơn tra 30g, Hổ trượng 12 - 15g, Hà diệp 15g, ngày 1 thang, uống trong 4 tháng, có tác dụng hạ mỡ (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Giáng Chi Linh Phiến: Thủ ô, Trạch tả, Hoàng tinh, Kim anh tử, Sơn tra, Thảo quyết minh, Ký sinh, Mộc hương. Chế thành viên, mỗi viên có 1,17g thuốc sống. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 viên, 1 liệu trình 3 tháng. Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol, Triglycerit. Thuốc có tác dụng tốt đối với thể Can Thận âm hư, Can dương thịnh (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Giáng Chi Linh Phương (Lý Vĩ Thành, trường Vệ sinh khu Thường Đức, tỉnh Hồ Nam): Hà thủ ô, Trạch tả, Hoàng tinh, Kim anh tử, Sơn tra đều 3g, Thảo quyết minh, Ký sinh đều 6g, Mộc hương 1g, nấu cao, chế thành viên. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 8 viên, một liệu trình 3 tháng.
Kết quả: Trị 200 ca có 145 ca Cholesterol cao, giảm tốt 98 ca (67,6%), có kết quả 25 ca (17,2%). Trị số Cholesterol giảm bình quân 82,44mg%. Triglycerid cao có 55 ca, giảm rõ 29 ca (52,73%), có kết quả 16 ca (29%). Trị số Triglycerid giảm bình quân 150,15mg% (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Giáng Chi Phương (Mã Phong, bệnh viện Giải phóng quân Trung Quốc 371): Thảo quyết minh, Sơn tra, Đơn sâm, chế thành viên, mỗi viên có hàm lượng cao thuốc 0,25g, tương đương 2,9g thuốc sống, mỗi lần uống 2 – 4 viên, ngày 3 lần, 4 tuần là một liệu trình. Sau 3 liệu trình đánh giá kết quả.
Kết quả: Trị 64 ca mỡ máu cao có Cholesterol cao giảm bình quân 88,3mg% (P nhỏ hơn 0,01). Triglycerid cao 43 ca, sau điều trị giảm bình quân 68,1 mg% (P nhỏ hơn 0,01). Cao lipoprotein 41 ca, sau điều trị hạ bình quân 289,9mg% (P so sánh trước sau
điều trị nhỏ hơn 0,01) (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Giáng Chi Phương 2: Cam thảo 30g, Câu kỷ, Trạch tả đều 25g, Sài hồ, Sơn tra đều 15g, Đơn sâm 30g, Hồng hoa 10g. Khí hư huyết ứ thêm Hoàng kỳ 30g, Sinh Bồ hoàng 20g. Can thận âm hư thêm Hà thủ ô đỏ 20g, Sinh địa 15g. Can dương kháng thêm Câu đằng 20g, Thảo quyết minh 15g. Đàm thấp nặng thêm Thạch xương bồ 15g, Nhân trần 10g. Khí trệ huyết ứ thêm Xuyên khung, Khương hoàng đều 15g, ngày uống 1 thang, liệu trình 4 tuần, có tác dụng nâng cao rõ rệt HDL-CH (Lipit-Cholesterol tỷ trọng cao) (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Giáng Chi Thang: Hà thủ ô đỏ 15g, Kỷ tử 10g, Thảo quyết minh 30g, sắc chia 2 lần uống, 2 tháng là một liệu trình, tác dụng tốt đối với Cholesterol cao, đối với Triglycerid không rõ rệt (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Hà Đơn Tang Nhân Thang: Hà thủ ô, Đơn sâm, Nhân trần, Tang ký sinh, Sơn tra, Thảo quyết minh đều 30g, ngày 1 tháng, trong 1 - 2 tháng. Thuốc có kết quả đối với các loại IIA, IIB, III và IV. Tác dụng phụ: tiêu chảy, sôi bụng (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Mạch Tra Tán: Mỗi gói 20g (có Mạch nha và Sơn tra mỗi thứ dùng sống 15g). Ngày uống 2 lần, mỗi lần một gói. Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol dùng càng lâu càng tốt. Thuốc có thể gây ợ chua, hơi tiêu lỏng (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Ngọc Tra Dưỡng Tâm Tán: mỗi gói 20g (gồm có Sơn tra, Ngọc trúc, Sơn dược sống đều 18g) mỗi lần 1 gói, ngày 3 lần, liệu trình 1 - 3 tháng. Có tác dụng hạ Cholesterol (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Nhân Sâm Giáng Chi Hợp Tễ : Nhân sâm 3,2g, Lục trà (chè xanh) 5g, minh Đại hoàng 1,5g chế thành cao nước (liều trên cho mỗi 50ml), ngày uống 3 lần, mỗi lần 50ml. Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol và giảm cân nặng, hạ huyết áp (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Nhân Trần Hợp Tễ: Nhân trần, Trạch tả, Cát căn đều 15g, sắc uống hoặc chế thành xi rô dùng. Liệu trình 1 - 8 tháng, kết quả tốt đối với Cholesterol, Triglycerid và (-lipoprotein (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Nhân Trần Thang: Nhân trần, Kê huyết đằng đều 30g, Thương truật, Nga truật đều 15g. Dương hư thêm Phụ tử. Âm hư thêm Huyền sâm, sắc đặc uống ngày 1 thang. Dùng từ 1 - 12 tháng. Có tác dụng hạ Cholesterol (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Phức Phương Bồ Công Anh Phiến: Bồ công anh, Tang ký sinh, Sơn tra, Hoàng kỳ, Ngũ vị tử theo tỷ lệ 7: 3 : 3: 3: 1, chế thành viên, mỗi viên có 0,35g thuốc sống. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 6 viên. Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol và Triglycerid (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Phức Phương Minh Tinh Đơn: Quyết minh tử, chế Nam tinh, Sơn tra chế thành, mỗi lần uống 4-6 viên, ngày 31ần, uống 1-3 tháng.Có kết quả đối với Cholesterol và Triglycerid cao (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Phức Phương Sơn Tra Hoàn: Sơn tra 30g, Cát căn 15g, Minh phàn 1,2g, liều một ngày chế thành viên, chia 3 lần uống, liệu trình 4 - 6 tuần, tác dụng tốt đối với hạ Cholesterol, làm hạ (-Lipoprotein nhưng không hạ Triglycerid (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Phức Phương Tam Thất Thang: Tam thất 3g, Sơn tra 24g, Trạch tả 18g, Thảo quyết minh, Hổ trượng đều 15g, tùy chứng gia giảm, ngày uống 1 thang, một liệu trình là một tháng, có tác dụng hạ Cholesterol và Triglycerid (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Quế Tinh Phương (Bạch Hồng Long, Sở cán bộ hưu trí số 1, quân khu Vân Nam): Quế nhục, Chế nam tinh, Quyết minh tử, Nhộng tằm, vỏ Đậu đen hạt to, chế thành viên. Mỗi ngày uống 3 - 4 lần, mỗi lần uống 4 - 6 viên, một liệu trình là một tháng.
Kết quả: 158 ca, trong đó Cholesterol cao 158 ca, sau điều trị, Cholesterol hạ bình quân 58mg%, tỷ lệ có kết quả 90,5%, Triglycerid cao 132 ca, sau điều trị hạ bình quân 56mg%, tỷ lệ có kết quả 90,5%, (-Lipoprotein tăng 116 ca, sau điều trị hạ bình quân
165mg%, tỷ lệ có kết quả 83,62%.
(Bài thuốc có tác dụng ôn hóa đờm thấp, dưỡng can, trừ phong, trị chứng mỡ máu cao thể đàm thấp) (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Tam Sâm Tửu: Nhân sâm, Đơn sâm, Ngũ gia sâm ngâm rượu 35%, ngày uống 20ml x 2 lần, liệu trình một tháng. Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol, Triglycerit, (-Lipoprotein (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Thảo Hà Sơn Hợp Tễ: Thảo quyết minh, Hà diệp, Sơn tra đều 24g, Tang ký sinh 15g, Hà thủ ô 12g, Uất kim 10g là liều lượng một ngày, nấu thành cao 50ml, chia 2 lần uống. Theo tỷ lệ nấu cao uống trong một tháng là một liệu trình. Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol (-Lipoprotein nhưng tác dụng không chắc chắn đối với Triglycerit, có tác dụng phụ gây tiêu chảy nhẹ (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Thiên Sơn Đơn: Thiên trúc hoàng, Sơn tra, Đơn sâm, Trạch tả, liều lượng theo tỷ lệ: 0,5: 1: 2: 2, sấy khô, tán bột mịn, chế thành viên 0,5g, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4 viên, 1 liệu trình 3 tháng, trường hợp Can Thận âm hư thêm Lục Vị Đại Hoàng Hoàn uống. Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol 90%, hạ Triglycerid78% (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Thông Huyết Đơn: Hà thủ ô, Nhân trần, Hồng hoa, Xuyên khung, Xích thược theo tỷ lệ 2: 2: 1:1:1, chế thành viên nặng 0,35g (tương đương thuốc sống 2g), ngày 8 lần, mỗi lần 5 viên, liệu trình từ 1 - 3 tháng. Thuốc có tác dụng hạ cholesterol tốt (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Thủ Ô Hợp Tễ: Sinh thủ ô, Thục địa, Mạch đông, Dạ giao đằng, Bắc sa sâm, Huyền sâm, Hợp hoan bì đều 15g, Cúc hoa, Kê quan hoa, Bạch thược đều l0g, sắc uống, ngày 1 thang. Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Thư Tâm Hoạt Huyết Phương (Thẩm Đạt Minh, bệnh viện trực thuộc viện Trung y học Hồ Bắc): Hoàng kỳ, Đảng sâm, Đương qui, Bồ hoàng đều 9g, Hồng hoa 5g. Theo tỷ lệ chế thành xi rô 96%. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 30mg, 3 tháng là một liệu trình.
- Kết quả: Đã điều trị 74 ca mỡ máu cao có Cholesterol trước điều trị cao nhất là 450mg%, sau điều trị cholesterol cao nhất còn 420mg%, Triglycetrid trước điều trị cao nhất 350mg, sau điều trị cao nhất còn 180mg%. (Bài thuốc có tác dụng trị chứng mỡ máu cao khí huyết ứ) (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
+ Trạch Tả Thang: Trạch tả, Chế thủ ô, Quyết minh tử đều 30g, Bạch truật 15g, Sinh Đại hoàng 6g, ngày uống 1 thang trong 45 ngày. Có tác dụng hạ Cholesterol. và Triglycerit, giảm cân nặng (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học).
Một Số bài thuốc đơn giản kinh nghiệm dân gian trị Cholesterol máu cao:
. Sơn tra, Hà diệp đều 15g sắc uống thay trà. Dùng trị cao huyết áp mỡ máu cao tốt (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Cuống bí ngô 300g, Sơn tra 30g. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Hạch đào nhân 30g, Lá bắp 60g. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Lá Dưa hấu, vỏ Đậu phụng 30g, mỗi ngày 2 - 8 lần (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Bắp, hạt bí ngô đều 30g. Sắc uống, ăn luôn bã (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Cà rốt 1 củ, Đậu phôïng 30g. Nấu ăn ngày 1 - 2 lần (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Bí đao 100g, Cành lê 30g. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Vỏ dưa hấu 60g, Lô căn 30g. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Rau hẹ, Sơn tra, Đào nhân 15g. Sắc nước uống, ngày 1 - 2 lần (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Hải đới 30g, Đậu xanh 20g, Đường đỏ đều 150g. Hải đới ngâm rửa sạch cắt nhỏ nấu với đậu Xanh, cho đường đỏ vào, ăn ngày 2 lần (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Gừng tươi 4 lát, Lá sen 15g, Hoắc hương Sg. Sắc uống ngày 1 - 2 lần (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Lá sen tươi 1 lá to, gạo tẻ l00g, Đường phèn vừa đủ. Nấu nước lá Sen, bỏ xác, cho gạo vào nấu cháo ăn, (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Mộc nhĩ trắng và đen đều 10g, Đường phèn 5g. Mộc nhĩ ngâm nước nóng cho nở, cho nước và đường chưng 1 giờ uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Đậu đen, lá Bắp đều 30g, rễ Hành 10g. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Đậu ván trắng, đậu Đen đều 30g, lá Nho 15g. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Nhân trần, Sơn tra đều 20g, gừng 3 lát. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Rễ cỏ tranh, Sinh địa đều 80g, Mạch môn 18g. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Vỏ mè, Đậu phụng đều 30g, Gừng 3 lát. Sắc uống (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Vỏ Bí ngô già, vỏ Bí đao, lá Sen đều 30g. Sắc nước uống ngày 2 - 3 lần (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Sơn tra 30g, Hà thủ Ô 18g, Trạch tả 12g. Sắc uống ngày 2 - 8 lần (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn).
. Rễ Hành, Rau mùi (Hồ tuy) đều 30g, Mộc nhĩ đen 20g. Sắc uống. Ăn canh Mộc nhĩ ngày 1 - 2 lần (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn)
. Mè đen, Quả dâu tằm (Tang thầm) đều 60g, nếp 30g. Ba vị rửa sạch, bỏ vào cối giã nát. Cho 3 bát nước vào nồi đất đun sôi cho đường vào tan hết nước sôi, cho 3 vị trên vào khuấy thành hồ ăn. (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn)
. Bạch phàn, Uất kim lượng bằng nhau, Tán bột mịn làm hoàn. Ngày uống 3 lần mỗi lần 6 g, uống sau lúc ăn. Một liệu trình 20 ngày (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn)
. Tam thất 3g, Sơn tra 24g, Trạch tả 18g, Thảo quyết minh 15g, Hổ trượng 10g. Sắc uống. Liệu trình một tháng. Dùng cho thể đờm trệ (Trung Hoa Dân Gian Bí Phương Đại Toàn)
Y Án Cholesterol Cao Thể Can Thận Âm Hư, Khí Trệ Huyết Ứ
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng’)
XX, nam, 41 tuổi, cao 1,74m, nặng 86kg. Chóng mặt 3 tháng, khi nóng, mệt mỏi thì càng tăng. Ngực bứt rứt, hơi thở ngắn, ăn uống nhiều, tiện bí, huyết áp 128/90Hg, mạch Huyền Tế, chất lưỡi đỏ, chỉ có thể làm việc nửa ngày. Sơ chẩn ngày 7-6-1979. Xét nghiệm thấy: Cholesterol 320mg %, Beta-lipoprotein 1578mg%, Triglycerid 96mg%. Chẩn đoán xác định là tăng lipid huyết. Cho dùng "Giáng Chỉ Ẩm". Dùng 3 tháng có gián đoạn (tháng đầu tiên dùng được liên tục hơn), thể trọng giảm còn 74kg, huyết áp 116/78mmHg, mạch, lưỡi đều bình thường. Cholesterol giảm còn 289 mg%, Beta-lipoprotein còn 460 mg%, Trriglycerid còn 75%. Cảm giác chóng mặt và bứt rứt đều hết, có thể làm việc cả ngày. Vẫn còn táo bón. Dặn tiếp tục uống bài thuốc trên. Sau khi ngừng thuốc 7 tháng, ngày 20-5-11980 thăm lại thì chư­a thấy tái phát các chứng chóng mặt, bứt rứt trong ngực, thở ngắn, trừ trư­ờng hợp thỉnh thoảng có thấy táo bón, không thấy các chứng khác, huyết áp thường khoảng 118/72mmHg. Xét nghiệm: Cholesterol 180mg%, Beta-lipoprotein 218mg%,Triglycerid64mg%.
CHÓNG MẶT DO BỆNH Ở TAI TRONG
Đại cương
Là một chứng chủ quan với cảm giác chóng mặt, liên quan nhiều đến tiền đình vì vậy còn được gọi là ‘Hội Chứng Tiền Đình’.
Thuộc loại Huyễn Vựng (Huyễn Vậng) của YHCT. Từ chuyên môn gọi là Nhĩ Nguyên Tính Huyễn Vựng, Mỹ Ni Nhĩ Thị Tổng Hợp Chứng, Hội Chứng Mê ni e (Vertige de Menière – Meniere’s Disease).
Khi nói đến bệnh Chóng mặt, người ta thường nghĩ đến Hội Chứng Ménière (Chóng mặt, ù tai và điếc).
Tuy nhiên, gọi là:
+ Bệnh Ménière khi nguyên nhân do xuất huyết ở mê đạo.
+ Hội chứng Ménière khi nguyên nhân là những thương tổn loại khác ở mê đạo như Giang mai, viêm nhiễm, động mạch xơ cứng, dị ứng, co thắt…
Chứng:
Người bệnh thấy nhà cửa và đồ vật chung quanh bị quay lộn nhiều hướng kèm theo rối loạn thần kinh thực vật (tím tái, ra mồ hôi, tim đập nhanh, muốn nôn, nôn mửa…). Ngoài ra, còn có thể có các biểu hiện rung nhãn cầu ở mắt, lệch trỏ ngón tay, mất thăng bằng đi đứng. Triệu chứng điếc và ù tai thường rõ rệt trong thời gian điều trị và có thể bớt dần vào vài tháng sau.
Trên thực tế lâm sàng thường gặp hai loại sau:
THỰC CHỨNG
a- Triệu chứng:
Đột nhiên ù tai rồi chóng mặt, hoa mắt, có cảm giác như nhà cửa, đồ vật xoay chuyển bắt người bệnh phải nhắm mắt và nằm xuống nếu không sẽ ngã. Thường kèm theo muốn nôn, nôn mửa, mặt nhợt nhạt, ra mồ hôi. Cơn chóng mặt xẩy ra có khi chốc lát, có khi kéo dài mấy tiếng đồng hồ, đôi khi mấy ngày. Nóng khát, bón, nước tiểu vàng, mạch Thực.
b- Nguyên nhân:
+ Theo YHHĐ: có thể do Nhiễm khuẩn (viêm tiền đình), chấn thương gây vỡ xương đá, rối loạn vận mạch (huyết sáp cao), u góc cầu tiểu não, kích thích giao cảm.
+ Theo YHCT: chủ yếu do Can hoả hoá phong bốc lên hoặc do đờm thấp đình trệ, khí thanh dương không đưa lên gây nên.
c- Điều trị
. Bình Can, tiềm dương: nếu do Can hoả vượng.
. Kiện Tỳ, hoá đờm: nếu do đờm thấp đình trệ hoặc thanh hoả, hoá đờm nếu do đờm hoả.
* DƯỢC
+ Thiên Ma Câu Đằng Ẩm (52) thêm Hà thủ ô trắng. Sắc uống.
(Thiên ma + Câu đằng + Thạch quyết minh bình Can dương, tức Can phong; Sơn chi + Hoàng cầm tiết Can hỏa; Tang chi + Đỗ trọng + Ngưu tất bổ thận âm, dưỡng can huyết, lại có tác dụng thông lạc; Dạ giao đằng + Phục thần dưỡng huyết, an thần).
+ Linh Dương Câu Đằng Ẩm (21).
(Linh dương giác, Câu đằng, Tang diệp, Cúc hoa thanh nhiệt, bình Can, tức phong, giải kính; Sinh địa, Bạch thược, Cam thảo lương huyết, dưỡng Can, tư dịch, thư cân, hoãn giải sựï co giật; Bối mẫu, Trúc nhự hoá đờm, thông lạc; Phục thần ninh Tâm, an thần).
Hóa Ngưng Trừ Ẩm Thang (15).
(Trạch tả lợi thủy, tiêu ẩm, dẫn thuốc đi xuống, làm chủ dược; Phụ có Bạch truật, Chỉ xác, Bán hạ hành khí, kiện Tỳ, hòa Vị, là nguồn gốc sinh ra đờm, cầm nôn mửa; Đào nhân, Hồng hoa, Xích thược hóa ứ, thông lạc; Thiên ma, Câu đằng tức phong, bình Can để trị chóng mặt; Ngưu tất hoạt huyết, khứ ứ, lợi thủy, thông lâm, dẫn huyết đi xuống).
Sài Hồ Trạch Tả Thang (43), Thông Khiếu Giải Độc thang (55).
- Lá Cối xay phơi khô, sao vàng, hạ thổ. Mỗi lần dùng 20g, sắc với 3 chén nước còn một chén, uống lúc đói.
HƯ CHỨNG
a- Triệu chứng
Đột nhiên ù tai rồi chóng mặt, hoa mắt, có cảm giác như nhà cửa, đồ vật xoay chuyển bắt người bệnh phải nhắm mắt và nằm xuống nếu không sẽ ngã. Thường kèm theo muốn nôn, nôn mửa, mặt nhợt nhạt, ra mồ hôi. Cơn chóng mặt xẩy ra có khi chốc lát, có khi kéo dài mấy tiếng đồng hồ, đôi khi mấy ngày. Nóng khát, bón, nước tiểu vàng. Đặc biệt khi lao động thì hoa mắt, chóng mặt càng tăng, ăn ngủ kém, sắc xanh, mạch Hư không lực.
Nếu do hội chứng Ménière: Lên từng cơn dữ dội, tai nghe ù ù và chói, đôi khi hoàn toàn không nghe thấy gì nữa hoặc ngã xuống mà vẫn tỉnh táo.
b- Nguyên nhân
+ Theo YHHĐ: có thể do nhiễm độc chất Nicotin (trong thuốc lá), Ký ninh (Quinin), Strptomycine, Nghiện rượu.
+ Theo YHCT:
. Chủ yếu do Can Thận suy, Tâm Tỳ suy, Thận thuỷ suy kém không nuôi dưỡng được Can huyết làm cho Can dương vượng lên gây ra bệnh.
. Với hội chứng Ménière: chủ yếu do phong, thấp quá nhiều, Thận tinh suy kém, Tuỷ hải trống rỗng, trên dưới đều hư.
Thiên ‘Hải Luận’ (Linh Khu 33) ghi: “Tủy hải bất túc thì não bị chuyển, tai ù, chân buốt, choáng váng, mắt không trông thấy gì, uể oải, thích nằm…”.
c- Điều trị:
Tư dưỡng Can Thận, bổ Tâm, Tỳ.
DƯỢC
Do Can Thận Hư: dùng bài:
+ Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn (20)
(Thục địa tư Thận, dưỡng tinh, là chủ dược; Sơn thù dưỡng Can, sáp tinh; Sơn dược bổ tỳ, cố tinh; Trạch tả thanh tả Thận hỏa, giảm bớt nê trệ của Thục địa; Đơn bì thanh can hỏa, giúp giảm bớt tính ôn của Sơn thù; Bạch linh trừ thấp, giúp Hoài Sơn kiện Tỳ. Thêm Cúc hoa, Kỷ tử để làm nhẹ đầu, sáng mắt).
+ Chỉ Huyễn Thang (06).
+ Huyễn Vựng Phương (18).
+ Nhị Căn Thang (35).
+ Trấn Huyễn Ôân Đởm Thang (59).
Do Tâm Tỳ suy: dùng bài:
+ Quy Tỳ Thang (39).
(Dùng Sâm + Bạch truật + Chích thảo để kiện Tỳ, ích khí; Thêm Hoàng kỳ để tăng thêm công hiệu ích khí; Táo nhân + Viễn chí + Quế để dưỡng Tâm, an thần; Mộc hương lý khí, tỉnh Tỳ, Táo nhân, Viễn chí, Quế để dưỡng Tâm huyết mà an thần).
+ Chỉ Huyễn Trừ Vựng Thang (07).
+ Đại Bổ Nguyên Tiễn (10).
+ Định Huyễn Thang (14).
+ Ngô Linh Thang (27).
Ngũ Vị Tử Hợp Tễ (30).
(Toan táo nhân, Ngũ vị tử, Long nhãn nhục dưỡng Tâm, an thần; Sơn dược kiện Tỳ, ích khí; Đương quy dưỡng huyết, hoạt huyết. Khí được mạnh lên, huyết vận hành thì chứng chóng mặt cũng tự khỏi).
Hoặc dùng:
+ Long nhãn, xắt nhỏ, trộn với Mè đen, thêm ít đường, nghiền nát. Nấu đặc giống như cháo, ngày ăn hai chén nhỏ. Chứng 15 ngày thường là có kết quả, nhất là đối với người lớn tuổi, khí huyết suy kém.
+ Long nhãn 7 trái, bỏ vỏ, hột + trứng gà 1 trái. Trộn chung, chưng cách thuỷ cho chín, ăn vào buổi sáng. Liên tục trong một tuần, thường có kết quả tốt.
CƠN ĐAU THẮT NGỰC&THIẾU MÁU CƠ TIM
Đại Cương
Bệnh thiếu máu tim cục bộ hay thiếu máu cơ tim là một trong những biểu hiện thường gặp nhất của bệnh xơ mỡ động mạch. Bệnh thiếu máu tim là bệnh thường gặp ở người lớn tuổi và là nguyên nhân tử vong cao (ở các nước phát triển, 50% các trường hợp tử vong là do thiếu máu tim).
Theo cách phân loại của tổ chức Y Tế Thế giới (OMS) năm 1967, bệnh thiếu máu tim gồm những thể chính sau:
+ Nhồi máu cơ tim cấp dìễn (Acute myocardial infarction).
+ Cơn đau thắt tim, còn gọi là cơn đau thắt ngực (Angor pectoris).
+ Những thể thiếu máu tim cấp và bán cấp khác.
+ Thể thiếu máu tim không triệu chứng (hay thể không đau, thể loạn nhịp).
Sau nhiều lần đau thắt tim tái phát, quá trình thiếu máu tim tiến triển kéo dài dẫn đến xơ hóa cơ tim (Cardiosclérose).
