Teya Salat
KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
BẠCH CẦU GIẢM
(Bạch Tế Bào Giảm Thiểu)
Đại Cương
Chỉ tình trạng bạch cầu bị thiếu.
Đông y không có tên bệnh này, đa số thuộc về chứng ‘ùHư Lao’, ‘Khí Huyết Hư.
Nguyên Nhân:
Thường do Tâm, Can, Tỳ và Thận suy yếu. chủ yếu do Tỳ và Thận không nhiếp được huyết.
Triệu Chứng:
Bạch cầu giảm, dưới 4000/ml, thường kèm theo đầu váng, đầu đau, tay chân không có sức, ăn uống kém, thân nhiệt giảm, mất ngủ.
Thăng Áp Thang 1 (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Hoàng kỳ (sống), Hoàng tinh, Ý dĩ (sống) đều 30g, Câu kỷ tử 10g, Bổ cốt chỉ 10g, Chích cam thảo 6g.
Sắc uống ngày 1 thang.
TD: Kiện Tỳ, ích Thận, bổ khí, thăng huyết. Trị bạch cầu giảm.
Dùng bài này trị 84 cas kết quả đạt 92,86%.
Thăng Áp Thang 2 (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Hoàng kỳ, Nữ trinh tử, Kê huyết đằng đều 30g, Bạch truật, Bổ cốt chỉ đều 15g. Sắc uống.
TD: Ích khí, kiện Tỳ, tư bổ Can Thận, bổ huyết, hoạt huyết. Trị bạch cầu giảm.
Theo kinh nghiệm, uống 1-2 tuần là có kết quả.
Thăng Áp 3 (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Thục địa, Hoàng tinh (chế) đều 15g, Đương quy 20g, Nhục thung dung, Thỏ ty tử đều 15g, Kê huyết đằng 30g, Tử hà xa 10g. Sắc uống.
TD: Dưỡng huyết, thăng huyết, ích Thận, chấn tinh. Trị bạch cầu giảm.
Uống liên tục 3 tuần đến 1 tháng là có hiệu quả.
Bổ Ích Dưỡng Huyết Thang Gia Vị (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Bá tử nhân, Cẩu tích (bỏ lông), Đương quy đều 15g, Sơn dược 31g, Phục linh, Sa nhân, Viễn chí, Câu kỷ tử đều 12g, Thỏ ty tử 25g, Đan sâm 18g. Sắc uống.
TD: Kiện Tỳ, ích khí, dưỡng huyết, bổ Thận. Trị bạch cầu giảm.
Ích Khí Dưỡng Huyết Thang (Tân Trung Y 1985, 10): Hoàng kỳ 30g, Nhục quế, thăng ma đều 6g, Hà thủ ô (nướng), Kê huyết đằng đều 30g, Câu kỷ tử 15g. Sắc uống.
TD: Ích khí, bổ huyết, thăng dương, tăng bạch.
Uống liên tiếp 3 tuần đến 1 tháng thì khỏi bệnh.
+ Dùng lá Dâm dương hoắc chế thành dạng thuốc trà bột pha uống, mỗi bao tương đương thuốc sống 15g. Tuần đầu uống 3 bao\ngày, tuần thứ hai 2 bao\ngày. Liệu trình 30 - 45 ngày, trong thời gian điều trị, không dùng các thuốc tăng bạch cầu và vitamin, trong số 22 ca có 14 ca uống thuốc đúng yêu cầu thì khỏi trước mắt có 3 ca kết quả rõ rệt, 4 ca có kết quả, 4 ca không kết quả (Trung Tây Y Kết Hợp Tạp Chí 1985, 12: 719).
Châm Cứu
+ Khí Âm Đều Hư: Toàn thân mệt mỏi không sức, dễ bị cảm, lâu khỏi, thân nhiệt giảm, ngũ tâm phiền nhiệt, họng khô, mất ngủ, mồ hôi trộm, lưỡi đỏ sẫm, rêu lưỡi trắng, mạch Tế Sác.
Điều trị: Ích khí, dưỡng âm.
Châm Khí hải, Chiếu hải, Tam âm giao, Túc tam lý, Thần môn.
+ Tâm Tỳ Đều Hư: Tim hồi hộp, hơi thở ngắn, mệt mỏi không có sức, đầu váng, hoa mắt, ăn không cảm thấy mùi vị, sắc mặt không tươi. Lưỡi nhạt có vết răng, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Tế không lực.
Điều trị: Kiện Tỳ ích khí, dưỡng tâm an thần.
Dùng huyệt Tâm du, Tỳ du, Thần môn, Thái bạch, Túc tam lý.
Dùng huyệt Tâm du, Tỳ du, Thần môn, Thái bạch, Túc tam lý. lưỡi hơi to, lưỡi trắng nhạt, có vết răng.
Điều trị: Ôn bổ Tỳ Thận.
Dùng huyệt Nội quan, Thận du, Tỳ du, Túc tam lý.
+ Ngoại Cảm Thấp Nhiệt: Sốt không giảm, mặt đỏ, răng đau, miệng khô, khát muốn uống, đầu váng, lưỡi đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt giải độc.
Dùng huyệt Đại chùy, Khúc trì, Nội đình, Ngư tế.
Cách châm: Châm bình bổ bình tả, ngày châm một lần, mỗi lần lưu kim 20 phút, 10 ngày là một liệu trình.
Nhĩ Châm
Dùng huyệt Tỳ, Thận, Thượng thận, Vị. Dùng thuốc (Vương bất lưu hành) dán vào huyệt hai bên tai. Cách ngày dán một lần. 10 ngày là một liệu trình (Bị Cấp Châm Cứu).
BẠCH HẦU
- Chứng: Lúc đầu hơi nóng, rét, cơ thể đau nhức, tinh thần mệt mỏi, trong họng sưng đau (cũng có khi không đau), sau đó hai bên đầu họng xuất hiện những điểm trắng (cũng có khi sau 2- 3 ngày mới thấy) hoặc nổi lên thành miếng, sắc xám bẩn, dần dần lây lan đến những chỗ trong và ngoài cửa họng.
Nếu chỗ bị thối nát mà lan rộng ra, kèm chứng nghẹt mũi, khan tiếng, đờm ủng, khí suyễn, đờm khò khè, ăn uống thì sặc, mặt trắng, môi xanh, đó là những dấu hiệu xấu. Bạch hầu có thể gây chết vì nghẹt thở.
- Nguyên nhân: Do cảm khí táo, nhiệt và nhiễm dịch độc lưu hành gây nên.
- Điều trị: Sơ giải dịch độc, dưỡng âm, thanh nhiệt.
. Giai đoạn đầu, có kèm biểu chứng, nên dùng phép Tân lương sơ giải. Có thể dùng bài
Trừ Ôn Hóa Độc Thang
(Bạc hà, Cát căn, Trúc diệp, Ngân hoa để sơ phong, giải độc; Bối mấu, Sinh địa, Tỳ bà diệp để dưỡng âm, thanh nhiệt, lợi yết; Mộc thông, Cam thảo lợi thấp, giải độc).
Hoặc Thần Tiên Hoạt Mệnh Thang (48)
(Thạch cao, Chi tử, Long đởm, Hoàng bá, Bản lam căn để thanh nhiệt, tả hỏa; Sinh địa, Huyền sâm, Bạch thược để dưỡng âm, thanh nhiệt; Mã đâu linh, Qua lâu bì để chỉ hạch, hóa đờm; Cam thảo điều hòa các vị thuốc).
Khi biểu chứng hết rồi, nên dùng bài Dưỡng Âm Thanh Phế Thang (06) để nuôi dưỡng Phế âm, thanh Phế nhiệt.
Bạch hầu bớt mà nhiệt vẫn chưa thanh, có thể dùng bài Thanh Tâm Địch Phế Thang (43) để thanh hết dư nhiệt.
Nếu Phế âm không phục hồi, nên dùng bài Dưỡng Chính Thang (08), bỏ Thiên hoa phấn, thêm Chích thảo, Sa sâm để dưỡng Phế âm.
Có thể chọn dùng các bài dưới đây:
Dưỡng Âm Thanh Phế Thang (06), Thanh Lương Giải Độc Thang (41), Dưỡng Âm Thanh Phế Thang Gia Vị (07), Thiên Cam Thang (49)
Thuốc thổi: Thần Hiệu Suy Hầu Tán
BẠI LIỆT
Đại Cương
Nuy là loại bệnh gân cơ mềm yếu, lâu ngày không vận động được làm cho các cơ bị teo.
. YHCT gọi là Nuy Chứng, Nuy Tý (Atrophy Disorder), Nhuyễn Cước Ôn.
+ Nuy chỉ trạng thái chân tay mềm yếu không sức.
+ Tý chỉ trạng thái chi dưới mềm yếu không có sức.
. Các chứng trạng lâm sàng của Nuy giống với các bệnh: Tủy Sống Viêm Cấp, Cơ teo, Liệt cơ Năng, Tê Dại Có Chu Kỳ, Bại Liệt Do Hysteria, Liệt Mềm Do Di Chứng Của Trung Khu Thần Kinh...trong YHHĐ.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp 4 loại sau:
Can Thận Hư Nhược
-Chứng: Phát bệnh một cách từ từ, cơ thể và tay chân mềm yếu, không có sức, lưng gối mỏi, chóng mặt, tai ù, di tinh, tiểu nhiều, chất lưỡi đỏ, rêu ít, mạch Tế Sác.
-Điều Trị: Bổ ích Can Thận, tư âm, thanh nhiệt.
Sách ‘Nội Khoa Học Thượng Hải ‘ dùng bài: HỔ TIỀM HOÀN (Cảnh Nhạc Toàn Thư, Q. 57): Bạch thược 80g, Can khương 20g, Hoàng bá 320g, Hổ cốt 40g, Quy bản 160g, Thục địa 80g, Tỏa dương 60g, Trần bì 80g, Tri mẫu 80g. Tán bột, trộn với rượu và hồ làm hoàn. Ngày uống 12g, với nước pha muối loãng, trước lúc ăn cơm.
(Hoàng bá, Tri mẫu, Đương quy, Sinh địa để tiệt âm, giáng hoả, trong đó Hoàng bá dùng liều cao để giáng hoả, làm chủ; Bệnh có liên hệ đến gân cốt cho nên phối dùng với Thược dược để nhu can, dưỡng cân; Hổ cốt để mạnh gân cốt. Thuốc âm nhu có thể gây nên đình trệ, cho nên thêm Toả dương để tráng dương, ích tinh; Can khương để ôn trung, Trần bì để lý khí, tỉnh tỳ).
Phế Nhiệt Tổn Thương Tân Dịch
-Chứng: Phát sốt, tự nhiên thấy chân tay mềm yếu, không lực, da khô, tâm phiền, khát, ho khan, họng khô, táo bón, nước tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Tế Sác.
-Điều Trị: Thanh nhiệt, nhuận táo, dưỡng Phế, ích Vị.
Sách ‘ Nội Khoa Học Thượng Hải ‘ dùng bài: Thanh Táo Cứu Phế Thang (Y Môn Pháp Luật, Q. 4): A giao 3,2g, Cam thảo 4g, Hạnh nhân 2,8g, Hồ ma nhân 4g, Mạch môn 4,8g, Nhân sâm 2,8g, Tang diệp 12g, Thạch cao 10g, Tỳ bà diệp 1 lá, Sắc uống nóng.
(Tang diệp vị nhẹ, để tuyên táo khí ở phế; Thạch cao thanh táo nhiệt ở Phế Vị, làm quân; A giao, Mạch môn, Hồ ma nhân nhuận phế, tư dịch, làm thần; Nhân sâm ích khí, sinh tân; Hạnh nhân, Tỳ bà diệp tả phế, giáng nghịch, làm tá; Cam thảo điều hòa các vị thuốc, làm sứ).
Thấp Nhiệt Xâm Nhập
- Chứng: Chân tay mềm yếu không có sức, phù nhẹ, chi dưới thường bị tê dại, có khi phát sốt, nước tiểu vàng, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Nhu hoặc Sác.
- Điều Trị: Thanh nhiệt, lợi thấp.
Sách ‘ Nội Khoa Học Thượng Hải’ dùng bài Nhị Diệu Tán (Đan Khê Tâm Pháp, Q. 4) : Hoàng bá 40g, Thương truật 80g. Tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8 – 12g.
-GT: Hoàng bá thanh nhiệt; Thương truật ôn táo thấp. Hai vị hợp lại có tác dụng thanh nhiệt, táo thấp nhất là chứng thấp nhiệt ở hạ tiêu.
Thêm Phòng kỷ, Trạch tả, Tỳ giải, Ý dĩ.
Tỳ Vị Hư Nhược
- Chứng: Chi dưới từ từ bị mềm yếu, không lực, kém ăn, đại tiện lỏng, mặt phù, sắc mặt kém tươi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Tế.
- Điều Trị: Ích khí, kiện Tỳ.
Sách ‘ Nội Khoa Trung Y Thượng Hải’ dùng bài: Sâm Linh Bạch Truật Tán (Thái Bình Huệ Dân Hoà Tễ Cục Phương, Q. 3): Bạch truật 8g, Biển đậu 8g,Cát cánh 8g, Chích thảo 4g, Hạt sen 8g, Nhân sâm 8g, Phục linh 12g, Sa nhân 8g, Sơn dược 8g, Ý dĩ 12g. Sắc, chia 2 lần uống.
(Bài này dùng Tứ Quân Tử Thang hợp với Biển đậu, Sơn dược để kiện tỳ, ích khí; Hợp với Ý dĩ nhân, Sa nhân để thấm thấp, lợi thấp, hóa thấp; Dược tính bình hòa, không béo, không táo, không thiên về hàn hoặc nhiệt.
BÀNG QUANG VIÊM CẤP
(CYSTITIS )
Đại Cương
+ Là một bệnh thuộc phạm vi chứng LÂM của YHCT thuộc loại ‘Nhiệt Lâm’.
+ Do ngoại nhân (thấp nhiệt) xâm nhập vào cơ thể gây ra bệnh.
+ Do nội thương (âm hư hoặc thấp nhiệt, huyết nhiệt tiếp tục tồn tại: gây ra bệnh mạn tính.
+ Thường xẩy ra ở nữ giới nhiều hơn nam.
+ Một số sách cũng xếp loại ‘Tiểu Phúc Thống’ vào chứng này.
Nguyên Nhân
- Theo YHHĐ:
+ Tại chỗ: do sỏi bàng quang cọ xát nhiều gây nhiễm khuân thứ phát (nơi nam giới).
+ Do bể thận – thận viêm lan xuống.
+ Từ niệu đạo, âm đạo lan lên (nơi phụ nữ) hoặc từ niệu đạo, tiền liệt tuyến viêm lan lên (nam giới).
+ Do tai biến sau khi sinh hoặc phẫu thuật gây ra lỗ dò rồi gây viêm.
+ Do vi khuẩn: thường gặp nhất là trực khuẩn Coli, liên cầu, có khi do Proteus, trực khuẩn mủ xanh, cầu khuẩn, lậu cầu khuẩn.
- Theo Đông Y: Chủ yếu do thấp nhiệt uất ở hạ tiêu, bàng quang gây nên.
Triệu Chứng
Đái gắt: Đái ít một và muốn đái luôn, có khi ra ít giọt làm người bệnh thấy khó chịu.
Đái buốt: nhất là lúc bắt đầu và khúc cuối.
Đái khó: hậu quả của hai chứng trên.
Đái đục hoặc có mủ: nước tiểu đục, có cặn nhầy. Nếu có loét gây chảy máu thì trong nước tiểu có lẫn máu.
Bụng dưới đau tức, sốt, táo bón, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền, Sác.
Hướng Đỉều Trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, lợi niệu, thông lâm làm chính.
Nếu bệnh tái phát, chính khí suy yếu (trong bệnh mạn tính), cần chú ý đến việc phù chính như Bổ Tỳ, ích Thận, tư âm, ôn dương.
+ Bát Chính Tán (Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương): Biển súc 12g, Cam thảo 6g, Chi tử 8g, Cù mạch 12g, Đại hoàng 8g, Hoạt thạch 16g, Mộc thông 6g, Xa tiền tử 16g.
(Chi tử + Địa hoàng để thanh nhiệt, tả hỏa; Biển súc + Cù mạch + Hoạt thạch + Mộc thông để lợi thấp, thông lâm- Nội Khoa Học Thượng Hải).
+ Đạo Xích Tán (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết): Cam thảo 8g, Đăng tâm thảo 2g, Mộc thông 8g, Sinh địa 12g.
(Sinh địa thanh tâm khí; Trúc diệp thanh tâm khí; Mộc thông giáng tâm hỏa, vào tiểu trường; Cam thảo thông niệu đạo, chỉ thống. Tất cả các vị đều dẫn hỏa theo đường tiểu mà ra vậy – Nội Khoa Học Thượng Hải).
+ Chỉ Trọc Cố Bản Giao Nhị Thang: Hoàng bá, Hàng liên, Phục linh, Bạch mao căn đều 12g, Trư linh, Mộc thông, Hoạt thạch, Bán hạ (chế) đều 8g, Xa tiền tử 6g (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
Kinh Nghiệm Điều Trị Của Nhật Bản (theo ‘Chinese Herbal Medicine And The Problem Of Aging’):
+ Trư Linh Thang: làm giảm nhẹ viêm bàng quang, bể thận cấp và mạn. Bài thuốc có tác dụng kích thích làm điều hòa niệu quản và tiểu tiện dễ chịu hơn.
+ Ngũ Linh Tán: trị bàng quang viêm cấp và mạn.
+ Đại Hoàng Mẫu Đơn Bì Thang: trị bể thận viêm cấp, bàng quang viêm ở bệnh nhân khỏe mạnh, có xu hướng bị táo bón.
+ Long Đởm Tả Can Thang: dùng cho bàng quang viêm cấp, viêm nặng, tiểu khó, buốt, đái hạ.
+ Bát Vị Địa Hoàng Hoàn hoăïc Ngũ Lâm Tán: hợp với bể thận, bàng quang viêm cấp và mạn, biểu hiện rõ rối loạn sau khi tiểu nước tiểu vẫn còn giữ lại, tiểu nhiều, thắt lưng đau. Bát Vị Địa Hoàng Hoàn dùng trong bể thận viêm do nhiễm trùng sau khi sinh và sẩy thai.
+ Thanh Tâm Liên Tử Thang: làm giảm nhẹ những rối loạn của bể thận viêm, bàng quang viêm, muốn đi tiểu mà không tiểu được, nước tiểu đục, rối loạn tiêu hóa do sử dụng kháng sinh. Bài thuốc này đặc biệt tốt cho phụ nữ suy yếu có nước da xanh và dễ bị kích thích.
Y Án Bàng Quang Viêm Thể Thấp Nhiệt
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng’)
Trịnh X, 45 tuổi, nhân viên. Đến khám ngày 6-8-1972. Bệnh nhân kể: 3 ngày nay phát sốt, sợ lạnh, đi tiểu nhiều lần, tiểu buốt, nước tiểu đỏ sẫm kèm theo đau lưng, mệt mỏi. Đã uống thuốc tây nhưng không có kết quả, xin trị bằng Đông y. Kiểm tra thấy mạch Hoạt, Sác, rêu lưỡi vàng bẩn. Xét nghiệm nước tiểu thấy bạch cầu (+ + + +), hồng cầu (+), Albumin (+). Chứng này thuộc chứng Lâm. Xét mạch chứng thấy là do thấp nhiệt uẩn kết bên trong, dồn xuống bàng quang, gây nên chứng trạng bệnh ở đường tiểu. Vì quá trình bệnh ngắn, có tính chất cấp tính. Theo nguyên tắc ‘Cấp trị ngọn’, trước tiên dùng phép thanh nhiệt, hóa thấp, giải độc. Dùng bài thuốc ‘Tiết Cảm Hợp Tễ’: Đại thanh diệp 30g, Bồ công anh, Hạn liên thảo đều 15g, Tục đoạn, Ngưu tất đều 12g, Liên kiều, Hoàng bá, Tri mẫu, Hoạt thạch đều 10g, Chi tử 4,5g, Cam thảo, Hải kim sa đều 3g. Sắc uống ngày một thang. Ngày 10-8 khám lại thấy sau khi uống thuốc, các chứng khá hơn. Thử nước tiểu thấy bạch cầu (+), hồng cầu: ít, Albumin (âm) nhưng lại bị khan tiếng. Dùng bài thuốc trên, bỏ Tục đoạn, Hạn liên thảo, thêm Sinh địa 30g, Huyền sâm 25g để lương huyết, tư âm, cho uống 3 thang. Ngày 13-8 khám lại: mọi chứng ở toàn thân đều hết. Kiểm tra nước tiểu, hoàn toàn âm tính. 10 tháng sau, hỏi thăm bệnh, không thấy tái phát”.
Y Án Bàng Quang Viêm Cấp
(Trích trong Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư)
Thi X, nữ, 31 tuổi.
Khám lần 1: Trước đây 5 ngày bỗng nhiên đau trướng bụng dưới, kèm tiểu nhiều lần, tiểu gắt, nước tiểu ra nóng, rít, buốt, mầu vàng vẩn đục, mỗi ngày tiểu hơn 20 lần, khi tiểu có cảm giá một luồng đau buốt từ vùng rốn lan xuống đường tiểu, lưng không đau.
Xét nghiệm: thân nhiệt 370C, tỉnh táo, dinh dưỡng, phát dục bình thường, rêu lưỡi trắng mỏng, dính, đầu lưỡi có gai đỏ, mạch Nhu, vùng tim, phổi âm tính, bụng mềm, giữ bụng ấn vào đau, gõ vào vùng Thận thấy đau, nước tiểu vàng, đục, có ít đản bạch, bạch cầu 4 +, hồng cầu 2 +, cấy nước tiểu có trực khuẩn đại trường.
Chẩn đoán: Huyết Lâm (Bàng quang viêm cấp).
Dùng Sinh địa 16g, Cù mạch, Xa tiền tử, Sơn chi, Hoàng bá, Biển súc, Hoạt thạch đều 12g, Mộc thông 8g, Cam thảo 6g, Hổ phách 3g (chia làm ba lần, hòa thuốc uống), Đăng tâm 2 cọng.
Khám lần 2: Sau khi uống 2 thang, tiểu hết buốt, số lần tiểu từ hơn 20 lần/ngày giảm xuống còn hơn 10 lần/ngày, bụng dưới ấn vào còn hơi trướng đau. Nước tiểu trước mầu vàng bây giờ trong, đản bạch âm tính, bạch cầu còn vết, hồng cầu âm tính. Tiếp tục uống bài thuốc trên.
Khám lần 3: Sau khi uống 3 thang nữa, hết hẳn đau, trướng, số lần tiểu tiện trở lại mức bình thường. Xét nghiệm nước tiểu cũng bình thường.
Y Án Bàng Quang Viêm Cấp
(Trích trong ‘Chinese Herbal Medicine And The Problem Of Aging’).
Một nữ viên chức 30 tuổi bị bàng quang viêm cấp do máy điều hòa nhiệt độ ở văn phòng làm việc quá lạnh. Bệnh nhân cảm thấy đau và thường xuyên đi tiểu, đau và có cảm giác nặng ở vùng bụng dưới. Chị ta có thể lực trung bình. Khám bệnh thấy đau bụng dưới mạng sườn bên phải khi ấn vào. Lúc đầu tôi cho dùng bài Trư Linh Thang nhưng không công hiệu. Sau khi xem xét lại và do bệnh nhân cho biết là bị lạnh trong thời gian làm việc ở phòng điều hòa nhiệt độ, tôi đã cho dùng bài Bát Vị Địa Hoàng Hoàn trong 2 tuần, bệnh nhân đã khỏi hoàn toàn.
BÀNG QUANG VIÊM MẠN
Đại Cương
+ Là một bệnh thuộc phạm vi chứng LÂM của YHCT thuộc loại ‘Nhiệt Lâm’.
+ Do ngoại nhân (thấp nhiệt) xâm nhập vào cơ thể gây ra bệnh.
+ Do nội thương (âm hư hoặc thấp nhiệt, huyết nhiệt tiếp tục tồn tại: gây ra bệnh mạn tính.
+ Thường xẩy ra ở nữ giới nhiều hơn nam.
+ Một số sách cũng xếp loại ‘Tiểu Phúc Thống’ vào chứng này.
Triệu Chứng :
Lưng đau mỏi, chóng mặt, mệt mỏi, tai ù, tiểu nhiều hoặc tiểu gắt, vùng hạ vị đau ê ẩm, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Tế, Sác.
Nguyên Nhân: Do âm hư, Thận hư kèm thấp nhiệt.
Điều Trị: Dưỡng âm, bổ Thận, thanh nhiệt, trừ thấp.
. Tri Bá Địa Hoàng Hoàn (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết): Đan bì 120g, Hoàng bá 80g, Phục linh 120g, Sơn dược 160g, Sơn thù 160g, Thục địa 320g, Trạch tả 120g,Tri mẫu 80g.
(Lục Vị Địa Hoàng để tư thận âm, thêm Tri mẫu, Hoàng bá để thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu).
. Bát Chính Tán Gia Giảm (Hòa Tễ Cục Phương): Biển súc 12g, Cam thảo 6g, Chi tử 8g, Cù mạch 12g, Đại hoàng 8g, Hoạt thạch 16g, Mộc thông 6g, Xa tiền tử 16g.
(Chi tử + Địa hoàng để thanh nhiệt, tả hỏa; Biển súc + Cù mạch + Hoạt thạch + Mộc thông để lợi thấp, thông lâm- Nội Khoa Học).
. Đạo Xích Tán (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết): Cam thảo 8g, Đăng tâm thảo 2g, Mộc thông 8g, Sinh địa 12g. tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8 – 12g.
(Sinh địa thanh tâm khí; Trúc diệp thanh tâm khí; Mộc thông giáng tâm hỏa, vào tiểu trường; Cam thảo thống niệu đạo, chỉ thống. Tất cả các vị đều dẫn hỏa theo đường tiểu mà ra vậy – Nội Khoa Học).
. Ngân Kiều Thạch Hộc Thang (tức Lục Vị Địa Hoàng Thang thêm Kim ngân, Liên kiều, Thạch hộc đều 12g) (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
. Ngân Bồ Tiêu Độc Ẩm Gia vị (Thiên Gia Diệu Phương): Bồ công anh, Kim tiền thảo đều 30g, Kim ngân hoa 20g, Đan sâm 12g, Tiểu kế, Phuc bình, Bạch mao căn đều 15g, Đại phúc bì 10g, Hương phụ 6g. Sắc, chia làm 4 lần uống trong ngày.
TD: Thanh nhiệt giải độc, lợi thấp thông lâm, hành khí hoạt huyết. Trị bàng quang viêm.
Tham khảo: Các nghiên cứu dược lý học hiện đại chứng minh rằng bài thuốc này có tác dụng như một kháng sinh phổ rộng. Nếu dựa trên cơ sở bài thuốc này mà kết hợp biện chứng gia giảm, dùng để trị các bệnh nhiễm khuẩn hệ tiết niệu thường có hiệu quả nhanh. Mấy năm gần đây, đã dùng bài này làm thuốc cơ bản gia giảm để điều trị 54 ca nhiễm khuẩn đường tiểu. Nói chung, chỉ uống 2-4 thang là các chứng chuyển biến tốt rõ, 6-9 thang thì nước tiểu chuyển thành âm tính. Trong số đó có 5 bệnh nhân nằm viện điều trị nên có phối hợp với kháng sinh, còn lại 49 ca đều trị ngoại trú, dùng bài thuốc này đều có kết quả tốt.
Tham Khảo
Tam Kỳ Thông Quan Hoàn (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1992 (2): 401): Hoàng kỳ 30g, Chỉ xác, Tri mẫu, Hoàng bá đều 6g, Phòng phong, Nhục quế đều 3g. Sắc uống ngày 1 thang.
Gia giảm: Thấp nhiệt nhiều, dùng Hoàng bá, Tri mẫu làm chủ, thêm Lục Nhất Tán. Hàn thấp nhiều dùng Nhục quế làm chính, thêm Thận Trước Thang. Khí bị hư yếu quá dùng Hoàng kỳ làm chính, thêm Tứ Quân Tử Thang.
TD: Bổ trung, ích khí, táo thấp, thanh nhiệt. Trị bàng quang viêm.
Đã dùng bài này trị 61 ca, nam 19, nữ 42. Tuổi từ 15 – 71 (đa số là người lớn tuổi). Thời gian bệnh 3 ngày đến 5 năm. Kết quả: hoàn toàn khỏi 100%. Số lượng thuốc uống ít nhất là 3 thang, nhiều nhất là 15 thang, trung bình uống 9 thang.
Thanh Lợi Niệu Bệnh Linh (Thiểm Tây Trung Y 1992 (10): 436): Hoàng kỳ 20 - 30g, Sinh địa 10-15g, Thạch vi 20g, Bạch mao căn 20-40g, Xích thược, Ích mẫu thảo đều 10g, Ngân hoa, Tiểu kế, Phục linh đều 10-20g. Sắc uống. 5 ngày là một liệu trình.