Theo nhiều tác giả về tim học thì 90% trường hợp đau thắt tức là hậu quả của bệnh nhiễm mỡ xơ mạch vành, do đó trong điều trị, ngoài việc cắt cơn đau cần chú ý phát hiện và điều trị bệnh nhiễm mỡ xơ mạch (hoặc huyết áp cao thường đi kèm).
Trong bệnh thiếu máu tim mạn tính, hiện nay tim học phân biệt 2 thể đau thắt tim:
1) Cơn đau thắt tim thể ổn định (Angor stable) có đặc điểm là cơn đau tái phát nhiều lần trong thời gian 3 tháng mà số lần và mức độ không thay đổi đáng kể là thể nhẹ lành tính.
2) Cơn đau thắt tim thể bất ổn (Angors instables) có nhiều loại đau thắt tim với những tên gọi khác nhau như: Hội chứng trung gian (Syndronle intermédiate), hội chứng tiền nhồi máu (Syndrome pré-infarct), hội chứng đe dọa (Synclrome de menace). Đặc điểm cơn đau ở thể này là xuất hiện dễ hơn, nặng hơn, kéo dài hơn, cơn đau không do gắng sức, ban đêm hoặc đau dữ dội...
Nguyên Nhân Và Cơ Chế Bệnh Lý Của Bệnh Đau Thắt Ngực Và Thiếu Máu Tim
+ Nhiễm mỡ xơ mạch vành: là nguyên nhân trong 90% trường hợp. Cơn đau thắt tim do nhiễm mỡ xơ mạch tiên lượng xấu, dễ chuyển sang nhồi máu cơ tim, loạn nhịp tim, suy tim, chết đột ngột.
+ Các nguyên nhân khác (10%).
. Tổn thương thực thể ở động mạch vành hoặc suy chức năng mạch vành: Tổn thương thực thể như viêm động mạch vành do giang mai, viêm quanh nút động mạch, tắc mạch vành do máu cục từ xa đưa đến.
. Suy động mạch vành chủ yếu do hẹp van động mạch chủ, calci hóa hay không, hở van động mạch chủ nặng: hẹp hai lá khít, cơn nhịp nhanh kịch phát, thiếu máu nặng kéo dài...
Cơ chế bệnh lý: Do thiếu máu nên thiếu oxy và để có năng lượng sống, tế bào cơ tim phải cho phân hủy Adenonucleotid để tạo năng lượng. Và trong quá trình phóng chất Adenosin gây nên đau.
Triệu Chứng Lâm Sàng
A - Cơn điển hình
- Đau sau xương ức đột ngột, thường xảy ra khi đang đi vội, leo dốc, lên cầu thang, khi trời lạnh v.v...
- Cảm giác tức ngực như có vật đè lên sau xương ức hoặc bên trái, đau lên hai vai, hai quai hàm dưới, phía trong tay trái lan lên cổ. Cũng có khi cảm giác đau nhói hoặc nóng bỏng.
- Cảm giác bồn chồn lo sợ, cơn kéo dài vài giây đến vài phút. Nếu kéo dài hơn nửa giờ phải nghĩ đến nhồi máu cơ tim.
Cơn có thể thưa hay mau. Cơn càng mau, càng kéo dài, tiên lượng càng xấu. Cơn đau có thể chấm dứt hoặc giảm ngay sau khi hết yếu tố kích thích hoặc 1-5 phút sau khi dùng các Nitrat tác dụng nhanh như ngậm dưới lưỡi viên Nitroglycerin.
Trong thời gian cơn đau, bệnh nhân không có triệu chứng gì khác. Mạch, huyết áp nghe tim phổi bình thường. Mạch Trầm, Tế, Sác.
B- Cơn không điển hình
- Vị trí và hướng lan: Có khi chỉ đau ở tay, vùng thượng vị, vùng trên xương ức, vùng cổ. Có khi lan ra sau gáy, xuống lưng, ra hai tay ngón út nhưng không bao giờ lan ra ngón cái, và hàm trên.
- Cường độ đau : Có khi chỉ có cảm giác tức sau xương ức.
- Điều kiện xuất hiện: Cơn đau thắt ngực có khi tự phát, xảy ra lúc ngủ hoặc có cơn xúc động mạnh. Có khi xảy ra liên tục, xuất hiện dễ dàng chỉ sau một cử động nhẹ.
Triệu chứng lâm sàng còn tùy theo thể loại đau thắt tim mà có khác (đã nêu ở phần đại cương).
C- Chẩn Đoán Xác Định Và Phân Biệt Chẩn Đoán:
1) Chẩn đoán xác định cần chú ý:
Triệu chứng lâm sàng của thể điển hình và không điển hình.
Phân biệt 3 thể bệnh: ổn định, không ổn định và thể biến thái. Một số điểm chẩn đoán phân biệt:
Các Thể Đau Thắt Ngực
Ổn định mãn
Không ổn định
Biến thái
Đau xuất hiện khi:
+ Gắng sức.
+ Xúc động.
+ Nghỉ, yên tĩnh.
+
+
-
+ +
+ +
(+)
-
-
(+)
Nguyên nhân: Chủ yếu do khí trệ, huyết ứ.
Điều Trị Bằng Y Học Cổ Truyền
Nguyên tắc chung: Hành khí, hoạt huyết, thông dương, hóa trọc.
A- Đang lên cơn :
Chủ yếu là dùng các biện pháp cấp cứu tích cực. Cần sử dụng Nitroglycerine (Trinitrine), cho thở oxy. Ở Trung Quốc có chế các loại thuốc phun sương như chữa chứng hàn thì dùng thuốc ‘Phun Sương Tâm Thống’ thể hàn (Nhục quế, Hương phụ). Thuốc ‘Phun Sương Tâm Thống’ thể nhiệt (Đơn bì, Xuyên khung...). Các học giả Trung Quốc cho là tác dụng không kém Nitroglycerin.
Các y gia Trung Quốc còn dùng thuốc tiêm như dịch tiêm Xuyên khung, mỗi ống 40mg, mỗi lần dùng 40 - 120mg cho vào dung dịch Glucoza 5%, 150ml - 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, hoặc dùng dịch tiêm ‘Phức Phương Đơn sâm’ 2-4ml chích bắp hoặc dùng 10 - 20ml cho vào dung dịch Glucoza 10% - 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, mỗi ngày 1 - 2 lần. Hoặc dùng dịch tiêm ‘Sâm Mạch’ (có Nhân sâm, Mạch môn) 20 - 80ml cho vào dịch Glucoza 50% nhỏ giọt tĩnh mạch ngày 2-4 lần hoặc dùng dịch ‘Sâm Mạch’ l00ml cho vào Glucoza 10% - 250ml nhỏ giọt tĩnh mạch, ngày một lần. Theo báo cáo của Trịnh Tân (Sở nghiên cứu trung y Trùng Khánh) thì dịch ‘Sâm Mạch’ có kết quả tốt đối với cơn đau thắt ngực, choáng, loạn nhịp và suy tim. Trường họp cơn nặng cần sử dụng thuốc Tây và cho bệnh nhân thở oxy. Nếu không có sẵn các loại Đông dược dạng thuốc ngậm, thuốc tiêm và thuốc phun sương thì lúc đang cơn đau ngực chủ yếu là dùng thuốc Tây kết hợp châm cứu bấm huyệt, xoa bóp.
Các huyệt thường dùng: Chiên trung (chủ huyệt), phối hợp Nội quan, Cự khuyết, Gian sử, Túc tam lý.
Bấm huyệt Nội quan dùng lực mạnh và bảo bệnh nhân thở sâu liên tục 3 lần, đau giảm. Có kinh nghiệm day bấm huyệt điểm giữa đường nối 2 huyệt Tâm du và Quyết âm du bên trái trong 1-2 phút, đau giảm rõ.
+ Châm Nội quan (tổng huyệt trị bệnh lồng ngực, làm cho tim phổi điều hòa thư thái), Tâm du (làm cho huyết lưu thông khỏi ứ trệ gây đau), Chiên trung (huyệt hội của khí, làm cho khí lưu thông, ngực được nhẹ nhàng), Hợp cốc.
Có thể châm nhiều lần trong ngày tùy số lượng cơn đau.
Khi đang lên cơn đau, châm kích thích mạnh, phải đắc khí để đạt hiệu quả giảm đau, người bệnh thấy dễ chịu vùng ngực. Lưu kim 30 phút, cứ 10 phút vê kim một lần.
B- Sau Cơn Đau
Ngoài các biện pháp như phần trên đã nêu, dùng thuốc Đông y theo biện chứng có vai trò tích cực. Có thể chia mấy thể bệnh dùng thuốc như sau:
+ Tâm khí suy hợp với ứ huyết, đàm tắc: Ngoài cơn đau ngực, tức ngực có triệu chứng mệt mỏi, sắc mặt tái, tự ra mồ hôi, chân tay yếu, lưỡi nhạt, mạch Nhược, hoặc chất lưỡi tím, thân lười bệu, mạch Trầm Hoạt.
Điều trị: Bổ tâm khí kèm hoạt huyết, hóa đàm. Dùng bài Bảo Nguyên Thang gia vị: Nhân sâm 6-10g, Hoàng kỳ 20-30g, Bạch truật 12g, Bạch linh 12g, Quế chi 8 – l0g, Đương qui 12-16g, Đơn sâm 1-16g, Xích thược 12g, Xuyên khung 8-10g, Quất bì 8-10g, Chỉ xác 8g, Bán hạ chế 8-10g, Chích thảo 4g.
-Gia giảm: Tim hồi hộp, mất ngủ thêm Táo nhân (sao) 16-20g, Bá tử nhân 12g. Dương hư (chân tay lạnh mạch Trầm Trì) thêm Phụ phiến 6-12g, Can khương 6-10g, ngày một thang sắc uống.
+ Âm hư dương thịnh: Đau ngực từng lúc, váng đầu, đau đầu, bứt rứt, dễ tức giận, sắc mặt đỏ, miệng khô, buồn nôn, lòng bàn tay chân và ngực nóng, mất ngủ, chân tay tê dại, táo bón, mạch Huyền Sác, chất lưỡi và rêu lưỡi đỏ, hoặc rêu lưỡi vàng nhớt hoặc mỏng (thể này thường kèm huyết áp cao).
Điều trị: Tư âm, tiềm dương. Dùng bài ‘Thiên Ma Câu Đằng Ẩm’ hợp với ‘Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn’ gia giảm: Sinh địa l6-20g, Hoài sơn 12g, Bạch linh 12-16g, Trạch tả 12g, Đơn bì 12g, Đơn sâm 12-16g, Thiên ma 10 12g, Câu đằng 12g, Thạch quyết minh 16-20g, Bá tử nhân 12-16g, Cúc hoa 12g, Câu kỷ tử 12-16g. Sắc uống ngày một thang.
+ Khí Aâm Lưỡng Hư Hợp Với Ưù Huyết, Đờm Uất: Mệt mỏi, ngực đau lâm râm, ngắn hơi, họng có đờm nhưng miệng khô, ra mồ hôi, ngũ tâm phiền nhiệt, chất lưỡi tím bầm, khô, ít rêu, mạch Hư, Tế, Sác hoặc Kết Đại.
Điều trị: Bổ khí âm kiêm hoạt huyết, hóa đờm. Dùng bài ‘Chích Cam Thảo Thang’ hợp với ‘Sinh Mạch Tán’ gia giảm: Ngọc trúc 12-16g, chích Cam thảo 6-8g, Nhân sâm 6-10g, Hoàng kỳ 12-20g, Mạch môn 12-16g, Ngũ vị tử 6-8g, Sinh địa 12-16g, Đơn sâm l2-16g, Qua lâu 12g, A giao (hòa uống) 12g, Quế chi 6g, Gừng tươi 6-12g.
Nếu hoa mắt, đau đầu: thêm Cúc hoa, Kỷ tử; Đau lưng, mỏi gối thêm Tang ký sinh, Sơn thù, Xuyên Ngưu tất; Tim hồi hộp, mất ngủ thêm Táo nhân (sao), Long nhãn nhục, Viễn chí...
Chứng đau thắt ngực biểu hiện lâm sàng thường là hư thực lẫn lộn, diễn tiến thay đổi nhiều, trên dây chỉ nêu một số thể bệnh thường gặp. Hư chứng thường là khí hư hoặc khí âm hư, thực chứng thường là can dương thịnh hoặc kiêm huyết ứ, kiêm thấp đàm, khi điều trị cần chú ý, khi cấp diễn phải kết hợp thuốc Tây, oxy liệu pháp cấp cứu kịp thời.
C- MỘT SỐ BÀI THUỐC KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ ĐAU THẮT NGỰC
(Theo sách ‘Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn’):
+ Quan Tâm Đơn sâm Hoàn (Hứa Thiểu Vinh và cộng sự): Sâm tam thất, Đơn sâm, Giáng hương chế thành hoàn, mỗi lần 3 hoàn, ngày 3 lần, 30 ngày là một liệu trình.
Tác dụng chủ trị: Hoạt huyết, hóa ứ, lý khí, trị bệnh động mạch vành, đau thắt ngực.
+ Kiện Tâm Linh (Khoa Nội Bệnh Viện Trực Thuộc Học Viện Trung Y Sơn Đông): Hoàng kỳ 45g, Đảng sâm 80g, Đơn sâm 80g, Khương hoàng 9g hoặc Uất kim 9g), Huyền hồ (hoặc Huyền hồ bột hòa uống), Quế chi 9g, chích Cam thảo 6g, sắc uống.
Biện chứng gia giảm: Đờm thấp nhiều thêm Qua lâu, Phỉ bạch, Bán hạ, Trần bì, Bạch giới tử, Hoắc hương, Bội lan. Âm hư bỏ Quế chi thêm Sa sâm, Mạch môn, Hoàng tinh, Ngọc trúc, Thạch hộc. Dương thịnh thêm Cúc hoa, Câu đằng, Trân châu mẫu. Huyết ứ nặng thêm Xuyên khung, Hồng hoa, Xích thược, Sinh bồ hoàng...
+ Hy Thiêm Kiện Tâm Phương (Bệnh viện giải phóng quân Quảng Châu): Mao đông thanh căn 2,5kg, Hy thiêm thảo, Xuyên Hồng hoa 90g, Đơn sâm 90g: Sâm tam thất 120g, Giáng hương 30g, Băng phiến 6g, tán bột trộn đều, trộn nước làm hoàn. Ngày uống 3 lần mỗi lần 6g.
Tác dụng chủ trị: Bổ Can Thận, ích nguyên khí, thông hung tý. Trị bệnh động mạch vành, đau thắt ngực.
Đã dùng trị 10 ca đau thắt ngực sau 3 liệu trình (mỗi liệu trình 30 ngày) kết quả tốt 75,5%, có kết quả 95,9%).
. Chế phụ phiến 15g (sắc trước,) Can khương 6g, bột Nhục quế 3g (hòa thuốc uống) Đương qui 12g, Tế tân 6g, Phỉ bạch 80g, Xích thược 10g, Bạch thược 30g), Hoàng kỳ 30g, Nhũ hương 10g, Một dược 10g, Tất bát 10g, Chích thảo 6g sắc uống. Ngày một thang, uống liên tục một tháng (trị cơn đau thắt ngực sợ lạnh, chân tay lạnh).
b) Sài hồ 15g, Uất kim 12g, Bạch thược 12g, Diên Hồ sách 10g, Chích thảo 6g, Quế chi 10g, Đơn sâm 30g, Khương hoạt 10g, Tế tân 6g, Chế phụ phiến 10g sắc nước uống Ngày một thang uống 15 - 80 ngày [dùng cho trường hợp đau nhiều ở mạn sườn] (Bách Bệnh Lương Phương).
. Sao Bạch thược 50g, Cam thảo 12g, Đơn sâm 30g, Câu đằng 12g, Sơn giáp 12g, Dã Cúc hoa 45g, Phục linh 10g, Mạch đông 30g, Uy linh tiên 10g, Lạc thạch đằng 30g, Kê huyết đằng 80g, Ngô công 2 con, Ô tiêu xà 20g. Sắc nước uống [dùng trong trường hợp âm hư dương kháng] (Bách Bệnh Lương Phương).
d) Bạch thược 50g, Cam thảo 10g, Sa sâm 20g, Mạch đông 20g, Sinh địa 30g, Đương quy 80g, Câu kỷ 15g, Xuyên luyện tử 10g, Uất kim 12g, Kê huyết đằng 30g, Toàn yết 10g, Ngô công 2 con. Sắc uống [dùng cho cơn đau thắt ngực do tinh thần bị kích động] (Bách Bệnh Lương Phương).
+ Dùng mô ngón tay cái xoa bóp huyệt Linh đạo cho mềm trong 1 phút rưỡi, sau đó đè ép mạnh lên huyệt trong 2 phút, sau cùng lại nắn bóp trong 1 phút rưỡi. Mỗi ngày làm một lần, 15 ngày là một liệu trình. Mỗi liệu trình cách nhau 3 ngày (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu).
+ Châm huyệt Nội quan một bên, sâu 0,5-0,7 thốn. Sau đó nối với máy châm, xung điện bổ (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu).
+ Châm huyệt Nội quan hai bên. Khi đắc khí thì vê kim 120-180 độ, tần suất 80-100 lần/phút., vê kim 2 phút xong, lưu kim 15 phút. Cách một ngày làm một lần. 12 lần là một lần điều trị (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu).
Ghi chú: Trong quá trình mắc bệnh, cơn đau tim có thể đỡ dần trái lại nặng hơn lên. Biến chứng thường thấy nhất là chết đột ngột (40-50%), rồi đến tắc động mạch Tim (25%). Do đó, bệnh nhân cần biết giữ gìn, không làm việc gắng sức, tránh tắm lạnh, gió lạnh, tránh xúc động mạnh.
Kinh Nghiệm Điều Trị Của Nhật Bản (Theo ‘Chinese Herbal Medicine And The Problem OfAgging’).
+ Chi Tử Xị Thang và Chi Tử Cam Thảo Xị Thang dùng trong trường hợp ngực đau nặng và xung huyết huyết ngực đột ngột xuất hiện.
Chi tử giống như Hoàng cầm là chất làm cho mạch máu săn lại và làm giảm đau. Đậu xị được chế biến, là một chất có tác dụng hạ sốt, giảm nhẹ xung huyết ở ngực và dạ dày.
+ Quế Chi Sinh Khương Chỉ Thực Thang: có tác dụng làm giảm nhẹ cơn đau đột ngột có cảm giác như dao cắt vào tim.
+ Qua Lâu Phỉ Bạch Bán Hạ Thang:dùng trong trường hợp đau nthắt ngực do hút thuốc nặng, có cơ thể khoẻ mạnh, đờm đặc và xung huyết ngực.
+ Đương Quy Thang dùng trong trường hợp sá mặt xanh xao, ngực đau thể hàn kèm đau lan ra sau lưng.
+ Sài Hồ Gia Long Cốt Mẫu Lệ Thang: dùng trong trường hợp bệnh nhân thể tạng bình thường, nặng dưới tim, đau tim, hồi hộp dễ kích động dẫn đến rối loạn thần kinh tim.
BỆNH ÁN ĐIỂN HÌNH
Bệnh Án Đau Thắt Ngực Do Xơ Động Mạch Vành
(Trích trong (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Phan X, nữ, 49 tuổi, nhân viên, khám cấp cứu sáng 17-5-1978. Bệnh nhân sáng sớm dậy đột nhiên thấy vùng trước tim đau nhức, lan ra đau khắp vùng sau vai trái, chân tay lạnh toát, mặt xanh tái, ngậm viên Nitroglycerin 1,6mg thì cảm giác có dễ chịu ít nhiều. Bệnh nhân có bệnh sử động mạch vành đã 3 năm. Lần sau đến khám có làm xét nghiệm kiểm tra và làm điện tâm đồ, chẩn đoán là bệnh xơ động mạch vành. Đây là khí trệ huyết ứ phải trị bằng phép lý khí đạo trệ, hóa ứ chỉ thống. Dùng bài thuốc "Quan Tâm Trục Ứ Thang’ (Sinh bồ hoàng 15g, Ngũ linh chi 15g, Nguyên hồ 15g, Sinh sơn tra 25g, Đan sâm 25g, Qua lâu bì 15g, Cát căn 15g, Chỉ xác 15g, Uất kim 30g, Bạch chỉ 15g, Ng­u tất 15g, Thất Ly Tán 1 túi (chia hai lần uống với nước thuốc). Sắc uống mỗi ngày 1 thang, chia 2 lần). Uống 4 thang đã bớt đau hẳn ở vùng trước tim, chân tay ấm, sắc mặt hồng nhuận. Cho uống thêm 3 thang nữa đồng thời chú ý điều lý việc ăn uống, yên tâm nghỉ ngơi. Ngày 24 tháng 5 đến khám, vùng trước tim cơ bản hết đau nhói, mạch đập 110 lần/phút. Xét nghiệm máu và kiểm tra điện tâm đồ đều chứng tỏ tình trạng tim tốt. Dặn uống thêm 4 thang bài thuốc đó. Ngày 29 tháng 5 khám lại, chứng đau vùng tim hết hẳn, chân tay ấm, sắc mặt bình thường, rìa lưỡi vốn cơ bản tím đã nhạt đi, mạch Trầm Hoãn, ăn uống tăng, huyết áp 120/80mmHg, mạch đập 105lần/phút. Kiểm tra điện tâm đồ như­ trước. Dùng bài thuốc trên bỏ Nguyên hồ, Cát căn, Bạch chỉ thêm Bán hạ 15g, Lục thần khúc 15g, Đảng sâm 15g, Đ­ương qui 15g. Dặn uống tiếp 4 thang. Ngày 25 tháng 6 bệnh nhân đến làm các xét nghiệm đều thấy gần như­ bình thường, không cảm thấy có gì khó chịu. Do đó cho 1 lọ Quan Tâm Tô Hợp Hoàn, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên. Lại dặn chú ý vấn đề sinh hoạt, đi đứng, điều lý việc ăn uống, làm cho tinh thần thoải mái. Theo dõi nửa năm, chư­a thấy tái phát.
Bệnh Án Đau Thắt Ngực Do Xơ Động Mạch Vành
(Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Chu X, nam, 60 tuổi, công nhân. Một tháng gần đây sau mỗi lần lao động nặng nhọc thì lại thấy vùng trước tim đau đớn như bị đè ép, mỗi lần có thể kéo dài tới hơn 10 phút, kèm đầu váng, ho, nhiều đờm. Vì đau ngực dữ dội kèm ra mồ hôi lạnh 4 giờ liền nên ngày 18 tháng 5 năm 1977 phải vào viện cấp cứu, Điện tâm đồ cho thấy nhịp tim thể hang, động mạch vành không cung cấp đủ máu cấp tính. Sau khi nhập viện tiêm bắp 50mg Dolantin, thở oxy thì đỡ đau, sau đó thường cho dùng 0,2g Aminophyllin, mỗi ngày 3 lần ngậm dưới lưỡi viên Trinitroglycerin. Đông y hội chẩn thấy người bệnh sắc mặt xanh tím, ra mồ hôi, vẻ ngoài khổ sở, chất lưỡi đỏ nhạt, có ban ứ, rêu lưỡi bẩn, mạch t­ượng Huyền Hoạt. Có tiền sử hút thuốc lá, uống rượu, có tiền sử viêm phế quản mạn tính, chẩn đoán là hung dương không hư­ng phấn lên được, đờm trọc ứ tắc, cần phải trị bằng tuyên tý thông dư­ơng, khử đàm hóa trọc, hoạt huyết hóa ứ. Cho dùng "Ôn Đởm Thang gia vị’ (Phục linh 15g, Pháp hạ 9g, Trần bì 9g, Trúc nhự 9g, Chỉ thực 12g, Qua lâu xác 30g, Giới bạch 9g, Giáng hương 15g, Đan sâm 15g, Xuyên khung 15g, Hồng hoa 9g, Quế chi 9g, Bạch truật 15g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang). Sau khi uống 3 thang, hết đau ngực, uống hết 6 thang thì rêu lưỡi đỡ vàng bẩn, đỡ ho. Sau đó lại xuất hiện chứng thở dốc, đêm ngủ hay bị mơ. Dùng bài trên, thêm các vị ích khí an thần: Thái tử sâm 30g, Viễn chí 9g, Bá tử nhân 12g, Dạ giao đằng 30g. Uống xong thì đêm ngủ yên. Sau đó lại đau lưng, đêm đi tiểu nhiều nên lại thêm các thuốc bổ thận như­ Tiên linh tì 9g, Thỏ ti tử 15g. Dùng thuốc gia giảm hơn 3 tháng, chư­a thấy tim trở lại đau thắt, làm điện tâm đồ nhiều lần thấy đã khôi phục như­ thường.