TD: Kiện Tỳ, dục Thận, thanh nhiệt, lợi thấp, hóa ứ, thông lạc, khôi phục sự khí hóa của bàng quang. Trị nhiễm trùng đường tiểu, viêm bàng quang cấp.
Gia giảm: Lúc nóng lúc lạnh thêm Bồ công anh 20g, Địa đinh, Liên kiều đều 10g. Lưng đau thêm Ngưu tất 10g, Đỗ trong 15g. Nước tiểu vàng, đỏ: tăng liều vị Tiểu kế. Mệt mỏi tăng Hoàng kỳ lên đến 60g.
Tham khảo: Đã trị 62 ca, nam 10, nữ 52. Tuổi từ 15-62. Thời gian bệnh 1 ngày đến 10 năm. Nhiễm trùng đường tiểu trên là 15 ca, nhiễm trùng đường tiểu dưới là 47 ca. Dùng bài thuốc này uống một liệu trình (5 ngày) đều khỏi các chứng là 55 ca, có chuyển biến tốt 7 ca. Tổng kết khỏi 100%.
Thanh Lợi Thấp Nhiệt Thang (Thượng Hải Trung Y Dược Tạp Chí 1984 (3): 9): Địa cẩm thảo, Thạch vi, Bán chi liên, Áp chích thảo đều 30g, Biển súc15g, Trạch tả, Hoàng bá đều 9g. Sắc uống (Cấp tính, uống ngày 2 thang).
TD: thanh lợi thấp nhiệt, lợi niêu, thông lâm. Trị nhiễm trùng đường tiểu cấp và mạn tính.
Tham khảo: Trị 90 ca. Kết quả: Bàng quang viêm cấp tính 21 ca, trị khỏi 19. Bể thận viêm cấp 28 ca, khỏi 22. Bể thận viêm mạn 41 ca, khỏi 29. Tổng kết đạt 77,7%.
Ngân Bồ Tiêu Độc Ẩm gia vị (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Bồ công anh, Kim tiền thảo đều 30g, Kim ngân hoa 20g, Đan sâm 12g, Tiểu kế, Bạch mao căn, Phù bình đều 15g, Đại phúc bì 10g, Hương phụ 6g. Sắc, chia làm 4 lần uống.
TD: Thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, thông lâm, hành khí hoạt huyết. Trị thấp nhiệt lưu chú ở hạ tiêu, uẩn kết ở bàng quang, bàng quang viêm cấp do thấp nhiệt.
Tham khảo: Đã dùng bài này làm bài thuốc cơ bản gia giảm để điều trị 54 trưiờng hợp nhiễm trùng đường tiểu, nói chung chỉ 2-4 thang là các chứng chuyển biến tốt, 5-9 thang thì nước tiểu chuyển sang âm tính. Trong số đó có 5 bệnh nhân nằm viện, nên có phối hợp dùng kháng sinh còn lại 49 ca đều trị ngoại trú bằng bài thuốc này, đều có kết quả tốt.
Y Án Bàng Quang Viêm Mạn
(Trích trong ‘Chinese Herbal Medicine And The Problem Of Aging’)
Một bà nội trợ 40 tuổi lần đầu tiên đến bệnh viện ngày 25 tháng 3 năm 1970. Các triệu chứng chính là: tiểu tiện vẩn đục và phù ở ml mắt. Năm 1969 bệnh nhân đã bị viêm ruột thừa kèm theo sốt cao 400C. Các loại thuốc kháng sinh đã làm nhẹ tình trạng này, nhưng ngay sau đó bệnh nhân mắc bệnh viêm bàng quang mạn và lại phải dùng đến kháng sinh. Khi bệnh nhân sử dụng kháng sinh, nước tiểu trong, khi không tiếp tục dùng nữa, nước tiểu trở nên đục Khám thấy mạch Tế, Nhược, phập phồng vùng trên rốn, kinh nguyệt bình thường, chân lạnh, phù ở mi mắt, tiểu tiện ít nhất 15 lần một ngày. Sau 10 năm lấy chồng vẫn không có thai. Phân tích nước tiểu thấy protein dương tính nhẹ. Cho dùng bài Đương Quy Thược Dược Tán thêm Bách cước ngô công (glechoma). Sau 40 ngày, phù ở mắt đã biến mất, nhưng protein vẫn còn trong nước tiểu. Tôi cho dùng Tiểu Sài Hồ Thang thêm Hoàng liên, Thục địa và Bách cước ngô công. Bệnh nhân cho biết bị phản ứng phụ do vậy lại dùng lại bài Đương Quy Thược Dược Tán. Lúc bấy giờ bụng dưới đau, khi ấn thấy đau bụng bên trái. Tôi cho bài Quế Chi Phục Linh Thang thêm Cam thảo, Thược dược.Sau hai tuần, đỡ đau bụng. Uống tiếp bài Đương Quy Thược Dược Tán thêm Bách cước ngô công. Ngày 31 tháng 8, thử lại nước tiểu, kết quả protein (-). Bệnh nhân tiếp tục dùng bài thuốc này trong 5 tháng nữa, nhưng nước tiểu vẫn còn vẩn đục, vì vậy tôi cho chuyển sang dùng bài Thanh Tâm Liên Tử Ẩm 74 ngày, nước tiểu đã trong, lâu lâu mới lại đục; bệnh nhân tiếp tục dùng bài Đương Quy Thược Dược Tán.
Y Án Bàng Quang Viêm Mạn
(Trích trong Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư)
Trương X, nam, 30 tuổi.
Khám lần 1: tiểu nhỏ giọt, không thông, có lúc ra cả tinh dịch. Bệnh thường phát khi mỏi mệt, lưng và cột sống mỏi, bụng dưới trướng đau, tay chân mỏi mệt, mặt và chân phù, bệnh đã hơn một năm, chất lưỡi bệu, rêu lưỡi mỏng trơn, mạch Tế Nhu mà Hoãn.
Chẩn đoán: Lao lâm.
Dùng Hoàng kỳ (chích), Bạch truật (sao), Tang phiêu tiêu, Bổ cốt chỉ, Đỗ trọng, Trạch tả đều 12g, Tục đoạn, Ba kích nhục, Phục linh đều 16g, Quế chi 4g. Tư Thận Thông Quan Hoàn 6g (uống với nước thuốc).
Khám lần hai: Sau khi uống 3 thang, hết hẳn các chứng tiểu gắt, mặt và chân chưa bớt phù, đầu còn váng, mạch và lưỡi như cũ. Tiếp tục cho uống bài thuốc trên, bỏ Quế chi, Bổ cốt chỉ và Tư Thận Thông Quan Hoàn, thêm Biển đậu 16g, Thỏ ty tử 16g, Sơn dược 12g, Ích trí nhân 12g, Ddăng tâm 5 cọng.
Khám lần 3: sau khi uống 4 thang, tiểu tiện như bình thường, phù ở mặt và tay chân giảm nhiều, vùng chung quanh rốn lại đau, hễ chườm ấm thì đỡ, mạch Tế, Nhu, lưỡi nhạt..
Dùng bài trên bỏ Phục linh, Trạch tả, Ddăng tâm, thêm Đảng sâm 12g, Bạch thược (sao 12g, Chích thảo 6g.
Khám lần 4: Sau khi uống 5 thang, bụng hết đau, chứng phù giảm nhiều, mạch Nhu, Tế.
Cho dùng: Hoàng kỳ (chích) 12g, Thục địa 16g, Bạch truật (sao) 12g, Cẩu tích (chế) 16g,Tục đoạn 16g, Ba kích 16g, Bổ cốt chỉ 16g, Hồ lô ba16g, Biển đậu (sao)16g, Sơn dược 12g, Phục linh 16g, Xích tiểu đậu 16g, Sinh khương bì 4g.
Bàn luận: Tiểu nhỏ giọt, ra cả tinh dịch, mệt nhọc thì phát bệnh, biện chứng thuộc Lao Lâm, lại thấy mặt và chân phù, lưng và chân tay mỏi mệt, đó là do bệnh lâu ngày, Tỳ Thận suy, vì vậy, điều trị chủ yếu là ôn Thận, bổ Tỳ, phối hợp với thuốc thông dương, lợi niệu (Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư).
Y Án Bàng Quang Viêm Thể Thấp Nhiệt
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng’)
Trịnh X, nữ, 45 tuổi, nhân viên. Đến khám ngày 6-8-1972. bệnh nhân kể: 3 ngày nay sốt, sợ lạnh, tiểu nhiều, tiểu buốt, nước tiểu đỏ, kèm lưng đau, mệt mỏi. Đã uống nhiều thuốc Tây nhưng không đỡ, vì vậy chuyển sang xin điều trị bằng Đông y.Khám thấy rêu lưỡi vàng bẩn, mạch Hoạt Sác. Xét nghiệm nước tiểu: Bạch cầu (++++), Hồng cầu (+), Albumin (+). Chứng này thuộc loại chứng Lâm. Xét mạch và chứng đây là do thấp nhiệt uẩn kết bên trong, dồn xuống bàng quang gây nên các trieeụ chứng của đường tiểu. Vì quá trình phát bệnh ngắn, có tính chất cấp tính, theo nguyên tắc ‘Cấp tắc trị kỳ tiêu’ (Bệnh cấp trị ở ngọn – chứng), vì vậy, trước tiên dùng thanh nhiệt, hóa thấp, giải độc. Dùng bài thuốc ‘Tiết Cảm Hợp Tễ’ (Đại thanh diệp 30g,, Bồ công anh, Hạn liên thảo đều 15g, Liên kiều, Hoàng bá, Tri mẫu, Hoạt thạch đều 10g, Tục đoạn, Ngưu tất đều 12g, Chi tử 4,5g, Cam thảo, Hải kim sa đều 3g. Sắc uống.
Ngày 10-8 khám lại: sau khi uống thuốc các chứng rối loạn đường tiểu bớt nhiều. Thử nước tiểu thấy bạch cầu (+), Hồng cầu ít, Albumin ±, nhưng lại bị khan tiếng. Dùng bài thuốc trên bỏ Tục đoạn, Hạn liên thảo, thêm Sinh địa 30g, Huyền sâm 25g để lương huyết, tư âm, cho uống 3 thang. Ngày 13-8 khám lại: Các chứng otanf thân đều hết, kiểm tra nước tiểu thấy chuyển sang âm tính. 10 tháng sau hỏi thăm bệnh không thấy tái phát.
BÀO TRỞ
Đại Cương
Có thai mà bụng trên hoăïc bụng dưới đau, có khi vì vậy mà gây nên chứng thai động không yên, được gọi là Bào Trở, Lậu Bào, Nhâm Thần Phúc Thống.
Tương đương với chứng Động thai và Những biến chứng lúc có thai.
Nguyên Nhân
Theo sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’, do hàn ở tử cung gây nên bệnh.
Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ viết: “Có thai 6-7 tháng, mạch Huyền, sốt, thai căng lớn, bụng đau, sợ lạnh, do tử cung mở ra, nên dùng bài ‘Phụ Tử Thang’ để làm ấm ‘tử tạng’» và “Có thai mà ra máu, có thai mà bụng đau, gọi là chứng Bào Trở, nên dùng bài Giao Ngải Thang làm chủ»…
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ cho rằng: “Chứng Lậu bào là có thai đã 3 tháng mà kinh nguyệt lại xuống, do mạch Xung, Nhâm hư yếu, không ức chế được kinh huyết, Thái dương và Thiếu âm». mạch Xung, Nhâm được coi là biển của huyết, đều bắt đầu từ trong bào cung, liên hệ với kinh Tiểu trường [thủ Thái dương] và kinh Tâm [thủ Thiếu âm] hai đường kinh này quan hệ biểu lý với nhau, trên là sữa dưới là kinh nguyệt. Người có thai kinh nguyệt sở dĩ dứt là dồn lại để dưỡng thai và tích lại thành sữa. Khí của mạch Xung, Nhâm hư thì Tâm bào sẽ tiết lậu, không ngăn được kinh huyết, cho nên tinh thủy thường chảy xuống, gọi là chứng Bào trở.
Sách ‘Trung Y Phụ Khoa Giảng Nghĩa’ viết: “Gọi là chứng giảo, nghĩa là trong bụng đau quặn, do huyết không đủ mà thủy lại xâm lấn thì thai không được nuôi dưỡng mà lại sinh hại nữa, làm sao mà không đau quặn bụng. Nguyên nhân có thai mà bụng đau là do huyết hư có nước. Dựa theo bài ‘Đương Quy Thược Dược Tán’, dùng các vị Bạch truật, Trạch tả, Phục linh, câu nói này của Vưu Tài Kinh rất đáng tin. Trần Tự Minh nhận thức về nguyên nhân bệnh này có vẻ tổng quát hơn, ông cho rằng: “Có thai mà bụng, ngực đau có thể vì trước đó có hàn hoặc mới bị cảm phong hàn, đều do tạng hư yếu mà gây nên… đa số do phong hàn, thấp hàn, đờm ẩm, có quan hệ với tạng khí cho nên gây nên bụng đau… Có thai 4-5 tháng trở lên, giữa ngực bụng thường có khí căng đầy, tức, đau hoặc sôi bụng gây nên nôn mửa, kém ăn, đó là do tức giận, lo nghĩ quá độ gây nên».
Sách ‘Trung Y Phụ Khoa Học’ nêu lên 3 nguyên nhân chính là:
. Huyết Hư: Có thai mà cơ thể vốn bị huyết hư, hoặc thiếu máu quá nhiều hoặc Tỳ [nguồn sinh hóa bất túc nên huyết bị hư].
. Hư Hàn: Phụ nữ cơ thể vốn bị hư hàn, có âm hàn bên trong, không thể sinh ra huyết, không hành được huyết, bào mạch không được sưởi ấm khiến cho hàn bốc lên làm cho khí huyết vận hành không thoải mái, bào mạch bị ngăn trơ, vì vậy gây nên bụng đau.
. Khí Uất: Phụ nữ vốn bị uất ức hoặc tình chí bị tổn thương, khí uất thì huyết vận hành không thông, bào mạch bị trở trệ, không thông thì đau, vì vậy gây nên đau bụng.
Triệu Chứng
+ Huyết Hư: Có thai, tự nhiên đau bụng dưới, đầu váng, hồi hộp, mất ngủ, hay mơ, sắc mặt vàng úa, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Tế Hoạt.
Điều trị: Bổ huyết, dưỡng huyết, chỉ thống, an thai. Dùng bài Đương Quy Thược Dược Tán [Kim Quỹ Yếu Lược] bỏ Trạch tả, thêm Đảng sâm: Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung, Bạch truật, Phục linh, Đảng sâm.
[Đương quy, Xuyên khung dưỡng huyết, hoạt huyết, hành huyết cho khỏi trệ; Bạch thược dưỡng huyết, chỉ thống; Đảng sâm, Phục linh kiện Tỳ, ích khí là nguồn của việc sinh hóa].
+ Hư Hàn: Có thai bụng đau, thích ấm, thích xoa bóp, tay chân co rút, không có sức, sắc mặt không tươi, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế Hoạt.
Điều trị: Noãn cung, chỉ thống, dưỡng huyết, an thai. Dùng bài Giao Ngải Thang [Kim Quỹ Yếu Lược]: A giao, Ngải diệp, Đương quy, Xuyên khung, Bạch thược, Can địa hoàng, Cam thảo.
[Ngải diệp noãn cung, chỉ thống; Đương quy, Xuyên khung dưỡng huyết, hành trệ; Bạch thược, Cam thảo hoãn cấp chỉ thống; A giao, Địa hoàng dưỡng huyết, an thai].
+ Khí Uất: Có thai bụng đau, tinh thần uất ức hoặc phiền muộn, dễ tức giận, hông sườn đầy trướng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi nhạt, mạch Huyền Hoạt.
Điều trị: Thư Can, giải uất, chỉ thống, an thai. Dùng bài Tiêu Dao Tán thêm Tô ngạnh, Trần bì
Nếu uất hóa nhiệt, thêm Chi tử, Hoàng cầm để thanh nhiệt, lương huyết, hòa doanh, chỉ thống.
Y ÁN CÓ THAI BỤNG ĐAU
(‘Trích trong ’Y Lược Lục Thư’)
Một người có thai bị đau bụng, thai động không yên. Khí từ bên dưới bốc lên mặt phía bên trái, có lúc mặt bị sưng lên, tiểu không thông, mạch Sác, Trầm, Huyền. Đó là chứng Can hỏa uất trệ, Can khí không đưa lên được. Cho uống bài ‘Tiểu Sài Hồ Thang’ thêm Thanh bì, Sơn chi để thanh Can hỏa, hóa Can khí thì bớt bệnh. Sau đó vì tức giận làm cho khí nghịch lên khiến bụng dưới đầy cứng, tiểu không thông, thai động không yên. Đó cũng là do Can mộc thịnh làm cho hỏa của Can bùng lên. Cho uống Long Đởm Tả Can Thang, uống một thang thì bụng hết trướng, bớt đau, tiểu thông. Sau đó cho uống bài Tứ Quân Tử Thang thêm Thăng ma, Sài hồ để bồi thổ, thăng dương thì thai được yên‘’
BĂNG HUYẾT SAU KHI SINH
Sinh xong rồi mà huyết ra một lượng rất nhiều gọi là chứng Sản Hậu Huyết Băng.
Tương đương trong phạm vi chứng 'Băng Huyết Sau Khi Sinh’ của YHHĐ.
Nguyên Nhân
Nguyên nhân bệnh chứng này theo sách ' Nữ Khoa Kinh Luân’ trích từ câu của Trần Lương Phủ rằng: “Sau lúc sinh, kinh mạch bị hao thương chưa được bình phục mà làm việc nặng nhọc, gây nên tổn động cho nên huyết băng mạnh”.
Sách ‘Sản Dục Bửu Khố Tập’ lại cho rằng: “Vì sao sản hậu sinh chứng huyết băng? - Đáp: Vì sản hậu huyết xuống quá nhiều, khí huyết quá hư, chưa bình phục được, hoặc vì lao nhọc, hoặc vì kinh giận, khiến cho huyết bị bạo băng”.
Vì vậy, đàn bà sau khi sinh sản, tình trạng sinh lý chưa được bình phục như trước, mà lao nhọc không đúng mức hoặc bị kích thích tinh thần có thể gây nên chứng sản hậu huyết băng, đó là thuộc về hư chứùng. Thực chứng là bên trong có ứ huyết, có thể gây nên băng huyết. Sách 'Y Tông Kim Giám’ viết: “ Nếu do bên trong có ứ trệ, phần nhiều bụng dưới đau, nên dùng bài Phật Thủ Tán, Thất Tiếu Tán.
Đúc kết lại có thể thấy nguyên nhân gây bệnh sản hậu băng huyết gồm ba thứ là: Lao thương mạch Xung, Nhâm, giận dữ thương tổn Can khí, ở trong có ứ trệ.
Phép Trị
Về nguyên tắc trị bệnh: Nếu sản hậu âm huyết đã tổn thương lại bị chứng băng rồi sinh ra huyết thoát khí hãm thành ra bệnh nặng. Phải nên bổ mạnh, dùng bài 'Độc Sâm Thang’ để cứu chữa tức là phương pháp huyết thoát thì ích khí. Nếu chỉ dùng thuốc bổ huyết không có kết quả. Nếu 6 mạch quá Vi, tay chân lạnh băng nên dùng vị Sâm và Phụ tử, lượng lớn để hồi dương. Nếu vì tức giận quá thương tổn Can khí khiến cho huyết vọng hành, dùng bài ‘Tiêu Dao Tán’ thêm Hắc sơn chi, Sinh địa, Bạch mao căn để thanh Can. Nếu vì ứ trệ mà sinh thực chứng, đau bụng dưới, nên dùng ‘Thất Tiếu Tán’ là thuốc khử ứ, hành huyết.
Triệu Chứng
+ Hư Hàn: Lượng huyết rất nhiều, sắc mặt trắng, nặng lắm thì thở khò khè, ra mồ hôi, tay chân lạnh băng, gần như chứng co cứng, mạch Trầm Vi muốn tuyệt hoặc Phù Đại hư thoát, nên dùng 'Độc Sâm Thang’ hoặc 'Sâm Phụ Thang’ thêm bội Nhân sâm. Nếu thiên về huyết hư chứng hiện ra huyết băng, sắc nhạt, choáng váng, hồi hộp da khô, mạch Tế. Nên dùng bài ‘Khung Quy Giao Ngải Thang’ làm chủ. Nếu khí huyết đều hư nên dùng bài ‘Thập Toàn Đại Bổ Thang’.
+ Huyết Ứ: Huyết băng mà có hòn cục, bụng dưới trướng lên, ấn vào thấy cứng, mạch Huyền mà Sắc. Cho uống bài ‘Thất Tiếu Tán’, 'Sinh Hóa Thang".
+ Khí Uất: Sản hậu huyết băng, nóng nảy, bứt rứt hay giận hoặc tinh thần uất ức, váng đầu, đầu căng, bụng đầy tức, ợ hơi, thở dài, ăn ít, bụng trướng đau, đại tiện không đều hoặc tiêu lỏng không thông, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch Huyền Tế, nên trị với thang "Tiêu Dao Tán gia vị
Y Án Trị Băng Huyết Sau Khi Sinh
(Trích trong (Nữ Khoa Y Án Tuyển Tuý).
Bà họ Kim sau khi sinh một tháng, huyết cứ lai rai ra mãi, lạnh tay lạnh chân, tự ra mồ hôi không ngớt, cho uống dưỡng huyết, bổ âm vẫn không có kết quả. Chẩn mạch thấy 2 mạch xích không đại, không có thần. Theo sách ‘Chử Thị Di Thư’ thì Huyết dù thuộc âm, huyết vận được thì dương sẽ hòa, nay huyết nghịch tự ra mồ hôi, mạch Đại vô căn là vì chân dương Tỳ Thận ở trong suy kém, nên huyết không nơi nương tựa mà thoát ra, thế là dương hư thì âm phải đi. Cần dùng phép đại bổ chân dương để nhiếp hư âm. Nếu bổ huyết dưỡng âm sợ huyết chưa kịp sinh mà lại thương tổn đến dương khí thì âm khí không giữ được. Liền cho uống Nhân sâm 90g, Bạch truật 30g, Phụ tử 9g, Phục linh, Chích thảo đều 3g. Uống 1 thang đã khác, 2 thang thì bớt, thêm vài thang nữa thì tinh thần khác thường”.
BĂNG LẬU
Đại Cương
Phụ nữ lúc không hành kinh hoặc sau khi sinh mà máu ra ở âm đạo không theo quy tắc nào, gọi là Băng Lậu. Chứng băng lậu bao gồm hai chứng là ‘huyết băng’ và ‘kinh lậu’. Hai chứng này nguyên nhân giống nhau nhưng chứng trạng khác nhau:
+ Nhẹ gọi là Lậu (Kinh Lậu, Rong Kinh).
+ Nặng gọi là Băng (Băng Kinh, Kinh Băng).
Ngày xưa gọi là ‘Băng Trung ’, sau này gọi là ‘Lậu Hạ’, ‘Băng Trung Lậu Hạ’.
Sách ‘Tế Sinh Phương’ viết: “Bệnh băng lậu chỉ là một chứng, nhẹ thì gọi là Lậu hạ, nặng thì gọi là Băng trung”.
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: “Đàn bà kinh nguyệt xuống không đúng kỳ ra lai rai không dứt gọi là lậu hạ, nếu tuôn xuống đột ngột gọi là băng trung’.
Vì thế, các sách y xưa cho rằng lậu là băng một cách dần dần, băng là lậu một cách mãnh liệt. Băng và lậu có quan hệ nhân quả mật thiết lẫn nhau, vì vậy từ xưa đến nay vẫn đều gọi chung là Băng Lậu chứ không tách ra.
Tương đương với chứng Tử cung xuất huyết do rối loạn buồng trứng hoặc viêm nhiễm bộ sinh dục ngoài... của YHHĐ.
Hiện nay còn gọi là Công Huyết.
Nguyên Nhân
Chủ yếu do mạch Xung và mạch Nhâm bị rối loạn không ức chế được kinh huyết dẫn đến các chứng Thận hư, Tỳ hư, huyết nhiệt và huyết ứ. Đa số do hư hàn, hư nhiệt, thấp nhiệt, huyết ứ, khí uất.
+ Do Thận Hư: Do bẩm sinh thận khí đã yếu, từ lúc còn thiếu nữ thận khí đã yếu, đến tuổi thành niên thận khí hao suy hoặc do lập gia đình sớm, sinh đẻ nhiều, sinh hoạt tình dục không điều độ làm cho thận khí bị tổn thương, hao tổn tinh huyết, khiến cho thận âm bị hư tổn, âm hư, nội nhiệt, nhiệt phục ở mạch Xung, Nhâm, làm cho huyết đi bậy, gây nên lậu hạ. Hoặc do Mệnh môn hỏa suy, thận dương hư tổn, mạch Xung, Nhâm không cố nhiếp được, không ức chế được kinh huyết, kinh huyết chảy ra, gây nên băng lậu. Thiên ‘Âm Dương Biệt Luận’ viết: “Âm hư, dương bác sẽ thành chứng băng” (Tố Vấn 7, 56).
+ Do Tỳ Hư: Do suy tư quá mức, ăn uống, lao động mệt nhọc khiến cho Tỳ khí bị tổn thương, trung khí bị hạ hãm, mạch Xung, Nhâm không cố nhiếp được huyết, huyết chảy xuống thành chứng băng lậu. Sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’ viết: “Lo lắng, uất giận thì trước hết làm tổn thương Tỳ Vị, kế đến là mạch Xung, Nhâm mà sinh ra băng lậu”.
+ Do Huyết Nhiệt: Cơ thể vốn sẵn có nhiệt thịnh, hoặc tình chí không thoải mái, Can bị uất hóa thành hỏa, hoặc cảm phải nhiệt tà, hoặc ăn uống nhiều thức ăn cay, nóng, hỏa nhiệt ở bên trong thịnh lên, nhiệt làm tổn thương mach Xung, Nhâm, khiến cho huyết đi bậy, chảy xuống, gây ra băng lậu. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ ghi: “Băng Lậu có khi do tính nhiệt”. Sách ‘Linh Lan Bí Tàng’ viết: “Do ăn uống, lao nhọc, thấp nhiệt dồn xuống sinh ra chứng kinh lậu không dứt”.
+ Do Huyết Ứ: Thất tình, nội thương làm cho khí trệ, huyết ứ hoặc cảm phải hàn tà, nhiệt tà, hàn làm cho ngưng lại hoặc nhiệt nung đốt khiến cho huyết bị ứ trệ lại ở mạch Xung, Nhâm, huyết không đi theo đường kinh được, gây nên lậu hạ, băng lậu. Sách ‘Thiên Kim Phương’ viết: “Ứ huyết chiếm cứ huyết thất nên huyết không trở về kinh được”.
Chẩn Đoán
+ Bệnh sử: Cần chú ý đến kinh nguyệt, tinh thần, có bệnh ở bộ phận sinh dục không, có dùng thuốc (nội tiết tố, ngừa thai...), có đặt vòng không...
+ Triệu chứng: Đến kỳ kinh mà huyết ra nhiều ít thất thường, nhưng nếu quá 10 ngày không dứt, lúc nhiều lúc ít, máu ra dây dưa sau khi hết kinh, có kèm đái hạ, không thụ thai, cơ thể gầy ốm.
Điều Trị
Theo nguyên tắc: bệnh cấp trị ngọn, bệnh hoãn trị gốc, nên dùng phương pháp chỉ huyết, thanh nhiệt, ích khí. Nếu kèm theo ứ, thêm thuốc hoạt huyết, hành ứ. Đồng thời nên điều lý Tỳ Vị để củng cố kết quả lau dài (vì Tỳ nhiếp huyết).
+ Trị băng: nên dùng phương pháp cố sáp, thăng đề, không nên dùng loại tân ôn hành huyết.
+ Trị lậu: nên dưỡng huyết, hành khí, không nên thiên về việc cố nhiếp.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp 07 loại sau:
1- Băng Lậu Do Âm Hư: Huyết ra nhiều, mầu đỏ bầm, chóng mặt, tai ù, miệng khô, tâm phiền, họng đau, sốt về chiều, lòng bàn tay chân nóng, khó ngủ, chất lưỡi đỏ, mạch Tế, Hư, Sác.
Điều Trị: Tư âm, dưỡng huyết, chỉ huyết. dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Thang (Bạch linh 12g, Đan bì 12g, Hoài sơn 16g, Sơn thù 16g, Thục địa 32g, Trạch tả 12g). Thêm các vị chỉ huyết...
2- Băng Lậu Do Dương Hư: Huyết ra lâu ngày không khỏi, sắc mặt nhợt nhạt hoặc xám, bụng dưới lạnh, vùng rốn lạnh, lưng đau, thích chườm nóng, cơ thể lạnh, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Trầm Tế, Trì, Nhược.