Bệnh Án Đau Thắt Động Mạch Vành
(Trích trong (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Tr­ương X, nam, 56 tuổi, xã viên, sơ chẩn ngày 21-3-1975. Người bệnh thường vẫn phát sinh hỏang hốt, thở gấp, đau thắt tim ngực không chịu nổi, thường nằm mơ giật mình dậy, đã hơn nửa năm. Đã từng chẩn đoán là đau thắt động mạch vành, dùng không ít các thuốc đông thuốc tây mà không kiến hiệu. Khám thấy dinh d­ưỡng trung bình, vẻ người buồn khổ, da mềm, mặt xanh nhạt, nghe phổi bình thường, tiếng tim yếu mà nhanh, tim đập 156 lần/phút, mạch Kết Đại, rêu lưỡi mỏng trắng. Dùng một thang "Phức Phương Đan Sâm Ẩm’ (Đan sâm 15g, Giáng hương 15g, Mộc thông 12g, V­ương bất l­ưu hành 12g, Tam thất 6g, Thông thảo 3g. Sắc uống), thấy các triệu chứng đỡ, bớt hẳn đau ngực, tiếng tim vẫn yếu, tim đập 142 lần/phút, mạch Trầm mà Đại, lại cho uống tiếp 2 thang. Ngày 28 tháng 3 khám lại đã hết đau ngực, không có cảm giác đè nén. Còn hơi thấy tay chân bải hỏai. Đại tiện kết táo, tim còn đập 110 lần/phút, vẫn uống bài trên bỏ Tam thất, V­ương bất l­ưu hành, uống 4 thang. Cảm thấy các chứng đều hết, đã như­ lúc thường. Theo dõi hỏi lại chư­a thấy tái phát, người khỏe mạnh, có thể làm mọi việc lao động chân tay ở nông thôn.
Bệnh Án Đau Thắt Ngực
(Trích trong ‘Chinese Herbal Medicine And The Problem Of Agging’).
Một bệnh nhân nam 62 tuổi than phiền thấy khó thở, ngực đau và đau co thắt tim ngay cả khi đi bộ lên xuống cầu thang cũng rất đau, mặc dù ông ta không ăn quá nhiều, thích ăn thịt và rượu, hút 10 điếu thuốc lá một ngày, thích ăn ngọt và nóng, cũng như chè và nước. Ông ta thường cảm thấy khát mặc dù không thường xuyên đi đái và khi bị cảm lạnh thì sốt không xẩy ra, trong mùa hè thường có những đợt tiêu chảy. Các dấu hiệu khác là thiếu máu, môi khô, mạch nhanh, đau ngực nhẹ, nặng vùng dưới tim và phập phồng ở rốn. Cho ông ta dùng bài Sài Hồ Quế Chi Can Khương Thang; sau 4 tháng, hiên tượng phập phồng biến mất cùng với những khó chịu ở ngực và trọng lượng cơ thể đã tăng được 2 kg CƠN ĐAU QUẶN THẬN
(Thận Giảo Thống)
Là hiện tượng do sỏi nhỏ đang đi xuống trong niệu quản, làm cho Thận và niệu quản co thắt gây nên. Đa số phát ở một bên, nam giới bị nhiều hơn nữ.
Đông y quy bệnh này vào chứng ‘Thạch Lâm’, Thận Kết Thạch, Du Niệu Quản Kết Thạch.
Triệu Chứng
Đột nhiên đau quặn bụng dưới dữ dội, đau như cắt, đau lan ra sau lưng và lan xuống mé trong đùi, đường tiểu đau, tức, muốn tiểu không tiểu được, mặt tái, ra mồ hôi, muốn nôn hoặc nôn mửa, có thể ngất.
Tùy vị trí và tính chất của sỏi mà biểu hiện cơn đau khác nhau:
. Đau do sỏi bể thận: Nếu sỏi nằm trong nhu mô thận, ít gây đau. Sỏi nằm trong bể thận hoặc đài thận gây ứ nước tiểu ở bể thận, đài thận hoặc gây viêm nhiễm thứ phát hoặc đau âm ỉ vùng một bên hông hoặc cả hai bên. Có khi kèm đái ra máu hoặc nước tiểu sẫm mầu.
. Đau do sỏi niệu quản: đau từng cơn dữ dội khi sỏi di chuyển, có khi làm cho bệnh nhân đứng ngồi không yên, đau vã mồ hôi. Tính chất đau như xé, như dao đâm, lan xuống bàng quang, vùng bẹn. Thường kèm tiểu ra máu.
. Đau do sỏi bàng quang thường ở vị trí bụng dưới kèm tiểu gắt, tiểu buốt, có khi đang tiểu bị tắc, thay đổi vị trí lại tiểu được.
. Sỏi niệu đạo thường gây bí tiểu, tiểu buốt ra đầu dương vật, đau như xé, làm bệnh nhân phải kêu la.
. Trong viêm bể thận, lao thận nặng, thường đau vùng hông một hoặc hai bên. Tính chất đau ê ẩm kèm sốt nhẹ hoặc trung bình. Thường có hội chứng nước tiểu.
. Trong ứ nước bể thận, ứ mủ bể thận, cơn đau kéo dài kèm cảm giác nặng vùng hông bên đau. Trong ứ mủ còn kèm dấu hiệu nhiễm khuẩn.
Nguyên Nhân:
+ Do sỏi ở bể thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo.
+ Viêm thận, bể thận, bàng quang, áp xe thận, lao thận, u thận.
+ Ứ nước bể thận, ứ mủ bể thận.
Do bàng quang và tiểu trường bị thấp nhiệt uất kết lâu ngày thành sỏi, làm rối loạn chức năng khí hóa, tiểu không thông gây nên cơn bụng dữ dội, xuyên ra sau lưng.
Điều Trị: Thanh lợi thấp nhiệt, tuyên khí, trấn thống.
+ Lý Khí Hoạt Huyết Thang (Giang Tây Trung Y Dược 1986 (1): 18): Bạch thược, Chỉ xác đều 30g, Cam thảo 10g, Trầm hương 5g, Ô dược, Đương quy vĩ đều 12g, Xuyên ngưu tất, Vương bất lưu hành đều 15g, Hoàng kỳ 20g. Sắc uống nóng.
TD: Ôn thông khí cơ, hành khí, đạo trệ. Trị cơn đau quặn thận.
Gia giảm: Hàn trệ kinh lạc thêm Ngô thù, Hồi hương, Tế tân, Hương phụ. Tiểu ra máu nhiều thêm Mao căn, Tiểu kế. Do thấp nhiệt nhiều thêm Sinh địa, Chi tử, Mộc thông, Xa tiền tử. Đau nhiều không bớt thêm Nhũ hương, Một dược.
Tham Khảo: Tác giả Vương Bình đã dùng bài này trị 20 ca đau quặn thận, đa số được kiểm tra thấy có sỏi ở đường tiểu, bàng quang, Thận. Kết quả hết đau 15 ca, đau giảm 3 ca, không hiệu quả 2 ca, đạt tỉ lệ 90%. Đa số chỉ uống 1-2 thang là khỏi.
+ Sâm Phụ Thang Gia Vị (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1992 (2): 57): Đảng sâm, Phục linh đều 30g, Phụ phiến 15g, Sinh khương 6g, Chế nhũ hương 12g, Chế Một dược 10g. Sắc uống ngày một thang. Thường uống 1 – 4 thang là khỏi. Muốn tống sỏi ra, phải gia giảm thêm những vị khác cho hợp.
TD: Ích khí ôn dương, hoạt huyết, chỉ thống. Trị thận đau quặn do sỏi.
Tham khảo: Đã dùng bài này trị 30 ca. trong đó 14 ca sỏi trong Thận, 13 ca sỏi đường tiểu, 3 ca sỏi bàng quang. Kết quả: sau khi uống thuốc 1-3 ngày, cơn đau quặn khỏi hẳn 28 ca, giảm bớt 1 ca, không khỏi 1 ca.
+ Chân Vũ Thang Gia Giảm (Trung Y Tạp Chí 1989 (11): 27): Phụ tử (chế) 9-10g, Quất hạch, Lệ chi hạch đều 10g, Đại hoàng 6-9g, Bạch thược (sao), Phục linh đều 30g; Chích cam thảo 3g, Sinh khương 3 lát. Sắc uống.
TD: Ôn dương tán hàn, giải kính, chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi.
Tham khảo: Bài thuốc này dùng trị 24 ca. Trừ 2 ca phải dùng thêm thuốc ngoài, còn lại đều hết đau. Thuốc uống ít nhất là 1 thang, nhiều nhất là 6 thang. Đa số uống 2-3 thang. Sau khi uống thuốc, kiểm tra lại bằng X quang thấy sỏi đã tiêu mất. Như trường hợp một người đàn ông bị sỏi đường tiểu gây nên cơn đau quặn thận, đã dùng thuốc tây loại 654 – 2 kèm thuốc lợi tiểu, nhưng không bớt. Chuyển sang uống 3 thang thuốc trên, hết đau, sau đó tiểu ra 2 cục sỏi to bằng hạt đậu xanh.
+ Bổ Trung Ích Khí Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1988 (6): 243): Đảng sâm 15g, Bạch truật 12g, Hoàng kỳ 18g, Đương quy, Tiểu hồi, Xuyên luyện tử đều 10g, Thăng ma, Sài hồ, Trần bì, Trầm hương, Chích thảo đều 5g, Lộc giác sương 30g, Sinh khương 3 lát, Hồng táo 5 trái. Sắc uống.
TD: Bổ trung ích khí, hành khí tán kết, hoãn cấp chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi thận, sỏi đường tiểu.
Tham khảo: Bài này được dùng trị 72 ca, được X quang hoặc siêu âm chẩn đoán là sỏi thận hoặc sỏi đường tiểu. Kết quả: Toàn bộ đều hết đau. Sau khi uống 1 ngày đỡ đau 12 ca, 2 ngày 28 ca, 3 ngày 28 ca, còn lại là 5 ngày. Sau khi hết đau, chụp X quang kiểm tra lại có 18 ca sỏi đã chuyển xuống dưới, 6 ca hết hẳn sỏi.
+ Ma Phụ Tế Tân Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1988 (6) 247): Ma hoàng, Tế tân đều 6g, Phụ tử 15g. Nấu lửa to, không nấu lâu, vớt bỏ bọt nổi bên trên, uống ấm. Nếu chưa bớt, nửa giờ sau lại uống một lần nữa.
TD: Ôn dương, tán hàn, hoãn cấp, chỉ thống. Trị cơn đau quặn thận do sỏi đường tiểu.
Tham khảo: Bài thuốc này dùng trị 12 ca đều khỏi hẳn. Trong đó, phát cơn đau trong khoảng 1-2 giờ có 5 ca, 2 giờ trơ lên có 7 ca. cả 12 ca sau khi uống thuốc 1 giờ sau đều hết đau.
Y Án Cơn Đau Quặn Thận
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng’)
Vương X, 20 tuổi, công nhân. Một hôm tự nhiên đau bụng dưới lan đến bìu dái, bìu dái săn lại. Tiếp theo là cơ thể lạnh, mạch Trầm, Phục, hơi thở yếu như muốn đứt hơi, mắt nhắm, miệng ngậm chặt, bàn tay nắm lại, bất tỉnh. Dựa vào bệnh chứng và khám, chẩn đoán là cơn đau quặn thận.Đông y coi dịch hoàn là ngoại thận. Nan thứ 19 (Nan Kinh’ bàn về cơ chế sinh bệnh, viết: “Các chứng hàn thụ đều thuộc về thận”. Vậy bệnh là ở thận, do hàn gây nên. Liền cấp cứu ngay bằng bài ‘Đao Bích Hùng Kê’ (Bắt 1 con gà trống còn sống, lấy dao mổ banh ra làm đôi, không bỏ lòng ruột. Lập tức úp ngay vào rốn bệnh nhân. Một lúc sau người bệnh tỉnh lại. Sau đó, cho dùng bài Lý Trung Thang gia vị (Thục phụ phiến, Nhục quế, Hồng sâm đều 3g, bạch truật, Cam thảo, Can khương đều 6g) để ôn Thận, tán hàn.Uống 2 thang, khỏi bệnh
CƠN ĐAU TIM
(Hung Tý - Angina Pectoris)
Đại Cương
Là chứng đau vùng tim từng cơn do rối loạn dinh dưỡng của cơ tim, thường sẩy ra sau khi gắng sức, xúc động mạnh, bị lạnh.
Gặp nhiều ở người lớn tuổi. Đàn ông và người lao động trí óc bị nhiều hơn đàn bà và lao động chân tay.
Đông Y xếp vào loại ‘Hung Tý’, ‘Hung Thống’, ‘Tâm Thống’.
Theo nhiều tác giả về tim học thì 90% trường hợp đau thắt ngực là hậu quả của bệnh nhiễm mỡ xơ mạch vành, do đó trong điều trị, ngoài việc cắt cơn đau cần chú ý phát hiện và điều trị bệnh nhiễm mỡ xơ mạch (hoặc huyết áp cao thường đi kèm).
Hiện nay ngành tim học phân biệt 2 thể đau thắt tim:
1) Cơn đau thắt tim thể ổn định (Angor stable): có đặc điểm là cơn đau tái phát nhiều lần trong thời gian 3 tháng mà số lần và mức độ không thay đổi đáng kể, là thể nhẹ lành tính.
2) Cơn đau thắt tim thể bất ổn (Angors instables): có nhiều loại đau thắt tim với những tên gọi khác nhau như: Hội chứng trung gian (Syndrome intermédiate), hội chứng tiền nhồi máu (Syndrome pré-infarct), hội chứng đe doạ (Syndrome de ménace). Đặc điểm cơn đau. Ở thể này là xuất hiện dễ hơn, năng hơn, kéo dài hơn, cơn đau không do gắng sức, ban đêm hoặc đau dữ dội...
Xem thêm bài ‘Cơn Đau Thắt Ngực’.
Nguyên Nhân
+ Nhiễm mỡ xơ mạch vành: là nguyên nhân trong 90% trường hợp. Cơn đau thắt tim do nhiễm mỡ xơ mạch tiên lượng xấu, dễ chuyển sang nhồi máu cơ tim, loạn nhịp tim, suy tim, chết đột ngột.
+ Các nguyên nhân khác (10%).
. Tổn thương thực thể ở động mạch vành hoặc suy chức năng mạch vành.
Tổn thương thực thể như viêm động mạch vành do giang mai, viêm quanh nút động mạch, tắc mạch vành do máu cục từ xa đưa đến.
. Suy động mạch vành chủ yếu do
hẹp van động mạch chủ, canxi hoá hay không, hở van động mạch chủ nặng: hẹp hai lá khít, cơn nhịp nhanh kịch phát, thiếu máu nặng kéo dài...
Về cơ chế bệnh lý: Do thiếu máu nên thiếu oxy và để có năng lượng sống, tế bào cơ tim phải cho phân huỷ Adenonucleit để tạo năng lượng. Và trong quá trình phóng chất Adenosin gây nên đau.
Nguyên Nhân theo Đông Y, Thường do:
+ Khí trệ: Thường do tình chí bị tổn thương, Can khí uất kết, Phế mất sự túc giáng gây nên hoặc làm cho bệnh nặng hơn. Ăn uống quá no, ảnh hưởng đến sự vận chuyển khí cơ cũng gây nên khí trệ.
+ Huyết ứ: Khí là soái của huyết, khí trệ kéo dài, huyết khó vận hành, mạch lạc mất điều hoà sẽ làm cho huyết bị ứ lại. Thường bệnh cấp do khí trệ, bệnh mạn tính do huyết ứ.
+ Phong Nhiệt Ủng Tắc Ở Phế: Ngoại cảm phong nhiệt, khí cơ bị bế tắc, nhiệt tích tụ lại làm tổn thương lạc mạch của Phế dẫn đến đau thắt ngực. Nếu tổn thương huyết lạc thì vừa đau ngực vừa ho ra máu. Nhiệt độc uất kết thành nhọt thì nôn ra đờm có mùi tanh.
+ Đờm trọc ứ trệ: Do uống nhiều rượu, ăn nhiều thức ăn béo, ngọt làm cho chức năng vận hoá của Tỳ Vị bị tổn thương, tích tụ lại thành đờm, làm nghẽn dương khí ở ngực gây nên đau thắt ngực.
+ Hung Dương Tắc Nghẽn: Dương khí bất túc cũng gây nên đau thắt ngực. Sách ‘Y Môn Pháp Luật’ viết: “Gây nên hung tý là do dương hư, vì dương hư mà âm lấn lên”. do dương khí suy nên hàn tà lấn lên xâm nhập vào vùng ngực, làm cho mạch lạc bị tắc nghẽn gây nên đau vùng nực.
Triệu Chứng
Đột nhiên đau từng cơn, đau như bó lấy ngực, lan toả sang nách, lên cổ, lên vai bên trái và dọc theo phía trong tay trái. Cơn đau kéo dài vài giây đến vài phút rồi êm dịu, khỏi nhanh chóng. Nếu cơn đau kéo dài hàng nửa giờ, cần nghĩ đến Nhồi máu cơ tim và phải xử trí kịp thời.
A - Cơn Điển Hình
- Đau sau xương ức đột ngột, thường xảy ra khi đang đi vội, leo dốc, lên cầu thang. khi trời lạnh v.v...
- Cảmgiác tức ngực như có vật đè lên sau xương ức hoặc bên trái. đau lên lên hai vai, hai quai hàm dưới, phía trong tay trái lan lên cổ. cũng có khi cảm giác đau nhói hoặc nóng bỏng.
- Cảm giác bồn chồn lo sợ, cơn kéo dài vài giây đến vài phút. Nếu kéo dài hơn nửa giờ phải nghĩ đến nhồi máu cơ tim.
Cơn có thể thưa hay mau. Cơn càng mau, càng kéo dài tiên lượng càng xấu. Cơn đau có thể chấm dứt hoặc giảm ngay sau khi hết yếu tố kích thích hoặc 1-5 phút sau khi dùng các Nitrat tác dụng nhanh như ngậm dưới lưỡi viên Nitroglycerin.
Trong thời gian cơn đau, bệnh nhân không có triệu chứng gì khác. Mạch, huyết áp nghe tim phổi bình thường.
B- Cơn Không Điển Hình
Vị trí và hướng lan: Có khi chi đau ở tay, vùng thượng vị, vùng trên xương ức, vùng cổ. Có khi lan ra sau gáy, xuống lưng, ra hai tay ngón út nhưng không bao giờ lan ra ngón cái, và hàm trên.
Về cường độ đau : Có khi chỉ có cảm giác tức sau xương ức.
Điều kiện xuất hiện: Cơn đau thắt ngực có khi tự phát xảy, ra lúc ngủ hoặc có cơn xúc động mạnh. Có khi xảy ra liên tục, xuất hiện dễ dàng chỉ sau một cử động nhẹ.
Triệu chứng lâm sàng còn tùy theo thể loại đau thắt tim mà có khác (đã nêu ở phần đại cương).
C- Chẩn Đoán Xác Định Và Phân Biệt Chẩn Đoán
1) Chẩn đoán xác định cần chú ý:
Triệu chứng lâm sàng của thể điển hình và không điển hình. Phân biệt 3 thể bệnh: ổn định, không ổn định và thể biến thái (bản chất là tăng trương lực tức co thắt tại chỗ ở một ổ động mạch vành ngẫu phát, lên cơn lúc nghỉ, yên tĩnh hoặc có tính chu kỳ thường xảy ra ban đêm, không có yếu tố kích thích có thể gây rối loạn nhịp).
Một số điểm chẩn đoán phân biệt:
Các Thể Đau Thắt Ngực
Ổn định mãn
Không ổn định
Biến thái
Đau xuất hiện khi:
+ Gắng sức.
+ Xúc động.
+ Nghỉ, yên tĩnh.
+
+
-
+ +
+ +
(+)
-
-
(+)
Điều Trị
A- Đang lên cơn :
Chủ yếu là dùng các biện pháp cấp cứu tích cực. Cần sử dụng Nitroglycerine (Trinitrine) cho thở oxy. Ở Trung Quốc có chế các loại thuốc phun sương như chữa chứng hàn thì dùng thuốc ‘Phun Sương Tâm Thống Thể Hàn’ (chủ yếu thành phần có Nhục quế, Hương phụ). Thuốc ‘Phun Sương Tâm Thống Thể Nhiệt’ (thành phần chủ yếu có Đơn bì, Xuyên khung...). Theo các học giả Trung Quốc cho là tác dụng không kém Nitroglycerin.
Các y gia Trung Quốc còn dùng thuốc tiêm như dịch tiêm Xuyên khung, mỗi ống 40mg, mỗi lần dùng 40 - 120mg cho vào dung dịch Glucoza 5%, 150ml - 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, hoặc dùng dịch tiêm ‘Phức Phương Đơn Sâm’ 2-4ml chích bắp hoặc dùng 10 - 20ml cho vào dung dịch Glucoza 10% - 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, mỗi ngày 1 - 2 lần. Hoặc dùng dịch tiêm ‘Sâm Mạch’ (có Nhân sâm, Mạch đông) 20 - 80ml cho vào dịch Glucoza 50% nhỏ giọt tĩnh mạch ngày 2-4 lần hoặc dùng dịch ‘Sâm Mạch’ l00ml cho vào Glucoza 10% - 250ml nhỏ giọt tĩnh mạch, ngày một lần. Theo báo cáo của Trinh Tân, Sở nghiên cứu Trung y Trùng Khánh thì dịch ‘Sâm Mạch’ có kết quả tốt đối với cơn đau thắt ngực, choáng, loạn nhịp và suy tim. Trường hợp cơn nặng cần sử dụng thuốc Tây và cho bệnh nhân thở oxy.
Ở Việt Nam chưa có các loại Đông dược dạng thuốc ngậm, thuốc tiêm và thuốc phun sương thì lúc đang cơn đau ngực chủ yếu là dùng thuốc Tây kết hợp châm cứu bấm huyệt, xoa bóp. Các huyệt thường dùng: Chiên trung (chủ huyệt), phối hợp Nội quan, Cự khuyết, Gian sử, Túc tam lý.
Bấm huyệt Nội quan dùng lực mạnh và bảo bệnh nhân thở sâu liên tục 3 lần, đau giảm. Có kinh nghiệm day bấm huyệt điểm giữa đường nối 2 huyệt Tâm du và Quyết âm du bên trái trong 1-2 phút, đau giảm rõ.
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Khí Trệ: ngực đau, lan ra hai bên sườn, đau chịu không được, thường lên cơn đau khi bị xúc động, ngực đầy tức, ăn kém, ợ hơi, mạch Huyền.
Điều trị: Sơ Can, lý khí, chỉ thống.
Dùng bài Sài Hồ Sơ Can Tán.
(Sài hồ sơ Can, hợp với Hương phụ, Chỉ xác để lý khí. Bệnh nặng có thể thêm Thanh bì, Bạch giới tử vì hai vị này là thuốc chủ yếu trị ngực sườn đau do khí trệ).
+ Huyết Ứ: ngực đau chói, đau một chỗ nhất định, không di chuyển, đau nhiều về ban đêm, chất lưỡi tím, tối, mạch Trầm Sáp.
Điều trị: Hoạt huyết, khứ ứ. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang.
(Đương quy, Xích thược, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa là những vị thuốc hoạt huyết, trừ ứ; Sài hồ sơ Can; Chỉ xác lý khí, dựa theo ý khí hành thì huyết hành).
Huyết ứ nhẹ, nên dùng bài Đan Sâm Ẩm (Đan sâm hoá ứ, Đàn hương, Sa nhân để điều khí – bài này thích hợp cho người không hợp với loại thuốc cay, ráo).
+ Phong Nhiệt Tắc Nghẽn Ở Phế: vùng ngực đau, kèm ho, khó thở, ho ra máu, ho khạc ra đờm mủ hôi tanh, sốt, sợ lạnh, họng khô, nặng hơn thì phiền táo, rêu lưỡi vàng dầy, mạch Hoạt Sác.
Điều trị: Tuyên Phế, thanh nhiệt. Dùng bài Ma Hạnh Cam Thạch Thang hoặc Ngân Kiều Tán gia giảm.
(Ma hoàng, Hạnh nhân để tuyên tiết Phế khí, hợp với Thạch cao để thanh nhiệt).
Ngân Kiều Tán để tân lương, thấu biểu, giải độc.
Nếu nhiệt làm tổn thương huyết lạc gây nên ho ra đờm lẫn máu, bỏ Ma hoàng, Kinh giới, Đậu xị thêm Chi tử, Hoàng cầm, Huyền sâm, Mao căn, Ngẫu tiết... để thanh nhiệt, lương huyết. Nếu nhiệt độc hoá thành nhọt, đổi dùng bài Thiên Kim Vi Kinh Thang hoặc Cát Cánh Thang để thanh nhiệt, hoá ứ, tiêu mủ.
+ Hung Dương Tắc Nghẽn: Vùng ngực đau lan ra sau lưng, hồi hộp, ngắn hơi, mạch Huyền. Bệnh nặng thì suyễn, khó thở, không nằm được, sắc mặt xanh nhạt, ra mồ hôi, tay chân quyết lạnh, mạch Trầm Tế.
Điều trị:
. Bệnh nhẹ: Tân ôn thông dương. Dùng bài Quát Lâu Giới Bạch Bán Hạ Thang (Quát lâu, Bán hạ, Chỉ thực khai thông vùng đau; Giới bạch, Quế chi thông dương).
. Hồi dương cứu nghịch. Dùng bài Tứ Nghịch Thang thêm Nhân sâm.
B- Sau Cơn Đau
Ngoài các biện pháp như trên đã nêu, dùng thuốc Đông y theo biện chứng có vai trò tích cực. Có thể chia mấy thể bệnh dùng thuốc như sau:
(1) Tâm khí suy hợp với ứ huyết, đàm tắc: Ngoài cơn đau ngực, tức ngực có triệu chứng mệt mỏi, sắc mặt tái, tự ra mồ hôi, chân tay yếu, lưỡi nhạt, mạch Nhược, hoặc chất lưỡi tím, thân lười bệu, mạch Trầm Hoạt.
Điều trị: Bổ tâm khí kèm hoạt huyết, hoá đờm. Dùng bài Bảo Nguyên Thang gia vị: Nhân sâm 6-10g, Hoàng kỳ 20-30g, Bạch truật 12g, Bạch linh 12g, Quế chi 8 – l0g, Đương qui 12-16g, Đơn sâm 1-16g, Xích thược 12g, Xuyên khung 8-10g, Quất bì 8-10g, Chỉ xác 8g, Bán hạ chế 8-10g, Chích thảo 4g.
Gia giảm: Tim hồi hộp, mất ngủ thêm Táo nhân (sao) 16-20g, Bá tử nhân 12g, Dương hư (chân tay lạnh mạch Trầm Trì) thêm Phụ phiến 6-12g, Can khương 6-10g, ngày 1 thang sắc uống.
(2) Âm hư dương thịnh: Ngoài triệu chứng đau ngực từng lúc, có váng đầu, đau đầu, bứt rứt, dễ tức giận, sắc mặt đỏ, miệng khô, buồn nôn, lòng bàn tay chân và ngực nóng, mất ngủ, chân tay tê dại, táo bón, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt hoặc mỏng (thể này thường kèm huyết áp cao).
Điều trị: Tư âm, tiềm dương. Dùng bài ‘Thiên Ma Câu Đằng Ẩm hợp với ‘Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn gia giảm’: Sinh địa 16-20g, Hoài sơn 12g, Bạch linh 12-16g, Trạch tả 12g, Đơn bì 12g, Đơn sâm 12-16g, Thiên ma 10 12g, Câu đằng 12g, Thạch quyết minh 16-20g, Bá tử nhân 12-16g, Cúc hoa 12g, Câu kỷ tử 12-16g. Sắc uống ngày 1 thang.
(3) Khí âm lưỡng hư hợp với ứ huyết, đờm uất: Mệt mỏi, ngực đau lâm râm, hơi thở ngắn, họng có đờm nhưng miệng khô, ra mồ hôi, ngũ tâm phiền nhiệt, chất lưỡi tím bầm, khô, ít rêu, mạch Hư, Tế, Sác hoặc Kết Đại.
Điều trị: Bổ khí âm kiêm hoạt huyết, hoá đàm.
Dùng bài ‘Chích Cam Thảo Thang hợp với ‘Sinh Mạch Tán gia giảm ’: Ngọc trúc 12-16g, chích Cam thảo 6-8g, Nhân sâm 6-10g, Hoàng kỳ 12-20g, Mạch môn 12-16g, Ngũ vị tử 6-8g, Sinh địa 12-16g, Đan sâm l2-16g, Qua lâu 12g, Agiao (hoà uống) 12g, Quế chi 6g, Gừng tươi 6-12g.
+ Nếu hoa mắt, đau đầu, thêm Cúc hoa, Kỷ tử, đau lưng, mỏi gối thêm Tang ký sinh, Sơn thù, Xuyên Ngưu tất; Tim hồi hộp, mất ngủ thêm Táo nhân (sao), Long nhãn nhục, Viễn chí...
Chứng đau thắt ngực biểu hiện lâm sàng thường là hư thực lẫn lộn, diễn tiến thay đổi nhiều, trên dây chỉ nêu một số thể bệnh thường gặp, hư chứng thường là khí hư hoặc khí âm hư, thực chứng thường là can dương thịnh hoặc kiêm huyết ứ, kiêm thấp đàm, khi điều trị cần chú ý, khi cấp diễn phải kết hợp thuốc Tây, oxy liệu pháp cấp cứu kịp thời.
Y Án Tâm Giảo Thống
(Trích trong ‘Thượng Hải Nội Khoa Học’)
“Hứa X, nam, 64 tuổi. Đêm hôm qua đột nhiên đau thắt ở sau chấn thuỷ, đau lan đến vai trái và cổ, chuyển cấp cứu ở bệnh viện. Điện tâm đồ kết luận là chứng Tâm giảo thống (đau thắt ngực). Sau khi cho ngậm Nitroglyxerin 0,6gr, đỡ đau. Đến sáng hôm nay lại có ba cơn đau, đều được cho ngậm thuốc để giảm đau, chuyển sang điều trị bên Đông y.
Khám thấy vùng ngực đau lan đến lưng, lan toả ra vai và cổ, hơi thở ngắn, không nằm được. Chẩn đoán là chứng Hung Tý. Cho dùng bài Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu (Quát lâu 12g, Giới bạch (sao rượu) 16g, Khương bán hạ 12g, Uất kim 12g, Đàn hương 2g, Mộc hương 6g. Sắc uống với 1 viên Tô Hợp Hương Hoàn.
Uống 2 thang, hết đau nhưng vùng ngực ấn vào vẫn còn khó chịu. Vẫn dùng bài thuốc trên, uống tiếp 5 thang nữa, các chứng đều hết.
Bệnh này, sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ xếp vào loại Hung Tý, nguyên nhân chính do hung dương bất túc, khí cơ không thông, cho nên vùng ngực đau xiên đến lưng, cổ, vai, hơi thở ngắn, không nằm được. Trong bài dùng Quát lâu, Giới bạch, vị cay, tính ấm để thông dương; Bán hạ hoá trọc; Đàn hương, Uất kim, Mộc hương lý khí. Phối hợp với Tô Hợp Hương Hoàn là thuốc phương hương khai khiếu để ngăn chặn chứng đau ngực.
CỔ TRƯỚNG(Ascites)
Đại Cương
Bình thường ở màng bụng chỉ là một khoảng trống giữa lá Tạng và lá thành. Trong trường hợp bị bệnh hoặc khi có rối loạn điều hòa động và thủy tĩnh học của cơ thể, dịch thể xuất hiện trong ổ màng bụng, gọi là Cổ Trướng.
Dịch đó có thể lưu thông trong khắp ổ màng bụng, gọi là Cổ trướng tự do. Cũng có trường hợp dịch đó khu trú trong một vùng của ổ màng bụng bởi các màng dính tạo thành vách ngăn, đó là Cổ trướng ngăn cách.
Thiên ‘Phúc Trung Luận’ (Tố Vấn 40) viết: “Có bệnh đầy vùng Tâm phúc, ăn được buổi sáng không ăn được buổi tối, đó là bệnh gì ? Trả lời: Gọi là bệnh Cổ trướng”.
Chương ‘Thủy Khí Bệnh’(Kim Quỹ Yếu Lược) viết: “Chứng Thạch thủy mạch thấy Trầm, biểu hiện ra ngoài là đầy bụng mà không suyễn. Chứng Can thủy thấy to bụng không xoay chuyển người được, dưới sườn và đau bụng. Chứng Tỳ thủy thấy to bụng, tay chân nặng nề, tân dịch không sinh ra, nhưng lại thiểu khí, tiểu tiện khó. Chứng Thận thủy thấy to bụng, vùng rốn sưng và đau lưng, không tiểu tiện được”.
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận - Thủy Cổ Hậu’ viết: “Đây là do Thủy độc khí kết tụ ở trong khiến cho bụng to dần, có tiếng nước óc ách, muốn uống nước, da đen sạm giống như bị phù, gọi là chứng Thủy cổ”.
Sách ‘Y Môn Pháp Luật’ viết: “Phàm có các chứng Trưng Hà, tích khối, bỉ khối, tức là có gốc rễ của bệnh Trướng, tích lũy ngày tháng, bụng to như cái chum, gọi là chứng Đơn phúc trướng”.
Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: “Trong đục lẫn lộn, toại đạo bị ủng tắc,... thấp và nhiệt cùng phát sinh sẽ thành trướng đầy”.
Sách ‘Trương Thị Y Thông’ viết: “Người nghiện rượu bị bệnh trướng bụng như cái đấu, đó là thấp nhiệt làm hại Tỳ. Vị tuy ăn vào được nhưng Tỳ không vận hóa, cho nên thành chứng Bỉ trướng”.
Cổ trướng là một trong tứ chứng nan y: Phong (chứng kinh phong, động kinh), Lao (bệnh lao), Cổ (cổ trướng), Lại (phong cùi).
Người xưa, tùy thể bệnh còn gọi các tên Thủy cổ, Trùng cổ, Tri thù cổ (có mạch sao), Đơn phúc trướng... Các học giả đời sau theo nguyên nhân bệnh chia làm 4 loại: Khí cổ, Huyết cổ, Thủy cổ, Trùng cổ.
Nhưng khí huyết, thủy cổ có liên quan mật thiết chứ không xuất hiện riêng lẻ mà chỉ có cái nào là chính mà thôi.
Chứng cổ trướng trên lâm sàng gặp trong nhiều loại bệnh như Xơ Gan Cổ Trướng, Hội Chứng Gan Lách To, Thận Hư Nhiễm Mỡ, Lao Màng Bụng, Ung Thư Ổ Bụng.
Xem thêm bài ‘Xơ Gan’.
Nguyên Nhân
Theo YHHĐ: trong cổ trướng tự do, dịch thâm nhập vào ổ màng bụng có thể có hai nguồn gốc:
. Từ màng bụng tiết ra, do màng bụng bị nhiễm khuẩn, bị kích thích: đó là Cổ trướng xuất tiết (biểu hiện trong xét nghiệm sinh hóa qua phản ứng Rivalta dương tính và đậm độ Protein cao). Gặp trong Lao màng bụng, Ung thư màng bụng tiên phát hoặc hậu phát.
. Từ các tổ chức chung quanh màng bụng thẩm thấu vào ổ bụng. Đó là Cổ trướng thẩm thấu (Biểu hiện qua Rivalta âm tính có đậm độ Protein thấp). Các trường hợp bệnh lý gây ứ trệ tuần hoàn hồi quy hoặc ứ trệ hệ thống tĩnh mạch cửa và các trường hợp gây phù nề nhiều do thay đổi áp lực keo trong máu, do ứ NaCl hoặc do cường Aldosteron thứ phát đều có thể gây cổ trướng thẩm thấu. Thường gặp trong Xơ Gan, Ung Thư Gan, Viêm Tắc Tĩnh Mạch Cửa, Viêm Thận Mạn, Thận Hư Nhiễm Mỡ, Suy Tim Kéo Dài, Suy Dinh Dưỡng.
Theo các sách Đông y, qui nạp lại có mấy nguyên nhân sau:
1- Rối loạn tình chí (thất tình): Sự rối loạn tình chí con người sinh chứng cổ trướng, thí dụ như hay tức giận hại can, can khí uất làm tổn thương tỳ khí (can khắc tỳ), chức năng vận hóa của tỳ rối loạn gây nên bệnh. mặt khác, ưu tư lo lắng nhiều làm hại tỳ... (đây là yếu tố tinh thần ảnh hưởng xấu đến bệnh tật).
2. Ăn uống thiếu điều độ: ăn quá no, nhiều chất béo, mỡ, uống nhiều rượu bia cũng hại tỳ khiến cho chức năng vận hóa của Tỳ bị rối loạn sinh bệnh.
3. Bệnh tật lâu ngày (nhất là bệnh gan thận) làm cho cơ thể, tạng phủ mà chủ yếu là tỳ thận hư nhược, vận hóa rối loạn sinh cổ trướng.
4. Lao lực, phòng dục quá độ, tinh, khí huyết suy giảm cũng gây tổn thương can, tỳ, thận.
5. Một số nguyên nhân khác như trùng tích (chủ yếu là hấp huyết trùng (schistospmiasis), hàn tích (do ăn nhiều chất sống lạnh), hàn nội sinh tích tụ ở trung tiêu làm tổn thương tỳ vị.
Bệnh lý chủ yếu là do 3 tạng Can, Tỳ, Thận bị tổn thương: can khí uất kết, mạch lạc không thông đạt, khí huyết tích tụ gây bỉ mãn. Tỳ vị hư yếu thủy cốc đình trệ, bệnh lâu ngày thận khí suy không chủ được thủy gây ra cổ trướng. Ở mức độ nhất định, bệnh của tâm và phế (tâm chủ huyết, phế chủ khí) cũng ảnh hưởng đến sự hình thành cổ trướng.
Biểu Hiện Của Cổ Trướng
Tùy theo số lượng dịch nhiều hoặc ít trong ổ màng bụng mà cổ trướng thuộc loại nhiều, trung bình hoặc ít. Cổ trướng càng to, càng dễ chẩn đoán.
+ Nhìn: Bụng to, xệ xuống khi đứng và bè sang hai bên khi nằm ngửa, rốn lồi thường lồi nhiều hoặc ít.
+ Sờ: bụng mềm hoặc căng nhiều hoặc ít tùy số lượng nước trong ổ màng bụng.
+ Gõ: là dấu hiệu quan trọng nhất. Bảo người bệnh nằm nghiêng sang bên phải rồi bên trái, thầy thuốc gõ ở vùng thấp của bụng trong mỗi tư thế đó. Bình thường các vùng đó dù ở tư thế nào cũng vẫn trong. Khi có cổ trướng, do dịch tập trung vào các vùng thấp, gõ sẽ thấy các vùng đó bị đục và giới hạn trên của vùng đục là một đường cong ngửa lên trên (một yếu tố cần chú ý để phân biệt với nang nước). Gõ đục vùng thấp không những có giá trị xác định cổ trướng mà còn xác định cổ trướng đó là loại cổ trướng tự do.
Biện Chứng Luận Trị
Biện chứng luận trị cổ trướng thường chia làm 2 thể bệnh chính: Thực Trướng là bệnh mới mắc, cơ thể người bệnh còn khỏe, phép trị chủ yếu là khu tà bao gồm hành khí, tiêu tích, trục thủy, phá ứ. Hư Trướng là bệnh đã lâu ngày, cơ thể người bệnh yếu, phép trị chủ yếu là bổ hư, tư dưỡng can, kiện tỳ, ích thận là chính. Tuy nhiên chứng cổ trướng đa số là ‘bản hư tiêu thực’, cho nên phép trị chính vẫn là phù chính công tà, tiêu bản kiêm trị ".
THỰC TRƯỚNG
1- Khí Trệ Thấp Ứ: Mạn sườn đau có lúc, ấn có cục mềm, tức, bụng đầy, ăn ít, ợ hơi, tiểu ít, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Huyền.
Điều trị: Sơ can, lý khí, trừ thấp.
Dùng bài Sài Hồ Sơ Can Tán gia giảm (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Sài hồ, Chỉ xác, Thược dược, Cam thảo, Hương phụ, Xuyên khung.
(Sài hồ, Bạch thược, Xuyên khung, Cam thảo, Chỉ xác, Hương phụ sơ can, lý khí, kiện tỳ). Thêm Xa tiền tử, Trư linh, Trạch tả để lợi thấp).
Bụng đầy thêm Mộc hương, Đại phúc bì để hành khí. Trường hợp nặng, thêm Đại hoàng, Nhân trần, Chi tử để thanh hóa thấp nhiệt. Hàn thấp bụng đầy, tiêu lỏng, thêm 'Hương Sa Lục Quân Hoàn’ mỗi lần 6 - 8g, ngày 2 lần với nước gừng.
2. Nhiệt Uất Huyết Ứ: Bụng đầy cứng, đau, sắc mặt vàng xậm hoặc da mặt vàng, đầu cổ lưng ngực bụng có vết máu vạch, môi tím, bứt rứt, miệng khô, tiểu ít, nước tiểu vàng, táo bón, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dày, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, hoạt huyết, hoá ứ.
Dùng bài Nhân Trần Cao Thang (Thương Hàn Luận): Nhân trần, Sơn chi, Đại hoàng. hợp với Hoá Ứ Thang gia giảm (Nghiệm Phương): Đương qui, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm, Sơn giáp, Bạch truật..
(Nhân trần, Sơn chi, Đại hoàng để thanh nhiệt, lợi thấp, tiêu độc; Đương quy, Xích thược, Đơn bì, Đơn sâm, Thanh bì, Hương phụ để hành khí, hoạt huyết, hoá ứ. Có thể thêm Gừng, Táo để hoà trung).
Bụng nước nhiều có thể dùng 'Bị
Cấp Hoàn’ để trục thủy (Kim Quĩ Yếu Lược): Đại hoàng, Ba đậu, Can khương. Lượng bằng nhau. Ba đậu ép hết dầu thô, tán bột mịn, hoàn với mật ong. mỗi lần uống 1 – 2g.
HƯ TRƯỚNG
1- Tỳ Thận Dương Hư: Bụng đầy trướng, về chiều tối nặng hơn, mệt mỏi, sợ lạnh, chân tay lạnh hoặc 2 chân phù lõm, tiểu ít, sắc mặt vàng nhợt hoặc tái nhợt, lưỡi tím nhợt, mạch Trầm Tế Huyền.
Điều trị: ôn bổ tỳ thận, hành khí lợi thủy.
Dùng bài Chân Vũ Thang (Thương Hàn Luận): Thục Phụ tử, Sinh khương, Bạch truật, Bạch thược.
Phối hợp với Ngũ Bì Ẩm gia giảm (Trung Tàng Kinh) Tang bạch bì, Sinh khương bì, Đại phúc bì, Bạch linh bì, Trần bì, lượng bằng nhau, chế thành thuốc tán. Mỗi lần uống 8 - 12g.
(Thục Phụ tử ôn bổ tỳ thận, Bạch truật, Bạch linh kiện tỳ lợi thủy, Đạïi phúc bì, Trần bì, Tang bạch bì hành khí lợi thủy, Sinh khương ôn tán thủy khí, tăng tác dụng các thuốc lợi thủy; Bạch thược dưỡng can, chỉ thống, điều hòa tính nóng của Phụ tử).
Có thể cho uống thêm Thận Khí Hoàn (Tế Sinh Phương): Thục địa. Sơn dược, Sơn thù, Đan bì. Phục linh, Trạch tả, Phụ tử, Quế nhục, Ngưu tất, Xa tiền để tư âm, trợ dương, hóa khí, lợi thủy.
2. Can Thận Âm Hư: Bụng đầy trướng, nổi gân xanh, người gầy, da khô nóng, sắc da sạm đen, môi tím, miệng khô, bứt rứt, răng và nướu răng chảy máu hoặc chảy máu cam, tiểu ít, vàng đậm, thân lưỡi thon, đỏ thẫm, khô, mạch Huyền Tế Sác.
Điều trị: Tư dưỡng can thận, lương huyết, hóa ứ.
Dùng bài Nhất Quán Tiễn (Llễu Châu Y Thoại): Sa sâm. Mạch môn, Đương quy, Sinh địa, Câu kỷ tử, Xuyên luyện tử.
Hợp với Cách Hạ Trục Ứ Thang gia giảm (Y Lâm Cải Thác): Ngũ linh chi, Đương qui, Xuyên khung, Đào nhân, Xích thược, Đơn bì, Ô dược, Diên hồ sách, Cam thảo, Hương phụ, Hồng hoa, Chỉ xác.
(Sinh địa, Bắc Sa sâm, Mạch môn, Kỷ tử tư dưỡng can thận; Đương qui dưỡng huyết hòa can; Xích thược, Đơn bì thêm Huyền sâm, Địa cốt bì lương huyết; Mao căn lương huyết, chỉ huyết; Ô dược, Hương phụ, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa hành khí, hoạt huyết, chỉ thống).
Trường hợp bệnh nhân hôn mê, sốt cao cần dùng viên An Cung Ngưu Hoàng Hoàn (Ôn Bệnh Điều Bìện): Ngưu hoàng, Uất kim, Tê giác, Hoàng liên, Chu sa, Băng phiến, Trân châu (Ngọc trai), Sơn chi, Hùng hoàng, Hoàng cầm, Xạ hương để cấp cứu, lương huyết, giải độc, thanh nhiệt, khai khiếu.
Trường hợp cổ trướng nặng gây nên khó thở cần công trụïc cổ trướng, có thể dùng một trong những bài sau: Bị Cấp Hoàn (Ba đậu bỏ vỏ, ép hết dầu, Đại hoàng, Can khương, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột mịn, luyện mật ong, làm viên), mỗi lần uống 1-2g với nước ấm. Ngũ Công Tán (Khiên ngưu tử 120g, Tiểu hồi hương 30g, tán bột, làm viên. Mỗi lần uống l,5-3g, nuốt ngày 1-2 lần. Gia Vị Thập Táo Thang: Đại kích (chế dấm), Nguyên hoa, Cam toại, Hổ phách, Trầm hương, Hắc Bạch sửu, lượng bằng nhau, tán bột mịn, trộn đều) mỗi lần uống l,5-3g với nưóc sắc Táo tàu. Chu Xa Hoàn (Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, Đại hoàng, Hắc sửu, Mộc hương, Trần bì, Thanh bì, Khinh phấn, Binh lang). Mỗi lần uống 07,5 – 1g.
Nói chung cổ trướng là một chứng bệnh nan y trong nhiều loại bệnh nan y cho nên trong điều trị cần hết sức thận trọng. Cần kết hợp với phương pháp điều trị Tây y, thí dụ như có thể vừa cho thuốc trục thủy vừa phải truyền dịch cho khỏi mất tân dịch hoặc đối với các tình huống bệnh nguy kịch cần kết hợp Tây y cấp cứu kịp thời.
Những bài thuốc trục thủy có thể dùng trị chứng cổ trướng (trị tiêu):
(l) Bột Hắc, Bạch sửu. Mỗi lần 1,5 - 3g, ngày uống l - 2 lần.
(2) Ngô công tán bột, Hắc bạch sửu 120g, Tiểu hồi hương 3 – 5g. Tán bột mịn, mỗi lần uống nuốt 1,5 - 3g, ngày 1 - 2 lần.
(3) Bột Cam toại, mỗi lần uống nuốt 0,5 - 1g. Thuốc xổ mạnh vì vậy cần lưu ý lúc dùng.
Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểâu Đậu Thang: Cá chép 1 con 500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu chín nhừ lọc qua vải lấy nước uống, ngày uống 1 thang, uống liền trong 2-3 tuần có kết qủa tốt.
BỆNH ÁN CỔ TRƯỚNG
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Chu X, nữ, 35 tuổi.
Bệnh sử: Tháng 3-1965, sau khi sinh nở, kém ăn, yếu sức. Trước đây 2 tuần, thấy đi tiểu ít, trướng bụng, chân phù. Năm 1958 sau lần sinh thứ tư, cũng phát bệnh như vậy. Xét nghiệm: Vòng bụng 103 cm, thể trọng 138 cân (cân Trung quốc). Tròng trắng mắt mầu vàng, da vàng chưa rõ rệt, chưa xuất hiện dấu mạng nhện (dấu sao). Tim phổi bình thường, Gan Lách không to, gõ có âm đục và chi dưới phù, ấn lõm ( +).
Chẩn đoán: Cổ trướng (sơ Gan phúc thủy).
- Y án: Bệnh nhân sau sinh nở khí huyết đều suy, TỳVị yếu, thủy thấp ứ đọng đến nỗi bụng to như cái trống, chân phù, ăn không ngon, thấp uất hóa nhiệt, nung nấu không giải được cho nên mặt và mắt vàng, tiểu ít và đỏ. Dùng các phương thuốc ích khí, thanh nhiệt, lợi thấp, bệnh không giảm.- Đó là thủy tà bành rường, chính khí không thắng nổi tà khí gây nên. Giờ nên coi trọng lợi thủy, hỗ trợ thuốc ích khí. Cho dùng Mộc phòng kỷ 12g, Xuyên tiêu mục 12g, Điều đình lịch 12g, Sinh xuyên quân 8g, Tang bạch bì 16g, Đại phúc bì 12 g, Xích linh 12g, Trư linh 12g, Xa tiền tử 40g, Hoàng kỳ 20g, Trần bì 8g, Hồng hoa 6g. Sau khi uống thuốc 1 tuần, lượng tiểu tiện chưa tăng rõ rệt, nhưng trướng bụng hơi giảm, ăn cũng khá hơn, cho thấy vận hóa của Vị đã có xu thế khôi phục dần, nhưng thủy tà chưa lui, cần cho thuốc lợi thủy nặng hơn. Vì vậy tăng Đình lịch lên thành 40g; Ngày hôm tăng lượng thuốc, tiểu tiện nhiều hơn, lượng nước uống vào với lượng tiểu tiện cân bằng, những ngày sau có phần còn nhiều hơn, trướng bụng đỡ nhiều, chu vi vòng bụng cũng nhỏ đi, ăn có tiến bộ rõ rệt. Uống đơn thuốc này tiếp tục 1 tháng. Kiểm tra vòng bụng còn 87cm, thể trạng còn 122 cân, trọc âm di động vùng bụng không rõ nữa. Kiểm tra chức năng Gan, chưa ổn định hoàn toàn. Bệnh nhân vào viện ngày 1 tháng 6 năm 1965, ra viện ngày 24 tháng 7, cộng 53 ngày. Tình trạng ra viện nói chung khá tốt, sau đó bệnh nhân tiếp tục đến khám 2 lần nữa. Sau đó 5 tháng, viết thư kể sức khỏe rất tốt.
Nhận xét: Bệnh nhân phúc thủy sơ Gan, biểu hiện chứng hậu Tỳ Vị hư nhược nhưng lại có tình huống nghiêng về thủy thấp nặng, chính khí không thắng nồi tà khí. Vì vậy trong điều kiện mới dùng thang thuốc liều cao vừa ích khí vừa khư tà. Bệnh án này trước dùng thang thuốc ích khí lợi niệu, kết quả không cao, chỉ sau khi tăng liều lượng Đình lịch, lượng tiểu tiện mới nhiều rõ rệt. Qua đó thì thấy đối với điều trị phúc thủy sơ Gan, trọng dụng Hoàng kỳ để ích khí, kiện Tỳ, Đình lịch tử để tả Phế trục thủy, rõ ràng có tác dụng nhất định.
BỆNH ÁN CỔ TRƯỚNG
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Bệnh nhân: Nghiêm X, nam, 40 tuổi.