Điều Trị: Ôn dương bổ hư, chỉ huyết. Dùng bài Giao Ngải Tứ Vật Thang (Thẩm Thị Tôn Sinh Thư): A giao 12g, Bạch thược 8g, Cam thảo 4g, Đương quy 12g, Ngải diệp 8g, Thục địa 12g, Xuyên khung 8g. Thêm Phụ tử, Hắc khương, Lộc giác giao...
3- Băng Lậu Do Khí Hư: Huyết ra nhiều, dầm dề không dứt, sắc đỏ nhạt, trong, mỏi mệt, hơi thở ngắn, không muốn ăn uống, tiêu chảy, tự ra mồ hôi, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng mà ướt, mạch Đại mà Hư, hoặc Tế Nhược.
Điều Trị: Bổ khí, liễm huyết. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang (Tỳ Vị Luận): Bạch truật 8g, Chích thảo 4g, Đảng sâm 12g, Đương quy 8g, Hoàng kỳ 8g, Sài hồ 8g, Thăng ma 8g, Trần bì 6g. Thêm vị chỉ huyết...
Hoặc Cử Nguyên Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Nhân sâm, Hoàng kỳ, Chích cam thảo, Thăng ma, Bạch truật. Thêm A giao, Ngải diệp, Ô tặc cốt.
(Nhân sâm, Hoàng kỳ, Chích thảo, Bạch truật là bài Tứ Vật Thang dùng để bổ khí; Thăng ma để thăng dương, thêm Ngải diệp, A giao, Ô tặc cốt để làm mạnh chân âm, ấm bào cung mà nhiếp huyết).
4- Băng Lậu Do Huyết Nhiệt: Huyết ra nhiều, dài ngày,sắc đỏ sẫm, nóng nẩy, khát, chóng mặt, ngủ không ngon, lưỡi đỏ khô, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác.
Điều Trị: Thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết. Dùng bài Thanh Nhiệt Cố Kinh Thang (Giản Minh Trung Y Nữ Khoa Học): A giao 20g, Cam thảo 4g, Chi tử 12g, Địa cốt bì 20g, Địa du 20g, Hoàng cầm 12g, Mẫu lệ 20g, Ngẫu tiết 20g, Quy bản 32g, Sinh địa 20g, Tông lư 12g. thêm các vị chỉ huyết...
Châm Cứu: Quan nguyên (Nh.4), Tam âm giao (Ty.6),Đại đô (Ty.1), Đoạn hồng (Nk), Huyết hải (Ty. 10), Nhiên cốc(Th. 2)
5- Băng Lậu Do Huyết Ứ: Huyết ra nhiều, dài ngày không hết, có cục, sắc đen bầm, bụng dưới đau chói, ấn vào đau, huyết ra được thì dễ chịu, mạch Trầm Sáp.
Điều Trị: Hoạt huyết, hành ứ, chỉ huyết. Dùng bài Đào Hồng Tứ Vật Thang (Y Tông Kim Giám): Đào nhân 8g, Hồng hoa 4g, Quy vĩ 8g, Thục địa 16g, Xích thược 8g, Xuyên khung 6g. Thêm các vị chỉ huyết...
Trục Ứ Chỉ Băng Thang (An Huy Trung Y Nghiệm Phương Tuyển Tập): Đương quy, Xuyên khung, Tam thất, Một dược, Ngũ linh chi, Đơn bì (tro), Đan sâm (sao) Ngải diệp (sao), A giao(sao với Bồ hoàng), Long cốt, Mẫu lệ, Ô tặc cốt.
(Một dược, Ngũ linh chi hoạt huyết, khứ ứ, chỉ thống; Tam thất, Đơn bì, Đan sâm hoạt huyết, hóa ứ, chỉ huyết; Đương quy, Xuyên khung dưỡng huyết, hoạt huyết; A giao, Ngải diệp dưỡng huyết, chỉ huyết; Ô tặc cốt, Long cốt, Mẫu lệ cố sáp chỉ huyết).
6- Băng Lậu Do Khí Uất: Huyết ra nhiều, có máu cục, bụng dưới đầy trướng, đau, đau lan ra sau lưng, hay nóng nẩy, tức giận, hay thở dài, rêu lưỡi dầy, mạch Huyền.
Điều Trị: Bình Can, giải uất, chỉ huyết. Dùng bài Khai Uất Tứ Vật Thang (Y Học Chính Truyền): Bạch thược 4g, Bạch truật 4g, Bồ hoàng 2g, Địa du 4g, Đương quy 8g, Hoàng kỳ 2g, Hương phụ 12g, Nhân sâm 2g, Thục địa 4g, Xuyên khung 2g. thêm các vị chỉ huyết...
7- Băng Lậu Do Thấp Nhiệt: Huyết ra nhiều, sắc đỏ tím mà hơi dính, nhớt, sắc mặt vàng, mi mắt sưng, ngực bứt rứt, miệng đắng, tiêu tiểu không thông, tiểu vàng, rêu lưỡi khô hoặc nhờn, mạch Nhu Hoạt hoặc Trầm Sác.
Điều Trị: Thanh nhiệt, táo thấp, chỉ huyết. Dùng bài Điều Kinh Thăng Dương Trừ Thấp Thang (Tỳ Vị Luận) : Cam thảo 4g, Cảo bản 8g, Độc hoạt 6g, Đương quy 8g, Hoàng kỳ 8g, Khương hoạt 8g, Mạn kinh tử 6g, Phòng phong 8g, Sài hồ 8g, Thăng ma 8g, Thương truật 8g.
Hoặc Hoàng Liên Giải Độc Thang (Nho Môn Sự Thân): Chi tử 8g, Hoàng bá 8g, Hoàng cầm 8g, Hoàng liên 8g.
Sách ‘Thượng Hải Nội Khoa Học’ chia làm hai loại do Thận Hư và Tỳ Hư.
Thận hư phân làm hai loại:
+ Thận Âm Hư: Huyết ra nhiều hoặc ít, liên miên không dứt, mầu đỏ tươi, đầu váng, tai ù, lưng đau, gối mỏi, tay chân và ngực nóng, gò má đỏ, môi đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, mạch tế, Sác.
Điều trị: Tư Thận, ích âm, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài Tả Quy Hoàn bỏ Ngưu tất, thêm Hạn liên thảo, Địa du(sao).
(Thục địa, Câu kỷ tử, Sơn thù tư Thận âm, kích thích tinh huyết, Sơn dược, Thỏ ty tử bổ Thận dương, ích tinh khí, theo ý ‘Dương sinh âm trưởng’; Quy bản giao, Hạn liên thảo, Địa du (sao) dục âm, lương huyết, chỉ huyết).
+ Thận Dương Hư: Huyết ra nhiều, dầm dề không dứt, mầu huyết nhạt, lợn cợn, lưng đau như gẫy, sợ lạnh, tay chân lạnh, tiểu nhiều, nước tiểu trong, phân lỏng, sắc mặt sạm tối, lưỡi nhạt tối, rêu lưỡi trắng nhật, mạch Trầm Nhược.
Điều trị: Ôn Thận, trợ dương, cố Xung (mạch), chỉ huyết. Dùng bài Đại Bổ Nguyên Tiễn, thêm Bổ cốt chỉ, Lộc giáo giao, Ngải diệp (đốt thành than).
+ Tỳ Hư: Kinh ra nhiều như băng hoặc ra dầm dề không dứt, mầu trắng lợn cợn, tinh thần uể oải, mệt mỏi, hơi thơ ngắn, không muốn nói, không muốn ăn uống, tay chân không ấm, mặt phù, tay chân sưng, sắc mặt trắng vàng, lưỡi nhạt, bệu, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Hoãn Nhược.
Điều trị: Kiện Tỳ, ích khí, cố Xung, chỉ huyết. Dùng bài Cố Xung Thang (Y Học trung Trung Tham Tây Lục, q 4): Bạch truật, Hoàng kỳ, Long cốt, Mẫu lệ, Sơn thù, Bạch thược, Hải phiêu tiêu, Tây thảo căn, Tông lư (khôi), Ngũ bội tử.
(Hoàng kỳ, Bạch truật kiện Tỳ, ích khí để nhiếp huyết; Long cốt, Mẫu lệ, Hải phiêu tiêu cố nhiếp mạch Xung và Nhâm; Sơn thù, Bạch thược ích Thận, dưỡng huyết, chỉ huyết; Ngũ bội tử, Tông lư sáp huyết, chỉ huyết; Tây hoàng căn hoạt huyết, chỉ huyết, làm cho huyết cầm mà không bị ứ trệ).
Nếu huyết ra nhiều, phối thêm Nhân sâm, Thăng ma. Huyết ra rỉ rả không dứt thêm Ngẫu tiết, Bồ hoàng (sao).
Hoặc dùng bài Sinh Mạch Tán (Nội Ngoại Thương Biện Hoặc Luận): Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị tử.
Nếu thấy tay chân lạnh, quyết, mồ hôi ra lâm ly, đó là dấu hiệu vong dương. dùng Hồi dương cố thoát. Dùng bài Sâm Phụ Thang (Hiệu Chú Phụ Nhân Lương Phương): Nhân sâm, Phụ tử, Sinh khương, Đại táo.
Những Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Ích Khí Cố Xung Thang 1 (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Hoàng kỳ 30g, Bạch truật, Sài hồ (tẩm dấm), Ngải diệp (tro), Tiên hạc thảo, Cam thảo đều 10g, Đảng sâm, Kinh giới huệ (tro), Đương quy, Tực đoạn (sao) đều 15g, Thăng ma 4g. Sắc uống.
TD: Ích khí, thăng đề, cố nhiếp mạch Xung, Nhâm. Trị băng lậu.
Đã trị 290 ca, uống 2~6 thang, tối đa 16 thang. Khỏi 286, không khỏi 4. Đạt tỉ lệ 98,62%.
+ Chi Mẫu Sương Thang (Trung Y Tạp Chí 1987, 6): Chi tử (sao) 15g, Kê huyết đằng, Ích mẫu thảo, Bạch mao căn đều 30g, Hồng hoa (đốt thành than) 9g, Xuyên luyện tử (than) 12g, Lộc giác sương 10g, Cam thảo (sống) 12g. Sắc uống.
TD: Dưỡng huyết, sơ Can, thanh nhiệt, chỉ huyết. Trị băng lậu (nơi thanh nữ).
Đã trị 86 ca, khỏi 74, có chuyển biến 6, không kết quả 6. Đạt tỉ lệ 93%. Tuổi từ 12~15 có kết quả tốt nhất.
+ Phù Chính Chỉ Băng Thang (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Đương quy, Bạch thược đều 9g, Hoàng kỳ, Tiên hạc thảo đều 30g, Đảng sâm 15g, Trắc bá diệp (tro) 12g. Sắc uống.
TD: Ích khí, dưỡng huyết, cố bản, chỉ băng. Trị tử cung xuất huyết (do khí huyết hư nhược)
Đã trị 100 ca, khỏi 88, có hiệu quả ít 10, không kết quả 2. Đạt tỉ lệ 98%.
+ Công Huyết Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ): Sinh địa 20g, Bạch thược, Nữ trinh tử, Hạ liên thảo, Hòe hoa (sao) đều 15g, Đại kế (tro), Tiểu kế (tro), Tây thảo (tro) đều 9g, Địa du (tiêu) đều 15g. Sắc uống.
TD: Ích khí, nhiếp huyết, cố sáp, chỉ huyết. Trị tử cung xuất huyết (Bất kỳ loại do huyết nhiệt, khí hư,, Thận hư… gây nên băng huyết. Già trẻ lớn bé đều có thể dùng).
Thường chỉ uống 20 thang là khỏi.
+ Bổ Thận Cố Kinh Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ): Thỏ ty tử, Ích mẫu thảo đều 15g, Tục đoạn, Đương quy thân, Trắc bá diệp đều 12g, Sinh địa, Thục địa, Ngải diệp đều 9g, Bồ hoàng 9~12g, Xuyên khung 6g, Quán chúng 12~18g. Sắc uống.
TD: Bổ Thận dưỡng huyết, cố Xung (mạch), điều kinh. Trị tử cung xuất huyết (do Can Thận hư tổn, mạch Xung, Nhâm không chắc). Dùng cho người lớn tuổi.
+ Chỉ Băng Cố Lậu Ẩm (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Hoàng kỳ (chích) 60g, Đảng sâm, Thục địa, Địa du (sao), Ô tặc cốt đều 30g, Bạch thược, Bạch truật, A giao, Ngải diệp, Tục đoạn, Hồng táo đều 15g, Đương quy, A giao (nấu cho chảy ra) đều 9g. Sắc uống.
TD: Đại bổ khí huyết, cố sáp, chỉ huyết. Trị băng lậu.
+ Lương Huyết Cố Kinh Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Sinh địa, Đơn bì (sao), Mạch môn, Quy bản (nướng), Hoàng bá (sao), Liên phòng (than), Trắc bá (than), Bạch thược (tiêu), Cam thảo (sống).Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết, dưỡng âm. Trị băng lậu (do nhiệt quấy rối mạch Xung Nhâm).
+ Ích Khí Chỉ Băng Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Tây đảng sâm, Bạch truật (sao), Hoàng kỳ (chích), Sơn dược (sao), Xích thạch chi, Tông lư (tro), Thục quân (tro), Cam thảo (chích). Sắc uống.
TD: Bổ trung, ích khí, cố sáp, chỉ băng. Trị băng lậu (do Tỳ hư, khí nhược).
+ Hóa Ứ Chỉ Băng Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đương quy (sao), Bạch thược, A giao (sao), Ngũ linh chi (nửa sống, nửa nấu chín), Đan sâm (tro), Tây căn (tro) Sâm tam thất, Hương phụ (tro). Sắc uống.
TD: Hoạt huyết, hóa ứ, lý khí, điều kinh. Trị băng lậu (do khí huyết ứ trở, huyết không quy kinh).
+ Điều Xung Cố Kinh Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Thục địa, Sơn thù nhục, Sơn dược (sao), Lộc giác giao, Thỏ ty tử, Phúc bồn tử, Câu kỷ tử, Ngũ vị tử, Xích thạch chi, A giao (sao), Ngải diệp (tro). Sắc uống.
TD: Bổ Thận, điều Xung (mạch), cố kinh. Trị băng lậu (do Thận khí suy yếu, mạch Xung, Nhâm không vững).
+ Ích Khí Chỉ Huyết Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Nhân sâm 9g, Hoàng kỳ 30g, Bạch truật 10g, A giao 12g, Hải phiêu tiêu, Tay thảo căn đều 15g, Kinh giới (tro) 6g. Sắc uống.
TD: Ích khí, chỉ huyết. Trị băng lậu.
+ Ký Sinh Giao Ngải Thang (Trung Y Tạp Chí 1985, 6): Tang ký sinh, A giao, Ngải diệp (tro), Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung, Thục địa, Cam thảo, Tục đoạn, Đỗ trọng (sao), Bạch truật, Tông lư (tro). Sắc uống.
TD: Bổ khí, dưỡng huyết, cố Xung (mạch), chỉ băng. Trị băng lậu (do Tỳ Thận bất túc).
+ Thanh Hải Chỉ Lậu Thang (Trung Y Tạp Chí 1985, 10): Xích thược, Đơn bì đều 10g, Địa đinh thảo 24g, Lưu ký nô 10g, Mộc tặc cốt 12g, Bồ hoàng (sao + sống) đều 15g, A giao 10g, Kinh giới (tro) 5g. thận hư thêm Lộc giác sương 30g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, hóa ứ. Trị kinh lậu không cầm.
Đã trị 44 ca, uống tối thiểu 3 thang, tối đa 18 thang, đều khỏi. Đạt tỉ lệ 100%.
+ Tiên Lệ Thang (Nội MôngCổTrung Y Dược 1990, 2): Tiên hạc thảo, Tây thảo, Sinh địa (tro) đều 15g, Mẫu lệ, Hoài sơn, Tang phiêu tiêu đều 30g, Viễn chí, Hương phụ, Cam thảo đều 10g, Thăng ma 3g. Sắc uống.
TD: Lương huyết, hóa ứ, bổ Thận, lý Can, cố sáp, chỉ băng. Trị băng huyết, tử cung xuất huyết.
Đã trị 54 ca, uống 2~7 thang đều khỏi.
+ Ích Khí Cố Xung Thang 2 (Trung Y Tạp Cjhis 988, 9): Hoàng kỳ, Tục đoạn, Hải phiêu tiêu đều 20g, Bạch truật 15g, Tây thảo 10g, Long cốt, Mẫu lệ đều 25g. Sắc uống.
TD: Ích khí, bổ Thận, lương huyết, hóa ứ, cố sáp, chỉ băng. Trị băng lậu.
Đã trị 57 ca, sau khi uống 2~3 thang đều cầm máu.
+ Bổ Thận Cố Xung Thang (Thượng Hải Trung Y Dược Tạp Chí 1990, 3): Thục địa, Sơn dược, Thỏ ty tử, Ô tặc cốt đều 15g, Sơn thù nhục 10g, Lộc giác giao hoặc A giao 12g. Sắc uống.
TD: Bổ Thận, cố Xung (mạch), thu sáp, chỉ băng. Trị băng lậu.
Đã trị 38 ca, khỏi 32, chuyển biến tốt 6, Đạt kết quả 100%.
+ Sâm Tây Đồng Tiện Ẩm (Tứ Xuyên trung Y 1987, 6): Đảng sâm, Tây thảo đều 12g, Đồng tiện 50ml. Sắc thuốc xong, trộn với Đoòng tiện, uống.
TD: Ích khí, hóa ứ, Tư âm, dưỡng huyết, chỉ huyết. Trị băng lậu.
Đã trị 266 ca, khỏi 254, có hiệu quả 10, không kết quả 2. Đạt tỉ lệ 99,25%.
+ Phục Phương Thập Khôi Tán (Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ): Đảng sâm, Thục địa đều 30g, Đỗ trọng, Tục đoạn đều 9g, Bào khương (tro) 3g, Lộc giác sương 21g, Thập Khôi Tán 3g (hòa vào nước thuốc uống).
TD: Điều hòa mạch Xung Nhâm, ích chí, chỉ huyết. Trị tử cung xuất huyết (do mạch Xung và Nhâm không vững).
+ Thanh Can Chỉ Huyết Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Hạ): Sài hồ 6g, Bạch thược, Xích thược đều 4,5g, Đơn bì 9g, Tang diệp, Hương phụ, Sinh địa, Hoàng cầm, Đương quy đều 6g, Câu đằng 12g, Huyết dư (tro), Địa du (sống) đều 9g. Sắc uống.
TD: Thanh Can, lương huyết, trị tử cung xuất huyết.
Thường uống 1~3 thang là khỏi.
.
Y Án Băng Lậu Do Suy Nhược
(Trích trong ‘Nữ Khoa Y Học Thực Nghiệm Lục’)
“Một phụ nữ, hơn 50 tuổi, kinh nguyệt chưa hết. Do làm việc mệt quá bỗng nhiên bị băng trung, đă mời thầy thuốc cho thuốc uống lâu ngày nhưng không bớt, lại còn bị chóng mặt, yếu sức không ngồi dậy được, hồi hộp, run rẩy, ngủ không yên, mỏi mệt, không có sức, trong bụng đau,
thầy thuốc trước cho rằng có đau thì không thể dùng phép bổ được, chỉ dùng những loại thuốc hoạt huyết và chỉ huyết nhưng không biết rằng, đây là trường hợp hư thống ‘đau do hư yếu’. Chỉ cần xét chứng váng đầu không dậy nổi, sợ sệt không ngủ được, đủ chứng minh là hư khiếp được không? Dùng bài Giao Ngải Thang gia vị trong sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’. Uống xong, bụng bớt đau, băng lậu cũng hết»
Y Án Trị Băng Huyết Do Khí Bị Hư Yếu
(Trích trong ‘Nữ Khoa Chuẩn Thằng’)
“Uông Thạch Sơn trị cho một phụ nữ hơn 40 tuổi, da xanh tím, bỗng nhiên bị băng huyết. Các thầy thuốc đã dùng các loại thuốc hàn, lương hoặc cố sáp nhưng vẫn không có kết quả. Chẩn mạch thấy 6 bộ đều Trầm Nhu mà Hoãn, ấn vào không có lực. Đó là bệnh thuộc khí chứ không phải thuộc huyết, vì vậy dùng vị thuốc ngọt, ôn để kiện Tỳ, giúp cho Vị khí thăng lên, huyết trở về với kinh lạc thì không còn bị băng nữa. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang thêm nhiều Sâm, Hoàng kỳ, uống kèm bài Sâm Linh Bạch Truật Tán thì chứng băng mới khỏi”.
Y Án Băng Lậu Do Huyết Hư
(Trích trong ‘Tiết Lập Trai Y Án’)
«Một phụ nữ bị băng huyết, trước đó đã bị đau ngực vùng tim đã 3 năm, dùng nhiều thuốc rồi mà không có kết quả. Mỗi lần đau quá, các chứng hư đều hiện ra, sắc mặt vàng úa. Tôi cho rằng Tâm chủ huyết, vì huyết mất nhiều quá, Tâm không được nuôi dưỡng nên gây ra đau, cho dùng bài Thập Toàn Đại Bổ tăng Sâm và Truật lên. Uống hơn 30 thang, bệnh hơi bớt, uống 100 thang, bệnh khỏi hẳn”.
Y Án Băng Lậu Do Huyết Hư
(Trích trong ‘Tiết Lập Trai Y Án’)
“Vợ của đại doãn Vương Thiên Thành bị băng huyết đã lâu. Tự ý dùng bài Tứ Vật Thang để lương huyết, có khi khỏi, lúc không. Do tức giận mà phát sốt, huyết ra không cầm, uống bài Tứ Vật Thang không thấy kết quả. Lại dùng thuốc loại giáng hỏa vì thế bụng và hông sườn đau nhiều hơn, tay chân lạnh. Tôi cho rằng vì Tỳ Vị hư hàn gây nên. Trước hết dùng bài Phụ Tử Lý Trung Thang, uống xong cơ thể bớt nóng, bớt đau. Cho dùng bài Quy Tỳ Thang, Bổ Trung Ích Khí Thang thì chứng băng huyết khỏi. Nếu cứ lệ thuộc ý ‘Thống vô bổ pháp’ (có đau không được dùng phép bổ) thì sai lầm lớn”.
BÉO PHÌ
(Phì Bán Bệnh - Obesity, Obésité)
Béo phì là bệnh do mỡ tích luỹ quá nhiều trong cơ thể, làm thay đổi cơ năng sinh lý, sinh hoá của cơ thể, dẫn đến các tổ chức mỡ tích tụ quá khối lượng.
Khi không bị phù thũng, cơ bắp phát triển mạnh, nếu trọng lượng cơ thể vượt quá 16% tiêu chuẩn bình thường của người trưởng thành là quá trọng lượng nhưng vượt quá tiêu chuẩn từ 20% trở lên, gọi là béo phì.
Tổng trọng lượng mỡ ở nam giới bình thường tuổi 30 chiếm khoảng 15% trọng lượng cơ thể, nữ giới khoảng 22%. Nếu nam giới vượt quá 25%, nữ giới vượt quá 30-35% là mắc bệnh béo phì.
Nói chính xác hơn thì béo phì cần phân biệt với cân quá nặng do cơ bắp nở nang hoặc ứ nước trong cơ thể... do đó muốn chẩn đoán chính xác phải đo chỉ số mỡ của cơ thể.
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, hiện nay béo phì đang là đề tài mà ngành y đang quan tâm nhất là đối với các nước phát triển và đang phát triển.
Trong 20 năm qua, số trẻ béo phì tăng 53% ở Nhật, 75% ở Singapore, 60% ở Mỹ, 21% ở Đức…
Tại Việt Nam, gần đây, nhiều thống kê cho thấy trẻ lứa tuổi mẫu giáo bị béo phì đang có chiều hướng gia tăng. Số người béo phì tại các thành phố lớn cũng đang là đề tài được nhắc đến. Thậm chí trên các báo còn đưa ra những phương pháp làm giảm cân, các bài tập làm cho thân hình bớt mập...
Theo thống kê, những người dư mỡ bụng (gọi là hình trái Táo) có nguy cơ bệnh tim mạch cao hơn người nhiều mỡ hông (gọi là hình trái Lê).
Theo các chuyên viên, nếu thừa cân trước 5~6 tuổi, có nguy cơ bị béo phì khi trưởng thành.
Hội nghị quốc tế lần thứ VIII về Béo phì hợp tại Paris ngày 1.9.1998 nhận định rằng Bệnh bép phì là một vấn đề lớn đe dọa sức khoẻ cộng đồng.
Đông Y gọi là ‘Đơn Thuần Tính Phì Bán’
Nguyên Nhân
Bệnh béo phì có liên quan đến nhiều yếu tố như:
+ Di truyền: Theo báo cáo của các y gia Trung Quốc, theo kết quả điều tra trên 1.556 cha mẹ mắc bệnh béo phì, các con của họ mắc bệnh chiếm tỉ lệ trên 60%.
+ Bệnh tăng theo tuổi: Kết quả điều tra trên 31.718 người ở Bắc Kinh, Trung Quốc, tiû lệ mắc bệnh ở tuổi thiếu niên là 3%, tuổi trường thành từ 20 đến 35 tuổi là 7,4%, ở tuổi trung niên từ 36 đến 55 tuổi là 25%.
+ Tỉlệ mắc bệnh khác nhau theo giới tính và nghề nghiệp: theo tài.liệu điều tra của Trung Quốc, gồm 2.319 người trên 20 tuổi thì nam béo phì chiếm tiû lệ 16%, nữ béo phì chiếm tỉ lệ 28 %, trong đó làm nghề cấp dưỡng chiếm 60%, công nhân xí nghiệp bia, thực phẩm chiếm 44%, số công nhân nghề khác chỉ chiếm 15%. Một số báo cáo cho thấy nữ giới đã kết hôn ở khoảng 30-39 tuổi bị béo phì nhiều nhất, hơn phân nửa phát phì sau khi sinh đẻ (do thích ăn thức ăn ngọt và chú trọng bồi dưỡng trong thời gian ‘ở cữ’ khiến cho dinh dưỡng quá dư thừa, mỡ tích tụ lại gây nên).
+ Dân thành phố bị béo phì nhiều hơn dân ở nông thôn, có quan hệ đến việc ăn thức ăn ngọt, béo... quá nhiều, thêm vào đó vận động ít dẫn đến trọng lượng cơ thể dần dần tăng lên, dù trọng lượng cơ thể vẫn như cũ nhưng thực tế lượng mỡ tăng lên còn lượng thịt giảm đi.
+ Bệnh béo phì không chỉ ảnh hưởng đến lao động, sinh hoạt, mỹ quan mà còn nguy hại nhất định đến sức khoẻ. Người trung niên và lớn tuổi béo mập dễ mắc các bệnh như Huyết áp cao, bệnh Mạch vành, Tiểu đường, bệnh Gút (Gout), Tai biến mạch não, Sỏi túi mật vv... Cũng theo tài liệu điều tra của Trung Quốc, trong số 153 bệnh nhân động mạch vành, có 120 ca cân nặng quá tiêu chuẩn 10%, chiếm tiû lệ 78,4% và 77 ca mắc bệnh béo phì, chiếm tiû lệ 50,3%. Và trong số 503 ca béo phì có đến 22,3% huyết áp trên 160/95mmHg.
Khi chất dinh dưỡng dư thừa sẽ chuyển hoá thành mỡ tích tụ trong cơ thể khiến cho mỡ nhiều lên, tổ chức mỡ sinh ra nhiều hơn là nguyên nhân trực tiếp của chứng béo phì. Mỡ dư thừa ở nam giới tích tụ nhiều ở thành bụng dưới trở thành đệm mỡ ở thành bụng. Ở nữ giới mỡ dư thừa tích tụ nhiều ở phần dưới eo lưng và phần mông.
Lượng mỡ tích tụ ở một số người cao tuổi đa số không được sử dụng, vì vậy còn được gọi là ‘mỡ bất động’, đây là một trong những dấu hiệu lão hoá.
Thiên ‘Kỳ Bệnh Luận’ (Tố Vấn 47) đã đề cập như sau: “Phàm năm vị ăn vào miệng chứa ở Vị, Tỳ vì Vị dẫn hành tinh khí. Bao tân dịch đều ở Tỳ, nên thành chứng khẩu cam (ngọt ở miệng). Bệnh đó do ăn nhiều các thứ “phì mỹ” (béo, ngon) mà sinh ra”.
Thiên ‘Thông Bình Hư Thực Luận’ (Tố Vấn 25² viết: “…Những chứng đó, phần nhiều do hạng người giàu sang, béo tốt, ăn nhiều chất cao lương mà sinh ra”.
Sách y họccổtruyền phương Đông từ xưa đã ghi về chứng béo phì và phân hình thể con người làm 3 loại: phì, cao, nhục, và cho rằng phát sinh chứng phì là có liên quan với thấp, đàm và khí hư, huyết dịch hỗn trọc, lưu thông chậm.