Khám lần 1: Từng bị Cổ trướng năm 1958, đã điều trị khỏi. Năm nay, hồi tháng 3 đi kiểm tra phân có trứng giun móc dương tính. Trước đó 2 tuần bắt đầu thấy tiểu tiện ít, kém ăn, mỏi mệt, sắc mặt vàng bủng, mắt vàng, tính tình nóng nảy, Gan to dưới bờ sườn 2 khoát, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi xanh nhợt, rêu lưỡi mỏng. Bệnh thuộc loại khí trệ huyết ứ, nước đục ứ đọng.
Điều trị hướng sơ Can lý khí, hóa ứ hành thủy. Dùng Sài hồ 6g, Xích thược 12g, Chỉ xác (sao) 8g, Uất kim 12g, Mộc hương 6g, Thanh bì 12g, Trần bì 12g, Đan sâm 20g, Xích linh 12g, Trư linh 12g, Xa tiền tử 40, Xuyên tiêu mục 12g, Đình lịch tử 12g.
- Khám lần 2: sau khi uống 4 thang, mặt vàng hơi bớt, tiểu tiện nhiều, bụng trướng giảm dần, ăn khá hơn, tinh thần tỉnh táo, nhưng hai chân còn cảm giác yếu sức, tính tình nóng nẩy, tình trạng bệnh hơi có khởi sắc, tiếp tục theo phương pháp cũ, đơn thuốc trên tăng Đình lịch tử lên 20 gam.
- Khám lần 3: Bụng trướng tiếp tục giảm, tiểu tiện thông lợi vàng mặt nhạt hơn, tinh thần và ăn uống khá, chất lưỡi đỏ, khô miệng, mạch Tiểu Huyền, tà khí lui, chính khí hư, vẫn dùng nguyên phương gia giảm, đơn thuốc cũ bỏ Đình lịch tử, gia Xuyên Thạch hộc 16 gam.
- Khám lần 4: Bụng trướng đã nhẽo, to bụng giảm rõ rệt ăn tốt, đã hết vàng mắt, đã lao động bình thường, nhưng hai chân còn cảm giác yếu, mạch Tế, chất lưỡi đỏ nhạt, điều trị tiếp bằng thuốc hoàn. Hoàng kỳ phiến, mỗi phiến trọng lượng 1 gam, mỗi lần dùng 5 phiến, ngày uống 2 lần. Sau khi uống liên tục 10 ngày, bệnh nhân đã làm nông nghiệp bình thường, tinh thần sảng khoái, theo lời kể 1 tháng trở lại, vùng bụng nhẹ nhàng, tiểu tiện bình thường, ăn uống rất tốt.
Nhận xét: Bệnh nhân khám lần đầu ngày 16 tháng 10 năm 1965 vòng bụng 90cm, sau khi điều trị, phúc thủy rút đi nhanh. Uống được 11 thang, vòng bụng chỉ còn 78cm; trướng bụng tiêu trừ cơ bản. Ngày 20 tháng 12 cho bệnh nhân uống thuốc chữa huyết hấp trùng.
Bệnh nhân bị huyết hấp trùng giai đoạn cuối, khí trệ huyết ứ, thủy trọc ứ đọng dẫn đến phúc thủy. Ngoài các triệu chứng bụng to tiểu tiện ít, mấu chốt là ở tình tự nóng nảy, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi xanh nhạt, đó chủ yếu là chứng hậu khí trệ huyết ứ, cho
nên lập pháp sử phương, đầu tiên coi trọng sơ Can lý khí, hỗ trợ bằng hóa ứ lợi thủy mà thu được kết quả. Nếu quả là chỉ lợi thủy đơn thuần mà không chú ý tới Can lý khí, cho dù dùng liều cao thông lợi tiểu tiện thậm chí dùng thuốc trục thủy mạnh cũng khó
làm cho tiểu tiện thông lợi, phúc thủy tiêu đi. Cuối cùng, dùng độc vị Hoàng kỳ phiến nhằm ích khí để hành thủy, củng cố hiệu quả, đề phòng phúc thủy tái phát.
Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Thấp Nhiệt Ủng Trệ
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Phan XX, nam 45 tuổi, nông dân, Khám lần đầu ngày 18-5-1963. Trong một tháng lại đây bụng mỗi ngày một to ra như­ cái trống, bệnh viện chẩn đoán là xơ gan cổ trướng kèm lách to lên. Gan lách đều to 6cm. Sắc mặt vàng, mặt có nếp nhăn, nướu răng chảy máut, ăn không được, n­ước tiểu ít, đỏ, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn. Bệnh này thuộc chứng thấp nhiệt ủng trệ, n­ước tụ, khí trệ, huyết ứ, cổ trướng. Điều trị: phải thanh nhiệt, hóa thấp, trục ứ, tiêu thũng. Cho dùng bài Hóa Thấp Trục Ứ Tiêu Thũng Thang (Miết giáp 30g, Cù mạch 30g, Xa tiền tử 20g, Tam lăng 6g, Nga truật 6g, Phục linh 12g, Trạch tả 18g, Xuyên giáp 6g, Xích th­ợc 10g, Đào nhân 9g, Tiểu kế 30g, Phúc bì 12g, Hồ lô nửa quả. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.). Sau khi uống 5 thang nữa, đồng thời pha 30g Đại Tiểu kế nấu thành nư­ớc thay trà uống nhiều lần.
Uống xong bụng nư­ớc rút hết, ăn uống dần tăng lên, lách co lại. Tiếp theo cho thêm một số vị kiện tì d­ưỡng huyết như­ Đảng sâm, Hoàng kỳ, Đ­ương qui v.v... vào bài thuốc trên, uống liền trong hơn 4 tháng. Thời gian uống kiêng muối. Lách bệnh nhân trở lại như­ bình thường, các chứng bệnh tiêu tan, đã có thể làm một số công việc đồng áng. Theo dõi người bệnh 15 năm, không thấy tái phát.
Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Can Uất Khí Trệ, Tỳ Vị Hư Tổn
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Khương XX, nam, 47 tuổi, nông dân. Người bệnh tiêu hóa không tốt, bụng trướng, nặng nhất là về ban đêm, đã 7-8 năm, khám ở một bệnh viện chẩn đoán là viêm gan mạn tính, xơ gan giai đoạn đầu. 3 tháng gần đây bệnh nặng lên, ăn uống giảm sút, tiêu hóa kém, bụng trướng tăng. Toàn thân yếu sức, gầy còm, bụng to dần như­ cái trống, n­ước tiểu ít, màu vàng. Mạch Trầm, Hoãn. Đã rút nư­ớc ở bụng 2 lần, mỗi lần 1000ml. Điều trị:phải hành khí lợi thủy, thư­ can giải uất. Cho uống phối hợp Thanh Oa Tán với Mẫu Kê Sâm Kỳ Thang. Sau khi dùng thuốc 100 ngày, cổ trướng rút hết, các chứng dần tiến triển, đã có thể làm các công việc chân tay thông thường.
Bệnh Án Xơ Gan Cổ Trướng Do Thấp Nhiệt Đình Trệ
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Từ X X, nam, 58 tuổi. Bệnh nhân vốn nghiện r­ượu, ăn ít bụng trướng. Gần đây lư­ợng nư­ớc tiêu giảm, bụng căng như­ trống. Xét nghiệm chức năng gan thấy tỉ lệ albumin/globulin đảo ngư­ợc, chẩn đoán là xơ gan cổ trướng. Dùng thuốc đông y và tân dược để chữa nhưng kết quả không rõ rệt. Do người bệnh vốn nghiện rượu nên gan lách đều bị thương tổn, thể hiện sắc mặt xạm đen, mũi đỏ, không đói, tiểu tiện ít, miệng hơi đắng bụng trướng đầy, lưỡi hơi đỏ, rêu đục bẩn, mạch Huyền Sác. Đó là do thấp nhiệt giao trở, gan lách tổn thương dẫn đến tắc nghẽn đường dẫn mà thành cổ trướng. Cho uống Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn (Bạch truật 60g, Phục linh 30g, Trần bì 30g, Khương bán hạ 30g, Sinh cam thảo 10g, Tiêu thần khúc 30g, Sinh hương phụ 45g, Khổ sâm 15g, Hoàng liên sao 15g, C­ương châm xa 45g (tẩm dấm sao đỏ, tán nhỏ). Các vị thuốc trên sau khi tán thành bột mịn, lấy dấm và nư­ớc (mỗi thứ một nửa) trộn thành hồ Thần khúc rồi làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 70-80 hoàn, uống với nư­ớc thuốc sau: Bạch truật 18g, Trần bì 3g, Sinh khương 1 lát, sắc uống. Đối với người bệnh hư­ nặng, thì bỏ vị Hoàng liên, thêm Hậu phác 15g.), trước hết đem thuốc hoàn sắc thành thang để uống 10 thang rồi mới dùng thuốc hoàn 500g. Sau khi uống thuốc, bụng trướng giảm dần, tiểu tiện trong và dài, các chứng chuyển biến tốt rõ rệt. Lại cho uống 1000 hoàn, uống xong hết cổ trướng, ăn ngon hơn, kiểm tra chức năng gan, tỷ lệ albumin/globulin trở lại bình thường, đã có thể tham gia công tác như­ thường. Theo dõi vài tháng thấy sức khoẻ vẫn tốt.
Bàn luận: Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn do Chu Đan Khê sáng chế. Dùng bài thuốc này chữa xơ gan, đặc biệt là với bệnh nhân có tỉ lệ albumin/globulin đảo ngư­ợc, dù là có cổ trướng hay không đều thu được hiệu quả tốt. Thông thường uống từ 180g đến 210g là có thể khiến nư­ớc tiểu trong và nhiều, bệnh nặng thì uống 500g đã được nh­ư thế. Một số bệnh nhân sau khi đã hết các triệu chứng bệnh chức năng gan bình thường thì ngừng thuốc, nhưng rồi do không điều độ, làm việc quá sức thì lại tái phát, khi đó lại dùng bài thuốc trên vẫn có hiệu quả tốt. Những bệnh nhân loại này được chữa khỏi đã 20 năm mà vẫn khoẻ mạnh. Vị C­ương châm sa trong bài thuốc còn có tên là Châm sa hay C­ương sa.
CUỒNG
Cuồng là loại bệnh do ngũ chí quá mức hoặc do tiên thiên di truyền, làm cho đờm hỏa ủng thịnh, bế tắc tâm khiếu, thần cơ bị hỗn loạn dẫn đến tinh thần thác loạn, cuồng táo không yên, dễ tức giận thậm chí có thể giết người.
Thanh niên và tráng niên bị bệnh nhiều hơn.
Thiên ‘Chí Chân Yếu Đại Luận’ (Tố Vấn 74) viết: “Các chứng táo cuồng dại đều thuộc về hỏa”.
Thiên ‘Bệnh Năng Luận’ (Tố Vấn 46) viết: “Có người bị bệnh cuồng nộ, do đâu mà có? Kỳ Bá đáp: Do dương khí sinh ra. Hoàng Đế hỏi: Làm sao dương có thể làm cho người ta bị cuồng? Kỳ Bá đáp: Dương khí vì đè nén, không phát lên được, thành ra chứng cuồng nóä. Bệnh đó gọi là Dương quyết…”.
Thiên ‘Dương Minh Mạch Giải’ (Tố Vấn 30) viết: “Có chứng bệnh nặng, cởi bỏ áo mà chạy, trèo lên nơi cao mà hát, hoặc có khi không ăn tới vài ngày, lại trèo qua tường, leo lên nóùc nhà. Những nơi leo trèo đó, đều không phải những nơi mà lúc không bệnh có thể trèo lên được”.
Thiên ‘Điên Cuồng’ (Linh Khu 22) viết: “Khi bệnh cuồng bắt đầu sinh ra, trước hết bệnh nhân thấy buồn, thường hay quên, giận dữ, lo sợ, tất cả đều do lo lắng và đói… Bệnh cuồng bắt đầu phát ra thì bệnh nhân ít nằm, không đói, tự cho mình là người hiền ở trên cao, tự coi mình là người trí, tự cho mình là tôn quý, thường hay mạ lỵ người khác ngày đêm không nghỉ… Bệnh mà cuồng ngôn, kinh sợ, hay cười, thích ca hát, thường hay đi lang thang, đó là do quá khủng khiếp, quá sợ…”.
Tương ứng chứng tâm thần thể hưng phấn.
Nguyên Nhân
+ Do Âm Dương Không Điều Hòa: Do âm dương mất chức năng bình hoành, không tương giao lẫn nhau, âm hư đi xuống còn dương thịnh bốc lên, tâm thần bị xáo trộn, thần minh nghịch loạn gây nên.
. Tình Chí Uất Ức: Thường hay giận dữ, sợ hãi làm tổn thương Can Thận hoặc thích giận dữ làm cho Tâm dương bị hao tổn, âm dịch của Can Thận bị bất túc mộc (Can) không được nhu nhuận. Hoặc Tâm âm bất túc, Tâm hỏa bùng lên. Hoặc ước muốn mà không được thỏa mãn, suy nghĩ quá sức làm tổn thương tâm thần, tâm thần không được nuôi dưỡng, thần không làm chủ được. Hoặc âm của Tỳ Vị bị tổn thương, nhiệt ở Vị nhiều quá khiến cho hỏa của Can và Tâm bốc lên khiến cho thần minh bị nghịch loạn gây nên điên cuồng.
+ Do Đờm Trọc Đưa Lên Trên che lấp thanh khiếu, che lấp tâm thần khiến cho thần chí nghịch loạn gây nên điên cuồng.
+ Do Di Truyền: Tức là nhiễm độc từ trong thai như quá kinh sợ làm cho thai khí bị ảnh hưởng, mất chức năng thăng giáng, âm dương mất quân bình khiến cho tiên thiên không đủ, não và thần bị hư tổn, sau khi sinh ra, khí cơ bị nghịch loạn, thần cơ hỗn loạn gây nên bệnh.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp:
+ Đờm Hỏa Nhiễu Tâm: Bệnh phát nhanh, hai mắt dữ tợn, giận dữ, mặt đỏ, mắt đỏ, lúc cười, lúc hát, nói sàm, có khi cởi quần áo ra, đánh đập người khác, đập phá, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dầy, mạch Hoạt Sác.
Điều trị:
. Tả Can, chấn Tâm, tả hỏa, thông đờm. Dùng bài Giản Chứng Chấn Tâm Thang: Ngưu bàng tử, Viễn chí, Linh dương giác, Mạch môn đều 12g, Chân châu mẫu 40g, Hoàng liên 10g, Xương bồ, Toan táo nhân đều 8g, Cam thảo, Đởm tinh, Phục thần đều 6g. Sắc, hòa với 4g bột Thần sa, uống (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
. Thanh tiết Can hỏa, địch đờm, tỉnh thần. Dùng bài Thôi Thị Sinh Thiết Lạc Ẩm.
(Sinh thiết lạc bình Can trọng trấn, giáng nghịch, tiết hỏa; Câu đằng vị ngọt, hơi hàn, không độc trừ nhiệt ở Tâm, bình Can phong, tiết hỏa; Đởm tinh, Bối mẫu, Quất hồng địch đờm, hóa trọc; Xương bồ, Viễn chí, Phục thần, Thần sa tuyên khiếu, ninh Tâm, phục thần; Thiên môn, Mạch môn, Huyền sâm, Liên kiều dưỡng âm thanh nhiệt, hóa ứ, giải độc).
Nếu đờm hỏa nhiều mà rêu lưỡi vàng bệu có thể dùng Mông Thạch Cổn Đờm Hoàn để trục đờm, tả hỏa. Hoặc dùng An Cung Ngưu Hoàng Hoàn để thanh Tâm, khai khiếu. Nếu thần trí còn tỉnh, dùng Ôn Đởm Thang hợp với Chu Sa An Thần Hoàn làm chính (Trung Y Nội Khoa Học).
+ Hỏa Thương Âm: Sau cơn kịch phát, chứng cuồng lâu ngày cơn có dịu hơn, người bệnh mỏi mệt nhưng còn nói nhiều, gầy ốm, mặt đỏ, miệng khô, chất lưỡi đỏ, rêu ít, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư âm, giáng hỏa, an thần, định chí
. Dùng Cam Mạch Đại Táo Thang: Tiểu mạch, Mạch môn, Đại táo đều 12g, Sơn thù, Bạch thược, Bán hạ (chế), Cam thảo đều 8g, Trúc lịch 12ml. Sắc xong hòa với Trúc lịch uống (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
. Dùng Nhị Âm Tiễn hợp Định Chí Hoàn gia giảm (Sinh địa, Mạch môn, Huyền sâm để dưỡng âm, thanh nhiệt, hóa ứ; Hoàng liên, Mộc thông, Trúc diệp, Đăng tâm tả Tâm hỏa, thanh Tâm, an thần; Phục thần, Toan táo nhân, Cam thảo dưỡng Tâm, an thần, định chí. Dùng chung với Định Chí Hoàn có tác dụng ích khí, an thần, hóa đờm (Trung Y Nội Khoa Học).
+ Đờm Kết Huyết Ngưng: Bị cuồng lâu ngày không khỏi, da mặt tối như tro, nói nhiều, giận dữ, ca hát, trèo lên cao, vong tưởng, vong thính, đầu đau, kinh sợ, lưỡi đỏ tối, có nốt ứ huyết, có ít rêu hoặc rêu lưỡi khô, hơi vàng, mạch Huyền Tế hoặc Tế Sáp.
Điều trị: Cổn đờm, hóa ứ. Dùng bài Điên Cuồng Mộng Tỉnh Thang.
(Trong bài dùng Đào nhân để lấy vị đắng để hoạt huyết, vị ngọt, hoãn để ích Can sinh huyết, trục ứ, nhuận táo, làm quân; Xích
thược tán tà, hành huyết trệ, phá ứ huyết; Sài hồ bình tướng hỏa ở Can, Đởm, Tam tiêu và Tâm bào, thăng thanh dương, tán kết khí, tuyên thư khí huyết; Đại phúc bì hạ khí, khoan trung; Trần bì đạo đờm, tiêu trệ, lợi thủy, giải uất, trừ phiền; Thanh bì sơ Can Đởm, tả Phế khí, phá kiên tích, tán trệ khí tích kết; Tô tử hành khí, khoan trung, khai Vị, ích Tỳ; Tang bì giáng khí, tán huyết, tả Phế hỏa, khứ thủy khí, lợi thủy đạo; Bán hạ tiêu trừ hàn đờm ứ kết, bản chất của nó hoạt có thể thắng táo, vừa tẩu vừa tán, hòa Vị, kiện Tỳ, trừ thấp, hóa đờm, là thuốc chủ yếu để hạ nghịch khí, thấp đờm, làm thần; Cam thảo dùng sống để tả Tâm hỏa, hoãn cấp, điều hòa các vị thuốc, làm thông 12 đường kinh, giải độc, làm tá; Mộc thông giáng Tâm hỏa, thanh Phế nhiệt, thông lợi cửu khiếu, huyết mạch, quan tiết, trừ phiền nhiệt, làm sứ (Trung Y Nội Khoa Học).
+ Huyết Ứ Trở Khiếu: Ngủ ít, kinh sợ, hoang tưởng, vong nhĩ, vong ngôn, sắc mặt u tối, lưỡi xanh tím hoặc có nốt ban, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Tiểu, Huyền hoặc Tế Sáp.
Điều trị: Sơ ứ thông khiếu. Dùng bài Định Cuồng Trục Ứ Thang.
(Trong bài dùng Đan sâm, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa, Hổ phách (tán nhuyễn), Đại hoàng để hóa ứ, thông lạc; Thạch xương bồ, Uất kim khai thông cơ khiếu; Sài hồ, Uất kim, Hương phụ sơ Can, giải uất (Trung Y Nội Khoa Học).
+ Tâm Thận Thất Điều: Bị cuồng lâu ngày, lúc phát lúc không, lúc nhẹ lúc nặng, nói xàm, khó ngủ, ngủ không yên, phiền nhiệt, miệng khô, táo bón, đầu lưỡi đỏ, không rêu hoặc có vết nứt, mạch Tế Sác.
Điều trị: Dục âm, tiềm dương, giao thông Tâm Thận. Dùng bài Hoàng Liên A Giao Thang hợp với Hổ Phách Dưỡng Tâm Đơn`.
(Trong bài dùng Hoàng liên, Ngưu hoàng, Hoàng cầm thanh Tâm tả hỏa; Sinh địa, A giao, Quy thân, Bạch thược (sống) tư âm, dưỡng huyết, theo cách tả Nambôr Bắc; Nhân sâm, Phục thần, Toan táo nhân, Bá tử nhân, Viễnchis, Thạch xương bồ giao thông Tâm Thận, an thần, định chí; Long xỉ (sống), Hổ phách, Chu sa trấn Tâm, an thần (Trung Y Nội Khoa Học).
Tâm hỏa vượng quá thêm Chu Sa An Thần Hoàn. Ngủ không yên thêm Khổng Thánh Chẩm Trung Đơn (Trung Y Nội Khoa Học).
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Bình Cuồng Thang ((Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ): Kim mông thạch 25g, Uất kim 15g, Tam lăng, Nga truật đều 10g, Mộ hương 5g, Hắc sửu, Bạch sửu, Đào nhân đều 15g, Chỉ xác 10g, Đại hoàng (sống) 15g, Can khương 5g, Mang tiêu 30g (chia ra cho vào thuốc sắc uống). Sắc uống.
TD: Bình Can, giải uất, tả nhiệt hóa đờm, lý khí, tán kết. Trị tinh thần phân liệt (Can uất khí trệ, đờm hỏa kháng Tâm).
+ Cuồng Tỉnh Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ): Sài hồ 12g, Đại hoàng, Chỉ thực đều 9g, Đơn bì, Đào nhân đều 12g, Xích thược, Bán hạ, Trúc nhự đều 9g, Sinh khương 12g, Chi tử, Uất kim, Trần bì đều 9g. Sắc uống.
TD: Thông tạng, tả nhiệt, hành ứ, tán kết. Trị tinh thần phân liệt (Khí hỏa giao uất, nhiệt và hỏa kết, phủ khí không thông, ứ nhiệt nung đốt bên trên).
Đã trị 1 ca, uống 1 thang là khỏi.
+ Tả Can Định Cuồng Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Hoàng liên, Hoàng bá đều 9g, Hoàng cầm, Hoàng liên, Lô hội, Thanh đại (bọc vào, nấu trước), Sơn chi (sống) đều 10g, Đương quy 15g, Long đởm thảo 10g, Mộc hương 6g, Long não băng phiến 0,5g, Chu sa (nghiền nát hòa thuốc sắc uống).
TD: Thanh Can, tả hỏa. Trị cuồng (Tinh thần phân liệt).
+ Tứ Vị Đạt Doanh Thang (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1982, 9): Tam lăng, Nga truật đều 60g, Đại hoàng, Xích thược đều 30g. Sắc uống.
TD: Điều khí, phá ứ, lương huyết, tả nhiệt. Trị bệnh tâm thần có chu kỳ(Chu kỳ tính tinh thần bệnh).
Đã trị 44 ca, khỏi 40. Đạt tỉ lệ 90%.
+ Phân Kỳ Bình Cuồng Thang (Tân Trung Y 1985, 6):
1. Thanh mông thạch, Hải phù thạch, Hoàng bá (tẩm muối), Hoàng cầm, Đại giải thạch, Cúc hoa, Nhị sửu đều 12g, Trúc nhự, Chi tử (sống), Thiên hoa phấn, Mạch môn, Tri mẫu đều 9g, Đại hoàng (cho vào sau), Mang tiêu (cho vào nước thuốc sắc uống) đều 15g.
2. Chi tử, Long đởm thảo, Huyền sâm, Sài hồ, Uất kim, Bạch thược, Địa long, Cúc hoa, Mạch môn, Tri mẫu, Nữ trinh tử, Nhị sửu, Đại hoàng(cho vào sau), Mang tiêu (trộn chung với nước thuốc sắc uống) đều 12g, Sinh địa, Đại giả thạch đều 15g.
3. Sài hồ, Mộc hương, Xích thược, Hồng hoa đều 9g, Phục thần, Uất kim, Đương quy, Sinh địa, Xuyên khung, Đào nhân, Đan sâm, Hợp hoan bì,Viễn chí, Bá tử nhân, Nữ trinh tử đều 12g, Long xỉ 15g. Sắc uống.
TD:
. Bài 1: Thanh nhiệt, địch đờm, tả hỏa, thông tiện. Trị cuồng (đờm hỏa thực thịnh).
. Bài 2: Thanh Can, tả hỏa, tả nhiệt thông tiện. Trị cuồng Hỏa thịnh dương kháng.
. Bài 3: Thư Can, lý khí, hoạt huyết, khứ ứ. Trị cuồng (Khí trệ huyết ứ).
Đã trị 2540 ca. Trong đó loại đờm hỏa thực thịnh là 1781 ca, trị khỏi 1689, có tiến bộ 74, không kết quả 18. loại hỏa thịnh dương kháng có 482 ca, trị khỏi 433, có tiến bộ 26, không kết quả 23. loại khí trệ huyết ngưng có 277 ca, trị khỏi 162, có tiến bộ 72, không kết quả 43, đạt tỉ lệ 96,69%.
+ Dưỡng Doanh Tỉnh Thần Thang (Liêu Ninh Trung Y Tạp Chí 1987, 8): Hoàng kỳ (nướng), Đảng sâm, Táo nhân (sao), Đan sâm 15g, Hắc phụ phiến 9~12g, Bạch truật (sao), Cửu tiết xương bồ đều 9g, Viễn chí 4,5g, Ngũ vị tử 3~4,5g, Can khương 3g. Sắc uống.
TD: Ôn Thận kiện Tỳ, thông khiếu, tỉnh thần. Trị điên cuồng.
Uống khoảng 10 thang là có kết quả dần.
+ Điên Cuồng Phương (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đại hoàng (sống), Cát hồng đều12g, Hậu phác, Sơn chi, Hoàng cầm đều 10g, Sài hồ 9g, Sinh địa 30g, Trúc nhự 15g, Long đởm thảo 10g, Phục linh 20g, Thạch cao (sống) 40g, Từ thạch 60g, Xa tiền tử 15g, Mạch môn 30g. Sắc uống.
TD: Tả Can hỏa, thanh dương minh, thông nhị tiện, trấn an thần. Trị cuồng.
Bệnh Án Tâm Thần Phân Liệt
(Trích trong ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’)
Thành, nam, 28 tuổi, lái xe, nhập điều trị ngoại trú ngày 5/10/1974.
Cách đây hơn một năm bệnh nhân bị rối loạn tinh thần do hoảng hốt và sợ hãi.
Bên cạnh những triệu chứng điển hình xuất hiện trong bệnh tâm thần phân liệt, khám lâm sàng thấy thể trạng mập và yếu, rêu lười trắng, dày và nhờn, mạch Trầm, Hoạt, Huyền.
Chẩn đoán là tâm thần phân liệt.
Lần đầu châm An miên 2, Nội quan và Hậu khê và xoa cùng lúc. Ngày một lần. 7 ngày là một liệu trình.
Sau khi điều trị, tình trạng bệnh nhân khỏe hơn nhiều.
Lần thứ hai châm Bách hội, Khích môn, Khúc trì, Cưu vĩ, ngày một lần, 7 ngày là một liệu trình. Thủ pháp cũng giống như trên và liệu pháp lễ và véo được thực hiện mỗi ba ngày một lần.
Sau liệu trình thứ hai, bệnh nhân có thể tự lo sống.
Trong liệu trình thứ ba, hai huyệt ở mỗi bên của đốt sống cổ được châm bằng kim hướng về phía hàm dưới, sâu một thốn và nhóm huyệt hỗ trợ đầu tiên được châm cách ngày một lần với thủ pháp vê, trong đợt này châm 11 lần.
Sau ba đợt điều trị như trên bệnh nhân hồi phục hoàn toàn và không thấy tái lại trong 4 năm.
Bệnh Án Rối Loạn Tâm Thần
(Trích trong ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’)
Bệnh nhân Lưu nữ, 31 tuổi, nông dân, nhập điều tri ngoại trú ngày 18/10/1976.
Khởi phát loạn tâm thần cách đây một tháng do kích xúc tinh thần.
Chẩn đoán là loạn tâm thần phản ứng.
Châm Phong trì bên trái hướng qua Phong trì bên phải, Huyệt ở vị trí 1 thốn trên đường nách trước hướng ra đường nách sau, Khúc trì hướng vào Thiếu hải, Hợp cốc hướng ra Hậu khê, Gấp khớp góc 90o huyệt mặt trong đùi hướng ra mặt ngoài đùi, Dương lăng tuyền hướng vào Âm lăng tuyền Côn lôn hướng vào Thái khê. Sử dụng thủ pháp nâng, đẩy và vê một thời gian ngắn. Phối hợp uống Bạch phàn 30 - 90g, đường trắng 30 - 90g, nước 300 ml, uống thuốc vào buổi sáng sớm. Chỉ sau một phút uống thuốc bắt đầu nôn thải ra khoảng 300ml đờm nhầy trắng, sau đó còn nôn mỗi 1 - 2 giờ, nôn tất cả 4 lần. Lúc đó, châm theo thủ pháp nâng đẩy và vê kim.
Vào ngày hôm sau, tình trạng bệnh trở nên tốt hơn nhiều, bệnh nhân đã có thể ngủ nhiều giờ suốt bữa tối, có ý thức, có cảm giác hoảng sợ và hồi hộp.
Điều trị sáu lần nữa như trên, bệnh khỏi hoàn toàn.
Tóm kết: Hai chứng Điên và Cuồng, một chứng thuộc Đờm Khí, một chứng thuộc Đờm Hỏa, lại phân ra âm dương, hư thực, có thể bị riêng cũng có thể chuyển hóa lẫn nhau, vì vậy, trên lâm sàng cần lưu ý cho phù hợp với bệnh chứng
HỘI CHỨNG CUSHING
Năm 1932, Harvey Williams Cushing, phẫu thuật viên thần kinh, đã mô tả một bệnh với đầy đủ chi tiết và bệnh đó đã được đặt tên ông.
Thường gặp ở phụ nữ tuổi từ 20 – 40.
Sách Y học định nghĩa hội chứng Cushing: “Hội chứng có nhiều nguyên nhân khác nhau do thừa mạn tính Corticoid trong máu với đặc điểm béo phì ở mặt, thân mình, cao huyết áp, loãng xương sườn, xương sống gây đau”.
Tương đương các chứng Neng shi shan ji (Thích ăn, mau đói), Thuỷ Thủng, Phì Bàng (Béo Phì), Tự Hãn, Đạo Hãn, Thất Miên, Bất Mỵ… của Đông Y
Nguyên Nhân
Do khối u lành tính hoặc ác tính ở tuyến yên, có hoặc không có kèm theo thương tổn vùng dưới đồi. Khối u ở tuyến thượng thận hoặc ở một nơi khác Hoặc do lạm dụng uống quá nhiều loại thuốc có chứa Corticoid.
Dựa theo triệu chứng bệnh, có thể chia làm hai loại:
+ Do Tỳ Thận dương hư kèm đờm thấp. Do ăn uống suy kém, mệt nhọc quá sức, tuổi già, bệnh mạn tính, tiên thiên bất túc. Đờm trọc ngăn trở bên trong, lâu ngày hoá thành nhiệt, nhiệt nung đốt tân dịch gây nên bệnh.
+ Do Âm hư hoả vượng. Chủ yếu do dùng các vị thuốc hoặc thức ăn cay nóng quá. Các loại thuốc chứa Corticoid như Prednisolone có thể thanh được nhiệt nhờ yếu tố kháng viêm, giảm đau nhờ yếu tố hành khí. Về mặt nào đó, Prednisolone có tác dụng giống như vị Sài hồ. Nếu dùng nhiều thuốc có vị cay, nóng quá có thể làm tổn thương dương khí, làm hạ tân dịch.
Như vậy một mặt do khí và dương hư, mặt khác do âm hư hoả vượng gây nên bệnh.
Chẩn Đoán
. Dựa trên dấu hiệu khám lâm sàng: dấu hiệu ‘Mặt Trăng Rằm’.
. Nhiều test cần làm để theo dõi sự thay đổi của Corticoid: Dexamethasone test, Metyrapone test, ACTH test, CRF test…
Triệu chứng rõ nhất là ‘khuôn mặt trăng rằm’: mặt béo phì kèm cổ phình to, kèm huyết áp cao, teo cơ (nhất là các chi), suy nhược, loãng xương, suy kém ở hệ sinh dục, vết nứt đỏ da ở bụng, đùi và ngực, rậm lông ở mặt.
Trên lâm sàng thường gặp những loại sau:
+ Âm Hư, Can Dương Thượng Cang: Béo phì, mặt đỏ, choáng váng, chớng mặt, tinh thần uể oải, tai ù, họng khô, mau đói, lưng đau, gối mỏi, chân tay tê, lưỡi đỏ, rêu lưỡi nhạt, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư âm, tiềm dương. Dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn gia vị: Câu đằng 15g, Ngưu tất, Thục địa đều 12g, Cát căn, Sơn dược, Sơn thù, Phục linh đều 9g, Đơn bì, Trạch tả đều 6g. Sắc uống.
(Thục địa, Ngưu tất, Sơn dược, Sơn thù, Phục linh tư âm, dưỡng huyết, bổ Can Thận; Trạch tả dẫn hư hoả của Thận xuống; Đơn bì thanh Can, lương huyết; Cát căn thanh nhiệt, sinh tân, trị tai ù; Ngoài ra, Cát căn còn đi lên trên đẻ thanh được nhiệt ở trên; Câu đằng hỗ trợ Ngưu tất để tiềm dương).
Béo phì quá, thêm Hà thủ ô, Quyết minh tử đều 12g. Bừng nóng nhiều thêm Hoàng bá, Tri mẫu đều 9g. Tinh thần uể oải, ù tai thêm Thạch xương bồ 9~12g. Khát, họng khô thêm Lô căn, Thiên hoa phấn đều 12g. Mau đói thêm Thạch cao 15g, Tri mẫu 9g. Lưng đau, gối mỏi, chân yếu thêm Hà thủ ô, Tang ký sinh đều 9g. Mất ngủ thêm Dạ giao đằng, Toan táo nhân đều 15g.
+ Âm Hư Hoả Vượng: Mặt đỏ, tròn như mặt trăng, mặt có cảm giác bừng nóng, tay chân phù, ngực nóng, lòng bàn tay chân nóng, mồ hôi trộm, họng khô, miệng khô, lưng đau, gối mỏi, tay chân tê, mệt mỏi, hồi hộp, mất ngủ, hay mơ, khát, kinh nguyệt không đều, huyết trắng, táo bón, chân có nhiều vết ban đỏ hoặc tĩnh mạch đỏ, lưỡi đỏ, đầu lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Trầm, Tế, Sác.
Điều trị: Bổ Thận, dưỡng âm, thanh hư nhiệt. Dùng bài Tri Bá Địa Hoàng Hoàn gia giảm: Đan sâm, Sinh địa, Hoàng tinh đều 20g, Câu kỷ tử, Dạ giao đằng, Đơn bì đều 12g, Tri mẫu, Hoàng bá, Long đởm thảo đều 9g, Sơn thù du 6g. Sắc uống.
(Sinh địa Câu kỷ, Sơn thù bổ Thận, tư âm; Hoàng tinh ích khí, trợ tinh, kiện Tỳ, trợ Thận. Đây là vị thuốc được coi là chủ yếu trong điều trị hội chứng Cushing; Hoàng bá, Tri mẫu, Long đởm thảo thanh hư nhiệt. Long đởm thảo cũng là vị thuốc được dùng chủ yếu trong điều trị hội chứng Cushing; Đan sâm hoạt huyết, hoá ứ do hoả gây nên; Dạ giao đằng dưỡng Tâm và Can huyết, an hồn, an thần).
Can dương thượng cang gây nên đau đầu, váng đầu, dễ tức giận thêm Câu đằng, Cúc hoa đều 12g. Mất ngủ, ngủ hay mơ, trí nhớ giảm, mệt mỏi thêm Toan táo nhân, Viễn chí đều 15g; Táo bón thêm Úc lý nhân 9g hoặc Đại hoàng 6-9g. Tỳ khí hư thêm Hoàng kỳ 15g, Đảng sâm 9g. Chân không có sức thêm Bạch thược, Thuyền thoái, Cương tằm. Chân có nhiều vết ban đỏ thêm Hồng hoa, Đào nhân.
Không thể ngưng ngang Corticoid vì nguy hiểm do hội chứng suy tuyến thượng thận cấp có khả năng gây tử vong.
CƯỜNG GIÁP
(Cường Giáp - Giáp Trạng Tuyến Công Năng Cang Tiến Chứng, Bướu Cổ Lồi Mắt, Bazedow).
Do nhiều nguyên nhân làm cho công năng tuyến giáp tăng cao. Là một bệnh nội tiết do kích thích tố tuyến giáp tăng. Thường gặp nhất là Tuyến giáp viêm mạn kèm cường giáp (bệnh Grave).
Phương pháp trị chủ yếu của YHHĐ đối với bệnh cường giáp gồm:
1- Dùng thuốc kháng giáp
(anti thyroxin ).
2- Dùng Iod.
3- Cắt bỏ 1 phần tuyến giáp.
Sau khi ứng dụng 2 phương pháp trên thấy có thích ứng với các chứng nhất định, thuốc kháng giáp có tác dụng làm giảm tế bào lymphô và sau khi điều trị dễ bị tái phát.
YHCT xếp bệnh cường giáp vào phạm trù Anh Chứng. Đương nhiên là Anh chứng không chỉ riêng về bệnh cường giáp mà còn gồm các bệnh khác về tuyến giáp nữa. Trên thực nghiệm lâm sàng dài ngày đã tích lũy được kinh nghiệm phong phú về thuốc Đông y trong việc điều trị bướu cổ, trong đó việc trị bệnh cường giáp đã thu được những kết quả trị liệu khá tốt mà không có tác dụng phụ rõ rệt, đồng thời trong thực tế đã nắm vững được các chứng cường giáp thích hợp với việc điều trị bằng thuốc YHCT. Thường người ta cho rằng những dạng dưới đây thích hợp với việc dùng thuốc YHCT để điều trị:
1- Bệnh nhẹ hoặc vừa, nếu nặng có thể kết hợp Đông Tây y.
2- Trường hợp quá mẫn cảm với thuốc kháng giáp hoặc vì phản ứng độc tính mà không thể tiếp tục điều trị, không thể giải phẫu được.
3- Người bệnh có kèm bệnh gan.
4- Sau khi ngưng dùng thuốc kháng giáp thì tái phát.
5- Sau khi giải phẫu, bệnh cường giáp tái phát mà dùng thuốc kháng giáp không hiệu quả.
6- Dùng thuốc kháng giáp tuy bệnh có bị khống chế nhưng mắt bị lồi, tuyến giáp sưng to hơn trước.
YHCT chữa chứng cường giáp lấy biện chứng luận trị làm cơ sở nhưng phân từng loại cũng có sự khác biệt.
* Y viện Nam Kinh phân thành 4 loại: Can khí uất trệ, Đờm khí giao kết, Can hỏa vượng và Tâm Can âm hư.
* Y viện Thượng Hải phân làm 3 loại: Khí trệ đờm ngưng, Can hỏa cang thịnh và Tâm Can Âm hư.
* Y viện Bắc kinh cho rằng chứng trạng điển hình của bệnh cường giáp không xuất hiện đồng thời mà ở các giai đoạn khác nhau đều có các chứng khác nhau.
Các phương pháp phân loại của các tác giả tuy không hoàn toàn giống nhau nhưng trên cơ bản đều cho rằng diễn biến của bệnh này có các quy luật sau:
+ Mới phát: Chủ yếu là Can uất đờm kết, chữa trị nên lý khí, hóa đờm, nhuyễn kiên, tán kết.
+ Thời kỳ sau: Phần âm suy, hao tổn, chữa trị nên nhu Can, tư Thận.
Trong tiết này chủ yếu giới thiệu những nghiên cứu về chứng cường giáp thuộc Hư chứng.
Y viện Thượng Hải tiến hành nghiên cứu chỉnh lý đối với việc trị liệu bệnh cường giáp của Hạ-Thiếu-Nông. Phát hiện thấy trong gần 100 người bệnh cường giáp đều có chứng trạng khí và âm đều hư, cho thấy hư chứng chiếm 1 tỉ lệ rất lớn trong bệnh cường giáp, Trong đó có 1 phần bệnh nhân vừa âm hư vừa kèm Tâm hỏa vượng hoặc Can hỏa vượng. Nếu kèm Tâm hỏa vượng thì Albumin trong nước tiểu tăng cao, nếu Can hỏa vượng thì 17 Steroid (OHCS) trong nước tiểu tăng cao. Hiện tượng này cũng gặp trong các người bệnh Tâm hỏa vượng và Can hỏa vượng thuộc các loại bệnh khác (như Huyết áp cao...). Cho thấy 2 chỉ định này không phải là mối liên quan tất yếu đối với riêng bệnh cường giáp, mà chủ yếu là phản ảnh bản chất hỏa vượng của tạng phủ. Xét theo kết quả trị liệu, trên cơ sở nguyên tắc trị liệu phù hợp, thêm các vị thuốc tả Tâm hỏa (Hoàng liên), tả Can hỏa (Long đởm thảo) tương ứng thì vừa cải thiện chứng trạng của bệnh cường giáp mà các chất Albumin và 17 Steroid (OHCS) trong nước tiểu cũng hạ thấp tương ứng. Đặc điểm trị liệu cường giáp của Hạ-Thiếu-Nông là tăng ích khí, dưỡng âm. Trong bài thuốc dùng vị Hoàng kỳ là chủ yếu. Y viện Thượng Hải qua nghiên cứu chứng minh rằng: Thuốc với lượng lớn Hoàng kỳ có tác dụng quan trọng đối với việc đề cao hiệu quả. Dùng Hoàng kỳ 60g, Hạ khô thảo 40g, Bạch thược, Hà thủ ô, Sinh địa đều 20g, Hương phụ (chế) 12g, gọi là bài ‘Cường Giáp Trọng Phương ‘, và dùng phương này bỏ Hoàng kỳ để so sánh với bài Cường Giáp Trọng Phương. Theo chỉ số phân tích cường giáp:
. Ở nhóm dùng Hoàng kỳ, trước khi điều trị là 19.45 +- 0.84 hạ xuống 7.03 +-0.89 sau khi điều trị.
. Ở nhóm không dùng Hoàng kỳ thì từ 20.31+- 0.60 hạ xuống 13.11 +- 0.99. Tuy cả 2 nhóm trước và sau khi điều trị đều có sự sai biệt rõ rệt nhưng chỉ số tích phân của nhóm Hoàng kỳ sau khi điều trị thấp hơn so với nhóm không có Hoàng kỳ. Việc trọng dụng Hoàng kỳ ngoài việc thu được kết quả lâm sàng rõ rệt mà kiểm tra trong phòng thí nghiệm cũng thấy kết quả trị liệu tốt. Thí dụ:
. Huyết thanh T3 ở nhóm Hoàng kỳ trước khi điều trị là 4.22 +- 0,30mg/ml sau khi điều trị hạ xuống 2.68 +- 0,25mg/ml (P< 0.01), ở nhóm không có Hoàng kỳ thì từ 4.04 +- 0.37 mg/ml xuống 3.97 +- 0.36mg/ml (P > 0.05).
. Huyết thanh T4 ở nhóm Hoàng kỳ trước khi điều trị là 19.5 +- 1.25mg/dl sau khi điều trị xuống 12.93 +- 0.87mg/dl (P < 0.01),ở tổ không có Hoàng kỳ thì từ 17.19 +- 1.27mg/dl hạ xuống 16.39 +-1.59mg/dl(P> 0.05)
Thông thường thì sự phát bệnh cường giáp có quan hệ với sự rối loạn công năng miễn dịch và sự xuất hiện cầu đản bạch miễn dịch của tuyến giáp hưng phấn trong cơ thể. Hoạt tính Ea của người bệnh cường giáp trước khi điều trị thấp hơn người bình thường rõ rệt. Sau khi điều trị, ở nhóm Hoàng kỳ Ea tăng cao rất rõ ( P<0.05), ở nhóm không có Hoàng kỳ thì Ea tăng cao không rõ (P> 0.05). Xét theo sự sai biệt của chỉ định miễn dịch ở 2 nhóm thì tác dụng điều trị của Hoàng kỳ đối với chứng cường giáp có khả năng có quan hệ với năng lực điều chỉnh công năng miễn dịch của cơ thể. Ở nhóm không có Hoàng kỳ mà chỉ đơn thuần dùng thuốc dưỡng âm thì chỉ có khả năng cải thiện chứng trạng mà không có khả năng hạ thấp mức độ T3,T4 và nâng cao Ea, cho thấy phép điều trị bằng thuốc dưỡng âm ở đây chính là điều trị ngọn (tiêu). Chứng âm hư của bệnh nhân cường giáp có khả năng là chứng phát ra từ sự suy giảm chính khí, sau khi thêm lượng lớn Hoàng kỳ thì cải thiện được chứng trạng lâm sàng và các chỉ định trong phòng thí nghiệm, không những nâng cao tần suất khỏi bệnh mà còn hạ thấp tần suất tái phát, làm nền tảng cho việc điều trị gốc. Điều
này không những có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc điều trị bệnh cường giáp mà còn làm phong phú thêm lý luận ‘ Dương sinh Âm trưởng ‘ - ‘Âm được dương trợ mà nguồn suối không cạn ‘ của YHCT. Đương nhiên cũng không thể bỏ qua tác dụng của thuốc dưỡng âm. Do mô hình thực nghiệm cường giáp tạo thành T 3 mà số lượng thụ thể của kích thích tố thượng thận tăng nhiều , lượng háo Oxy tăng lên, mà các vị thuốc tư âm như Sinh địa, Quy bản có khả năng hạ thấp 2 chỉ định này, hồi phục đến mức bình thường. Dùng chung Hoàng liên (tả Tâm hỏa) đối với bệnh nhân cường giáp có đủ chứng trạng âm hư, tâm hỏa vượng thì liền có khả năng tăng cường tác dụng điều chỉnh tính hưng phấn của giao cảm - thượng thận ở bệnh nhân. Ngoài ra ông họ Tương còn phát hiện rằng phương tổng hợp dưỡng khí ích âm có khả năng điều chỉnh sự tăng cao khác thường của hàm lượng CAMP có huyết tương của chuột cường giáp (thực nghiệm) do T3 gây ra, giảm thấp lượng háo dưỡng khí của tổ chức gan và giảm lượng nước uống ở mô hình chuột thực nghiệm, đồng thời điều chỉnh sự biến hóa dị thường của công năng kích thích tố thượng thận. Người ta cho rằng: những tác dụng thu được này không nhờ vào sự hồi phục của tuyến giáp trạng, điều này cho thấy Đông dược có thể thông qua con đường bên ngoài tuyến giáp mà có tác dụng điều tiết sự chuyển hóa của cơ thể để thu được kết quả điều trị lâm sàng.
Đông dược cũng thường dùng 1 số chứng trạng của bệnh cường giáp để đối chứng trị liệu như đối với chứng mồ hôi nhiều, có thể dùng bột Mẫu Lệ, cũng có tác giả điều trị bằng Hoàng kỳ, Phù tiểu mạch...Đối với chứng mất ngủ, hồi hộp, hay mơ thì trên cơ sở ích khí dưỡng âm có thể thêm các vị thuốc ninh tâm an thần như Toan táo nhân, Viễn chí, Long cốt, Dạ giao đằng, Trân châu mẫu...
YHCT cũng có 1 số thăm dò trong việc điều trị chứng lồi mắt (đột nhãn). Cường giáp và lồi mắt đều do tự miễn dịch gây ra, trong đó việc thiếu tính ức chế tế bào T là 1 khâu trọng yếu trong việc gây ra bệnh mà nồng độ cao của T3,T4 ở bệnh cường giáp làm giảm yếu công năng của Ts, làm tăng sự rối loạn sẵn có của chức năng miễn dịch.
Đối với chứng lồi mắt:
+ Y viện Thự Quang (Thượng Hải) dùng Kỷ tử, Bạch giới tử, Trạch tất, Ngọa lõa tử, Địa cốt bì và Bạch tật lê để điều trị bướu cổ lồi mắt.
+ Sở nghiên cứu nội tiết Thượng Hải dùng đơn thuần biện chứng luận trị hoặc dùng thuốc YHCT thêm“Thyroid ” (Tuyến giáp trạng phiến) liều thấp, chữa 24 trường hợp bướu cổ lồi mắt, một số chữa kết hợp với châm cứu. Sau khi điều trị 3-6 tháng tỉ lệ có kết quả ở chứng bướu cổ lồi mắt nhẹ là 90,9%, loại vừa là 75%,. Mức độ mắt thu nhỏ là 2,3mm (P< 0.01), nồng độ T3, T4 trong huyết thanh hạ thấp rõ. Người ta cho rằng tác dụng điều trị của thuốc YHCT có khả năng có quan hệ với sự điều chỉnh tính miễn dịch và công năng của thần kinh thực vật.
Nguyên tắc chữa trị chính là Thanh nhiệt, bổ khí, thanh Can, minh mục, tư âm. Các vị thuốc chính là:Phong hưu, Bạch liễm, Lậu lô, Hoàng kỳ, Huyền tinh thạch, Thạch hộc, Cúc hoa, Kỷ tử, Mật mông hoa, Thiên lý quang, Cốc tinh thảo, Thạch giải...