Nằm lâu, ngồi lâu, vận động quá ít cũng là nguyên nhân quan trọng của béo phì. Nằm lâu, ngồi lâu, khí hư tích tụ làm cho việc vận hoá bị ngăn trở, mỡ tích tụ lại gây nên béo phì.
Thất tình nội thương như vui quá, buồn quá, giận quá... làm Can khí bị tụ lại, Can Đởm mất sự điều tiết (Can chủ sơ tiết) không chỉ ảnh hưởng đến sự vận động của Tỳ mà còn làm cho dịch mật không thể tiết ra thấm vào chất dinh dưỡng một cách bình thường, mỡ tích tụ lại bên trong gây nên béo phì.
Trường hợp nhẹ, người bệnh sinh hoạt bình thường. Trường hợp trung bình và nặng, bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, sợ nóng, mồ hôi, hoạt động nhiều thì tim
bù dịch.
Khi bị bỏng, da không thể bảo vệ cơ thể chống nhiễm trùng được nữa. Nhiễm trùng vùng da bị bỏng rộng có thể gây biến chứng chết người.
Bị bỏng mắt, cần xử trí kịp thời để bảo vệ mắt. Ngay sau khi bị bỏng, cần rửa mắt nhiều lần bằng nước lạnh sạch, vô khuẩn, sau đó gửi đến chuyên khoa mắt.
Điều trị
+ Bỏng Nhẹ:
. Nhúng vùng bị bỏng vào vòi nước lạnh ngay lập tức.
. Hoặc đắp chỗ bỏng bằng gạc (khăn tay hoặc khăn tắm) thấm nước lạnh cho đến khi bớt đau.
. Tháo hết các đồng hồ, vòng đeo tay, nhẫn, dây thắt lưng hoặc quân áo chật tại vùng bị bỏng trước khi chỗ bỏng sưng lên.
. Băng lại bằng gạc sạch (vô trùng).
+ Bỏng Nặng:
. Nếu quần áo nạn nhân đang cháy, dội nước lên nạn nhân, hoặc trùm khăn lên nạn nhân và đặt nằm dưới đất.
. Không nên cởi quần áo đã dính vào vết thương, nhưng phải che vùng bỏng lại bằng quần áo sạch, khô, không có bụi, bông để tránh nhiễm trùng.
. Cắt lọc bỏ da đã bị nát cho vết bỏng vừa sạch vừa gọn.
. Cho bệnh nhân bỏng mặc quần áo nhẹ, vô trùng hoặc không mặc gì để vết bỏng dễ khỏi. Cố gắng giữ da sạch sẽ, cách ly bệnh nhân.
Dùng một trong các bài thuốc sau:
Thanh Lương Cao (Y Tông Kim Giám): Nước vôi trong, một phần (cách lấy: Vôi loại càng lâu càng tốt, hoà với nhiều nước dễ thật lắng, hớt bỏ váng, chỉ lấy nước trong, không lấy cặn ở dưới), dầu Mè (vừng) một phần. Trộn thật đều thành một chất nước đục trắng như sữa, bôi lên vết bỏng, hoặc tẩm vào gạc đắp lên vết thương bỏng. Cứ hai ngày thay băng một lần. Mỗi lần thay băng, phải rửa sạch vết bỏng (Nông Thôn Y Sĩ Thủ Sách).
Bài thuốc này tuy đơn giản nhưng có cơ sở lý luận khoa học: Nước Vôi trong là dung dịch Hydroxid Calci (Ca(OH)2, một loại Bazơ, vì ít tan trong nước nên dung dịch này là một chất kiềm tương đối yếu. Tại chỗ bỏng có một sự rối loạn chuyển hoá các chất Glucid, Lipid, Protid. Các chất này trong quá trình chuyển hoá không được oxy hoá hoàn toàn, vì thế sinh ra nhiều chất toan làm cho vết bỏng nhiễm toan, tức là tăng nồng độ acid ở chỗ vết bỏng. Sự nhiễm độc toan này góp phần vào việc làm dãn mạch, gây phù. Nước Vôi trong là một chất kiềm trung hoà được chất acid, vì thế, có tác dụng làm bớt phù nề ở vết bỏng. Trong dầu Mè có Olein, Linol, Palmitin, Stearin, Phytosterin, Seamin, là loại dầu thường dùng làm thuốc cao bôi lên da có tác dụng giải độc, chỉ thống. Vì vậy, bài thuốc này có tác dụng thanh nhiệt, nhuận phu (da), trị bỏng nước, bỏng lửa, thời kỳ đầu da bị đỏ hoặc có phồng nước (Trung Y Ngoại Khoa Giảng Nghĩa).
+ Lá Trầu không già, rửa sạch, giã nát, hoà với ít rượu, ép lấy nước, bôi lên vết bỏng (Nam Dược Thần Hiệu). Rượu có tác dụng làm sạch chất bẩn, dịu đau, vì có tác dụng gây tê các đầu mút thần kinh. Lá Trầu không có chất kháng sinh thảo mộc (Phytoncid) đẻ ức chế các vi khuẩn, tránh được nhiễm khuẩn.
+ Thạch cao, tán nhuyễn, hoà với Mật ong cho sền sệt, bôi lên vết bỏng (Hành Giản Trân Nhu). Thạch cao tính hàn, có tác dụng giải độc của hoả nhiệt, làm cho hết sưng đỏ. Mật ong có tác dụng hút nước ở vết thương, giúp vết thương mau khô và tránh được độ ẩm khiến cho vi khuẩn không có điều kiện sinh sôi, nẩy nở.
+ Nãng Thương Cao (Trung Y Ngoại Khoa Khái Yếu): Trắc bá diệp, vẩy cho khô, ngâm trong dầu Mè một ngày một đêm. Nấu cho thật nhừ và sệt lại, ép bỏ bã, chỉ lấy dầu trộn với 60g Sáp ong thành một dạng cao. Bôi cao này lên vết bỏng, cách ngày bôi một lần. Trong bài, Trắc bá diệp có Pinen Caryophyllen có tác dụng lương huyết, thanh nhiệt, sinh cơ, lại có tác dụng sát trùng, vì vậy bài thuốc này có tác dụng giảm đau do bỏng gây nên và làm cho mau ăn da non.
+ Sinh Cơ Định Thống Tán (Trung Y Ngoại Khoa Học Khái Yếu): Thạch cao (sống) 120g, Bằng sa 8g, Thần sa 12g, Băng phiến 2,4g. Tán nhuyễn. Sau khi rửa sạch vết thương, rắc thuốc vào vết bỏng. Trị bỏng lâu ngày mà vết bỏng không khỏi lại bị thêm nhiễm trùng. Trong bài có Thạch cao tính hơi hàn, có tác dụng giải hoả độc làm cho hết sưng. Băng phiến, chủ yếu là chất Borneol có tác dụng sát trùng, tiêu viêm làm giảm đau cục bộ. Hợp với Thần sa (la Sulfur thuỷ ngân HgS) có tác dụng an thần, sát trùng, tiêu viêm. Bằng sa có tác dụng sát trùng, tiêu viêm, giảm đau cục bộ. Bài thuốc này có tác dụng chính là sát trùng, giảm đau, làm cho mặt vết bỏng hết mủ , mau thành sẹo, lên da non.
+ Giáp Tự Đề Độc Phấn (Bệnh viện Tích Thuỷ Đàm, Bắc Kinh): Hồng phấn, Khinh phán đều 40g, Huyết kiệt 16g, Chu sa 12g, Băng phiến 8g, Xạ hương 2g. Tán thật nhuyễn (không trông rõ từng hạt óng ánh là được), cho vào lọ kín để dùng. Chỉ dùng bôi bên ngoài, không được uống. Khi dùng: rửa sạch vết bỏng, rắc một lớp thuốc mỏng lên trên mặt vết bỏng. Băng lại cho khỏi bụi. Mỗi ngày hoặc cách ngày thay một lần thuốc.
Hồng phấn còn gọi là Thăng dược, thành phần chủ yếu là Oxyd Thuỷ ngân HgO, Khinh phấn, thành phần hoá học là Clorua thuỷ ngân Hg2Cl2. Huyết kiệt còn gọi là Kỳ lân kiệt. Chu sa thành phần hoá học là Sulfur thuỷ ngân HgS. Băng phiến là chất Borneol được tinh chế. Xạ hương là hạch thơm của con chồn hương. Bài thuốc có tác dụng đối với vi trùng nuôi cấy cho thấy có tác dụng ức chế rõ đối với tụ cầu vàng, trực trùng mủ xanh, trực trùng Coli, Proteus.
Tác dụng trên vết bỏng cho thấy: trong thời gian điều trị, lượng vi khuẩn trên mặt vết bỏng giảm rõ rệt và có tác dụng loại trừ các mảng thịt thối rữa. Khi dùng thuốc có thể thấy mặt vết bỏng phù nề, thịt sần sùi hoá thành nước làm cho mặt vết bỏng trở nên bằng phẳng. Tuy nhiên đối với lớp da lành chung quanh và tổ chức da mới sinh không bị phá huỷ, điều đó cho thấy thuốc không những có tác dụng làm tiêu các thịt bị huỷ hoại mà còn có tác dụng cải thiện sự tuần hoàn dinh dưỡng, giảm đau do thúc đẩy sự sinh trưởng tổ chức mới và giúp thành sẹo.
Kết quả: Điều trị 10 ca bỏng trung bình sau 46 ngày:
. Vết bỏng diện tích 1 x 1cm đến 2 x 2cm khỏi trong một tuần.
. Vết bỏng lớn, diện tích 13 x 5cm hoặc 11 x 7cm, trong 2-3 tuần khỏi.
+ Thiêu Nãng Thương Tán (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Hoàng kỳ, Sơn chi, Khổ sâm đều 5g, Thiên niên tử 200g, Thạch cao (sống) 5g.Tán nhuyễn. Dùng nước sắc lá Trà 3% trộn đều với thuốc bột, đắp vào chỗ bỏng.
TD: Thanh nhiệt, tiêu thủng, chỉ thống, giải độc, thu liễm sinh cơ. Trị bỏng do lửa diện tích nhỏ.
Đã trị 100 ca, bỏng nhẹ 53 ca, trung bình đắp 8 ngày thì khỏi. Bỏng vừa 38 ca, trung bình đắp 18 ngày khỏi. 8 ca nặng, trung bình đắp 20 ngày khỏi.. có một trường hợp nặng, đắp thuốc 32 ngày mới khỏi. Đạt tỉ lệ 100%. Bài này giảm đau nhanh, không để lại sẹo.
+ Hoàng Du Nãng Thương Cao (Quảng Tây trung Y Dược 1986, 6): Địa du, Đại hoàng, Hổ trượng đều 40g, Hoàng liên, Bạch liễm, Hải phiêu tiêu, Lô cam thạch đều 20g, Một dược 15g, Băng phiến (cho vào sau) 4g. Tán nhuyễn, trộn với dầu Mè thành dạng cao sền sệt. Dùng nước Muối sinh lý rửa vết thương rồi bôi thuốc vào, ngày 2 ~4 lần.
TD: Thanh nhiệt tiêu viêm, chỉ thống tiêu thủng. Trị bỏng diện tích 30% trở xuống, hợp với bỏng độ I, II.
Đã trị 35 ca, có 34 ca bôi thuốc 7 ~11 ngày, da bong ra và khỏi. Có một ca, do bỏng rồi bị vỡ miệng làm độc, phải đắp thuốc đến 16 ngày mới khỏi.
+ Quy Chỉ Nãng Thương Cao (Hồ Bắc Trung Y 1988, 2): Đương quy 120g, Bạch chỉ 30g, Huyết kiệt, Khinh phấn đều 12g, Cam thảo 36g, Tử thảo 30g, Mễ xác 120g, Ma du (dầu Mè) 500ml.
Khinh phấn và Huyết kiệt tán nhuyễn. Các vị khác nấu với dầu cho hơi khô, lọc lấy dầu, trộn với thuốc bột trên thành cao, dùng để bôi. Bỏng độ II, ngày thay một lần, bỏng nhẹ cách ngày thay một lần.
TD: Lương huyết, hoạt huyết, tiêu viêm chỉ thống. Trị bỏng.
Đã trị 50 ca. Trong đó đó bỏng độ II 34 ca, độ I có 5 ca, diện tích bỏng 15 ~ 35%. Điều trị 7 ~ 25 ngày. Trị khỏi 100%.
+ Tử Bạch Nãng Thương Du (Liêu Ninh Trung Y Tạp Chí 1987, 4): Tử thảo, Bạch chỉ, Nhẫn đông đằng, Địa du đều 50g, Đại hoàng 15g, Băng phiến 2,5g, Hương du (Dầu thơm) 500g. Trừ Băng phiến, các vị trên cho vào dầu, đun sôi 30 phút, bỏ bã, cho Băng phiến vào, trộn đều làm thành cao. Sau khi thanh trùng chỗ bỏng, bôi thuốc vào, đắp gạc vô trùng lên. Nếu không bị nhiễm trùng 5 ~ 7 ngày thay một lần.
TD: Lương huyết, thanh nhiệt, tiêu thủng chỉ thống. Trị bỏng.
Đã trị 104 ca. thời gian điều trị: độ I có 19 ca, trung bình 6,2 ngày. Độ II nhẹ có 62 ca, trung bình 14,5 ngày. Độ II nặng có 15 ca trung bình 36 ngày. Độ III có 8 ca, trung bình 65,3 ngày. Đạt tỉ lệ chung 100%.
Phòng Phỏng Và Điều Dưỡng
1. Tuyên truyền giáo dục mọi người chú ý những nguyên nhân gây bỏng, có biện pháp đề phòng, nhất là đối với trẻ em.
2. Theo dõi thân nhiệt, mạch, huyết áp hằng ngày.
3. Bệnh nhân nặng phải nằm drap vô khuẩn, giường mềm và luôn thay đổi tư thế.
4. Chế độ ăn đủ chất dinh dưỡng và chú ý chống nhiễm khuẩn.
BÔN ĐỒN KHÍ
Bệnh này chủ yếu do sợ hãi gây nên. Chứng trạng chính là tự cảm thấy có khí từ bụng dưới xông lên ngực, họng, giống như con heo chạy (bôn đồn), vì vậy gọi là Bôn Đồn Khí.
Tên bệnh Bôn đồn bắt đầu thấy ở sách Nội kinh, cũng có tên chung với các chứng Phục Lương, Tức Bôn, Phì Khí, Bĩ Khí.
Sách Nạn Kinh lại nói rõ thêm về bôn và chứng trạng của bệnh này.
Theo chứng trạng của bệnh Bôn đồn mà xét, cũng giống với bệnh bôn đồn khí, trong sách Kim Quỹ Yếu Lược nhưng một chứng là bệnh tích, một chứng là bệnh khí.
Nguyên Nhân
Về nguyên nhân bệnh bôn đồn, theo thuyết của Trương Trọng Cảnh thì một là vì sau khi sợ hãi, làm cho khí của Can Thận nghịch lên, hai là vì khí hàn thủy, từ bụng dưới xông lên gây ra.
1 - Do Khí Của Can Thận: Sách Kim Quỹ Yếu Lược viết: “Bệnh bôn đồn khí bắt đầu từ bụng dưới xông lên yết hầu, khi bệnh phát ra thì muốn chết rồi lại khỏi, đều do sợ hãi gây nên" và “Bệnh bôn đồn khí xông lên bụng ngực đau, lúc nóng lúc lạnh, dùng bài Bôn Đồn Thang làm chủ. Đó là nói rõ bệnh này do sợ hãi mà gây ra, chủ yếu là bệnh ở hai kinh Can và Thận: Đồng thời chứng trạng này, có thể tái phát nhiều lần.
2- Do Khí Hàn Thủy: Sách Kim Quỹ Yếu Lược có đề cập đến trường hợp "Sau khi cho ra mồ hôi, lại đốt kim châm cho ra mồ hôi, chỗ châm bị lạnh, nổi hạch đỏ tất nhiên phải bôn đồn. Khi từ bụng dưới xông lên Tâm. Cứu trên các hạch, mỗi chỗ một mồi, và dùng bài Quế Chi Gia Quế Thang làm chủ. Sau khi cho ra mồ hôi, dưới
rốn thấy động, muốn phát bôn đồn, dùng bài Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo Thang làm chủ. Chứng trước là do mồ hôi ra quá nhiều, tâm dương không mạnh, mà lúc châm lại không cẩn thận phòng lạnh, thì khi lạnh lấn vào đột nhiên phát bệnh bôn đồn khí, chủ yếu do khí lạnh xông lên.
Điều Trị
Nên dùng phép ôn trung, tán hàn làm chủ yếu, dùng bài Quế Chi Gia Quế Thang nhưng cũng nên tùy chứng mà gia giảm. Chứng sau cũng do sau khi cho ra mồ hôi, tâm dương không đủ, hoặc người đó sẵn có thủy khí ở hạ tiêu, nhân lúc tâm dương không đủ, thủy khí muốn động cho nên dưới rốn máy động mà chưa đến nỗi nghịch lên, cho nên cách chữa lấy trợ dương, hành thủy làm chủ, dùng bài Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo Thang.
Nhưng khi thủy hàn nghịch lên, cũng không phải đều do khi trị liệu hư hàn, thấy hàn tụ ở dưới, nghịch mà chạy lên, cho nên sách Thiên Kim Yếu Phương dùng phép ôn dương để giáng nghịch có bài Bôn Đồn Khí Thang. Sách Y Học Tâm Ngộ có bài Bôn Đồn Hoàn. Hai bài này để bổ sung sự thiếu sót của sách Kim Quỹ Yếu Lược.
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Sâm Luyện Lệ Chi Thang (Hồ Bắc Trung Y Tạp Chí 1990, 6): Đảng sâm, Xuyên luyện tử đều 9g, Trần bì, Cam thảo (chích), Sài hồ, Mộc qua đều 5g, Thăng ma 7g, Phục linh 6g, Cát hạch, Lệ chi hạch đều 12g.. Sắc uống. Dùng cho trẻ nhỏ 1~2 tuổi.
TD: Bổ trung, thăng hãm, tán hàn, lợi thấp, lý khí, chỉ thống. Trị trẻ nhỏ bị sán khí.
Đã trị 102 ca, khỏi 42, chuyển biến tốt 40, không kết quả 20. Đạt tỉ lệ 80,2%. Trung bình uống 3~7 thang, đa số uống 15 thang thì khỏi. Có 8 ca bị tái phát, còn lại đều khỏi.
+ Tiểu Nhi Sán Khí Thang (Tân trung Y 1988, 4): Ô mai nhục, Cát hạch nhân, Thạch lựu bì, Chỉ xác, Xuyên luyện tử, Tiểu hồi, Hướng dương quỳ cán nhục bạch tâm 10g, Ngô thù du 6g, Nhục quế 3g. Sắc uống.
TD: Sơ Can, hoãn cấp, ôn kinh, tán hàn, táo thấp, kiện Tỳ, lý khí, chỉ thống. Trị tiểu nhi sán khí.
Đã trị 40 ca, nhẹ thì uống 3 thang, nặng uống 6~9 thang đều khỏi.
+ Tề Sán Phương (Tứ Xuyên Trung Y 1989, 7): Ngô thù du, Thương truật đều 12g, Đinh hương 3g, Bạch hồ tiêu 12 hột. Sấy nhỏ lửa, tán bột để dành dùng. Mỗi lần dùng 3~4g, trộn với dầu Mè cho đều, đắp vào vùng trên rốn, dùng băng rốn băng cố định lại. 1~2 ngày thay một lần. Nếu vùng bệnh phản ứng với thuốc đắp thì có thể cách 1~2 ngày đắp một lần.
TD:Ôn kinh tán hàn, lý khí, táo thấp, chỉ thống. Trị tề sán.
Đã trị 10 ca, đều khỏi, theo dõi 2 năm sau không thấy tái phát.
+ Noãn Cân Cử Sán Thang (Ấu Khoa Điều Biện):Hồ lô ba, Lệ chi hạch, Cát hạch, Sơn tra hạch, Đảng sâm đều 9g, Ba kích, Tiểu hồi, Thanh bì,, Xuyên luyện tử, Mộc hương đều 6g, Thăng ma 3g. Sắc uống.
TD: Noãn Can, tán hàn, thăng cử dương khí. Trị Hồ sán (loại hàn ngưng ở Can kinh, khí hư hạ hãm).
+ Thoái Dịch Thang (Tứ Xuyên trung Y 1985, 3): Phục linh, Trạch tả, Trư linh, Bạch truật, Quế chi, Xa tiền tử, Tiểu hồi, Trần bì, Thanh bì đều 10g, Lệ chi hạch, Cát hạch đều 30g,, Binh lang, Ô dược, Mộc hương đều 10g. Sắc uống.
TD: Ôn kinh tán hàn, hành khí, trừ thấp. Trị thủy sán.
Đã trị 4 ca đều khỏi hẳn.
+ Trị Sán Phương (Tứ Xuyên Trung Y 1985, 9): Phật thủ, Binh lang, Lệ chi hạch đều 9g, Hương phụ, Ngô thù du, Tiểu hồi, Cát hạch, Thanh bì đều 6g. Cam thảo 3g. Sắc uống.
TD: Sơ Can, lý khí, tán hàn, chỉ thống. Trị khí sán.
Đã trị 10 ca đều khỏi hẳn.
+ Thủy Sán Thang (Trung Y Tạp Chí 1987, 6): Tiểu hồi 10g, Binh lang, Ô dược, Xa tiền tử, Ngưu tất, Đương quy, Xích thược, Trạch tả đều 5g, Cát hạch 3g, Trư linh, Phục linh đều 6g, Nhục quế (cho vào sau) 3g, Hắc sửu (sao), Bạch sửu (sao) đều 3g. Sắc uống.
TD: Sơ Can, lý khí, ôn kinh, tán hàn, hoạt huyết, lợi thủy. Trị trẻ nhỏ niêm mạc dịch hoàn có nước (thủy sán).
Thường uống 5~10 thang là khỏi.
+ Câu Sán Thang (Cát Lâm Trung Y Dược 1986, 2): Hương phụ, Mộc hương đểu 15g, Sơn tra, Xuyên luyện tử đều 10g, Tam lăng, Nga truật (sao dấm), Khương hoàng, Đởm nam tinh, Thần khúc, Cát hạch đều 5g, Hoàng liên, Ngô thù du, Đào nhân, Chi tử, Lai phục tử đều 2,5g. Sắc uống.
TD: Sơ Can, lý khí, ôn kinh, tán hàn, tiêu viêm, tán kết. Trị phúccổcâu sán.
Đã trị 21 ca, đều khỏi.
+ Kiện Tỳ Hóa Đờm Thang (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Đảng sâm, Bạch truật, Trạch tả, Cốc nha, Mạch nha, Bán hạ (chế) đều 9g, Trần bì 4,5g, Cam thảo (chích) 3g, Mẫu lệ (nấu trước) 30g, Tiêu Dao Hoàn 9g (uống với nước thuốc sắc).
TD: Kiện Tỳ, hóa đờm, sơ Can, lý khí, trị trẻ nhỏ dịch hoàn ứ nước (thủy sán).
(Cốc nha, Trạch tả kiện Tỳ lợi thủy; Trần bì, Bán hạ hóa đờm; Mẫu lệ thu liễm; Tiêu Dao Tán bổ khí huyết, trị bệnh ở Can Tỳ; Đảng sâm, Bạch truật, Chích thảo ích khí, kiện Tỳ).
Đã trị 33 ca, khỏi hoàn toàn 100%. Uống 1~3 tháng, nhiều nhất là 6 tháng đều khỏi. Sau 6 tháng theo dõi không thấy một ca nào tái phát.
Thuốc Đắp Ngoài
+ Ngô thù du 6g, Mộc qua 10g, Tiểu hồi 12g, Xuyên luyện tử, Cát hạch đều 20g. nghiền nát, chia làm 2 phần, bọc lại. Đem rang cho nóng lên, chườm vào chỗ đau, nguội lại thay bao khác, cứ luân phiên thay đổi hai bao trên. Ngày làm một lần, mỗi lần khoảng 1 giờ (Hồ Bắc Trung Y Tạp Chí 1990, 6).
BỤNG ĐAU
Bụng là một phần cơ thể chứa đựng nhiều cơ quan phức tạp gồm Gan, Lách, Dạ dày, Ruột già, Ruột non, Tử cung, Buồng trứng. Do đó bệnh ở vùng bụng rất khó chẩn đoán. Muốn biết rõ hơn phần nào cần biết qua vị trí các cơ quan trong bụng như sau:
Phân Khu Bụng
Kẻ 2 đường ngang:
. Đường trên qua bờ dưới sườn (điểm thấp nhất).
. Đường dưới qua hai gai chậu trước-trên.
Kẻ hai đường thẳng đứng qua giữa cung đùi phải và trái.
Kết quả chia bụng thành 9 vùng, mỗi tầng có 3 vùng:
Tầng trên: ở giữa là thượng vị (1).
Hai bên là vùng hạ sườn phải (2) và hạ sườn trái (3).
Tầng giữa: ở giữa là vùng rốn (4), hai bên là vùng mạng mỡ phải (5) và trái (6).
Tầng dưới: ở giữa là vùng hạ vị (7), hai bên là hố chậu phải (8) và trái (9).
+ Phần trên phía tay phải của bụng có Gan, Ống dẫn mật, túi mật và Tuỵ tạng.
+ Phần trên phía tay trái của bụng có Dạ dày, Lách, Kết tràng ngang.
+ Phần dưới phía tay phải của bụng có ruột dư.
+ Phần dưới phía tay phải của bụng có trực trường.
+ Phần bụng dưới ở phụ nữ có tử cung, buồng trứng, dây chằng, bộ phận sinh dục, bàng quang, thận.
Dựa vào các vị trí sẵn của cơ thể như trên, khi thấy bệnh nhân đau ở vùng nào, kết hợp dựa vào các huyệt chẩn đoán của hệ thống kinh lạc châm cứu, có thể tạm chẩn đoán ra sự rối loạn ở các tạng phủ liên hệ với vùng đau.
* Bụng đau từ lỗ rốn đến phía dưới hông sườn bên tay phải, có thể nghĩ đến các chứng bệnh sau:
+ Viêm gan, Áp xe gan (nếu ấn đau huyệt Kỳ môn và Can du).
+ Viêm ống dẫn mật, sạn mật, tắc mật, giun chui ống mật (nếu ấn đau huyệt Nhật nguyệt, Triếp cân, Đởm du, Đởm nang huyệt).
* Bụng đau vùng trên, bên phải, dưới hông sườn có thể nghĩ đến:
+ Bao tử đau, bao tử loét (Nếu ấn đau huyệt Trung quản, Vị du).
+ Hành tá tràng loét (nếu ấn đau huyệt Lương môn).
+ Ngộ độc thức ăn.
+ Giun (ký sinh trùng đường ruột).
* Bụng Đau phía dưới tay phải bụng nên nghĩ đến Ruột dư viêm và Lao ruột vì ở khu vực này hầu như chỉ có ruột dư (nếu ấn đau huyệt Lan vĩ). Tuy nhiên đôi khi ở phụ nữ buồng trứng có bệnh cũng có thể đau lan đến vùng này.
* Đau giữa bụng, cơn đau đột ngột, đau dữ dội như kim đâm, đau lan từ giữa bụng ra sau lưng, không bị tiêu chảy, có thể là sạn thận, sỏi bàng quang.
* Đau ở vùng bụng dưới (của Phụ nữ), cần phân biệt”
. Đau bụng khan, không bị băng huyết, có huyết trắng nhiều, chất huyết trắng mầu vàng, có mùi hôi: nên nghĩ đến viêm âm đạo, viêm âm hộ, viêm buồng trứng, viêmcổtử cung, viêm tử cung.
. Đau bụng khan, bụng mỗi ngày một lớn như có thai nhưng lâu mà vẫn không thấy thai cử động, tắt kinh: có thể làbướubuồng trứng, u nang buồng trứng.
. Đau bụng khan, khó chịu trong tử cung, mỗi lần đụng nhẹ vào bộ phận sinh dục như là giao hợp bệnh nhân cảm thấy đau như có vật gì trong âm đạo, gây chảy máu: có thể làbướutử cung, ung thư tử cung.
. Đau bụng kèm băng huyết ở phụ nữ có thai khoảng 3 tháng: có thể là muốn sẩy thai, hư thai. Hoặc thai trứng, thai ngoài tử cung.
. Bụng đau trong những ngày hành kinh hoặc những ngày trứng rụng: đây là chứng thống kinh.
Nguyên Nhân Gây Đau Bụng
+ Cảm Ngoại Tà: Hàn, nhiệt, thử, thấp xâm nhập vào bụng khiến cho Tỳ mất chức năng vận hoá, tà khí lưu trệ bên trong làm cho khí cơ bị nghẽn, không thông, gây nên đau bụng. Thiên ‘Cử Thống Luận’ (Tố Vấn 39) viết: “Hàn khí trú ở mạch Quyết âm, mạch Quyết âm vòng quanh âm khí thuộc vào Can. Hàn khí ẩn náu trong mạch thì huyết khó lưu thông, mạch co lại gây nên chứng đau sườn, thiếu phúc đau co rút”.
Hoặc nhiệt tà, thử thấp xâm nhập vào cũng gây nên đau bụng. Hàn
hồi hộp khó thở, bụng đầy, lưng đau, táo bón, đau đầu chóng mặt, tình dục giảm sút, nữ thường kèm theo rối loạn kinh nguyệt, phù do rối loạn nội tiết hoặc do mỡ nhiều chèn ép dịch lâm ba, huyết dịch lưu thông khó, cẳng chân và mu bàn chân phù lõm. Trường hợp mỡ tích nhiều ở bao tim, tim bị chèn ép, hoạt lượng của tim giảm, cơ thể thiếu dưỡng khí, bệnh nhân khó thở. Phụ nữ dễ mắc bệnh hơn nam vì tế bào mỡ ở nữ nhiều hơn nam. Cùng lứa tuổi 20, ở nam mỡ chiếm tỉ lệ 15% cân nặng, còn ở nữ mỡ chiếm đến 25%. Ở nữ sau khi sinh thường ăn uống bồi dưỡng nhiều lại ít hoạt động, ở tuổi dậy thì, thường do rối loạn nội tiết, hoạt động ít, chuyển hoá chậm, đều là những yếu tố thuận lợi cho bệnh phát sinh.
Trẻ em béo phì ít hoạt động thể lực, kém lanh lợi, dễ ra mồ hôi, dễ hồi hộp khó thở, do sức đề kháng kém nên dễ mắc các bệnh viêm đường hô hấp, cao huyết áp, lipid máu cao.
Đông y cho rằng béo phì thường là bệnh ‘Trong Hư Ngoài Thực’. Trong hư chủ yếu là khí hư. Bệnh ở Tỳ, Thận, Can, Đởm, Phế và Tâm. Trên lâm sàng thường gặp là Tỳ Thận khí hư, Can Đởm mất chức năng sơ tiết.
Chẩn đoán bệnh : cần chú ý mức độ béo phì và nguyên nhân, biến chứng.
1- Đánh giá mức độ béo phì có thể dùng một trong 2 cách sau:
a) Tính Theo Cân Nặng Tiêu Chuẩn (CNTC):
Tính theo công thức:
CNTC (Kg) = chiều cao (cm) - 100 x 0,9. Một người có cân nặng so với CNTC vượt từ 10-19,9% gọi là mập, vượt từ 20% trở lên là béo phì.
Hoặc: Trọng lượng cơ thể hiện tại – Trọng lượng cơ thể tiêu chuẩn x 100
Trọng lượng cơ thể tiêu chuẩn
Trọng lượng cơ thể của trẻ nhỏ (kg) = tuổi x 2 + 8.
b) Tỉ lệ Phần Trăm của Mỡ
Tỉ lệ phần trăm của mỡ (ký hiệu là F) như sau
F= (4,570/mật độ trên cơ thể – 4,142) x 100
Nam giới F = 15%, vượt quá 25% gọi là béo phì.
Nữ giới F = 22%, vượt quá 30% là béo phì.
Béo phì thường được chia làm 4 độ:
+ Béo phì độ I : cân nặng tăng từ 20 đến 30% CNTC.
+ Béo phì độ II : cân nặng tăng từ 30 đến 40% CNTC.
+ Béo phì độ III (nặng) cân nặng 40 đến 50% CNTC.
+ Béo phì độ IV (nặng) cân nặng 40 đến 50% CNTC.
c) Tính theo chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index) viết tắt là BMI, tính theo công thức:
BMI = cân nặng (kg)
chiều cao (m2)
Người cân nặng bình thường thì chỉ số BMI là 18,5 - 25, dưới 18,5 là gầy ốm.
Béo phì độ I: 25 - 29,9 béo phì độ II: 30-40, béo phì độ III: trên 40.
2. Hỏi tiền sử bệnh, kiểm tra lâm sàng, cận lâm sàng, và lâm sàng, loại trừ bệnh thứ phát.
3. Chú ý hỏi tiền sử gia đình, thời gian mắc bệnh, chế độ ăn uống, kiểm tra huyết áp, lipit huyết, đường huyết, đo độ dày của mỡ, sự phân bố của mỡ trên cơ thể (toàn thân, bụng hay chân tay béo phì...), đo chỉ số mỡ nếu có điều kiện.
Tóm lại: Nếu trọng lượng cơ thể thực đo mà vượt quá 20% so với trọng lượng cơ thể tiêu chuẩn, đồng thời tỉ lệ phần trăm mỡ vượt quá 30% là bị béo phì.. Trong lượng cơ thể vượt quá 30-50% đồng thời tỉ lệ mỡ vượt quá 35-45% là bép phì độ vừa. Trong lượng cơ thể vượt quá 50% trở lên đồng thời tỉ lệ mỡ vượt quá 45% là bép phì độ nặng..
Triệu Chứng
Dựa theo triệu chứng lâm sàng, có thể phân những người béo phì thành 5 loại:
1) Loại Tỳ Hư Thấp Trở: Béo phì, phù, mệt mỏi, uể oải, thân thể nặng, tay chân nặng, tiểu ít, bụng đầy, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch Trầm, Nhu.
2- Loại Vị Nhiệt Thấp Trở: Béo phì, đầu nặng, choáng váng, thân thể mỏi mệt, khát, thích uống, rêu lưỡi hơi vàng nhờn, mạch Nhu.
3- Loại Can Khí Uất Trệ: Béo phì, ngực đầy, hông sườn trướng tức, kinh nguyệt không đều hoặc bế kinh, mất ngủ, hay mơ, lưỡi sẫm, mạch Nhu.
4- Loại Tỳ Thận Lưỡng Hư: Béo phì, mệt mỏi, uể oải, đầu váng, lưng đau, gối mỏi, liệt dương, rêu lưỡi mỏng, mạch Trầm Nhược.
5- Loại Thận Dương suy: Béo phì, đầu váng, lưng đau, chân mỏi, ngũ tâm phiền nhiệt, rêu lưỡi mỏng, đầu lưỡi đỏ, mạch Nhu.
Nguyên Tắc Điều Trị
Khi điều trị, cần chú ý theo dõi một số điểm sau để dễ đánh giá diễn tiến của phương pháp điều trị:
+ Ba tháng là một liệu trình, hết một liệu trình nếu trọng lượng cơ thể giảm được 3kg là có hiệu quả.
+ Sau một liệu trình, nếu trọng lượng cơ thể giảm từ 5kg trở lên là có hiệu quả rõ.
+ Sau một liệu trình, trọng lượng cơ thể đạt đến trọng lượng cơ thể tiêu chuẩn, được coi là khỏi bệnh.
Trong thời gian uống thuốc, cứ cách một tháng nên ngưng uống thuốc 3-5 ngày rồi lại tiếp tục.
Dựa vào kinh nghiệm lâm sàng, các nhà điều trị học YHCT nêu ra 8 nguyên tắc điều trị sau:
1- Hoá Thấp: dùng trong trường hợp Tỳ Vị hoạt động yếu, thấp bị tích tụ lại dẫn đến béo phì. Triệu chứng là bụng đầy, lưỡi nhờn, mạch Nhu. Thường dùng các bài:
+ Trạch Tả Thang (Kim Quỹ Yếu Lược, Q. Trung): Bạch truật 8g, Trạch tả 20g, sắc uống.
+ Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang (Kim Quỹ Yếu Lược): Phòng kỷ 40g, Hoàng kỳ 40g, Bạch truật 30g, Chích thảo 20g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 3 trái. Sắc uống.
2- Khứ Đờm: Dùng trong trường hợp có nhiều đờm, béo phì. Triệu chứng chính là khí hư, ngực đầy, thích ngủ, lười hoạt động, lưỡi nhờn, mạch Hoạt.
Bệnh nhẹ:
+ Nhị Trần Thang (Thái Bình Huệ Dân Hoà Tễ Cục Phương, Q. 4): Bán hạ (chế) 8g, Chích thảo 4g, Phục linh 8g, Sinh khương 7 lát, Trần bì 8g. Sắc uống lúc đói.
+ Tam Tử Dưỡng Thân Thang (Hàn Thị Y Thông, Q. Hạ): Bạch giới tử, La bặc tử, Tử tô tử. Lượng bằng nhau. Mỗi lần dùng 12g, cho vào túi lụa sắc uống.
Bệnh nặng:
+ Khống Diên Đơn (Tam Nhân Cực - Bệnh Chứng Phương Luận, Q. 13): Bạch giới tử, Cam toại (bỏ lõi, chế), Đại kích. Lượng bằng nhau. Tán bột, trộn với hồ làm hoàn. Ngày uống 2 lần 1-2g với nước Gừng loãng (nhạt).
+ Đạo Đờm Thang (Tế Sinh Phương): Bán hạ (chế) 8g, Cam thảo 4g, Chỉ thực 12g, Nam tinh (chế) 6g, Phục linh 12g, Trần bì 12g. Sắc uống.
3- Lợi Thuỷ: Triệu chứng chính là béo phì, phù, tiểu ít, bụng đầy, lưỡi trắng, mạch Nhu.
Bệnh nhẹ dùng bài
+ Ngũ Bì Ẩm (Thái Bình Huệ Dân Hoà Tễ Cục Phương): Đại phúc bì, Địa cốt bì, Ngũ gia bì, Phục linh bì, Sinh khương bì. Lượng bằng nhau. Sắc uống nóng.
+ Tiểu Phân Thanh Ẩm (Cảnh Nhạc Toàn Thư, Q. 51): Chỉ xác 4g, Hậu phác 4g, Phục linh 8g, Trạch tả 8g, Trư linh 8g, Ý dĩ 4g. Sắc uống ấm trước bữa ăn.
Bệnh nặng:
+ Chu Xa Hoàn (CổKim Y Thống, Q. 43): Cam toại (nướng, tán bột) 40g, Đại hoàng (sao rượu) 80g, Đại kích (nướng, tán bột) 40g, Hắc khiên ngưu (sao) 160g, Nguyên hoa (sao dấm) 40g, Quất bì (sao) 40g, Thanh bì (sao) 40g
Tán bột, làm hoàn.
+ Thập Táo Thang (Thương Hàn Luận): Cam toại, Đại kích, Nguyên hoa, lượng bằng nhau, tán nhỏ, mỗi lần dùng 2-4g. Uống lúc đói vào sáng sớm. Đại táo 10 quả sắc làm thang, hoặc chế thành hoàn mỗi lần 2-4g, uống lúc đói, sáng sớm.
4- Thông Phủ: chủ yếu là dùng phương pháp xổ nhẹ. Dùng cho người béo phì do thèm ăn những thức ăn béo ngọt. Triệu chứng chủ yếu là bụng phệ, táo bón, ngại vận động, mỗi lần vận động thì thở mệt, lưỡi đốm vàng, dầy, mạch Thực.
Thường dùng bài
+ Đại Thừa Khí Thang (Thương Hàn Luận): Chỉ thực 16g, Đại hoàng 12g, Hậu phác 16g, Phác (Mang) tiêu 12g. Cho Hậu phác và Chỉ thực vào trước, đun sôi, lọc bỏ bã, cho Đại hoàng và Phác tiêu vào trộn đều uống.
Sau 2 -3 giờ vẫn chưa thấy đi tiêu được, uống tiếp nước thứ hai, nếu đã thông đại tiện, không uống tiếp nữa.
+ Tiểu Thừa Khí Thang (Thương Hàn Luận): Cam thảo (sống) 4g, Đại hoàng 12g, Mang tiêu 8g, Sắc uống.
+ Điều Vị Thừa Khí Thang (Thương Hàn Luận): Chỉ thực 4 trái, Đại hoàng 240g, Hậu phác 60g, sắc uống ấm.
5- Tiêu Đạo: dùng cho loại béo phì mà ngày càng thèm ăn. Triệu chứng chính là béo phì, lười hoạt động, bụng đầy, thực tích, lưỡi vàng dầy. Thường dùng Sơn tra để tiêu thịt, Thần khúc tiêu bột, ngũ cốc, Mạch nha tiêu thức ăn (gọi là Tam Tiêu Ẩm). Bài này trị béo phì do thừa dinh dưỡng có kết quả tốt.
6- Thư Can, Lợi Đởm: dùng trị béo phì kèm Can khí uất kết, khí ngưng trệ hoặc huyết ứ... Triệu chứng thường gặp là béo phì kèm hông sườn đầy tức, đau, bứt rứt, chóng mặt, mệt mỏi, bụng đầy, lưỡi đỏ, rêu lưỡi có đốm vàng, mạch Huyền.
Thường dùng:
+ Ôn Đởm Thang (Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương, Q. 12): Bán hạ (chế) 6g, Chỉ thực 6g, Chích thảo 4g, Phục linh 12g, Trần bì 6g, Trúc nhự 8g, Thêm Gừng và Táo sắc uống.
+ Thư Can Ẩm (Sài hồ, Uất kim, Khương hoàng, Bạc hà).
7- Kiện Tỳ: Thường dùng kiện Tỳ bổ Thận là chính. Thường gặp trong trường hợp Tỳ khí hư yếu, cơ thể mỏi mệt, uể oải, lưỡi trắng, chất lưỡi nhạt, mạch Nhu. Thường dùng bài
+ Sâm Linh Bạch Truật Tán (Thái Bình Huệ Dân Hoà Tễ Cục Phương, Q. 3): Bạch truật 8g, Biển đậu 8g, Cát cánh 8g, Chích thảo 4g, Hạt sen 8g, Nhân sâm 8g, Phục linh 12g, Sa nhân 8g, Sơn dược 8g, Ý dĩ 12g. Sắc, chia 2 lần uống.
+ Dị Công Tán (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết, Q. Hạ): Bạch truật 12g, Chích thảo 4g, Đảng sâm 8g, Phục linh 8g, Trần bì 4g, sắc uống.
+ Chỉ Truật Hoàn (Tố Vấn Bệnh Cơ Khí Nghi Bảo Mệnh Tập): Bạch truật 80g, Chỉ thực 40g. Dùng lá Sen bọc cơm nung khô, tán bột, làm thành hoàn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6 - 8g.
8- Ôn Dương: Dùng trong trường hợp khí hư, dương hư kèm mồ hôi trộm, hơi thở ngắn, cử động thì thở mệt, lưng đau, sợ lạnh… Thường dùng bài
+ Tế Sinh Thận Khí Hoàn (Kim Quỹ Yếu Lược, Q. Hạ): Địa hoàng 320g, Đơn bì 120g, Phụ tử 40g, Phục linh 120g, Quế chi 40g, Sơn dược 160g, Sơn thù 160g, Trạch tả 120g. Tán bột. Ngày uống 8-12g.
+ Cam Thảo Phụ Tử Thang (Kim Quỹ Yếu Lược, Q. Thượng): Bạch truật 80g, Cam thảo (nướng)80g, Phụ tử (nướng, bỏ vỏ) 2 miếng, Quế chi 160g. Sắc 600ml nước còn 200ml, uống ấm.
+ Linh Truật Quế Cam Thang (Thương Hàn Luận): Bạch truật 12g, Chích thảo 18g, Phục linh 16g, Quế chi 12g. Sắc uống.
Triệu Chứng Lâm Sàng
+Tỳ Hư Thấp Trệ: Bệnh nhân béo phì kèm theo chân phù, mặt nặng, mệt mỏi, chán ăn, tiêu lỏng, tiểu ít, thân lưỡi bệu, rêu trắng dày, mạch Hoạt hoặc Trầm Nhược.
Điều trị: Kiện Tỳ, lợi thấp. Dùng bài Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang hợp với Linh Quế Truật Cam Thang gia giảm: Hoàng kỳ 20g, Thương truật, Phòng kỷ đều 10g, Bạch truật, Bạch linh, Xa tiền thảo, Trạch tả đều 12g, Quế chi 6g, Cam thảo 4g.
Gia giảm: Khí hư nặng thêm Đảng sâm 12g; Thấp nặng thêm Ý dĩ 20g; Bụng đầy thêm Chỉ thực, Hậu phác đều 10g; Ăn kém thêm Mạch nha, Sơn tra đều 10g.
Vị Thấp Nhiệt: Người mập, chân tay nặng nề, chóng mặt, nặng đầu, ăn mau đói, khát thích uống nước mát, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dày, mạch Trầm Sác hoặc Hoạt Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp. Dùng bài Phòng Phong Thông Thánh Tán gia giảm: Phòng phong 10g, Hoàng cầm 12g, Chi tử 10g, Xuyên tâm liên 10g, Sinh Thạch cao 15 - 20g, Hoạt thạch 15 - 30g, Bạch truật, Liên kiều, Thảo quyết minh đều 20 - 12g, Cam thảo 3 - 6g. Táo bón thêm Đại hoàng 6 - 8g (cho vào sau).
Khát nước thêm Hà diệp 12g. Đầu đau thêm Dã Cúc hoa 10 - 12g.
Can Khí Uất Kết:.Người bứt rứt dễ cáu gắt, ngực sườn đầy tức, bụng đầy ăn kém, mồm đắng lưỡi khô, kinh nguyệt không đều, mạch Huyền.
Điều trị: Hoà Can, lý khí. Dùng bài Đại Sài Hồ Thang gia giảm: Sài hồ, Hương phụ, Hoàng cầm đều 10 - 12g, Hương phụ, Chế Bán hạ, Chỉ thực đều 6 - 10g, Uất kim 12 - 15g, Xuyên khung 8 - 12g, Bạch linh 12 - 15g.
Khát thêm Sinh địa12g, Thiên hoa phấn 12g. Bụng đầy nhiều thêm Trần bì, Hậu phác 8 - 10g.
Khí Trệ Huyết Ứ: Béo phì, bụng ngực đầy tức, kinh nguyệt không đều, kinh đến đau bụng, sắc kinh đen có máu cục, lưỡi có điểm ứ huyết, mạch Sáp.
Điều trị: Ích khí, hoạt huyết. Dùng bài Đào Hồng Tứ Vật Thang gia giảm: Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên khung đều 10 - 12g, Đương quy, Đơn sâm, Sinh địa đều 10 - 15g, Bạch thược 12 - 16g, Mộc hương 6 - 8g, Trần bì 8 - 10g.
Đau nhiều thêm Uất kim, Hương phụ đều 10g. Bụng đầy nhiều thêm Chỉ xác Hậu phác đều 10g.
Đờm Trọc: Thường thích ăn chất béo ngọt, váng đầu, đầu căng tức, ngực bụng đầy tức, chân tay nặng nề, tê dại, thân lưỡi bệu, có dấu răng, rêu lưỡi dày nhớt, mạch Trầm Hoạt.
Điều trị: Kiện Tỳ hoá đờm. Dùng bài Ôn Đởm Thang gia giảm: Trần bì, Chế bán hạ, Chỉ thực đều 10 - 12g, Trúc nhự, Bạch linh, Tỳ bà diệp đều 10 - 15g, Đởm nam tinh 6 - 10g, Gừng tươi 3 lát.
Tiểu ít thêm Trạch tả 12g.
Tỳ Thận Dương Hư: Béo phì chân tay lạnh, sợ lạnh, lưng gối đau mỏi, hoặc mí mắt phù, bụng đầy, tiêu lỏng, lưỡi bệu, sắc nhạt, rêu trắng, mạch Trầm Tế hoặc Trầm Trì Nhược.
Điều trị: ôn Thận kiện Tỳ. Dùng bài: Chân Vũ Thang hợp với Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang gia giảm: Hoàng kỳ 12 - 20g, Chế Phụ tử (sắc trước) 6 - 12g, Đảng sâm 10 - 15g, Bạch linh, Bạch truật, Bạch thược, Bổ cốt chỉ đều 10 - 12g, Xa tiền thảo 15 - 20g.
Lưng đau gối mỏi nhiều thêm Xuyên Ngưu tất, Đỗ trọng 10 - 12g. Tiêu lỏng, bụng đầy: uống thêm viên Hương Sa Lục Quân 6 - 8g/ lần, ngày uống 2 lần.
Bệnh béo phì thường biểu hiện lâm sàng những hội chứng bệnh lý hư thực lẫn lộn, không hoàn toàn giống hẳn như 6 thể bệnh đã nêu trên đây, vì thế cần có sự linh hoạt trong biện chứng luận trị.
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm Điều Trị Béo Phì của Trung Quốc và Nhật Bản
+ Bạch Kim Hoàn (Bạch phàn, Uất kim): ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g, liên tục trong 40 - 60 ngày. Đã trị cho 170 vừa cao lipit huyết vừa béo phì, cân nặng giảm bình quân 3,75kg.
+ Cường Thân Giảm Phì Hợp Tễ: Hoàng kỳ, Phục linh, Khiên ngưu, Úc lý nhân, Hoàng tinh, Sơn tra, Thảo quyết minh.
Trị 53 ca, có kết quả 73,3%.
+ Cường Thân Giảm Phì Xung Tễ: Hoàng kỳ, Phục linh, Trư linh, Trần bì Lai phục tử (sao), Tân lang, Đại hoàng, Ô mai, Đào nhân, Thảo quyết minh.
Đã trị 53 ca, có kết quả 79,6%.
+ Cửu Vị Bán Hạ Thang: Bán hạ, Quất bì, Cam thảo, Sài hồ, Trư linh, Trạch tả, Phục linh, Can khương, Thăng ma. Dùng cho người béo phì từ tuổi trung niên trở lên, đa số do thuỷ thấp đình trệ.
+ Giảm Phì Khinh Thân Phương: Lậu lô, Quyết minh tử, Trạch tả, Hà diệp, Phòng kỷ, Sinh địa, Hồng sâm. Hắc đậu, Thuỷ ngưu giác, Hoàng kỳ, Ngô công.
Đã trị 51 ca, đạt tỉ lệ khỏi 94,11%.
+ Giảm Phì Thang: Hà thủ ô 30g, Đương quy 30g, Kê huyết đằng 30g, Phục linh 20g, Sắc uống.
TD: Giảm béo phì, làm hạ Triglyceride và Cholesterol trong máu.
+ Giảm Phì Thang 2: Tam thất 3g, Bổ cốt chỉ 12g, Phiên tả diệp 10g, Đại hoàng 10g. Sắc uống.
+ Giảm Phì Thang 3: Câu kỷ tử 10g, Hà thủ ô, Thảo quyết minh, Sơn tra đều 15g, Đan sâm 20g. sắc uống.
Đã trị 31 ca, sau khi uống liên tục 2 tháng, trọng lượng cơ thể giảm nhẹ, lượng mỡ máu giảm đi.
+ Giảm Phì Thang 4: Tân lang, Đại hoàng (chưng rượu) đều 7,5g, Hậu phác, Thanh bì, Vân linh, Chỉ xác, Sơn tra, Thương truật, Bán hạ đều 15g, Bạch giới tử 10g. sắc uống.
Có bệnh nhân lúc đầu cân nặng 86kg, sau khi dùng bài thuốc trên, giảm còn 71kg.
+ Hà Diệp Tán (Chứng Trị Yếu Quyết): Dùng lá Sen (Hà diệp), đốt thành tro, tán bột, hoà với nước uống. Tác dụng: tiêu sưng phù, giảm mỡ. Quan sát lâm sàng cho thấy lá Sen có tác dụng rõ trong bài thuốc giảm béo phì. Vì vậy sách ‘Chứng Trị Yếu Quyết’ viết: “Uống tro lá Sen khiến cơ thể gầy đi”.
+ Hà Diệp Thang : Hà diệp, Thương truật, Bạch truật, Hoàng bá, Ngưu tất, Ý dĩ nhân, Hoàng kỳ, Quế chi, Mộc qua, Phục linh, Trạch tả, Sơn tra, Xa tiền thảo. Đã dùng trị 21 ca, cân nặng giảm bình quân 0,75 - 13kg, có giảm mỡ máu.
+ Hà Thảo Tán: Hà thủ Ô đỏ, Hạ khô thảo, Đông qua bì, Trần bì, lượng bằng nhau tán bột, hoà uống. Liều trung bình mỗi ngày 6 - 10g trong 1 tháng. Theo dõi 231 ca, giảm trên 2 kg có 291 ca, không giảm 8 ca, tăng cân 4 ca, tỉ lệ kết quả 94,8%. Có một số bệnh nhân đau bụng trước khi đi tiêu, buồn nôn.
+ Hà Tra Trà: Hà diệp, Sơn tra, Trạch tả lượng bằng nhau làm dạng trà uống trong 3 tháng. Đã trị 41 ca, giảm cân trên 2kg: 27 ca, giảm cân dưới 2kg: 14 ca.
+ Hà Truật Thang: Hà diệp, Thương truật, Bạch truật, Hoàng bá, Ngưu tất, Ý dĩ nhân, Hoàng kỳ, Quế chi, Mộc qua, Phục linh, Trạch tả, Sơn tra, Xa tiền tử, Hổ trượng, Hạ khô thảo, Cam thảo.
TD: Kiện Tỳ, lợi thấp, bổ khí, thông dương, tiêu phì, giảm mỡ, hạ áp.
Đã trị 21 ca, giảm ít nhất là 0,75g, nhiều nhất là 13kg.
+ Hải Tảo Khinh Thân Thang: Hải tảo, Hạ khô thảo, Ý dĩ nhân, Bạch giới tử, Sơn tra, Trạch tả, Nhân trần, Sài hồ, Cam thảo.
Bài thuốc thích hợp với nữ thanh niên béo phì.
+ Khang Linh Hợp Tễ: Hoàng kỳ, Hà diệp, Sơn tra, Thủ ô đỏ, Đại hoàng (sinh), Bạch giới tử, Diên hồ sách sắc uống mỗi lần 100ml, ngày 2 lần. Trị 110 ca có kết quả 89,1%.
+ Khinh Thân Ẩm 2: Phiên tả diệp, Trạch tả, Sơn tra, Thảo quyết minh.
TD:Thanh Vị nhiệt, lợi thuỷ thấp, kiện Tỳ, tiêu mỡ, lợi thấp trọc.
Đã trị 46 ca, có kết quả 71,7%. Sau khi dùng thuốc, đa số có cảm giác người nhẹ nhàng, khoan khoái, bớt to bụng, đại tiện dễ, không còn mỏi mệt. Trong đó 20 ca vòng bụng giảm đi ở các mức độ khác nhau, người giảm nhiều nhất là 16cm. Trong đó có16 người bệnh kèm phù chân thì 9 ca hết phù. Có 9 ca kèm huyết áp cao nhưng trong thời gian điều trị thì huyết áp ổn định.
+ Khinh Thân Nhất Hiệu Phương: Hoàng kỳ, Phòng kỷ, Bạch truật, Xuyên khung, Hà thủ ô (chế) đều 15g, Trạch tả, Sơn tra, Đan sâm, Nhân trần, Ngưu giác đều 30g, Tiên linh tỳ 10g, Đại hoàng 9g.
TD: Ích khí, kiện Tỳ, ôn Thận, trợ dương, hoạt huyết, hoá ứ, lợi thuỷ, tiêu phù. Dùng trong trường hợp béo phì do Tỳ khí hư, thấp nhiều.
Đã trị 50 ca, khỏi 48.
+ Ngũ Linh Tán hợp Cửu Vị Tân Lang Thang: Trư linh, Trạch tả, Bạch truật, Phục linh, Quế chi, Tân lang, Hậu phác, Quất bì, Tô diệp, Cam thảo, Can khương, Mộc hương, Đại hoàng. Thích hợp cho người mập phì mà cơ thể nặng nề, dễ mệt mỏi, dễ phù.
+ Ninh Chi Hoàn: Bạch truật, Trần bì, Bán hạ, Đan sâm, lượng bằng nhau, tán bột mịn, luyện thành viên 0,5g, mỗi lần uống 8 viên, ngày 2 - 3 lần. Đã trị 90 ca, có kết quả 72%, cân nặng bình quân giảm 1,7kg.
+ Ôn Đởm Thang gia Đởm tinh: Trần bì, Bán hạ, Bạch linh, Cam thảo, Trúc nhự, Chỉ thực, Đởm tinh. Đã dùng điều trị 90 ca, cân nặng bình quân từ 88kg, giảm xuống còn 76,5kg.
+ Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang (Kim Quỹ Yếu Lược): Phòng kỷ 40g, Hoàng kỳ 40g, Bạch truật 30g, Chích thảo 20g, Sinh khương, Đại táo. Sắc uống. Dùng cho bệnh nhân béo phì da nhạt, cơ bắp nhão, thuộc hư chứng, dễ ra mồ hôi, mệt mỏi, có khi đau khớp, cơ bụng nhão, lưỡi ướt, mạch Phù Nhược.
Các y gia Nhật Bản cho rằng bài này phù hợp cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ giầu có, nhàn rỗi, da trắng, cảm thấy nặng nề, không muốn hoạt động, ăn ít nhưng thích uống nước, kinh nguyệt ít, dễ ra mồ hôi, mùa hè mồ hôi ra nhiều. Những người trên 50 tuổi, về chiều thường cảm thấy chân sưng phù, đi lại khó nhưng xét nghiệm nước tiểu không có gì khác thường. Những người này thích gầy hơn một ít. Đối với những bệnh nhân loại này, dùng bài Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang có thể làm cho cơ bắp chắc hơn, cơ thể nhẹ nhàng hơn khớp gối hết đau, chân hết phù. Nhưng nếu cho dùng bài Đại Sài Hồ Thang hoặc Phòng Phong Thông Thánh Tán thì lại cảm thấy mệt hơn.
Tại Nhật Bản, nhiều thầy thuốc dùng bài Phòng Kỷ Phục Linh Thang (Kim Quỹ Yếu Lược) [Hoàng kỳ 40g, Phòng kỷ 40g, Quế chi 20g, Chích thảo 20g] để trị béo phì loại hư chứng. Tuy nhiên bài Phòng Kỷ Phục Linh Thang phù hợp với chứng béo phì do thận, có phù rõ, không hợp với béo phì đơn thuần.
Tại Nhật Bản báo cáo cho thấy, dùng bài Phòng Kỷ Hoàng Kỳ
Thang trị 68 phụ nữ béo phì, sau 8-12 tuần, thể trọng của khoảng 1/3 số phụ nữ nói trên giảm nhẹ.
+ Phòng Kỳ Truật Khung Ô Thang: Phòng phong, Hoàng kỳ, Bạch truật, Xuyên khung, chế Thủ ô, Trạch tả, Sơn tra, Đơn sâm, Nhân trần, Tê giác (hoặc sừng trâu), Tiên linh tỳ, Sinh đại hoàng. Đã trị 50 ca chứng béo phì trong 4 - 23 tuần có kết quả 48 ca, giảm cân bình quân 8,72 kg, lượng Triglycerid và Cholesterol máu đều giảm rõ. Một báo cáo khác dùng trị 178 ca, ngày uống 3 lần, mỗi lần 5 viên (tương đương 15g thuốc sống, có kết quả 72,5%).
+ Phòng Phong Thông Thánh Tán (Tuyên Minh Luận): Phòng phong, Kinh giới, Bạc hà, Ma hoàng, Liên kiều, Cát cánh, Xuyên khung, Đương quy, Bạch truật, Sơn chi (hắc), Đại hoàng (tẩm rượu), Mang tiêu, Thạch cao, Hoàng cầm, Hoạt thạch, Bạch thược, Cam thảo. Tán thành bột. Ngày uống 5-8g.
Bài này phù hợp cho trường hợp béo phì mỡ ở bụng dưới nhiều quá, táo bón và có khuynh hướng bị huyết áp cao.
Kết quả: Cho bệnh nhân uống liên tục 6 tháng, đến tháng thứ hai vòng ngực từ 120cm giảm còn 97cm, vòng bụng từ 130cm giảm còn 103cm. Trọng lượng cơ thể từ 72,5kg giảm còn 71. Đến tháng thứ sáu, vòng ngực còn 93,5cm, vòng bụng còn 94cm, trọng lượng cơ thể còn 69kg.
+ Nữ trinh tử 30g, Sơn tra 15g. Sắc uống liên tục 1 tháng. Trị béo phì (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
+ Hổ trượng 1/2kg, sấy khô, tán nhuyễn. Mỗi lần dùng 5g, uống với nước, ngày 3 lần. Trị béo phì (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
+ Nhân trần 30g, Sơn tra 20g, Mạch nha sống 15g. Sắc uống. Trị béo phì (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
+ Sơn tra 20g, Hà diệp 6g, Trần bì 5g, Lô căn 20g. Sắc uống. Trị béo phì (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
+ Bồ hoàng 30g, Sơn tra 20g. Sắc uống. Trị béo phì (Trung Quốc Dân Gian Bách Thảo Lương Phương).
Những Bài Thuốc Giảm Mỡ Có Lá Chè (Trần Thuỵ Anh, Thiên Tân, Trung Quốc).
+ Sơn tra, Trạch tả, La bặc tử, Mạch nha, Thần khúc, Hạ khô thảo, Trần bì, Nhị sửu (sao), Thảo quyết minh, Phục linh, Xích tiểu đậu, Hoắc hương, Lá chè đều 7g, sắc uống.
+ Hà Thủ ô (sống), Hạ khô thảo, Sơn tra, Trạch tả, Thạch quyết minh, La bạc tử, Lá chè (trà) đều 10g, sắc uống.
+ Thương truật, Bạch truật, Trạch tả, Phục linh, Xa tiền tử, Trư linh, Phòng kỷ, Lá chè đều 10g, sắc uống.
+ Đại hoàng, Chỉ thực, Bạch truật, Cam thảo đều 20g, Lá chè 50g, sắc uống.
+ Pháp Bán hạ, Bạch linh, Trần bì, Xuyên khung, Chỉ xác, Đại phúc bì, Đông qua bì, Chế Hương phụ, Sao Trạch tả, Xa tiền thảo, sao Thương truật, sao Bạch truật, Nhân trần, Lá chè đều 5g sắc uống. Đã dùng trị 95 ca, giảm cân 0,5 - lkg. 16 ca, 1,5 - 2,5kg : 20 ca, 3 - 3,5kg: 11 ca, 4 - 4,5kg: 7 ca, 5 - 8,5kg: 14 ca, trên 9kg: 2 ca, không giảm: 25 ca, tỉ lệ giảm: 73,69%.
Những Vị Thuốc Dân Gian Đơn Giản Giảm Béo Phì
+ Cải củ sống, ăn thường xuyên.
+ Bột Hải đới 2g, Ô mai muối 1 quả. Cho nước sôi hãm uống.
+ Lá sen sắc uống hoặc sắc đặc lấy nước nấu cháo ăn.
+ Bí đao (bí xanh). Thường xuyên làm thức ăn (nấu canh hoặc kho, xào).
+ Củ mài (Khoai mài, Sơn dược, Hoài sơn) nấu cháo (giã nát) ăn thường
+ Râu ngô (Bắp) lượng vừa đủ, hãm nước sôi uống thay nước trà.
+ Lá chè: nấu sôi làm nước trà đậm uống hàng ngày.
+ Đơn bì, lá cây Hoè đều 15g, sắc uống.
+ Quả thị xanh, 1 quả, cành Dâu (Tang chi) 30g, sắc nước uống, ngày 1 - 2 lần.
+ Đậu xanh, Hải đới đều 100g, nấu ăn liên tục có hiệu quả.
+ Bạch tật lê, Đậu xanh đều 30g, sắc uống ngày 2 - 3 lần.
+ Hải đới l0g, Thảo quyết minh 15g. Sắc lọc nước bỏ thuốc uống nước, ăn Hải đới.
+ Cúc hoa, Tang diệp đều 30g, Đào nhân 15g, sắc uống ngày 1 - 2 lần.
+ Xa tiền thảo, Hạ khô thảo đều 30g, Lá Liễu 10g, sắc uống.
+ Hoa Mồng gà (Kê quan hoa) 30g, Chi tử 15g, Ý dĩ nhân 30g, sắc uống.
+ Hoè hoa 15g, Hoàng bá 12g, Ô mai 6g, sắc uống.
+ Tỏi 2 củ, Trà diệp 6g, Hoàng qua bì 20g. Sắc nước uống ngày 1 - 2 lần.
+ Tri mẫu 12g, Bông sen 15g, Đông qua bì 80g. Sắc uống.
+ Hà thủ ô đỏ, Đương qui, Kê huyết đằng đều 30g, Bạch linh 20g. Sắc uống.
+ Quả hoè (Hoè giác) 18g, Hà thủ ô đỏ 30g, Đông qua bì 18g, Sơn tra nhục 15g. Sắc bỏ bã, thêm Ô long trà 3g, uống.
+ Pháp Bán hạ, Bạch linh, Thương truật (sao), Ý dĩ nhân (sao), Đại phúc bì đều 9 - 12g, Trần bì 5 - 9g. Tán bột, làm thành viên to bằng hạt đậu đen. Mỗi lần uống 50 viên, ngày 3 lần (Dùng cho thể đờm thấp tốt).
+ Sơn tra tán bột, mỗi lần uống 6g, ngày 3 lần. Hoặc dùng 18g thuốc bột Sơn tra, sắc uống như nước trà trong ngày (Ẩm Thực Liệu Pháp).
+ Sơn tra, Mạch nha đều 30g, Thạch quyết minh 15g, thêm nước vào nấu khoảng 30 phút, thêm Trà xanh, Lá sen đều 3g, nấu một lúc nữa rồi lấy nước uống thay nước trà (Ẩm Thực Liệu Pháp).
Kinh Nghiệm Điều Trị Béo Phì của Nhật Bản
+ Đại Sài Hồ Thang: thích hợp với người có thể trạng béo phì. Dùng một thời gian lâu nó điều chỉnh chức năng chuyển hoá, tống khứ ra khỏi cơ thể những chất cặn bã và trừ mỡ. Bài thuốc cũng cải thiện chức năng toàn cơ thể, trừ những chất không tinh khiết ra khỏi máu và làm cho người bệnh gầy đi.
+ Phòng Phong Thông Thánh Tán: điều trị những bệnh nhân quá mập.
+ Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang: làm giảm nhẹ béo phì, nhiều mồ hôi, suy kiệt, phù.
. Ăn nhiều các loại rau Cần, rau Cải, Cà rốt, Cà chua, Xà lách.
. Ăn các loại cháo lá Sen, cháo Đậu xanh, cháo Hoàng kỳ, Đậu đỏ có tác dụng giảm mỡ.
. Không ăn mỡ động vật.
. Nên vận động thể dục, tự xoa bóp toàn thân mỗi ngày, tập khí công thái cực quyền đều là những biện pháp làm giảm cân tốt.
Chú ý phát hiện biến chứng điều trị kịp thời.
Bệnh Án Béo Phì
(Trích trong ‘Chinese Herbal Medicine And The Problem Of Agging’)
Một bà nội trợ 57 tuổi, cân nặng 70kg (quá trọng lượng bình thường 10kg). Bệnh nhân thường bị đau cứng vai, hơi thở ngắn, mỏi chân và táo bón. Các dấu hiệu chủ quan là sắc mặt tốt, mạch Huyền, rêu lưỡi trắng, ngực đau, huyết áp 170/90. Bệnh nhân được dùng Đại Sài Hồ Thang cùng với Hậu phác, Phục linh, Câu đằng. Vì có táo bón nặng cho thêm 2g Đại hoàng. Bệnh nhân dùng bài thuốc này trong 1 năm, sau đó cân lại còn 62 kg, kết quả giảm được 8kg, chứng cứng vai, thở ngắn biến mất, huyết áp xuống còn 150/80mm Hg.
BẾKINH
Người con gái đến tuổi dậy thì hoặc quá tuổi thanh xuân mà chưa hành kinh hoặc đang hành kinh mà bỗng nhiên không hành kinh trên 3 tháng, gọi là Bế Kinh hoặcVô Kinh.
Biện chứng luận trị
+ Huyết Hư: Kinh nguyệt lúc đầu sắc nhạt rồi dần dần tắt hẳn, cơ thể gầy ốm, sắc da vàng, chóng mặt,đầu đau, hồi hộp,lưng đau,ăn uống ít,táo bón, lưỡi nhạt, mạch Hư Tế, Tế Sác.
Điều trị: Bổ huyết, Dưỡng huyết. Dùng bài
. Điều Kinh Dưỡng Vinh Thang (Nội Kinh Thập Di): Bạch thược 3,2g, Bạch truật 3,2g Đan sâm 3,2g, Đơn bì 2g, Đương quy 6g, Hồng lam hoa 1,2g, Hương phụ 4g, Huyền hồ 2,4g, Sa nhân 8g, Sinh địa 2g, Thục địa 4g, Trần bì 2,8g, Xuyên khung 2,8g.
. Thánh Dũ Thang ( Đông Viên Thập Thư): Bạch thược 30g, Đương quy 20g, Hoàng kỳ 20g, Nhân sâm 30g, Thục địa 30g, Xuyên khung 30g.
. Trạch Lan Thang (Phụ Nhân Lương Phương): Cam thảo 12g, Đương quy 6g, Thược dược 6g, Trạch lan 8g.
+ Huyết Ứ: Kinh nguyệt lúc đầu không thông rồi tắt dần, sắc mặt xanh tím, bụng dưới cứng đau, ấn vào đau hơn, ngực bụng đầy trướng, thở mạnh như hen suyễn, táo bón, lưỡi đỏ tối hoặc có vết bầm. Mạch Trầm, Kết, Sáp.
Điều trị: Hành huyết, Phá ứ. Dùng bài:
. Đại Hoàng Giá Trùng Hoàn (Kim Quỹ Yếu Lược): Cam thảo 120g, Can tất 40g, Giá trùng 40g, Đại hoàng 48g, Đào nhân 160g, Địa hoàng 400g, Mang trùng 48g, Tế (tao) trùng 48g, Thủy điệt 48g, Thược dược 160g.
. Thông Ứ Tiễn ( Cảnh Nhạc Toàn Thư): Hồng hoa 4g, Hương phụ 8g, Mộc hương 4g, Ô dược 4g, Quy vĩ 10g, Sơn tra 8g.
+ Hư Lao: Kinh bế, sắc mặt trắng nhạt, tinh thần mệt mỏi, gầy ốm, gò má ửng đỏ, bứt rứt, sốt về chiều, lòng bàn tay, bàn chân nóng, da khô, ho ra máu, miệng khô, hồi hộp, không ngủ, môi đỏ khô, rêu lưỡi hơi vàng. Mạch Hư, Tế, Sác.
Điều trị: Bổ dưỡng Khí Huyết. Dùng bài Kiếp Lao Tán (Cục Phương): A giao 80g, Bạch thược 200g, Bán hạ 80g, Cam thảo 80g, Đương quy 80g, Hoàng kỳ 80g, Ngũ vị 80g, Phục linh 80g, Sa sâm 80g, Thục địa 80g.
+ Khí Uất: Kinh nguyệt không đều rồi tắt hẳn, sắc da xanh vàng, tinh thần uất ức, nóng nẩy, hay tức,chóng mặt, tai ù, ngực bụng đầy trướng, ăn ít, ợ chua, ợ hơi, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Huyền.
Điều trị: Lý khí, Giải uất. Dùng bài:
. Khai Uất Nhị Trần Thang (Vạn Thị Phụ Nhân Khoa): Bạch linh 4g, Bán hạ 2,8g, Binh lang 2,8g, Cam thảo 4g, Hương phụ 4g, Mộc hương 2g, Nga truật 2g, Thanh bì 2,8g, Thương truật 4g, Trần bì 4g, Xuyên khung 4g.
. Điều Khí Thư Uất Thang (Hiệu Phỏng Tân Phương): Bán hạ 2g, Chi tử 8g, Chích thảo 2g, Địa cốt bì 8g, Khương hoạt 4g, Nhân sâm 8g, Ô dược 2g, Phục linh 4g, Sài hồ 8g, Thương truật 6g, Trần bì 4g.
+ Đờm Ứ: Kinh nhạt mầu nhiều rồi bế, thân hình béo mập, ngực bụng đầy trướng, đờm nhiều, miệng nhạt, không muốn ăn uống, muốn nôn, nôn mửa, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền, Hoạt.
Điều trị: Hóa đờm, Thông trệ. Dùng bài:
. Hậu Phác Nhị Trần Thang (Đan Khê Tâm Pháp): Bán hạ 4g, Chích thảo 2,4g, Hậu phác 4g, Phục linh 4g, Trần bì 6g.
. Thương Phụ Đạo Đàm Thang (Nghiệm Phương): Bán hạ 40g, Chỉ xác 40g, Cam thảo 40g, Hương phụ 40g, Nam tinh 40g, Thương truật 60g, Trần bì 60g, Vân linh 60g.
+ Phong Hàn: Kinh bế, sắc mặt xanh, bụng dưới lạnh đau, tay chân lạnh, ngực tức, muốn ói, ói, phân lỏng, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Khẩn hoặc Trầm Trì.
Điều trị: Ôn kinh, Tán hàn. Dùng bài Ôn Kinh Thang (Phụ Nhân Lương Phương): Bạch thược 2g, Cam thảo 4g, Đơn bì 2g, Đương quy 2g, Nga truật 2g, Ngưu tất 4g, Nhân sâm 4g, Quế tâm 20g, Xuyên khung 2g.
+ Tỳ Hư: Lượng kinh nhạt, đến sau kỳ rồi bế, sắc da xanh vàng, phù, tinh thần mệt mỏi, tay chân không có sức, chóng mặt, hồi hộp, hơi thở ngắn, hồi hộp, bụng đầy, tiêu lỏng, miệng nhạt, không muốn ăn uống, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch Trầm Hoãn.
Điều trị: Ích khí, Kiện Tỳ. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang Gia Giảm (Diệp Thiên Sĩ Nữ Khoa): Bạch thược 4g, Bạch truật 4g, Chích thảo 2g, Hoàng kỳ 4g, Mạch nha 2g, Nhân sâm 12g, Quy thân 4g, Thần khúc 2g, Trần bì 4g, Xuyên khung 4g.
+ Vị Nhiệt: Kinh đến trước kỳ rồi dần dần bế. Mặt vàng, 2 gò má đỏ, bứt rứt, đêm về thì phát sốt, miệng đắng, họng khô, gầy ốm, táo bón, tiểu ít, rêu lưỡi khô, vàng, nứt nẻ, mạch Tế, Sác, Huyền.
Điều trị: Tiết nhiệt, Dưỡng huyết. Dùng bài
. Địa Hoàng Tiễn ( Toàn Sinh Chỉ Mê): Đại hoàng (tán bột) 40g, Nước cốt Sinh địa 320g.
. Ngọc Chúc Tán ( Y Tông Kim Giám): Bạch thược 8g, Cam thảo 4g, Địa hoàng 4g, Đương quy 8g, Mang tiêu 4g, Thục địa 8g, Xuyên khung 8g.
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
Lục Tử Thang (Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn): Hoàng kỳ 15g, Bạch truật, Phụ tử, Quế chi, Lưu hành tử, Sung uý tử đều 9g. Sắc uống.
TD: Bổ Thận trung âm dương, hoạt huyết, thống kinh để kích thích dương khí của tạng phủ. Trị kinh nguyệt bế do Thận hư.
Đã trị 57 ca, khỏi 49 ca, 5 ca không khỏi. Đạt tỉ lệ 91,23%.
Sơ Can Thông Kinh Thang (Thiên Gia Diệu Phương, Q Hạ): Hoàng kỳ (sao rượu), Tây dương sâm đều 10g, Bạch truật 5g, Vân phục linh, Toàn đương quy đều 10g, Bạch thược (sao rượu), Xuyên tục đoạn đều 7g, Hương phụ (chế) 5g, Hồng Sài hồ, Quảng mộc hương, Chích thảo đều 3g, Du quế 2g. Sắc uống.
TD: Sơ Can, đạt uất, vận Tỳ, thông kinh. Trị tức giận làm tổn thương Can, Can khí uất kết làm cho Tỳ mất chức năng kiện vận, không sinh được tinh đưa vào mạch Xung và Nhâm khiến cho kinh nguyệt bế tắc không thông.
Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy phải uống đến 20-30 thang mới có hiệu quả tốt.
Bổ Tỳ Điều Kinh Thang (Thiên Gia Diệu Phương, Q Hạ): Sơn dược (sống), Bạch truật (sao), Kê nội kim (sống) 15g, Đương quy, Bạch thược đều 12g. Sắc uống.
TD: Bổ Tỳ, dưỡng huyết, điều lý mạch Xung Nhâm. Trị kinh nguyệt bế do Tỳ hư, tinh huyết bất túc, mạch Xung, Nhâm không vững.
Thường uống 6-12 thang là khỏi.
Hồng Hoa Thạch Lựu Bì Thang (Thiên Gia Diệu Phương, Q Hạ): Hồng hoa 15-20g, Thạch lựu bì 30g. Sắc uống cho đến khi thấy kinh. Cách 24 ngày lại uống 1-2 thang (tức lần sau uống trước khi hành kinh 3 ngày).
TD: Hoạt huyết, hoá ứ. Trị kinh bế do huyết ứ.
Thông Kinh Chỉ Nhũ Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Sinh địa 18g, Thạch xương bồ 15g, Viễn chí, Thỏ ty tử đều 12g, Ngưu tất, Đương quy đều 9g, Tử thạch anh, Sinh mạch nha đều 30g, Đan sâm 18g. Thêm 30ml rượu, Sắc uống.
TD: Bổ Thận, sơ Can, tiềm dương, thông kinh. Trị bế kinh, lưng đau, gối mỏi, tâm phiền, hoảng hốt, vú sưng đau.
Hoạt Huyết Thông Kinh Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Toàn Đương quy 10g, Xuyên khung 7g, Xích thược, Trạch lan diệp, Quế chi, Mộc thông đều 9g, Bạch phục linh 13g, Ngưu tất 12g, Kê nội kim 10g. Sắc uống.
TD: Hoạt huyết, thông kinh. Trị kinh bế, bụng dưới trướng đau.
Thường uống 2-4 thang là kinh sẽ thông.
Ích Nhâm Giáng Xung Thang (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Quy bản 15g, Hà thủ ô (chế), Kê huyết đằng, Tang ký sinh, Thái tử sâm đều 30g, Câu kỷ tử, Uất kim, Đan sâm, Mạch môn đều 15g, Tục đoạn, Ngưu tất đều 18g, Ích mẫu thảo 20g. Cho nước và 1 trái trứng vào, đun sôi, khi trứng chín, vớt trứng ra, cho thuốc vào sắc uống.
TD: Bổ âm, ích Nhâm, giáng Xung, điều kinh. Trị kinh nguyệt đến sau kỳ hoặc kinh bế do âm huyết hư, lưỡi hồng nhạt, ít rêu, mạch Tế Nhược.
BỂ THẬN VIÊM
Đại Cương
Là một loại bệnh nhiễm khuẩn vào tổ chức kẽ của Bể Thận, vì vậy còn gọi là Thận Kẽ Viêm.
Đông y gọi là Thận Vu Thận Viêm.
Bệnh họccổchia làm hai loại: Bể Thận viêm cấp và Bể Thận – Thận viêm cấp. Tuy nhiên Bể Thận viêm chỉ là giai đoạn đầu ngắn ngủi của bệnh này, khó phân biệt được vì ít có trường hợp bể Thận viêm đơn thuần mà không có Thận viêm, do đó, hiện nay người ta cho rằng bể Thận – Thận viêm là một, gồm các triệu chứng:
+ Dấu hiệu nhiễm khuẩn khu trú vào vùng Thận:
. Sốt, có khi cao 39-400, có khi cơn rét run.
. Đau vùng Thận một bên (1/3 trường hợp) hoăïc cả hai bên (2/3 trường hợp).
+ Tiểu gắt, tiểu đục: gặp trong 50% tường hợp. Tiểu gắt là kết quả của phản ứng của bàng quang, do bàng quang bị viêm.
+ Nước tiểu đục. Trường hợp nặng nước tiểu đục như nước thịt luộc. Tiểu đục rất thất thường, có khi chỉ xuất hiện một vài lần hoặc một buổi sáng, sau đó nước tiểu lại trong.
+ Tiểu ra Protein: khoảng 80-90% trường hợp bể thận – thận viêm có tiểu ra protein nhẹ, từ 40-50mg% đến 150-300mg%, ít khi quá 300mg% (3g/lít).
+ Tiểu ra bạch cầu: Là dấu hiệu thường gặp nhất trong trường hợp cấp tính. Thường là 5-7 triệu đến 10 triệu bạch cầu trong 24 giờ. Bệnh nặng có thể thấy những tế bào mủ.
+ Tiểu ra hồng cầu: Thường gặp do sỏi thận nhiều hơn.
Tiến Triển
Bệnh biến chuyển theo hai hướng:
+ Nếu không có tổn thương tại chỗ do sỏi, do tắc, bệnh thường khỏi sau 2-4 tuần.
+ Nếu ứ tắc, bệnh thường dẫn đến mạn tính, tiến triển lúc thì âm thầm, có khi bột phát kéo dài hàng chục năm hoặc 20-30 năm.
Biến Chứng
. Một số ít trường hợp nặng có thể gây viêm mủ thận, viêm tấy quanh thận hoặc áp xe thận.
. Biến chứng lâu dài gây nên xơ, teo thận.
BỂ THẬN VIÊM CẤP
Đại cương
Là một bệnh nhiễm khuẩn vào tổ chức kẽ của Thận, vì vậy, còn gọi là Viêm Thận Kẽ.
Đông y xếp vào loại ‘Nhiệt Lâm’, ‘Yêu Thống’.
SaÙch ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ viết: ‘Lâm bệnh, tiểu ra như nước vo gạo, bụng dưới đau cứng, lan đến giữa rốn’.
Trên lâm sàng cho thấy đa số thuộc thực chứng, nhiệt chứng.
Nguyên Nhân
Vi khuẩn có thể xâm nhập vào Thận theo hai đường chính:
a- Đường máu: Do các ổ nhiễm khuẩn địa phương như Amidal viêm, xoang viêm,bệnh ở răng miệng, ruột dư, túi mật, bệnh đường ruột... từ đó chuyển vào thận.
b- Đường ngược chiều: Từ một viêm nhiễm đường sinh dục, tiết niệu dưới lan lên: tử cung viêm, âm đạo viêm, bàng quang, tiền liệt tuyến...
c- Đường hạch bạch huyết ít gặp xẩy ra.
Bệnh thường xẩy ra trên cơ sở đã có một tổn thương địa phương ở bể thận như sự ứ nghẽn nước tiểu gây tắc, giãn đài thận, bể thận... phụ nữ có thai, tử cung đè vào niệu quản hai bên, sỏi bể thận, đài thận, niệu quản...
Vi Khuẩn: Đứng hàng đầu là E. Coli 40-70%, Tụ cầu khuẩn, Liên cầu khuẩn...
Thường có liên hệ với Thận và Bàng quang. Thận hư, Bàng quang có thấp nhiệt là nguyên nhân chủ yếu gây nên bệnh.
Đa số do ăn các thức ăn cay, nóng, nhiều chất béo hoặc uống rượu nhiều quá, sinh ra nhiệt, dồn xuống hạ tiêu gây nên bệnh. Hoặc do bộ phận sinh dục bị rối loạn, uế trọc xâm nhập vào bàng quang, gây nên thấp nhiệt, thấp nhiệt làm cho khí hóa bị ngăn trở, đường tiểu không thông lợi khiến cho tiểu buốt, tiểu nhiều, đau, tiểu ra máu.
Triệu Chứng
a- Dấu hiệu nhiễm khuẩn khu trú vào vùng Thận:
+ Sốt, có thể cao đến 39-40o, có khi có cơn rét run.
+ Đau vùng thận một bên hoặc cả hai bên.
b- Tiểu đục, tiểu gắt (50% trường hợp)
c- Tiểu ra protein: 80-90%. Trường hợp tiểu ra protein nhẹ thì từ 40-50mg% đến 150-300mg%, ít khi quá 300mg% (tức 3g/lít nước tiểu), thường dưới 5g/24 giờ. Trong trường hợp cấp tính mức protein thường trên dưới 300mg%.
d- Tiểu ra bạch cầu: là dấu hiệu phổ biến nhất trong trường hợp cấp tính.
+ Tiểu ra hồng cầu (máu), ít phổ biến hơn.
Điều Trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, lợi niệu, thông lâm.
Có thể chọn dùng một số bài sau đây:
+ Thận Vu Thanh Giải Thang (Thiểm Tây Trung Y Tạp Chí 1989, (11): 491): Bạch đầu ông, Liên kiều, Hoạt thạch đều 30g, Hoàng bá, Mộc thông, Biển súc, Cù mạch, Phục linh đều 15g, Hoàng liên, Cam thảo (sống) đều 10g. Sắc uống. Điều trị 14-90 ngày.
TD: Thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp.
Đã trị 67 ca, nam 12, nữ 55.tuổi từ 12 đến 67. Trong đó, cấp tính 45 ca, mạn tính 22. khỏi hoàn toàn 21 (cấp tính 16, mạn tính 5). Có hiệu quả 24 (cấp 19, mạn 5). Có chuyển biến 18 (cấp 9, mạn 9). Không hiệu quả 4 (cấp 1, mạn 3). Đạt tỉ lệ 94%.
+ Bát Chính Ô Linh Thang (Hồ Bắc Trung Y Tạp Chí 1991: 6, 16): Thổ phục linh 30g, Cù mạch 20g, Biển súc, Xa tiền tử, Hoạt thạch đều 18g, Mộc thông 12g, Đăng tâm thảo 5g, Ô dược. Sơn chi (sao), Đại hoàng (sống) đều 10g. Sắc uống. Cứ 6 giờ uống một lần.
TD: Thanh lợi thấp nhiệt. Trị bí tiểu cấp tính do viêm nhiễm.
Đã trị 60 a, nam 24, nữ 36. Tuổi từ 6 đến 64. có dấu hiệu sợ lạnh, sốt 38-39,5oC, lưng đau, bụng dưới trướng đau, tiểu nhiều, đường tiểu sưng, đau, rát hoặc tiểu ra máu hoặc tiểu ra sỏi. Vùng Thận đau. Xét nghiệm nước tiểu có albumin, bạch cầu, hồng cầu. Sau khi uống thuốc, khỏi 45 ca, có chuyển biến 12, không kết quả 3. Đạt tỉ lệ 95%. Thuốc uống ít nhất 5 ngày, nhiều nhất 45 ngày. Trương hợp mạn tính, phải uống trên 10-15 ngày mới thấy có kết quả.
+ Thông Lâm Lợi Thấp Thang (Hắc Long Giang Trung Y dược 1986, (5): 11): Ngân hoa, Biển súc đều 30-50g, Vu căn, Tây qua bì, Hoàng qua bì đều 50g, Liên kiều, Thạch vi đều 15-30g, Hoàng bá 25g, Tỳ giải 15g, Bạch khấu nhân (cho vào sau), Mộc thông, Cam thảo đều 10g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, giải độc, thông lâm, lợi thấp. Trị bể thận viêm cấp.
Đã trị 160 ca. Khỏi 86 (53,7%), có
kết quả 52 (32,5%), không kết quả 22 (13,8%). Tỉ lệ chung đạt 86,2%. Thuốc uống ít nhất 3 ngày, nhiều nhất 11 ngày, trung bình 7 ngày. Những bệnh nhân có sốt, sốt hạ khoảng 2-6 ngày, trung bình 4 ngày. Xét nghiệm nước tiểu thấy trở lại bình thường vào 4 – 38 ngày, trung bình 22 ngày. Thời gian hết nhiễm khuẩn 8-36 ngày, trung bình 20 ngày. Thuốc uống trung bình 12 ngày.
+ Tiêu Viêm Giải Độc Thang (Sơn Đông Trung Tạp Chí): Cù mạch, Biển súc, Mộc thông, Xa tiền tử(cho vào bao)û đều 12g, Thạch vi 15g, Hổ phách (cho vào bao) đều 6g, Đam trúc diệp 10g, Cam thảo 6g, Bồ công anh 20g, Liên kiều 12g, Ngư tinh thảo, Thổ phục linh đều 30g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, thông lâm. Trị bể thận viêm cấp.
+ Hổ Phách Đạo Xích Tán (Quảng Tây Trung Y Dược 1991: 3, 104): Hổ phách 10g, Sinh địa 30g, Mộc thông 12g, Trúc diệp 15g, Cam thảo 6g. Hổ phách để riêng, các vị kia sắc còn 300ml nước, bỏ bã, thêm Hổ phách vào, quấy uống.12 ngày là một liệu trình. Không uống nước trà và thức ăn cay, nóng.
TD: Thanh Tâm hỏa, lợi tiểu tiện. Trị bể thận viêm cấp.
Đã trị trên 100 ca. Khỏi 82, chuyển biến tốt 13, không kết quả 5.Uống ít nhất 4 thang, nhiều nhất 12 thang.
+ Hàn Thông Nhị Đinh Bán Thang (Thượng Hải Trung Y Dược Tạp Chí 1989: 11, 11): Hoạt thạch (bọc lại, sắc trước), Tử hoa địa đinh, Hoàng hoa địa đinh đều 30g, Hàng thược, Bán chi liên đều 15-30g, Tri mẫu 12-24g, Hoàng bá 10-15g. Sắc uống
BỂ THẬN VIÊM MẠN
Là bệnh phổ biến nhất trong các loại bệnh Thận. Đây cũng là bệnh nhiễm khuẩn thường gặp ở mọi lứa tuổi sau khi bị viêm phổi.
Bể Thận – Thận viêm thường bị cả hai bên, ít khi bị một bên nhưng mức độ tổn thương ở hai bên khác nhau, có khi một bên thận bị xơ, teo, bên kia vẫn hoạt động bình thường. Là một quá trình viêm mạn thành từng ổ: bên cạnh ổ mới, có những ổ cũ bị xơ hóa xâm lấn vào tổ chức thận. Rõ nét nhất là sự xâm lấn vào tế bào, lympho bào và tổ chức kẽ của thận, gây xơ hóa tổ chức kẽ của thận và tổ chức xơ xâm lấn chèn ép làm đảo lộn cấu trúc thận.
Đông y xếp vào loại ‘Lao Lâm’, ‘Yêu Thống’, ‘Hư Tổn’.
Đông y gọi là ‘Mạn Tính Thận Vu Thận Viêm’.
Nguyên nhân
Theo Đông y, Thận và bàng quang có quan hệ biểu lý với nhau, nếu tạng bị hư tổn thì phủ cũng bị ảnh hưởng theo và ngược lại. Chứng nhiệt lâm (bể thận viêm cấp) điều trị lâu ngày không khỏi hoặc do cơ thể vốn bị suy nhược, thấp nhiệt và tà khí ở trong, ứ huyết tích tụ lại gây nên tiểu nhiều, tiểu gắt, tiểu buốt, lưng đau. Nếu thấp nhiệt nung nấu lâu ngày sẽ làm hao tổn tân dịch, làm tổn thương chính khí, trên lâm sàng sẽ xuất hiện dấu hiệu thận âm bất túc. Nếu Tỳ Thận đều hư sẽ gây nên chính khí suy, tà khí thịnh.
Triệu chứng:
+ Đa số tiến triển âm thầm, triệu chứng rất sơ sài khiến cho người bệnh dễ bỏ qua.
+ Thỉnh thoảng sốt nhẹ, ngang thắt lưng đau, người mỏi mệt.
+ Thỉnh thoảng tiểu buốt, tiểu gắt, có khi không điều trị cũng khỏi.
+ Khoảng 1/3 số trường hợp thường có kèm các đợt cấp tính, sốt cao, đau vùng Thận hai bên hoặc một bên, tiểu đục. Triệu chứng giống như trong trường hợp viêm cấp nhưng chỉ là một đợt cấp trên gốc bệnh viêm mạn.
+ Dấu hiệu tương đối rõ nhất là ba dấu hiệu chính khi xét nghiệm gồm:
. Nước tiểu có vi khuẩn.
. Tiểu ra bạch cầu, thường trên 4 triệu bạch cầu trên 24 giờ.
. Tiểu ra protein: thường chỉ từ 50-200mg% (0,5 đến 2g) / lít nước tiểu.
Tiến Triển
Tiến triển dai dẳng hàng chục năm, có khi 29-30 năm. Có khi gây nên:
. Huyết áp cao tiến triển theo bể thận – thận viêm, nặng dần dẫn đến suy thận.
. Thận bị xơ, teo, mất chức năng hoạt động, năng thì phải cắt bỏ bên teo.
. Thận suy từng đợt: nặng nhất là giảm khả năng cô đặc nước tiểu, tiến triển trong nhiều năm trước khi bị suy thận hoàn toàn.
Thường dùng phép công và bổ cùng lúc.
Bệnh mới phát, dùng phép Thanh nhiệt, lợi thấp, lợi niệu thông lâm, hoạt huyết hóa ứ. Khi bệnh đã ổn định, dùng bổ Tỳ, ích Thận để tăng sức đề kháng đối với bệnh.
Có thể dùng một số bài thuốc sau:
Thanh Hóa Thang (Trung Quốc Hương Tài Y Sinh Tạp Chí 1993: 4, 39):Xích thược, Xuyên khung, Ngưu tất. Đương quy vĩ, Xuyên sơn giáp (nướng) đều 6g, Xa tiền tử, Tây thảo 9g, Bạch mao căn 15g. Sắc uống 1 tuần.
TD: Thanh nhiệt, khứ thấp, hoạt huyết, hóa ứ. Trị bể thận viêm mạn.
Đã trị 42 ca, toàn bộ đều là nữ giới. Tuổi từ 21-62. Bệnh từ 3-18 năm. Tất cả đã được Tây chẩn đoán là bể thận viêm mạn tính. Uống thuốc này 3-5 thang nhiều lắm cũng không quá 6 thang đều khỏi. Đạt tỉ lệ 96%.
Thanh Lâm Thang (Hắc Long Giang Trung Y Dược 1991: 3, 16): Hoàng bá 30g, Ngân hoa 60g, Hoàng cầm 20g, Ngưu tất 12g. Sắc uống.TD: Thanh nhiệt giải độc. Trị bể thận viêm và mạn tính.
Đã trị 185 ca cấp tính. Khỏi 166, có hiệu quả 13, có chuyển biến 4, không kết quả 2. Tổng kết đạt 98,91%.
Có 49 ca mạn tính, khỏi 19, có hiệu quả 17, có chuyển biến 9, không kết quả 4. đạt tỉ lệ 87,25%.
Phù Chính Hoạt Huyết Phương (Trung Cấp Y San 1991: 11, 61): Hoàng kỳ (sống) 20g, Đương quy (toàn), Thân thảo, Đan sâm đều 15g, Xuyên khung 10g, Thảo hồng hoa 12g. Sắc uống.
TD: Phù chính, hoạt huyết. Trị bể thận viêm mạn tính.
Trị 31 ca. Tuổi từ 21 – 70. bệnh từ 3 năm trở lên. Kết quả khỏi hoàn toàn 17, có kết quả 10, có chuyển biến 3, không kết quả 1. Đạt tỉ lệ 96,8%.
Dưỡng Âm Thông Lâm Phương (Hồ Băcs Trung Y Tạp Chí 1992: 6, 18): Sơn dược, Cù mạch, Xa tiền tử đều 30g, Sinh địa, Phục linh đều 15g, Đơn bì 10g, Mộc thông, Cam thảo sống đều 5g. Sắc uống. 10 ngày là một liệu trình.
TD: Dưỡng âm, thông lâm. Trị nhiễm trùng đường tiểu nơi người lớn tuổi.
Đã trị 53 ca. Nam 4, nữ 49. tuổi từ 50trơr lên. Bệnh từ 2 năm đến 15 năm. Đều có tiểu buốt, tiểu gắt, tiểu nhiều, sốt, lưng đau. Xét nghiệm thấy có bạch cầu, có vi khuẩn 37 ca. Kết quả: khỏi 42, có kết quả 5, không kết quả 6. Đạt tỉ lệ 88,7%.
Thông Lâm Hóa Trọc Thang (Trung Y Tạp Chí, 1989: 9, 22): Tỳ giải, Thạch xương bồ, Hoàng bá, Thạch vi đều 15g, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Thổ bối mẫu, Ngưu tất đều 10g, Mã bột 5g, Yết vĩ (tán nhuyễn, hòa vào thuốc uống) 1g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt lợi thấp, phân thanh hóa trọc. Trị nhiễm trùng đường tiểu mạn tính.
BỆNH TUYẾN VÚ
Đại Cương
Bệnh của vú là những bệnh phát sinh ở bầu vú thường gặp trong ngoại khoa Đông y; người xưa và trong dân gian có nhiều kinh nghiệm trong điều trì, chúng ta cần tham khảo.
Sự Quan Hệ Giữa Kinh Lạc Và Tuyến Vú
Tuyến vú ở vào vị trí khoảng trước xương sườn ngực 3 và 6.
Theo Y họccổtruyền thì vú là nơi hội tụ của các kinh lạc như kinh dương minh vị, kinh Thái âm Tỳ, kinh Quyết âm Can, kinh Thiếu âm Thận đều từ chân lên ngực có nhánh vào vú, 2 mạch Xung Nhâm cũng từ bào cung đi qua bụng, rốn lên ngực và có
phân nhánh vào tuyến vú. Người xưa cũng cho là nam giới, đầu vú thuộc can, bầu vú thuộc thận, nữ giới thì đầu vú thuộc Can còn bầu vú thuộc Vị, và như vậy là vú có quan hệ mật thiết với các kinh Can, Vị, Thận và 2 mạch Xung, Nhâm.
Sự Quan Hệ Giữa Tạng Phủ Và Tuyến Vú
Kinh lạc là bắt nguồn từ tạng phủ và đi ra bề mặt cơ thể, cho nên các tạng phủ có kinh lạc thông với vú tất nhiên là có quan hệ với tuyến vú. Thận là vốn của tiên thiên và Tỳ là nguồn của hậu thiên, cho nên sự phát triển của tuyến vú là không thể tách rời 2 tạng Tỳ Thận. Sữa do tinh chất của thức ăn tạo thành, Tỳ Vị có khỏe sữa mới có nhiều. Can chủ sơ tiết. Và chi phối tiết sữa, Can khí mà không thư thái thì việc tiết sữa cũng bị hạn chế.
Nguyên Nhân Và Cơ Chế Sinh Bệnh Tuyến Vú Theo Y HọcCổTruyền
Sự quan hệ giữa tạng phủ, kinh lạc và tuyến vú rất mật thiết cho nên các yếu tố làm tắc nghẽn kinh lạc, gây rối loạn chức năng tạng phủ đều có thể gây bệnh tuyến vú. Những nguyên nhân thường gặp có:
+ Can Thấp Nhiệt: do Can khí không thông đạt, ăn nhiều chất béo mỡ gây tích nhiệt ở Tỳ Vị, kinh lạc không thông, khí trệ huyết ứ lâu ngày hóa nhiệt gây bầu vú sưng nóng đỏ đau, làm mủ thường kèm theo sốt, sợ lạnh, miệng khát muốn uống, tiểu ít, nước tiểu vàng đậm, chất lưỡi đỏ, rêu trắng hoặc vàng, mạch Huyền Sác. Trường hợp nhũ ung, nhũ phát thường gặp thể bệnh này.
+ Can Khí Uất Kết: người thường tức giận lo lắng, Can khí không được thư thái sinh khí trệ huyết ứ, Can uất làm ảnh hưởng đến sự vận hóa của Tỳ, Tỳ rối loạn thì đờm trọc nội sinh, khí trệ đờm ứ liên kết với nhau thành khối u, mặt thường nhẵn, cứng di động hoặc không, kèm theo bứt rứt, dễ bực bội, kinh nguyệt không đều, chất lưới đỏ, rêu trắng mỏng, mạch Huyền Hoạt. Thường gặp trong các chứng nhũ tích, nhũ nham.
+ Can Thận Bất Túc: có thể do tiên thiên bất túc hoặc hậu thiên mất cân bằng, sinh đẻ quá nhiều gây nên Can Thận hư tổn, hai mạch Xung Nhâm mất điều hòa, tinh huyết thiếu, thủy không dưỡng được mộc khiến cho Can hỏa vượng lên nung nấu tân dịch thành đờm, đờøm kết thành hạch, thường phát triển có liên quan đến kinh nguyệt và thai nghén. Triệu chứng: đau tức tăng trước lúc có kinh, kèm theo chóng mặt ù tai, lưng đau gối mỏi, kinh nguyệt không đều, lưới đỏ rêu trắng mỏng, mạch Huyền Tế Sác. Thường gặp trong trường hợp nhũ tích, nhũ lịch.
+ Âm Hư Đờm Ngưng: do Phế Thận âm hư sinh hỏa vượng, đốt tân dịch thành đờm, đờm kết tụ ở vú sinh khối u. Thường sắc da không thay đổi, hơi đau, phát triển thành mủ chậm, nước mủ loãng trong, thường kèm theo sốt chiều, đêm ra mồ hôi trộm, người gầy ăn ít, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch Tế Sác. Thường gặp trong chứng Nhũ lao có liên quan với chứng Phế âm hư.
+ Độc Tà Ngoại Nhập: do chính khí suy, hoặc do xây xát ngoài da, do đầu vú lõm dễ nhiễm ngoại tà sinh bệnh, hoặc do trẻ bú trong miệng có độc nhiễm phải gây nên chứng Nhũ ung, Nhũ phát.
Những Điều Cần Chú Ý Lúc Khám Vú
Khám vú là khâu quan trọng để phát hiện bệnh của vú mà phương pháp chủ yếu là nhìn và sờ nắn.
1. Cách nhìn: Để bệnh nhân ngồi hoặc đứng ngay ngắn, cởi áo bộc lộ vú đầy đủ. Lúc nhìn chú ý vị trí của bầu vú to nhỏ những điểm khác thường, đầu vú lõm lồi, mầu da của vú, dùng tay nâng bầu vú lên hoặc bảo bệnh nhân đưa cao cánh tay lên đầu để khám. Có thể so sánh vú cả hai bên để phát hiện sự khác thường.
2. Cách sờ nắn: bệnh nhân có thể ở tư thế ngồi, nằm hoặc kết hợp cả hai. Khám bên lành trước, bên bệnh sau để dễ phát hiện bệnh lý. Tốt nhất là dùng phần bụng của 4 ngón tay khép lại áp sát vào da của vú, ấn với độ nặng nhẹ khác nhau để phát hiện độ cứng mềm, tính chất khác nhau của khối u. Khám lần lượt bầu vú đến quầng vú và núm vú và chú ý xem có nước chảy ở đầu vú không.
Những điều cần chú ý lúc sờ nắn vú:
a- Khám bầu vú tốt nhất là sau khi thấy kinh 7-10 ngày là lúc mà trạng thái sinh lý của tuyến vú tương đối ổn định, có hòn cục dễ phát hiện.
b- Phát hiện khối u ở bầu vú cần hiểu rõ vị trí, to nhỏ, hình thái, độ cứng, độ đau, độ di động, bề mặt của khối u.
c - Cần kiểm tra tình hình hạch lym phô ở hố nách, hố thượng đòn và hố hạ đòn.
d - Cần kết hợp với độ tuổi, tiền sử bệnh và các mặt khám xét khác để xác định chẩn đoán.
Các Phương Pháp Điều Trị Bệnh Tuyến Vú
Phương Pháp Điều Trị Nội Khoa
+ Giải Biểu Tiêu Độc: dùng cho chứng nhũ ung giai đoạn mới phát, có triệu chứng sốt, sợ lạnh, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù Sác. Bài thuốc thường dùng: Qua Lâu Ngưu Bàng Thang (Qua lâu, Ngưu bàng tử, Thiên hoa phấn, Hoàng cầm, Trần bì, Chi tử, Tạo giác thích, Kim ngân hoa, Thanh bì, Sài hồ, Cam thảo, Liên kiều), Ngân Kiều Tán (Kim ngân hoa, Liên kiều, Ngưu bàng tử, Cát cánh, Bạc hà, Trúc diệp, Kinh giới, Đạm đậu xị, Sinh cam thảo, Lô căn tươi).
+ Thanh Nhiệt Giải Độc: dùng cho chứng nhũ ung, nhũ phát dạng nhiệt độc thịnh, giai đoạn làm mủ. Có triệu chứng nóng sốt, khát nước, táo bón, nước tiểu vàng đậm, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác. Dùng bài Hoàng Liên Giải Độc Thang, Nội Sơ Hoàng Liên Thang (Binh lang, Mộc hương, Chi tửû, Liên kiều, Bạc hà, Hoàng cầm, Hoàng liên, Cam thảo, Cát cánh, Đại hoàng, Đương quy, Bạch thược).
+ Thác Lý Thấu Nùng: dùng cho bệnh nhân cơ thể suy nhược, khí huyết hư,, làm mủ khó vỡ hoặc vỡ mủ ra nước trong loãng, miệng nhọt bằng, sưng, khó liền miệng, môi lưỡi đỏ nhợt, mạch Trầm Tế vô lực. Dùng bài Thác Lý Thấu Nùng Thang (Nhân sâm, Bạch truật, Sơn giáp, Bạch chỉ, Thăng ma, Đương quy, Cam thảo, Hoàng kỳ, Tạo giác thích, Thanh bì), hoặc bài Thác Lý Tiêu Độc Tán.
+ Giải Uất Hóa Đờm: dùng cho chứng bệnh tinh thần không thư thái, can khí uất khiến chức năng tỳ rối loạn, đờm khí kết tụ sinh bệnh nhũ trung kết hạch như Nhũ tích, Nhũ lịch, Nhũ nham..., dùng các bài Tiêu Dao Tán hợp Tiểu Kim Đơn.
+ Bổ Ích Phù Chính: dùng cho chứng Nhũ nham, Nhũ lao sau khi loét, sắc mặt kém tươi nhuận, khó thở, mệt mỏi, chán ăn, môi lưỡi nhợt, mạch Tế vô lực hoặc sốt chiều ra mồ hôi, váng đầu, ù tai, chất lưỡi đỏ, mạch Tế Sác; Hoặc người mát, chân tay lạnh, đại tiện lỏng, lưỡi đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Trì; Hoặc Nhũ ung, Nhũ phát, Nhũ lao đã vỡ, khí huyết đều hư; thường dùng bài Dưỡng Vinh Thang, Quy Tỳ Thang. Trường hợp Can Thận bất túc, chọn dùng các bài Tả Qui Hoàn, Hữu Qui Hoàn, Lục Vị Địa Hoàng Hoàn, Nhị Tiên Thang (Tiên mao, Tiên linh tỳ, Đương qui, Ba kích, Tri mẫu, Hoàng bá).
Phương Pháp Điều Trị Tại Chỗ
+ Phương Pháp Dán Thuốc: Đối với các chứng như Nhũ ung, Nhũ phát thuộc dương chứng, nên thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, tiêu thũng. Dùng Kim Hoàng Tán, Ngọc Lộ Tán, Song Bá Tán trộn với nước hoặc mật đắp ngoài, ngày dùng 1-2 lần. Lúc vỡ mủ rồi dùng các bài Bát Nhị Đơn, Cửu Nhất Đơn. Sau khi mủ ra gần hết, trường hợp hết mủ, dùng Sinh Cơ Tán, Sinh Cơ Ngọc Hồng Cao. Đối với những trường hợp ung thư, nên ôn kinh hòa dương, hóa đờm, thông lạc, tiêu thũng, chỉ thống, nên dùng Dương Hòa Giải Ngưng Cao, Thấm Hắc Thối Tiêu, Quế Xạ Tán v.v...
+ Điều Trị Bằng Phẫu Thuật: rạch da tháo mủ (đối với chứng Nhũ ung, Nhũ phát giai đoạn làm mủ), phẫu thuật ngoại khoa (đối với chứng u xơ hoặc ung thư vú).
BỎNG
Đại Cương
Bỏng là tổn thương do tác dụng trực tiếp của các yếu tố vật lý (nhiệt, bức xạ, điện…) và hoá học gây ra trên cơ thể. Da là bộ phận thường bị tổn thương nhất khi bị bỏng, kế đến là các lớp sâu dưới ga (cân, cơ, xương, khớp, mạch máu, thần kinh) và một số cơ quan (đường hô hấp, ống tiêu hoá, bộ phận sinh dục)…
Theo YHHĐ, từ ‘Bỏng’ lần đầu tiên được nhắc đến trong tập ‘Corpus Hipocraticum’ của Hipocrate. Từ năm 1938, Wilson đề xuất dùng tên gọi bệnh bỏng.
Tại Việt Nam, danh y Tuệ Tĩnh đã phân loại bỏng nước sôi, bỏng lửa và trong ‘Nam Dược Thần Hiệu’ ghi lại 19 phương thuốc trị bỏng đơn giản.
Trong ‘Hành Giản Trân Nhu’ của Hải Thượng Lãn Ông ghi 6 phương thuốc trị bỏng nước sôi, bỏng lửa, bỏng dầu sôi.
Trẻ nhỏ dưới 5 tuổi bị bỏng chiếm 33-35%, trẻ dưới 16 tuổi chiếm 57-65%.
Đông y gọi là Nãng Thương.
Trên lâm sàng, các sách giáo khoa Đông y phân làm ba loại chính là Thuỷ Nãng (Bỏng nước), Du Nãng (Bỏng do dầu), Thiêu Thương (Bỏng do hơi nóng, lửa…). Bỏng nước nhẹ nhất, bỏng do dầu nặng hơn, còn bỏng lo nhiệt nặng nhất.
Tác Nhân Gây Bỏng
+ Bỏng Do Nhiệt: thường gặp nhất, chiếm 84-93%. Chia thành hai nhóm: Nhóm do nhiệt khô (lửa, tia lửa điện, kim loại nóng chảy…) chiếm 27-32% và nhóm do nhiệt ướt (nước sôi, thức ăn nóng sôi, dầu mỡ sôi, hơi nước nóng…) chiếm 53-61%.
+ Bỏng Do Dòng Điện chia thành hai nhóm: Do luồng nhiệt có hiệu điện thế thông dụng (dưới 1000 volt) và do luồng điện có hiệu điện thế cao (trên 1000 volt). Sét đánh cũng gây bỏng do luồng điện có điện thế cao.
+ Bỏng Do Hoá Chất (2,3-8%): gồm các chấy oxy hoá, chất khử oxy, chất gặm mòn, chất gây độc cho bào tương, chất làm khô, chất làm dộp da. Trên lâm sàng được chia thành hai nhóm: Nhóm Acid acids Sulfuric, Nitrics, Chlohydric…) và nhóm Chất Kiềm (NaOH, KOH, NH4OH…). Bỏng do vôi là loại bỏng vừa do sức nhiệt vừa do chất kiềm (8,5-11,6%)
+ Bỏng Do Bức Xạ: tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia Laser…
ngoài ra, còn có bỏng do Nhựa đường, tai nạn giao thông…
Trong bỏng nhiệt, khi mô tế bào bị nóng đến 43o-450C, sự sống của tế bào bị đe doạ. Nếu nóng đến 46-47oC, lượng Adenosin Triphotphat (ATP) giảm 50%. Nếu nóng đến 50oC thì tổn thương còn có thể phục hồi, nóng từ 50-60oC thì các thành phần Protein bị biến thoái, không thể phục hồi. Nếu nóng đến 60- 70oC thì mô tế bào bị hoại tử ngay khi tác nhân nhiệt tiếp xúc. Những vùng gần chỗ bị bỏng xuất hiện các rối loạn tuần hoàn máu và bạch mạch, tạo nên các men tiêu huỷ Protein.
Phân loại
Bỏng được chia làm ba loại:
+ Bỏng độ I: Da đỏ lên, chỉ ảnh hưởng đến lớp da ở nông nhất, vết bỏng lành nhanh nhưng da bị tổn thương có thể tróc ra sau đó vài ngày. Rám nắng được xếp vào loại bỏng độ 1.
+ Bỏng độ 2: Da bị tổn thương sâu hơn, tạo bóng nước. Tuy nhiên một phần chân bì (phần sâu của da) vẫn còn nên da có thể tái tạo lại được. Vì vậy, bỏng độ 2 thường lành, không để lại sẹo, trừ khi diện tích bỏng quá rộng.
+ Bỏng độ 3: Huỷ hoại toàn bộ bề dầy của da. Vùng da bỏng có mầu trắng hoặc cháy sém. Nếu bỏng sâu có thể tới cơ và xương.
Bề sâu của vết bỏng tuy quan trọng cho việc vết bỏng thành sẹo tốt hoặc xấu nhưng chính bề mặt vết bỏng là yếu tố quan trong quyết định việc biến chuyển toàn thân của người bỏng: bề mặt da bị bỏng càng rộng càng nguy hiểm cho tính mạng vì mất nhiều nước và đau nhiều. Bỏng chiếm trên 15% diện tích được coi là bỏng nặng.
Để đánh giá được tỉ lệ diện tích bỏng, cần biết qua cách phân chia diện tích cơ thể:
Đầu mặtcổ: 9%
Thân phía trước : 18%
Thân phía sau: 18%
Chi trên: 9% (mỗi bên)
Chi dưới: 18% (mỗi bên)
Vùng sinh dục: 1%
Tuy nhiên ở trẻ nhỏ có hơi khác:
Trẻ sơ sinh: đầu chiếm 19%. Trẻ một tuổi: đầu chiếm 17%. Như vậy trẻ nhỏ bị bỏng ở đầu sẽ bị nặng hơn.
Vùng Giải Phẫu
1 tuổi
5 tuổi
10 tuổi
15 tuổi
. Đầu + Mặt +Cổ
. Đùi (hai bên)
. Cẳng chân (hai bên)
17
(- 4) = 13
(- 3) = 10
(- 4) = 13
(+ 3) = 16
(+ 1) = 12
(- 3) = 10
(+ 2) = 18
(+ 1) = 12
(- 2) = 8
(+ 1) = 19
(+ 1) = 13
Có thể dùng chỉ số Frank để tiên lượng bỏng: Cứ 1% diện bỏng nông là 1 đơn vị, 1% diện bỏng sâu là 3 đơn vị. Khi chỉ số Frank từ 30 – 70 là sốc nhẹ. Chỉ số Frank 70-100 là sốc vừa, từ 110 trở lên là sốc nặng và rất nặng.
Ảnh Hưởng Và Biến Chứng
Bệnh bỏng được xác định khi diện bỏng từ 10-15% diện tích cơ thể trở lên hoặc khi có bỏng sâu (từ 3-5% diện tích trở lên). Chấn thương bỏng gây các rối loạn chức năng toàn thân và các biến đổi bệnh lý xuất hiện có tính chất quy luật từ khi bị bỏng cho đến khi khỏi hoặc chết.
+ Bỏng lan rộng độ 1: gây đau, bồn chồn, nhức đầu, sốt nhưng không nguy hiểm.
+ Bỏng độ 2 hoặc 3 trên 10% diện tích da, có thể bị sốc, mạch tăng, huyết áp hạ do cơ thể mất một lượng lớn dịch chứa Protein ở vùng bỏng. Sốc có thể gây chết nếu không điều trị kịp thời bằng
tà tụ lại lâu ngày uất hoá thành hoả, nhiệt tích bên trong cũng gây nên đau bụng.
Thiên ‘Cử Thống Luận’ (Tố Vấn 39) viết: “Nhiệt khí lưu ở Tiểu trường thì trong tiểu trường đau”.
+ Ăn Uống Không Điều Độ hoặc ăn những thức không sạch, hoặc ăn nhiều thức béo mỡ, cay nóng khiến cho thức ăn đình trệ không tiêu, nung nấu thành thấp nhiệt, hoặc nhiệt kết ở Trường Vị khiến cho đường ruột không thông, đều có thể gây nên đau bụng.
+ Do Trùng Tích: Trùng tích dẫn đến phúc thống, chủ yếu là giun đũa. Giun thường quấy rối trong ruột, hoặc chui lên ống mật làm cho khí huyết nghịch loạn gây đau.
+ Các Nguyên Nhân Khác: Hoặc thể chất vốn Tỳ dương suy yếu làm cho rối loạn sự vận hoá, hàn thấp đình trệ, khí huyết không đủ để ôn dương cũng dẫn đến đau bụng. Hoặc do tức giận, suy nghĩ quá, Can mất điều đạt, khí huyết bị uất kết, Can Vị không hoà mà làm cho đau. Hoặc sau khi tiến hành bị giải phẫu, cục bộ bị dính làm cho khí trệ huyết ứ cũng gây đau. Hoặc do kết thành sỏi tắc nghẽn, doanh vệ không thông, khí cơ không lợi cũng gây đau.
Biện Chứng
Căn cứ vào nguyên nhân bệnh, vị trí đau, tính chất đau để phân biệt tạng nào, kinh nào bị bệnh, biện chứng hàn nhiệt, hư thực v.v...
Nói chung, bụng đau thuộc nhiệt chứng, thực chứng thường không thích ấn vào, Hàn chứng, hư chứng thường thích xoa bóp. Do trùng tích thì vùng bụng đau dữ dội lúc đau lúc không. Do thực trệ thì vùng bụng cứng, bụng đầy, ấn vào đau. Do khí trệ thì vùng bụng chướng đau, đau không nơi cố định. Do huyết ứ thì vùng bụng đau nhói, nơi đau cố định không di chuyển.
Biện chứng theo bộ vị: bụng dưới hoặc hai bên sườn thuộc kinh Quyết âm, đau ở những vùng này phần nhiều thuộc bệnh ở Can và Đởm. Ở tiểu phúc và quanh rốn thuộc Thiếu âm kinh, đau ở vùng này phần nhiều là bệnh thuộc Tiểu trường, Thận và Bàng quang. Trung quản thuộc kinh Thái âm, đau ở chỗ này phần nhiều là bệnh ở Tỳ Vị.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Khí Trệ: Bụng trướng đau không nơi cố định, hoặc đau lan tới thiếu phúc, ngực khó chịu, ợ hơi, thường do tình chí thay đổi mà đau tăng, rêu lưỡi mỏng, mạch Huyền.
Biện chứng: Khí được lưu thông là thuận, khí trệ không thông, không thông thì đau, cho nên vùng bụng trướng khó chịu. Khí cơ thăng giáng không điều hoàø thì đau xiên nhói không cố định, vì thế đau không nơi cố định mà ngực khó chịu, ợ hơi thì dễ chịu, trung tiện được càng đỡ đau. Thiếu phúc (bụng dưới) là vùng thuộc Túc Quyết âm Can kinh, Can khí mất sơ tiết cho nên bụng dưới đau. Khí trệ thường do biến đổi về tình chí cho nên cơn đau cũng tuỳ lúc mà đau tăng. Huyền là mạch của Can, Can khí không thư thái, thì mạch phần nhiều Huyền.
Điều trị: chủ yếu phải thư Can, lý khí. Dùng bài Tứ Nghịch Tán.
(Sài hồ để sơ Can, lý khí, phối hợp với Chỉ thực để có sức phá trệ; Thược dược nhu Can chỉ thống, phối hợp với Cam thảo có tác dụng làm dịu cơn đau gấp).
Nếu đau sườn không khỏi, thêm Huyền hồ, Xuyên luyện tử. Nếu đau không ngớt, táo bón, thêm Sinh đại hoàng, Mang tiêu. Nếu đau bụng, tiêu chảy, thêm Bạch truật, Phòng phong, Mộc hương. Nếu ợ hơi, ứa nước chua, thêm Ngô thù, Hoàng liên. Thiếu phúc đau rút tới dịch hoàn, thêm Lệ chi hạch, Quất hạch, Tiểu hồi.
+ Huyết Ứ: Đau bụng kéo dài không khỏi, có khi đau dữ dội, đau cố định, ấn vào đau, chất lưỡi tím tối, mạch hơi Sắc.
Biện chứng: Đau lâu phạm vào đường Lạc, huyết ứ nghẽn lại cho nên đau có khi dữ dội và nơi đau cố định. Ứ huyết thuộc thực cho nên ấn vào đau hoặc chạm vào cũng đau. Chất lưỡi tím tối, mạch hơi Sắc là dấu hiệu có huyết ứ.
Điều trị: Hoạt huyết khử ứ. Dùng bài Thiếu Phúc Trục Ứ Thang.
(Quy, Khung, Xích thược, Bồ hoàng, Ngũ linh chi, Một dược để hoạt huyết khứ ứ. Phối hợp với Huyền hồ, Tiểu hồi để lý khí).
Nếu ứ ở dưới cách hoặc có khối u, nên thêm Đào nhân, Hồng hoa, Hương phụ và Chỉ xác. Khí trệ với huyết ứ, khí trệ bệnh ở nông, huyết ứ bệnh ở sâu; Lúc đầu khí bị trệ sau đó huyết bị ứ, huyết ứ lại thường kèm khí trệ. Vì vậy, chữa huyết ứ thường dùng thêm thuốc lý khí, làm cho khí lưu thông huyết cũng lưu thông. Điều trị khí trệ cũng có thể thêm thuốc lý khí hoạt huyết, như Uất kim, Huyền hồ, làm cho huyết lưu thông khí cũng lưu thông.
Trên lâm sàng rất ít gặp chứng bệnh khí trệ và huyết ứ đơn thuần; trong biện chứng nên chia rõ chủ, thứ để dùng thuốc. Có khi phải coi trọng lý khí hoặc coi trọng hoạt huyết khác nhau.
+ Nhiệt Chứng
Thường gặp hai loại hình thấp nhiệt và nhiệt kết.
+ Thấp Nhiệt: Phát sốt, đau bụng, chướng bụng, ấn vào đau, ngực khó chịu, biếng ăn, khát nước mà không muốn uống, hoặc tiêu chảy, lý cấp hậu trọng, hoặc hoàng đản, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sác hoặc Nhu Sác.
Biện chứng: Thấp nhiệt nung đốt cơ biểu cho nên phát nhiệt, nếu thấp nhiệt tích trệ trong ruột làm mất chức năng truyền đạo thì đau bụng, tiêu chảy kèm theo lý cấp hậu trọng. Thấp nhiệt nung đốt Can Đởm, Đởm trấp đi sai đường thì hoàng đản và đau sườn; Bụng trướng, cự án là do thấp nhiệt kèm có nội kết ứ trệ, nên ngực khó chịu và biếng ăn. Khát nước là nhiệt, vì thấp trọc nghẽn ở trong cho nên không muốn uống. Rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Sác hoặc Nhu Sác đều là dấu hiệu thấp nhiệt tà thịnh.
Điều trị: Thanh lợi thấp nhiệt.
. Thấp nhiệt tích trệ trong ruột, chủ yếu dùng bài Bạch Đầu Ông Thang.
. Thấp nhiệt nung đốt Cam Đởm, chủ yếu dùng bài Nhân Trần Cao Thang.
. Nếu đau bụng, trướng bụng, có thể thêm Huyền hồ, Mộc hương, Hương phụ v.v...
. Nếu nhiệt độc nhiều, sốt cao, khát nước, đau bụng dữ dội, có thể thêm Ngân hoa, Bồ công anh, Thổ phục linh, Đại hoàng v.v...
. Nếu nhiệt độc vào sâu tạng Tâm, vào phần Doanh gây hôn mê nói sảng, nặng hơn thì kinh quyết, có thể thêm An Cung Ngưu Hoàng Hoàn, Tử Tuyết Đơn v.v... Nếu muốn nôn, nôn mửa, không uống nổi thuốc, có thể trước tiên cho uống một ít Ngọc Khu Đơn, sau đó mới cho uống thuốc sắc được.
+ Nhiệt Kết: Đau bụng dữ dội, thành bụng căng cứng, táo bón, không trung tiện, vùng bụng hoặc bên phải bụng dưới sờ vào như có khối u, ấn vào đau, sốt cao, tự ra mồ hôi, nước tiểu ít, đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hồng Sác.
Biện chứng: nhiệt kết ở trong, khí huyết ứ trệ, đường ruột không thông, không thông thì đau cho nên bụng đau dữ dội, thành bụng co cứng, đại tiện táo, không trung tiện. Nhiệt kết trệ không tiêu tan, khiến cho máu thịt vữa nát thành mủ hoặc làm cho công năng truyền đạo ở Vị Trường thất thường, đến nỗi khí huyết bí kết, cho nên vùng bụng hoặc bên phải bụng dưới sờ thấy khối u. Nhiệt kết ở phần lý cho nên cự án. Sốt cao, tự ra mồ hôi, nước tiểu ít, đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hồng Sác v.v... đều là do Vị Trường thực nhiệt.
Điều trị: Chủ yếu phải thanh nhiệt công hạ. Dùng bài ‘Đại Hoàng Mẫu Đơn Thang’.
(Đại hoàng, Mang tiêu chú trọng vào thông phủ tiết nhiệt; Đào nhân, Đông qua tử trừ ứ tán kết, Đơn bì lương huyết giải độc. Có thể thêm Hậu phác, Chỉ thực để tiêu bỉ kết).
Nếu đau bụng hoặc bên phải bụng dưới sờ có khối u và cự án, cũng có thể chọn dùng Sinh Đại hoàng, Hậu phác, Hồng đằng. Bồ công anh; Bên ngoài đắp Đại toán, Mang tiêu, Đại hoàng v.v... Nếu vùng bụng có khối u, không trung tiện, có thể chọn dùng Hậu phác, Lai bặc, Chỉ thực, Sinh đại hoàng và Mang tiêu.
Đau bụng nhiệt chứng thường gặp ở loại đau cấp tính, bệnh thế rất gấp, bệnh tình tiến triển rất nhanh. Khi điều trị cần quan sát chặt chẽ và dùng thuốc kịp thời, khi cần, nên kết hợp với y học hiện đại.
+ Hàn Chứng: Cũng chia hai loại là Hàn thấp và Hư hàn.
+ Hàn Thấp: Sợ lạnh hoặc có khi sốt, đau bụng dữ dội đột ngột, không khát, tiểu tiện trong, ngực khó chịu, biếng ăn, cơ thể nặng, mỏi mệt, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Trầm Khẩn.
Biện chứng: Bên ngoài bị hàn tà làm tổn thương cho nên sợ lạnh hoặc có khi phát sốt. Hàn là âm tà, tính nó co rút, hàn phạm vào trong làm cho dương khí không thông, khí huyết bị nghẽn cho nên đau bụng đột ngột dữ dội. Miệng không khát, tiểu tiện trong là do ở trong có hàn thấp. Thấp trọc nghẽn ở trong, Tỳ dương không mạnh không vận hoá được cho nên ngực khó chịu và biếng ăn, cơ thể nặng, mỏi mệt, đại tiện lỏng, Rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Trầm Khẩn là dấu hiệu hàn thấp tà thịnh.
Điều trị: Tán hàn, táo thấp, phương hương hoá trọc. Dùng bài Hoắc Hương Chính Khí Tán.
(Trong bài dùng Hoắc hương để phương hương hoá trọc, phối hợp với Tử tô, Bạch chỉ để tán hàn, táo thấp; Hậu phác, Đại phúc bì để táo thấp trừ đầy; Phục linh, Bạch truật kiện Tỳ hoá thấp).
Nếu là bệnh nhẹ, cũng có thể dùng viên Hoắc Hương Chính Khí ngày 3 lần mỗi lần uống 4 viên. Nếu mùa Hạ ăn uống không điều độ làm tồn thương Tỳ Vị gây muốn nôn, nôn mửa, phát sốt không lui, có thể thêm Ý dĩ nhân, Bạch khấu nhân, Sa nhân, Biển đậu y. Nếu mùa hạ tà xâm phạm phần biểu, sợ lạnh không mồ hôi, có thể thêm Hương nhu, Đại đậu quyển.
+ Hư Hàn: Đau bụng liên miên, lúc đau lúc không, ưa nóng sợ lạnh, khi đau ưa xoa bóp, khi đói hoặc mệt nhọc đau tăng, đại tiện lỏng, kèm theo mỏi mệt, hơi thở ngăn, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầtn Tế.
Biện chứng: Đau bụng liên miên lúc đau lúc không, ưa nóng, sợ lạnh, khi đau ưa xoa bóp... đều là dấu hiệu hư hàn. Tỳ dương không mạnh cho nên đại tiện lỏng, ớn lạnh. Trung khí bất túc cho nên mỏi mệt, hơi thở ngắn. Lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Tế cũng thuộc triệu chứng hư hàn.
Điều trị: Cam ôn ích khí, trợ dương tán hàn. Dùng bài Tiểu Kiến Trung Thang.
(Trong bài có Quế chi phối hợp với Cam thảo để hoà lý, làm dịu cơn đau cấp tính. Nếu khí bất túc, thêm Hoàng kỳ để bổ khí; Huyết bất túc thêm Đương qui để dưỡng huyết. Nếu hư nghiêm trọng, đau bụng không đỡ. Có thể thêm Xuyên tiêu, Can khương hoặc Cao lương khương, Hương phụ để ôn trung tán hàn. Nếu trong rốn đau không chịu nổi, thích nóng và thích xoa bóp là Thận khí hư hàn, nên ôn Thận thông dương bằng các vị Phụ tử, Can Khương, Cam thảo và Thông bạch. Nếu bụng dưới lạnh đau hoặc 'co rút, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Khẩn là hạ tiêu bị nhiễm lạnh, khí của Quyết âm không sơ tiết, nên ôn Can tán hàn, dùng các vị Nhục quế, Tiểu hồi, Ô dược, Trầm hương. Nếu trong bụng đau như cắt, trong ngực và bụng nghịch đầy, nôn mửa là hàn tà nghịch lên, dùng Phụ tử, Bán hạ, Cam thảo, Đại táo, Ngạnh mễ để ôn trung hoà giáng.
+ Thực Trệ: Vùng bụng trướng đầy, đau và cự án, không thích ăn, ợ hăng, nuốt chua, muốn nôn, nôn mửa, táo bón hoặc tiêu lỏng, rêu lưỡi nhớt, mạch Hoạt Thực.
Biện chứng: Thức ăn cũ ứ đọng ở Vị Trường làm cho vùng bụng chướng đầy. Thực trệ thuộc thực chứng cho nên bụng đau, cự án. Ăn uống không điều độ, làm tổn thương Tỳ Vị cho nên ợ hăng, nuốt chua. Thức ăn tích chứa ở trong, Tỳ khí không thăng được, vị khí không giáng được, nên mới muốn nôn, nôn mửa, táo bón hoặc tiêu lỏng. Rêu lưỡi nhớt là triệu chứng thấp nghẽn trở và thực trệ. Mạch Hoạt là hiện tượng thực tích.
Điều trị: Hoà trung tiêu thực. Dùng bài Bảo Hoà Hoàn; Đây là phương thuốc tiêu thực hoá trệ, cũng có thể thêm các vị Mạch nha, Cốc nha, Kê nội kim.
Nếu vừøa mửa vừa tiêu chảy, có thể thêm thuốc phương hương hoá trọc như Hoắc hương, Bội lan. Nếu đầy bụng mà táo bón, có thể theo phép công hạ thông phủ như dùng các vị Hậu phác, Chỉ thực, Đại hoàng.
+ Trùng Tích: Bụng lúc đau, lúc không, vùng Vị quản nôn nao khó chịu, mặt vàng, cơ nhão, hoặc ngứa lỗ mũi, nghiến răng khi ngủ, phía trong môi có nốt như hạt tấm hoặc trên mặt có vết lang trắng. Cũng có khi đau bụng dữ dội đột ngột, sờ vào thấy khối u, hoặc đau dữ dội ở sườn, thậm chí vã mồ hôi, lạnh chân tay thành chứng Quyết, nôn mửa ra giun đũa. Cũng có khi đau và cự án vùng bụng phải và đùi phải co lại không duỗi ra được.
Biện chứng: Giun đũa quấy rối ở trong làm trong bụng nôn nao và đau. Giun yên thì đỡ đau. Giun ở trong ruột, hút chất tinh vi thuỷ cốc làm hại khí huyết cơ thể cho nên mặt vàng, gầy ốm. Kinh Thủ Dương minh Đại trường đi vào hàm răng dưới, vòng quanh môi đi kèm bên lỗ mũi; Đường kinh Túc Dương minh Vị bắt đầu từ mũi đi vào hàm răng trên. Giun ở Trường Vị do thấp nhiệt quấy rối theo đường kinh lạc nên nghiến răng, ngứa mũi, trong môi có nốt nhỏ. Hai đường kinh đều đi qua má, cho nên má có lang trắng. Tính của giun ưa kết tụ kín đáo, thích ngoi lên tụ lại thành khối làm nghẽn ruột, bế tắc không thông cho nên bụng có khối u, đau dữ dội. Nếu xuyên vào ruột thừa thì đau bụng bên phải, ấn vào đau; Đau thì làm cho gân mạch co rút lan toả xuống chi dưới, cho nên chân co lại mà không duỗi ra được. Vì giun chui vào ống mật, cho nên đau dữ dội ở sườn phải.
Điều trị: Chủ yếu khu trùng, tiêu tích. Dùng bài Sử Quân Tử Thang. Là bài thuốc khu trùng. Khổ luyện tử có thể đổi làm vỏ rễ Khổ luyện, có tác dụng trừ giun đũa rất tốt. Nếu giun chui vào ống mật, nên dùng Ô Mai Hoàn. Trong bài dùng Ô mai có vị chua Hoàng liên, Hoàng bá có vị đắng, giun đũa gặp chua thì yên, gặp đắng thì tụt xuống, lại dùng các vị Phụ tử, Can khương, Quế chi, Tế tân v.v... Vị cay để tán kết, tính ấm để giảm đau đồng thời có thể dùng loại thuốc tẩy giun. Nếu phát sốt, rêu lưỡi vàng nhớt, là do cảm nhiễm thấp nhiệt, nên dùng Hoàng liên, Sơn chi; Nặng hơn có thể dùng Hoàng liên, Hoàng Bá. Nếu thấp nhiệt ủng thịnh, xuất hiện hoàng đản, thêm Nhân trần, Đại hoàng v.v... Nếu giun kết lại thành búi, thành khối, có thể cho uống 60 - 100ml dầu Mè hoặc dầu Phộng sau đó mới cho uống thuốc tẩy giun.
Các loại chứng trên đây trong lâm sàng có thể chuyển hoá nhân quả lẫn nhau, xuất hiện xen kẽ, ví dụ khí trệ có thể dẫn đến ứ huyết; Huyết ứ có thể ảnh hưởng đến sự lưu thông của khí cơ; Hàn uất có thể hoá nhiệt, nhiệt chứng có thể cùng xuất hiện cả hàn chứng; Trùng tích thấy kiêm cả thực trệ, thực trệ lại có lợi cho giun ký sinh. Vì vậy trong biện chứng luận cần phải nắm chứng trạng chủ yếu, vấn đề đột xuất chủ yếu, để cùng phân tích sau đó mới tiến hành sử phương dùng thuốc.
BỆNH ÁN BỤNG ĐAU
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Nguỵ X, 11 tuổi, nữ.
Bệnh sử: Trước đây tám hôm thấy đau ở rốn, còn có thể chịu được, bốn hôm tiếp theo thấy chỗ đau chuyển đến bên phải, bụng dưới đau từng cơn, kèm theo muốn nôn, nôn mửa, về chiều phát sốt, đại tiện lỏng, ngày hai ba lần.
- Kiểm tra: Tình trạng cấp tính. Sốt 40oC, Mạch Huyền Sác, nhịp mạch 144 lần/phút. Chất lưỡi đỏ nhợt, rêu lưỡi vàng nhớt. Thành bụng bình thường, bụng dưới có điểm ấn đau nhẹ, ở bên phải bụng dưới có điểm ấn đau hơn, lớp da căng, toàn vùng bụng dưới có phản ứng đau, nghe thấy tiếng sôi bụng, Bạch cầu 34.200, Trung bình 88%. Chẩn đoán là thủng ruột thừa trên bệnh cảnh Viêm phúc mạc mạn tính.
- Dùng thuốc: Kim ngân hoa 80g, Bồ công anh 40g, Đại Hoàng 32g, Đơn bì 20g, Mộc hương 12g, Xuyên luyện tử 12g, Sinh cam thảo 12g, Đông qua nhân 40g. Sau khi vào viện được 1 ngày sốt bắt đầu giảm; Sang ngày thứ 2 giảm đau bụng, Số lần đại tiện nhiều hơn, cho đến ngày thứ 3. Sang ngày thứ 4 hết đau bụng, lớp da cũng hết căng cứng. Nằm viện 5 ngày thì khỏi và ra viện. Trước khi ra viện kiểm tra Bạch cầu còn 10.700; nhiệt độ bình thường, ăn uống tốt.
Nhận xét: Sốt cao không giảm, đau bụng cự án, rêu lưỡi vàng, nhớt, mạch Huyền Sác đó là Vị Trường thực nhiệt, nên dùng Đại Hoàng Mẫu Đơn Thang gia giảm để thanh nhiệt công hạ, phối hợp với Kim ngân hoa Bồ Công Anh để tăng cường tác dụng thanh nhiệt giải độc.
Trần X, nam, 43 tuổi.
Bệnh sử: Hai ngày nay đau vùng trên và giữa bụng có từng cơn đau dữ dội, đi bệnh viện. Muốn nôn, nôn mửa, ngực bụng trướng đầy, mình nặng, phát sốt, táo bón, nước tiểu vàng đỏ.
Xét nghiệm Tình trạng cấp tính, nhiệt độ 38,5oC. Vùng bụng trên có điểm ấn đau, lớp cơ không có cảm giác đau và mức độ căng thẳng, Mạnh Huyền Sác, rêu lưỡi vàng nhớt, chất lưỡi hơi đỏ, trong nước tiểu có cặn vẩn đục. Chẩn đoán là Viêm tuyến tuỵ cấp tính.
- Y án: Vùng bụng đau mà chướng đầy, lúc nóng lúc lạnh, cơ thể nặng nề, mệt mỏi, muốn nôn, nôn mửa, táo bón, nước tiểu đỏ, mạch Huyền Sác, rêu lưỡi vàng nhớt... Đó là Thiếu Dương, Dương minh đồng bệnh. Điều trị bên ngoài phải giải Thiếu dương, bên trong phải thanh nhiệt kết, cho uống Đại Sài Hồ Thang gia giảm. Dùng Sài hồ 12g, Hoàng cầm 12g, Hoàng liên 4g, Hậu phác 12g, Bán hạ 12g, Chỉ xác 6g, Mộc hương 12g, Sinh đại hoàng (cho vào sau) 12g, Mang tiêu 12g. Sau khi uống 4 thang theo đơn trên, hết đau bụng, đại tiện dễ, thể ôn bình thường, các xét nghiệm cùng kết quả bình thường, cho xuất viện.
- Nhận xét: Các chứng nóng rét qua lại, muốn nôn, nôn mửa, dùng các vị Sài Hồ, Bán hạ, Hoàng cầm để hoà giải Thiếu dương. Phần lý có thực nhiệt, bụng đầy và đau, táo bón, nước tiểu đỏ, cho nên dùng Đại hoàng, Mang tiêu để tả bỏ nhiệt kết. Phối hợp với Hoàng liên, Hoàng cầm để tăng cường tác dụng khổ hàn tiết nhiệt. Dùng Chỉ xác, Mộc hương để lý khí, chỉ thống.
Đỗ X, nam, 33 tuổi. Bị bệnh loét đường tiêu hoá đã 8 năm, nằm viện điều trị vài lần. Chụp phim xác định loét Dạ dày tá tràng. Mấy tháng gần đây do ăn uống thất thường, bệnh tình nặng hơn, nhất là khi đói đau nhiều, ăn vào thì đỡ đau, ban đêm đau nhiều xiên ra sau lưng, ăn thức sống lạnh càng đau. Khi đau có cảm giác sợ lạnh, thích nóng thích xoa bóp, mệt mỏi, hơi thở ngắn, ăn không ngon, khi đau có cảm giác buồn nôn, nôn ra nước chua, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế.
Dùng Hoàng kỳ (nướng) 12g, Quế chi 12g, Bạch thược 16g, Bào khương (tro) 4g, Ô tặc cốt 40g, Thần khúc 12g, Toàn phúc hoa 12g, Cam thảo (nướng) 12g, Ngoã lăng nung 20g, Mạch nha 16g, Khương bán hạ 12g. Sau khi uống 5 thang đơn trên, các triệu chứng giảm nhẹ. Dựa theo đơn thuốc cũ có gia giảm; uống 18 thang, khỏi bệnh.
- Nhận xét: Cơn đau thường xảy ra khi đói, ăn vào thì giảm đau, sợ lạnh, thích ấm, thích xoa bóp, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế... là dấu hiệu Tỳ Vị hư hàn. Điều trị theo hướng ôn trung kiện Tỳ, ức chế nước chua. Dùng Bán hạ, Toàn phúc hoa
để giáng nghịch, khỏi nôn; Thần khúc, Mạch nha để tiêu đạo hoà trung.
Từ X, nữ, 42 tuổi.
Khám lần đầu: Phía bên phải bụng và rốn đau xiên nhói, bệnh đã vài năm, đại tiện khó đi, ngực khó chịu, biếng ăn, đêm ngủ không yên, chất lưỡi bệu, gốc lưỡi nhớt, mạch Tế, trước đây có lần ra giun đũa rất nhiều, ăn uống không đều, Tỳ Vị bị tổn thương; thấp trệ không hoá được tạo điều kiện cho giun sinh sống. Khí cơ trong ruột không hoá làm cho sự truyền đạo bị trở ngại; nên theo phép dùng thuốc cay đắng và chua để sát trùng, dựa theo tinh thần bài Ô Mai Hoàn. Dùng Tô ngạnh 12g, Chế hương phụ 12g, Xuyên tiêu 6g, Kim linh tử (nướng) 12 g, Hạc sắt 8g, Tân lang 12g, Chỉ thực sao 12g, Trần bì 6g, Thanh bì 6g, Ô mai nướng 4g. Cho uống 5 thang.
Khám lần 2: Vị trường không hoà, sự tuyên thông giáng khí mất bình thường, ăn kém ngon, đại tiện khô, vùng bụng và rốn đau ngày vài lần. Sau khi uống thuốc tình trạng đau có giảm nhẹ, sắc mặt tối trệ, gốc lưỡi nhớt chưa sạch, ven lưỡi tía, mạch Tế, giống như có hiện tượng huyết ứ. Dùng thuốc theo phép hoà Vị, nhuận trường, lý khí hoá ứ.
Nhục quế tâm 2g, Nhũ hương
(chích) 4g, Trầm hương 12g, Một dược (chích) 4g,Trần bì 6g, Đại phúc bi 8g, Mộc hương 6g, Đại ma nhân 16g, Chỉ xác (sao) 6g, Tử đan sâm 12g, Xích thượùc 12g, Ngoạ lăng (nung) 24g, Cam thảo nướng 6g.
Khám lần 3: Sau khi uống 7 thang đơn trên, bụng đỡ đau sáu phần mười, khi đau nghiêng về bên phải, vùng ngực bụng có cảm giác nóng và đau nhói, chất lưỡi xanh tía, gốc lưỡi rêu mỏng nhớt, mạch Tế hơi Hoạt, đại tiện khô, ăn khá hơn. Bệnh kéo dài đã 8 năm, hàn khí ngoan cố kết ở trong, lại kèm trùng tích, từ khi điều trị đến giờ, giun rút, hàn tan, ứ trọc chưa sạch, tiếp tục theo phép ôn thông tuyên hoá, hoà vị, thông trung tiêu. Dùng đơn trên bỏ Chỉ xác, Đại phúc bì, Nhục quế tăng lên thành 3g, lại thêm Giới bạch 6g, Đào nhân 12g.
- Khám lần thứ