Ngoài ra, có tác giả cũng quan sát thấy những bệnh nhân lồi mắt ở thời kỳ cường giáp ổn định, có chứng trạng ứ huyết ở mắt và toàn thân, các nếp nhăn ở mao mạch và công thức máu đều khác thường. Kiểm tra độ thay đổi của huyết dịch có kết quả. Độ dính của huyết tương toàn phần, HCT đều tăng cao, cho thấy huyết ứ cũng có khả năng chính là nguyên nhân phát bệnh hàng đầu của chứng này. Điều này cũng có thể có ý nghĩa nhất định trong việc hướng dẫn điều trị. Việc xử dụng thuốc YHCT có chứa Iod là 1 vấn đề cần cân nhắc về lợi hại. Những phương thuốc trị bướu cổ truyền thống đều có 2 vị thuốc Côn bố và Hải tảo, có hàm lượng Iod rất cao mà sự ứng dụng Iod trong việc trị bệnh cường giáp theo YHHĐ lại khá hạn chế. Iod có khả năng ức chế cơ hóa tạm thời chất Iod trong tuyến giáp, chủ yếu là ức chế sự phóng thích kích thích tố tuyến giáp nhưng không phải là dạng dược liệu có Lưu huỳnh và Uric ức chế sự hình thành của kích thích tố tuyến giáp.. Hiện nay trong lâm sàng người ta lợi dụng hiệu quả cấp kỳ của Iod trong trường hợp khẩn cấp để khống chế sự phân tiết kích thích tố tuyến giáp, như ở người bệnh cường giáp cần giải phẫu gấp. Ngoài ra Iod có thể làm giảm huyết dịch cung ứng cho sự tăng sinh của tuyến giáp. Vì vậy, cũng có thể dùng để chuẩn bị cho tiền giải phẫu. Nhưng trên 1 phương diện khác, phải tỉnh táo để biết rằng việc dùng đơn độc Iod để điều trị có tính quyết định đối với bệnh cường giáp thì luôn luôn có hiệu quả không tốt. Sau khi dùng trong 1 giai đoạn thì bị trầm cảm vì trong tuyến giáp lưu trữ 1 lượng lớn kích thích tố, vì vậy việc dùng các thuốc khác rất khó khăn. Khi dùng Iod để điều trị bệnh cường giáp thì sau khi ngưng dùng, các chứng trạng của bệnh cường giáp tăng nặng hơn. Tác giả Trần Thị làm so sánh giữa hiệu quả cấp thời việc dùng Iod của YHHĐ và thuốc YHCT có chứa Iod để điều trị bệnh cường giáp, thấy ở 2 phương pháp này thì thời gian bắt đầu có hiệu quả, thời gian đạt được hiệu quả cao nhất và tỉ lệ hiệu quả thì đều giống nhau. Đối với hiệu quả lâu dài của 2 phương pháp điều trị trên, vì sự hạn chế của điều trị nên không so sánh được. Oâng ta cũng so sánh hiệu quả điều trị bệnh cường giáp giữa loại dùng Iod và các phương thuốc YHCT không chứa Iod. Kết quả thấy rằng tuy thời gian có hiệu quả cao nhất của thuốc YHCT chậm hơn so với Iod nhưng thời gian hiệu quả lại kéo dài hơn so với Iod. Như vậy, khi xử dụng thuốc YHCT có hàm lượng Iod cao để điều trị bệnh cường giáp phải cẩn thận như khi xử dụng Iod.
Đương nhiên cũng có 1 số báo cáo về 1 số ứng dụng các phương thuốc có hàm lượng Iod khá cao như bài Tiêu Anh Thang (Hải tảo, Côn bố, Hoàng dược tử, Mẫu lệ ( nung) hoặc bài Hoàng Dược Tử Cao... có khả năng mất hiệu quả (giảm Iod) nhờ dịch Lô qua thị?. Điều này cho thấy rằng những thuốc YHCT trên còn chứa 1 số các thành phần có khả năng khắc phục các tác dụng phụ của Iod, nâng cao hiệu quả điều trị. Để xác định được những điều này, còn phải chờ những tiến bộ mới trong nghiên cứu.
- Hà-Thiệu-Kỳ trong ‘Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học’ báo cáo:
“ Đối với bệnh cường giáp, theo biểu hiện lâm sàng, nhiều học giả cho rằng thuộc loại âm hư dương kháng kiêm đờm, kiêm ứ. Phép trị dùng Tư dưỡng Thận âm, bình Can tiềm dương, hóa đờm, nhuyễn kiên, hoạt huyết, hóa ứ. Dùng bài ‘Bình Anh Phức Phương ( Sinh địa, Huyền sâm, Đan bì, Hạ khô thảo, Triết bối mẫu, Tam lăng, Nga truật, Ngõa lăng tử, Sơn dược, Đương qui, Sơn thù nhục), bài Phức Phương Giáp Kháng Cao (Sinh địa, Mạch môn, Bạch thược, Đan sâm, Hạ khô thảo, Mẫu lệ,Tô tử, Ngũ vị tử, Hương phụ (chế), Đảng sâm, Hoàng kỳ), bài Giáp Kháng Cơ Bản Phương (Bạch thược, Sinh địa, Miết giáp, Qui bản, Sơn dược, Hạ khô thảo, Đảng sâm, Hoàng tinh), các bài này đối với cường giáp nhẹ và trung bình có kết quả tốt.
Hà-Kim-Lâm báo cáo 120 trường hợp dùng châm cứu bổ các huyệt Túc tam lý (Vị 36), Tam âm giao (Tỳ 6), tả các huyệt Khí anh (Ngoài kinh), Nội quan (Tâm bào 6), Gian sử (Tâm bào 5), ngày 1 lần, có kết quả 73,9%. Kết hợp với thuốc kết quả càng tốt.
Gần đây, có nhiều học giả cho rằng đối với việc kháng giáp, không nên dùng các loại thuốc có Iod như Hải tảo, Hải đái,Côn bố...vì đã dùng rồi kết quả sẽ không tốt. Đó cũng là 1 phát hiện mới”.
Trần Sĩ Khuê trong ‘Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học’ báo cáo:
“ Nhiều học giả phát hiện: chứng suy giáp và cường giáp phù hợp với chứng Dương hư và Âm hư theo Trung y. Dùng phép ôn Thận, trợ dương, ích khí chữa chứng Dương hư cũng có thể dùng chữa chứng suy giáp. Dùng phép ích khí thanh nhiệt, dưỡng âm chữa chứng âm hư cũng có thể chữa chứng cường giáp có kết quả.
Trên lâm sàng dùng Trung dược hoặc Trung dược kết hợp với viên Thyroxin liều thấp chữa suy giáp, nâng cao mức tuyến giáp tố rõ rệt (T3, T4 tăng rõ). Phương pháp chữa này thích hợp với người cao tuổi, suy giáp mà không dùng được tuyến giáp tố, người suy giáp kèm bệnh tim, người bệnh lờn đối với tuyến giáp tố, uống tuyến giáp tố có nhiều tác dụng phụ.
Đối với chứng cường giáp, có báo cáo chia nhóm nghiên cứu lâm sàng, thấy kết quả cao hơn ở nhóm dùng biện chứng Trung y kết hợp thuốc Tây, tỉ lệ 60%, kết quả ở nhóm dùng Trung dược là 30% và nhóm dùng thuốc Tây là 42,3%.
Ngô Trạch Sinh trong ‘Trung Quốc Châm Cứu’ số (1).14/1985 báo cáo trị 45 trường hợp Bướu cổ lồi mắt bằng huyệt kinh nghiệm: Thượng thiên trụ, Phong trì. Để đạt được kết quả, phân theo loại chứng gia giảm:
1-Khí âm đều hư: ích khí dưỡng âm làm chính. Huyệt chính: Nội quan, Túc tam lý, Tam âm giao, Phục lưu. Phối hợp với huyệt Thái dương, Ty trúc không.
2-Aâm hư hỏa vượng: Tư âm thanh hỏa là chính. Huyệt chính: Gian sử, Thái xung, Thái khê. Phối hợp với huyệt Thái dương, Toàn trúc.
Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy: chứng bướu cổ lồi mắt, theo biện chứng YHCT thuộc chứng Aâm hư hỏa vượng.”
TĂNG NĂNG TUYẾN GIÁP - BAZEDOW
Cường Giáp - Giáp Trạng Tuyến Công Năng Cang Tiến Chứng, Bướu Cổ Lồi Mắt, - Hyperthyroidie, Maladie de Basedow)
Đại Cương
Là một bệnh Cường giáp là một bệnh rối loạn nội tiết thường gặp, gây ra do sự mất điều chỉnh giữa hai tuyến nội tiết: Tuyến yên và Tuyến giáp trạng. Bệnh do yếu tố phản ứng tự miễn của cơ thể gây nên sự tăng tiết của tế bào tuyến giáp mà sinh bệnh.
Bình thường tuyến giáp bài tiết ra Thyroxin dưới sự kích thích của tuyến yên. Thyroxin là do Iod kết hợp với Globulin có vai trò quan trọng trong việc phát dục và chuyển hoá chung.
Bệnh cường tuyến giáp là bệnh cường chức năng đó, tuyến giáp trạng to lên toàn bộ, có một hạt bướu ác tính khu trú hoặc bệnh phát triển trên một bướu cổ cũ.
Đa số kèm theo to tuyến giáp, một số ít phát bệnh sau một chấn thương tinh thần mạnh, nhất là tuổi trung niên từ 30 đến 45 tuổi, nữ mắc bệnh nhiều hơn nam, tỷ lệ mắc bệnh nam: nữ là 1:4. Bệnh nhân thường tính tình dễ nóng nảy, hồi hộp, nhiều mồ hôi, dễ đói, người gầy sụt cân, ngón tay run giật, tuyến giáp to, mắt lồi...
Thường gặp nhất là Tuyến giáp viêm mạn kèm cường giáp (bệnh Grave).
Bệnh cường giáp có liên hệ với chứng ‘Can Hỏa’, ‘Anh Lựu’ của Đông y.
Nguyên nhân gây bệnh
Theo YHHĐ:
Có một số yếu tố thuận lợi dẫn đến tăng năng tuyến giáp như sau:
. Cường nội tiết sinh dục nữ (tăng Folliculine).
. Trạng thái thần kinh (Cơ địa).
. Chấn thương tinh thần (Stress).
. Yếu tố gia đình.
. Các bệnh nhiễm khuẩn (tuyến giáp viêm, thương hàn, cúm...).
. Nhiễm độc Thủy ngân, tinh chất tuyến giáp...
Theo YHCT
+ Có liên quan đến sự rối loạn tình chí.
. Sách Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’, mục ‘Anh Lựu’ viết: "Chứng anh là do lo buồn khí kết sinh ra".
. Sách "Ngoại Khoa Chính Tông’ viết: "Chứng anh lựu phát sinh không phải âm dương chính khí kết thũng thì cũng là do ngũ tạng ứ huyết, trọc khí đàm trệ mà sinh ra”.
Như vậy, nguyên chủ yếu của bệnh là do khí uất, đàm kết, huyết ứ, hỏa uất, âm hư gây nên.
Có thể phân tích nguyên nhân bệnh lý như sau:
- Khí uất: chủ yếu là can khí uất trệ như sách "Tế Sinh Phương’, mục ‘Anh Lựu Luận Trị’ viết: "Chứng anh lựu đa số do vui giận thất thường, ưu tư quá độ mà sinh bệnh". Triệu chứng lâm sàng thường có: bệnh nhân bứt rứt, dễ cáu gắt, lo lắng nhiều.
- Đàm kết: do khí trệ lâu ngày sinh ra, triệu chứng của đàm kết là tuyến giáp sưng to mức độ khác nhau và mắt lồi.
- Huyết ứ: do khí trệ đàm kết cũng gây tắc mạch, huyết ứ triệu chứng chủ yếu là đau ngực, phụ nữ tắt kinh, mạch Kết, Đại.
- Hỏa uất xông lên cũng do khí trệ đàm kết gây nên, triệu chứng là phiền nhiệt (nóng nảy bứt rứt, hồi hộp, mau đói, nhiều mồ hôi, mặt nóng đỏ, rêu vàng, mạch Sác.
- Âm hư: do uất nhiệt lâu ngày làm tổn thương chân âm có những triệu chứng như người gầy nóng, tay run, sốt nhẹ, miệng khô, nam liệt dương, nữ thì tắt kinh, lưỡi thon đỏ, ít rêu mạch Tế Sác.
Triệu Chứng Lâm Sàng:
Triệu chứng chung
+ Rối loạn tuyến giáp trạng:
. Gầy nhanh và toàn thể, nhất là trong những đợt tiến triển sút 2-3 kg trong tuần dù ăn nhiều.
. Nhịp tim thường nhanh (Nhịp tim nhanh trên 100/phút thường xuyên là triệu chứng không thể thiếu được.
+ Rối loạn tuyến yên:
. Lồi mắt: cả hai bên, mắt hơi lồi hoặc lồi nhiều rõ rệt. Nhìn xuống, mi mắt trên không che kín tròng trắng.
. Run tay: thường run ở các đầu ngón tay và bàn tay, run đều, độ run nhẹ, run tăng khi bị xúc động, sợ hãi.
. Thay đổi tính tình: dễ xúc cảm, khó ngủ, rối loạn tính tình, rối loạn kinh nguyệt.
. Tuyến giáp trạng to.
Trừ một số ít bệnh nhân do chấn thương tinh thần hoặc do nhiễm khuẩn tuyến giáp nên bệnh phát đột ngột, đa số bệnh phát từ từ, lâm sàng triệu chứng nặng nhẹ rất khác nhau, có thể phân làm 4 thể bệnh: nhẹ, nặng, chứng nguy và biến chứng.
1. Chứng nhẹ: Thường là giai đoạn bệnh mới mắc, bệnh nhân thường bứt rứt, tính tình dễ nóng nảy, mệt mỏi, tim hồi hộp, đánh trống ngực, sụt cân, chất lưỡi đỏ, rêu mỏng trắng hoặc hơi vàng, mạch Huyền Tế Sác.
2. Chứng nặng: Xuất hiện các triệu chứng điển hình của bệnh, ngoài những triệu chứng chủ quan trên đây nặng hơn, thường có sốt nhẹ, nhiều mồ hôi, mau đói, ăn nhiều, nam liệt dương, nữ thì tắt kinh, sút cân nhiều hơn, mặt đỏ ửng, ngón tay run, tuyến giáp to, mắt lồi, chất lưỡi đỏ, ít rêu hoặc rêu vàng mỏng, mạch Tế Sác hoặc Kết Đại.
3. Chứng nguy: Bệnh nhân sốt cao ra nhiều mồ hôi, nôn, tiêu chảy, tinh thần hoảng hốt, nói sảng, hoặc sắc mặt tái nhợt, chân tay lạnh, tinh thần uể oải, mạch Vi Tế khó bắt, huyết áp hạ, có thể có vàng da.
4. Biến chứng: Bệnh cường tuyến giáp là một bệnh nặng, tiến triển bất ngờ, từng đợt, nếu không điều trị, bệnh dẫn đến:
+ Đau ngực: Đánh trống ngực hồi hộp, tức ngực, khó thở, vùng trước tim đau.
+ Cơ bắp yếu mềm, đi lại khó khăn do kali máu hạ..
+ Suy tim: báo hiệu bằng những cơn nhịp tim nhanh, kịch phát, sau đó loạn nhịp tim hoàn toàn rồi to tim toàn bộ.
+ Suy mòn: người gầy đét rồi chết.
+ Nếu được điều trị kịp thời, bệnh có thể ổn định, bịnh nhân lên cân, ngủ được, nhịp tim trở lại bình thường, kinh nguyệt đều.
Chẩn đoán: chủ yếu Căn cứ vào:
1. Triệu chứng lâm sàng: có 4 loại triệu chứng chính:
. Tuyến giáp to vừa, lan tỏa hay có nhân.
- Triệu chứng rối loạn chức năng thần kinh tinh thần: Bứt rứt dễ cáu gắt, đau đầu, mất ngủ, kém tập trung.
Rối loạn vận động như run tay, động tác không tự chủ, thân nhiệt tăng, mồ hôi ra nhiều.
- Rối loạn tuần hoàn và tim mạch: tim nhịp nhanh hoặc nhịp tim không đều, có tiếng thổi, tăng huyết áp kỳ tâm thu, giảm huyết áp kỳ tâm trương.
- Mắt lồi, dấu hiệu Graph (+).
2. Trường hợp triệu chứng lâm sàng không điển hình, thường ở trẻ em và người cao tuổi, cần làm các xét nghiệm sau để xác định chẩn đoán:
Chuyển hóa cơ bản tăng (trị số bình thường: -10 - +10%, có thể theo công thức: Chuyển hóa cb = số mạch/ph + mạch áp - 111%.
(Mạch áp = huyết áp tâm thu - huyết áp tâm trương (tính bằng mmHg). Thí dụ: Huyết áp của ông A = 120/80 mmHg thì mạch áp của ông A = 120 - 80 = 40, và nếu mạch đập của ông A là 80 lần/phút thì chuyển hóa cơ bản = 80 + 40 - 111 = +9%).
Cholesterol máu giảm.
- Thyroxin máu cao từ 12-20mcg% (bình thường 4- 8mcg%)
Độ tập trung Iod trên 50%.
Căn cứ vào kết quả đo chuyển hóa cơ bản để đánh giá tình trạng nặng nhẹ của bệnh cường giáp thành 4 độ như sau: '
- Cường giáp độ I: chuyển hóa cơ bản = +15 - +30%, nhịp tim dưới 100 lần/phút
Cường giáp độ II: chuyển hóa cơ bản = +30 - + 60%, nhịp tim = 100 – 120 lần/phút.
- Cường giáp độ III: chuyển hóa cơ bản = trên + 60%, nhịp tim = trên 120 lần/phút.
Cường giáp độ IV: chuyển hóa cơ bản = trên + 100%, nhịp tim = trên 120 lần/phút.
(Nhịp tim phải lấy mạch lúc bệnh nhân được nghỉ ngơi đầy đủ. Bệnh độ I là bệnh nhẹ, độ II là trung bình, độ III là bệnh nặng và độ IV là rất nặng).
Điều trị:
Đông Y trị chứng cường giáp lấy biện chứng luận trị làm cơ sở nhưng phân từng loại cũng có sự khác biệt.
* Y viện Nam kinh phân thành 4 loại: Can khí uất trệ, Đờm khí giao kết, Can hỏa vượng và Tâm Can âm hư.
* Y viện Thượng Hải phân làm 3 loại: Khí trệ đờm ngưng, Can hỏa cang thịnh và Tâm Can Âm hư.
* Y viện Bắc Kinh cho rằng chứng trạng điển hình của bệnh cường giáp không xuất hiện đồng thời mà ở các giai đoạn khác nhau đều có các chứng khác nhau.
Các phương pháp phân loại của các tác giả tuy không hoàn toàn giống nhau nhưng trên cơ bản đều cho rằng diễn biến của bệnh này có các quy luật sau:
+ Mới phát: Chủ yếu là Can uất đờm kết, chữa trị nên lý khí, hóa đờm, nhuyễn kiên, tán kết.
+ Thời kỳ sau: Phần âm suy, hao tổn, chữa trị nên nhu Can, tư Thận.
Cách chung (Theo Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Chứng nhẹ: Biểu hiện chủ yếu là thể can khí uất kết, đàm kết sinh hỏa gây nhiễu tâm nên phép trị chủ yếu là sơ can, thanh tâm, hóa đàm, tán kết, dùng bài Đơn Chi Tiêu Dao Tán hợp Toan Táo Nhân Thang gia giảm (Sao Sơn chi, Tri mẫu, Liên tử, Đơn bì, Ngân Sài hồ, Bạch thược, Đương qui, Toan táo nhân, Viễn chí, Tượng Bối mẫu, Hải tảo, Mẫu lệ. Có kết quả tốt thì bài thuốc chuyển làm thuốc hoàn hoặc cao tiếp tục uống trong 2 - 3 tháng. Trường hợp không khỏi chuyển sang dùng phép trị chứng nặng.
+ Chứng nặng: Biểu hiện chủ yếu là khí uất, đàm kết, táo hỏa thương âm, phép trị chủ yếu là dưỡng âm, tả hỏa, hóa đàm, tán kết, dùng bài thuốc có các vị Hạ khô thảo, Tri mẫu, Cúc hoa, Huyền sâm, Thiên hoa phấn, Côn bố, Trúc nhự, Bối mẫu, Sinh long cốt, Sinh mẫu lệ, Sinh đại hoàng sắc uống. Nếu kết quả tốt dùng trong 2 - 3 tháng chuyển sang uống thuốc hoàn để củng cố.
3) Chứng nguy: Biểu hiện chủ yếu là táo hỏa cực thịnh làm suy kiệt khí âm, cần truyền dịch hồi sức cấp cứu theo tây y, khí âm được hồi phục, chuyển sang điều trị như đối với thể nặng có kết hợp thuốc tây.
Biện chứng luận trị
l) Can khí uất trệ: Ngực sườn đau tức, bụng đầy ăn ít, rìa lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch Huyền.
Phép trị: Sơ Can thanh nhiệt, lý khí, giải uất.
- Bài thuốc: Đơn Chi Tiêu Dao Tán gia giảm: Đơn bì, Chi tử đều 12g, Sài hồ 8g, Đương qui 16g, Bạch thược, Bạch truật, Bạch linh đều 12g, Bạc hà (cho sau), Trần bì, Hậu phác đều 10g, Gừng tươi 3 lát sắc uống.
2) Can hỏa thịnh: Bứt rứt, nóng nảy, hay cáu gắt, sắc mặt đỏ ửng, sợ nóng, miện đắng, mồ hôi ra nhiều, hoa mắt, chóng mặt, chân tay run, lưỡi đỏ, rêu mỏng vàng, mạch Huyền Sác.
Trường hợp can hỏa phạm vị, bệnh nhân mau đói, ăn nhiều.
Phép trị: Thanh can, tả hỏa.
Bài thuốc: Long Đởm Tả Can Thang Gia giảm: Long đởm thảo, Hoàng cầm, Chi tử, Thiên hoa phấn đều 12g, Sinh địa,Bạch thược đều 16g, Ngọc trúc 20g, sắc uống.
Trường hợp vị nhiệt mau đói, ăn nhiều thêm Hoàng liên, Thạch cao để tả vị nhiệt. Tính tình nóng nảy, dễ cáu gắt, mặt đỏ tay run gia Trân châu, Từ thạch, Câu đằng, Địa long để bình can, tiềm dương. Táo bón thêm Đại hoàng để thông tiện.
3) Tâm âm hư: Bứt rứt khó ngủ, hồi hộp ra mồ hôi, mệt mỏi, ngắn
hơi (hụt hơi), chất lưỡi đỏ bóng, ít rêu hoặc rêu mỏng, mạch Tế Sác.
Phép trị: Dưỡng tâm, an thần, tư âm, sinh tân.
- Bài thuốc: Bổ Tâm Đơn gia giảm: Sa sâm 16g, Huyền sâm, Đơn sâm, Thiên môn, Mạch môn, Đương qui, Sinh địa, Bá tử nhân đều 12g, Ngũ vị tử 4g, Sao táo nhân 20g, Viễn chí 6g, Chu sa 1g (tán bột mịn hòa thuốc uống).
Trường hợp thận âm hư (ù tai, miệng khô, vùng thắt lưng đau, gối mỏi, thêm Nữ trinh tử, Hạn liên thảo, Quy bản, Kỷ tử để bổ thận âm.
Trường hợp âm hư hỏa vượng, thêm Tri mẫu, Hoàng bá để tư âm tả hỏa.
4- Đàm Thấp Ngưng Kết: Tuyến giáp to, ngực đầy tức, không muốn ăn, nôn, buồn nôn, tiêu lỏng, lưỡi bệu, rêu lưỡi dày, nhớt, mạch Nhu Hoạt.
Điều trị: Hóa đàm, lợi thấp, nhuyễn kiên, tán kết.
Bài thuốc: Hải Tảo Ngọc Hồ Thang gia giảm: Hải tảo, Côn bố, Hải đới đều 20 - 40g, bán hạ, Triết bối mẫu, Trạch tả, Phục linh, Đương qui đều 12g, Thanh bì 10g, Xuyên khung 6g. Trường hợp ngực tức, sườn đau thêm Xuyên luyện tử, Diên hồ sách để sơ can chỉ thống. Nếu nôn, buồn nôn, tiêu lỏng, mệt mỏi thêm Bạch truật, Ý dĩ, Biển đậu để kiện tỳ trừ thấp.
4) Biến Chứng
+ Đau ngực (hung tý): do can khí uất trệ, nhiệt đàm làm tắt kinh lạc. Phép trị là sơ can, thông lạc, thanh nhiệt, hóa đàm dùng các vị: Khương bán hạ, Qua lâu bì, Chỉ thực, Uất kim, Hồng hoa, Đơn sâm, Đăng tâm, sao Hoàng liên. Hết đau (hung tý được tuyên thông) tiếp tục phép trị chứng nặng, thêm thuốc hoạt huyết hóa ứ.
+ Chân tay yếu mềm: Triệu chứng của can thịnh tỳ hư, khí thoát, đàm kết, phép trị dùng thanh can, trợ tỳø hóa đàm, tán kết, dùng các vị Đơn bì, Chi tử, Thái tử sâm, Bạch truật sống, chích Hoàng kỳ, Khương bán hạ, Thanh bì, Trần bì, Xuyên ngưu tất, Tàm sa, Côn bố, có kết quả rồi tiếp tục dùng phép trị chứng nhẹ. Thời gian điều trị bằng đông y có kết quả phải từ một đến 2 năm. Cần chú ý theo dõi bệnh nhân trong quá trình điều trị nếu không kết quả phải dùng thuốc kháng giáp kết hợp.
Tham Khảo
+ BÌNH ANH PHÚC PHƯƠNG (Viện Văn Học, bệnh viện Nhân dân Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm TQ): Huyền sâm, Bạch thược, Đơn bì, Đương qui, Phục linh, Sinh đia, Triết bối mẫu, Thanh bì, Trần bì, Tam lăng, Nga truật đều 9g, Sơn thù nhục 6g,. Sinh Mẫu lệ 30g, Hạ khô thảo 12g, Ngọa lăng tử 15g, sắc uống.
Bài thuốc có tác dụng dục âm, tiềm dương, dưỡng tâm, ích thận, sơ can, tỉnh tỳ, hóa đàm, thanh anh, chủ trị chứng cường giáp âm hư dương thịnh.
Kết quả lâm sàng: Đã dùng bài thuốc theo biện chứng gia giảm trị 110 ca cường giáp, kết quả: khỏi (hết triệu chứng lâm sàng, chuyển hóa cơ bản và kết quả xét nghiệm hồi phục bình thường) 38 ca, tiến bộ (triệu chứng giảm rõ, chuyển hóa cơ bản và xét nghiệm đều bình thường) 63 ca, có kết quả (triệu chứng và chuyển hóa cơ bản đều giảm, xét nghiệm chưa bình thường): 6 ca, không kết quả rõ: 3 ca.
Trong số bệnh nhân có 77 ca tuyến giáp sưng, sau điều trị hết sưng có 59 ca, nhỏ hơn: 10 ca, có lồi mắt 54 ca, sau điều trị hết lồi 40 ca, lồi giảm 10 ca.
Phần lớn bệnh nhân sau khi uống thuốc 3 - 6 ngày triệu chứng lâm sàng bắt đầu giảm, thuốc đối với triệu chứng mắt lồi cũng có tác dụng tốt.
+ KHÁNG GIÁP PHIẾN (Trương Triết Thần, bệnh viện trực thuộc Học viện Trung y Sơn Đông): Quất hồng 100g, Bán hạ, Bạch linh, Hải tảo, Côn bố, Mẫu lệ (nung), Đại Bối mẫu đều 150g, Hạ khô thảo 200g, Tam lăng 100g, Hoàng dược tử, Cam thảo đều 50g, Hổ phách, Chu sa đều 10g, tất cả tán bột mịn, trộn với mật làm thành viên, mỗi viên nặng 15g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên.
Bài thuốc có tác dụng tư âm, thanh nhiệt, hóa đàm, tán kết.
Kết quả lâm sàng: Đã dùng trị 125 ca, kết quả khỏi 65 ca, kết quả tốt (cơ bản hết triệu chứng lâm sàng, chức năng tuyến giáp gần bình thường) 24 ca, có kết quả 23 ca, không kết quả (sau 2 tháng điều trị, triệu chứng lâm sàng không thay đổi) 13 ca.
Trong bài đã dùng Cam thảùo với Côn bố, Hải tảo nhưng không thấy có phản ứng phụ.
+ PHỨC PHƯƠNG KHÁNG GIÁP CAO (Từ Vĩnh Phổ, bệnh viện trực thuộc số 1 trường Đại học Y khoa Triết Giang): Hoàng kỳ, Đảng sâm, Mạch môn, Bạch thược, Hạ khô thảo đều 15g, Sinh địa, Đơn sâm, Sinh mẫu lệ đều 30g, Tô tử, Ngũ vị tử, Hương phụ chế đều 10g, Bạch giới tử 6g. Nấu thành cao. Mỗi lần uống 1 thìa canh, ngày 3 lần. Một liệu trình 3 tháng, có thể dùng mấy liệu trình.
Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, triệu chứng giảm tốt 90,9%, trong 40 ca có đo chuyển hóa cơ bản, 20 ca hồi phục bình thường, giảm rõ (khoảng 50% 5 ca. Có đo độ hấp thu iốt của tuyến giáp 10 ca, có 5 ca hồi phục bình thường, 2 ca giảm rõ . Theo nhận xét của tác giả, thuốc điều trị không có ảnh hưởng đến công thức máu và chức năng gan, có kết quả tốt đối với bệnh thể nhẹ và trung bình. Đối với thể nặng, dùng kết hợp với MTU có kết quả tốt hơn. Thuốc có thể dùng làm thuốc củng cố chống tái phát sau khi đã điều trị ổn định bằng MTU.
+ SÀI HỒ LONG MẪU THANG (Dụ Kế Sinh, bệnh viện Ninh Hương, tỉnh Hồ Nam): Sài hồ, Cương tàm đều 10g, Hoàng cầm, Pháp Bán hạ, Câu đằng, Sinh thiết lạc đều 15g, Long cốt, Mẫu lệ, Sinh thạch cao đều 30g, Cát căn 20g, Chu sa 3g, Cam thảo 5g, sắc nước uống. Táo bón thêm Đại hoàng 6g.
Kết quả lâm sàng: Dùng điều trị 100 ca, kết quả tốt (hết triệu chứng, lên cân) 50 ca, có kết quả (u giáp nhỏ, hết lồi mắt, mạch bình thường) 41 ca, không kết quả 9 ca.
+ KHÁNG GIÁP THANG (Hạ Thiếu Nông và cộng sự, Bệnh viện Thử Quang, trực thuộc học viện Trung y Thượng Hải): Hoàng kỳ 30 - 45g, Bạch thược, Hương phụ đều 12g, Sinh địa 15g, Hạ khô thảo 30g, Hà thủ ô đỏ 20g, sắc uống. Thuốc có tác dụng ích khí dưỡng âm. Gia giảm: Tỳ hư bỏ Sinh địa thêm Hoài sơn, Bạch truật, Thần khúc. Tâm hỏa vượng thêm Hoàng liên. Can hỏa vượng thêm Long đảm thảo.
Kết quả lâm sàng: Trị 98 ca, khỏi (thử nghiệm độ tập trung iốt (I 131), T3, T4 đều bình thường) 61 ca, tốt (trong 3 mục trên có 2 mục bình thường 19 ca, có kết quả (trong 3 mục trên có một mục bình thường) 8 ca, không kết quả 10 ca. Tác giả có thử bỏ Hoàng kỳ trong một số ca để so sánh có nhận xét là tác dụng của Hoàng kỳ rất tốt trong việc cải thiện triệu chứng lâm sàng và hạ T3 T4. Và cũng chứng minh Hoàng kỳ có tác dụng cải thiện chức năng miễn dịch và việc làm hạ TS, T4 huyết thanh có phải là do nâng cao miễn dịch (?) là một vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
+ TRƯƠNG THỊ KHÁNG GIÁP PHƯƠNG (Trương Tuấn Văn, Bệnh viện trực thuộc số 1 Y học viện Tây An, tỉnh Thiển Tây): (l) Sinh thạch cao 30g, Mạch môn, Bạch thược, Hạ khô thảo đều 15g, Thiên hoa phấn, Sinh địa đều 24g, Thạch hộc, Đương qui, Hoàng cầm, Thạch liên nhục đều 12g, Xuyên khung 10g, Hoàng liên 6g, Hoàng bá 9g, Ô mai 20g sắc uống. Tác dụng: dưỡng âm huyết, thanh vị hỏa. Trị cường giáp do vị hỏa.
(2) Long đởm thảo, Sinh địa, Trân châu mẫu đều 15g, Chi tử, Đương qui, Sài hồ đều 10g, Hoàng cầm, Mạch đông đều 12g, Hạ khô thảo, Huyền sâm, Sinh long cốt, Sinh Mẫu lệ, Địa cốt bì đều 30g, sắc uống. Tác dụng: thanh can hỏa. Trị thể can kinh thực hỏa.
(3) Đương qui, Bạch thược, hương phụ, Huyền sâm đều 15g, Sài hồ, Bạch linh, Bạc hà, Uất kim, Hoàng cầm đều 10g, Bạch truật, Đơn bì, Chi tử đều 12g, Hạ khô thảo 24g, sắc uống. Tác dụng: sơ can, thanh nhiệt. Trị thể can uất hóa nhiệt.
Biện chứng gia giảm: Hồi hộp nhiều thêm Bá tử nhân 30g, Khổ sâm 15g, Ngũ vị tử 15g. Mồ hôi nhiều thêm Long cốt, Mẫu lệ, Hoàng kỳ đều 30g. Mất ngủ thêm sao Táo nhân 15g, Long xỉỉ, Viễn chí, Ngũ vị tử đều 15g. Tuyến giáp to thêm Hoàng dược tử 10g. Lồi mắt thêm Xuyên sơn giáp 12g, Địa long 12g.
Kết quả lâm sàng: Trị 32 ca, khỏi (hết triệu chứng lâm sàng, độ tập trung I131 bình thường) một ca, chuyển biến tốt (triệu chứng cải thiện rõ, độ tập trung I131 bình thường) 9 ca, có kết quả (các mặt đều tiến bộ) 21 ca, không kết quả (các mặt không thay đổi) một ca.
+ TRI BÁ DƯỠNG VỊ THANG (Trương Vĩnh Tịnh, bệnh viện Hồng Thập Tự tỉnh Vân Nam): Sao Tri mẫu, tiêu Hoàng Bá, Đơn bì, Thạch hộc, Trạch tả, Ngọc trúc đều 12g, Hoài sơn, Phục linh, Mạch đông, Hải tảo, Côn bố đều 15g, Sinh địa 20g, Đơn sâm, Hoàng dược tử đều 30g, sắc uống. Dưỡng âm,thanh nhiệt, sơ can, hoạt huyết, hóa đàm, nhuyễn kiên. Trị cường giáp thể thận âm hư vì nhiệt.
Kết quả lâm sàng: Điều trị 34 ca (Trung tây y kết hợp 26 ca, Trung y 8 ca). Kết quả khỏi (hết triệu chứng, chuyển hóa cơ bản, độ tập trung I131 bình thường, công tác sinh hoạt hồi phục bình thường, theo dõi 1 - 2 năm không tái phát), 4 ca (đông tây y điều trị 3 ca, trung y một ca) tiến bộ (triệu chứng giảm, chuyển hóa cơ bản hồi phục gần bình thường, công tác sinh hoạt bình thường) 30 ca (trong đó, trung tây y kết hợp 23 ca, trung y 7 ca).
+ GIÁP KHÁNG HƯ THỰC PHƯƠNG (Đặng Ngọc Linh, tỉnh An Huy, T.Q): (l) Quế chi, Xích thược, Bạch thược, Đào nhân, Sài hồ đều 10g, Sinh long cốt, Sinh Mẫu lệ, Ý dĩ nhân đều 20g, Chích Cam thảo 9g, Phục linh 12g, Bán hạ, Thanh bì đều 6g, Slnh khương 2 lát, Hồng táo 3 quả, sắc uống.
(2) Bạch linh, Đơn bì, Chi tử, Quế chi, Triết bối mẫu đều 10, Sinh long cốt, Sinh Mẫu lệ đều 20g, Thiên hoa phấn 15g, Hạ khô thảo 12g, Bạch thược 9g, Đương qui 8g, Thanh bì 6g, sắc uống.
Gia giảm: Trường hợp triệu chứng lâm sàng được cải thiện nhưng bướu giáp còn to, thêm Hạ khô thảo, Hương phụ, Triết bối mẫu đều 10g. Miệng khô bứt rứt thêm vào bài vào bài số 2: Mạch môn, Huyền sâm đều 10g, Liên tử tâm 3g.
Kết quả lâm sàng: Trị 80 ca kết quả khỏi (triệu chứng hết, đo tập trung I 131 bình thường, chuyển hóa cơ bản bình thường): 16 ca, có kết quả (triệu chứng cơ bản hết, chuyển hóa cơ bản bình thường, độ tập trung I 131 giảm: 13 ca, không kết quả: một ca.
+ THÂN THỊ GIÁP KHÁNG PHƯƠNG (Thân Trường Chinh, bệnh viêïn Trung y Càn An, tỉnh Cát Lâm): (l) Hoàng dược tử, Hải tảo, Côn bố, Hải phù Thạch, Hải cáp phấn, Sinh Mẫu lệ, Lộ lô đều 25g, Mộc hương 7, 5g, Tam lăng, Nga truật đều 15g, Trần bì 10g, Đại hoàng 7,5g, sắc uống. Tác dụng: Tiêu anh, phá khí, trị cường giáp thể can uất đàm kết.
(2) Hoàng dược tử, Sinh địa, Sinh Mẫu lệ, Hyền sâm đều 25g, Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá, Đởm thảo đều 10g, Cam thảo 15g, sắc uống. Trị cường giáp thể âm hư hỏa vượng.
Biện chứng gia giảm: Khí trệ thêm Thanh bì, Ô dược. Đàm thịnh thêm Triết bối mẫu. Cảm hàn tắt tiếng thêm Xạ can. Can dương thượng kháng thêm Trân châu mẫu, Câu đằng. Tuyến giáp to thêm Giáp châu, Lậu lô.
Kết quả lâm sàng: Trị 32 ca, hoàn toàn ổn định (triệu chứng mất, xét nghiệm bình thường): 11 ca, tiến bộ (triệu chứng giảm, kết quả xét nghiệm gần bình thường) 18 ca, không kết quả: 3, ca.
DƯỠNG ÂM TÁN KẾT THANG (Cù Minh Nghĩa, Sở nghiên cứu Trung y tỉnh Hà Nam): Sa sâm, Mạch môn, Sinh địa, Hoa phấn, Côn bố, Hải tảo đều 15g, Ngũ vị tử, Triết bối mẫu đều 10g, sắc uống.
Biện chứng gia giảm: Tuyến giáp to thêm Hải phù thạch, Hạ khô thảo đều 15g. Tay run thêm Sinh Long cốt, Sinh Mẫu lệ đều 15g. Thèm ăn tăng Sinh địa lên 30g, gia Huyền sâm 15g. Khát, bứt rứt thêm Ô mai 15g, Thạch hộc 15g. Tỳ hư, tiêu lỏng bỏ Sinh địa, thêm Sơn dược 30g. Khí hư, mồ hôi nhiều thêm Thái tử sâm 30g, Bạch thược 15g. Kinh nguyệt lượng ít hoặc dương suy thêm Dâm dương hoắc 15g.
Kết quả điều trị: 31 ca, ổn định (triệu chứng lâm sàng hết, chuyển hóa cơ bản bình thường, trên một năm không tái phát): 18 ca, ổn định phần lớn (triệu chứng phần lớn hết, chuyển hóa cơ bản gần bình thường): 13 ca, không kết quả, 3 ca.
GIÁP KHÁNG BÌNH (Thẩm Ngọc Minh, bệnh viện Nhân dân huyện Phú Dương, tỉnh Triết Giang): Thái tử sâm 30g, Mạch môn, Huyền sâm đều 10g, Xuyên thạch hộc, Triết bối mẫu, Hạ khô thảo đều 12g, Sinh mẫu lệ 30g, Sinh Cáp xác 15g, sắc uống.
Biện chứng gia giảm: Can uất thêm Sinh Mạch nha, Lậu lô. Vị hỏa thịnh thêm Sinh thạch cao, Hà diệp. Tỳ vị hư thêm Hoài sơn, Bạch biển đậu. Tuyến giáp sưng thêm Đơn sâm, Sơn từ cô. Mắt lồi thêm Thạch xương bồ. Mồ hôi nhiều thêm Phù tiểu mạch. Tim hồi hộp nặng thêm Chu sa.
Kết quả lâm sàng: Bài thuốc có tác dụng ích khí, dưỡng âm, thanh nhiệt, tán kết, dùng trị cường giáp 40 ca, khỏi (hết triệu chứng, kiểm tra chức năng tuyến giáp hồi phục bình thường): 24 ca, tốt (triệu chứng giảm nhẹ, chức năng tuyến giáp gần bình thường): 9 ca, có kết quả (triệu chứng chức năng tuyến giáp đều giảm nhẹ): 7 ca. Thời gian điều trị ngắn nhất là 38 ngày, dài nhất 6 tháng, bình quân 67 ngày.
GIÁP KHÁNG TIỄN (Khúc Trúc Thu, Bệnh viện trực thuộc Viện Y học Thiên Tân): Bạch thược, Ô mai, Mộc qua, Sa sâm, Mạch môn, Thạch hộc, Biển đậu, Liên nhục đều 10g, Sài hồ, Tang diệp, hắc Chi tử, Côn bố đều 6 - 10g, sắc uống.
Biện chứng gia giảm: Mắt lồi rõ thêm Bạch tật lê, Thảo quyết minh, Sung úy tử. Tuyến giáp to cứng thêm Sơn từ cô, Sinh Mẫu lệ. Tim đập nhanh rõ thêm sao Táo nhân, Sinh long cốt (hoặc Long xỉ).
Kết quả lâm sàng: Trị 60 ca, khỏi (hết triệu chứng lâm sàng, T3, T4 hồi phục bình thường): 28 ca, cơ bản khỏi (hết triệu chứng, T3, T4 bình thường, tuyến giáp còn to, mắt còn lồi): 10 ca, có kết quả rõ (triệu chứng lâm sàng cơ bản hết, T3, T4 so với trước giảm trên 50%): 8 ca, có chuyển biến (triệu chứng giảm, rõ, T3, T4 giảm dưới 50%): 11 ca, không kết quả (sau thời gian điều trị 3 tháng không thay đổi): 3 ca.
Ghi chú: Bắt đầu uống thuốc thang, sau khi bệnh ổn định, theo đơn thang thuốc trên làm hoàn, mỗi hoàn 9g, ngày uống 2 hoàn để củng cố, chống tái phát.
HỨA THỊ TRỊ KHÁNG PHƯƠNG (Hứa Vân Trai, bệnh viện Nhân dân Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây): (l) Hoàng cầm 9g, Hoàng bá 6 g, Hoàng liên 3g, Ngọc trúc 21g, Tế sinh địa 24g, Bạch thược 15g, Cam thảo 9 g, Hoa phấn, Đảng sâm đều 15g, sắc uống.
(2) Chi tử, Hoàng cầm, Đởm thảo, Cam thảo đều 9g, Sinh đỉa, Ngoc trúc đều 21g, Hoa phấn, Đảng sâm, Bạch thược đều 15g sắc uống.
Thuốc thang uống từ 7 - 10 thang hết các triệu chứng, dùng Địa hoàng uống để duy trì kết quả.
Bài (1) trị cường giáp thể dương minh vị nhiệt, bài (2) trị cường giáp thể thiếu dương đởm nhiệt.
Biện chứng gia giảm: Trường hợp tiêu chảy thêm Bạch linh, Trạch tả đều 9g. Mặt có phát ban khô thêm Liên kiều, Ngân hoa đều 15g.
Kết quả lâm sàng: Trị 42 ca, bài (l) trị khỏi 25 ca, bài (2) trị khỏi 17 ca.
TRƯƠNG THỊ NHUVỄN KIÊN PHƯƠNG (Bệnh viện Nam Khai, Thiên Tân): Sinh Mẫu lệ, Hải tảo, Côn bố, Tật lê, Bạch thược, Sinh địa, Huyền sâm, Kỷ tử, Sung úy tử, lượng bằng nhau đều tán bột mịn, mật hoàn, mỗi hoàn 10g, mỗi ngày uống 2 - 3 hoàn.
Biện chứng gia giảm: Bướu to lâu khỏi thêm Thổ phục linh. Nhịp tim nhanh thêm Khổ sâm.
Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, cơ bản khỏi lâm sàng 8 ca, tiến bộ rõ rệt 18 ca, có cải thiện 22 ca, không kết quả: 2 ca.
Những bài thuốc kinh nghiệm dân gian
(l) Hải đới 250g. Rửa sạch, dùng lửa nhỏ, nấu đặc thành cao, bỏ bã, uống ngày một thang.
(2) Hải tảo, Hải đới đều 500g, rửa sạch sấy khô tán bột mịn. Mỗi ngày uống 10g với nước sôi nguội. Hải tảo không được dùng chung với Cam thảo.
(3) Côn bố 30g, Toàn yết (Bò cạp) một con. Côn bố sắc bỏ xác, Toàn yết nung cháy tán bột. Nước sắc thuốc uống với bột Bò cạp mỗi sáng một lần, liên tục 10 ngày.
(4) Côn bố, Hải tảo, Mẫu lệ đều 15g, sắc uống, ngày một thang, liên tục trong nhiều ngày. Dùng tốt cho thể can khí uất.
(5) Sài hồ, Phật thủ đều 9g, Uất kim, Hải tảo đều 15g. Sắc, bỏ bã, cho gạo nấu cháo thêm đường mía uống, ngày một thang, liên tục trong 10 - 15 ngày.
(6) Hạ khô thảo 100g, Sa sâm, Mạch môn, Sinh địa, Huyền sâm đều 30g, Hải tảo 50g. Sắc 2 lần được 500ml, cho đường trắng nấu cao. Mỗi lần uống 20ml, ngày 3 lần.
(7) Xuyên bối, Côn bố, Đơn sâm đều 15g, Ý dĩ 30g, Đông qua 60g, đường đỏ vừa đủ . 2 vị trước sắc bỏ bã, các vị sau cho vào nấu cháo ăn, ngày một thang, liên tục uống 15 - 20 thang. Dùng cho thể đàm thấp kết tụ.
(8) Hải tảo, Hải đới đều 15g, Mẫu lệ nhục 60g. 2 vị đầu rửa sạch cát cho Mẫu lệ nhục vào nấu chín, ăn thịt uống nước. Dùng tốt cho bệnh nhân trẻ tuổi mắc bệnh thể cường giáp thiếu iốt.
(9) Đậu xanh 60g, Hải đái, gạo đều 30g, Trần bì 6g, Đường đỏ 60g. Sắc chín đậu xanh nở là ăn được.
(10) Hạ khô thảo 20g, Mẫu lệ 15g, Hải tảo, Côn bố đều 10g. Sắc uống kèm theo uống Bổ Tâm Đơn.
(11) Hoàng kỳ, Hạ khô thảo đều 30g, Đảng sâm 20g, Miết giáp 15g, Quy bản, Thủ ô, Sinh địa, Bạch thược, Hoài sơn, chế Hương phụ đều 12g. Sắc uống. Dùng cho bệnh nhân kèm tuyến giáp to.
(12) Đương qui, Chi tử, Bạch truật, Mạn kinh tử, Uất kim đều 10g, Sài hồ, Đơn sâm, Bạch thược, Hoàng cầm đều 12g, lá Bạc hà, Cam thảo đều 6g. Sắc uống, 10 ngày là một liệu trình.
(13) Đương qui 10g, Sinh hoàng kỳ 30g, Sinh thục địa, Hoàng bá đều 10g, Hoàng cầm, Ngũ vị tử, Đơn bì đều 10g, Sinh Mẫu lệ, Bạch đầu ông đều 30g, Hạ khô thảo 15g. Sắc uống. Dùng cho bệnh nhân hồi hộp, mệt mỏi, ăn uống nhiều, tuyến giáp to.
(14) Đương qui, Mạch đông, Ngũ vị, Đảng sâm, Tam lăng, Côn bố, Hải tảo, Nga truật, Ngọc trúc, Ô mai, Sinh thục địa, Hoàng cầm, Hoàng liên, Hoàng bá đều 30g, Bạch đầu ông 60g, Sinh Mẫu lệ, Lệ chi hạch, Quất hạch đều 50g, Sinh Hoàng kỳ, Hạ khô thảo đều 90g. Tất cả tán bột mịn, trộn với mật làm hoàn, mỗi hoàn 10g. ngày uống 2 hoàn vào sáng và tối.
(15) Sinh Hoàng kỳ 20g, Đương qui, Sinh thục địa, Hoàng cầm đều 10g,, Hoàng liên 3g, Hoàng bá, Quất hạch, Lệ chi hạch đều 10g, Hạ khô thảo 20g, Mẫu lệ, Bạch đầu ông đều 30g. Sắc uống.
(16) Đảng sâm, Chỉ xác, Ô mai, Côn bố, Mạch môn, Ngũ vị tử đều 30g, Quất hạch, Lệ chi hạch, Hải tảo, Hạ khô thảo đều 50g, Đơn sâm 90g, Quy bản, Bạch đầu ông đều 60g. Tất cả tán bột, trộn với mật làm thành hoàn, mỗi hoàn 10g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 hoàn.
Tham Khảo:
- Hà Thiệu Kỳ trong ‘Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học’ báo cáo: “ Đối với bệnh cường giáp, theo biểu hiện lâm sàng, nhiều học giả cho rằng thuộc loại âm hư dương kháng kiêm đờm, kiêm ứ. Phép trị dùng Tư dưỡng Thận âm, bình Can tiềm dương, hóa đờm, nhuyễn kiên, hoạt huyết, hóa ứ. Dùng bài ‘Bình Anh Phức Phương (Sinh địa, Huyền sâm, Đan bì, Hạ khô thảo, Triết bối mẫu, Tam lăng, Nga truật, Ngọa lăng tử, Sơn dược, Đương qui, Sơn thù nhục), bài Phức Phương Giáp Kháng Cao ( Sinh địa, Mạch môn, Bạch thược, Đan sâm, Hạ khô thảo, Mẫu lệ,Tô tử, Ngũ vị tử, Hương phụ (chế), Đảng sâm, Hoàng kỳ), bài Giáp Kháng Cơ Bản Phương (Bạch thược, Sinh địa, Miết giáp, Quy bản, Sơn dược, Hạ khô thảo, Đảng sâm, Hoàng tinh), các bài này đối với cường giáp nhẹ và trung bình có kết quả tốt.
-Đối với chứng lồi mắt:
Y viện Thự Quang (Thượng Hải) dùng Kỷ tử, Bạch giới tử, Trạch tất, Ngọa lõa tử, Địa cốt bì và Bạch tật lê để điều trị bướu cổ lồi mắt.
Sở nghiên cứu nội tiết Thượng Hải dùng đơn thuần biện chứng luận trị hoặc dùng thuốc YHCT thêm“Thyroid ” (Tuyến giáp trạng phiến) liều thấp, chữa 24 trường hợp bướu cổ lồi mắt, một số chữa kết hợp với châm cứu. Sau khi điều trị 3-6 tháng tỉ lệ có kết quả ở chứng bướu cổ lồi mắt nhẹ là 90,9%, loại vừa là 75%,. Mức độ mắt thu nhỏ là 2,3mm (P< 0.01), nồng độ T3, T4 trong huyết thanh hạ thấp rõ. Người ta cho rằng tác dụng điều trị của thuốc YHCT có khả năng có quan hệ với sự điều chỉnh tính miễn dịch và công năng của thần kinh thực vật.
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:228.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh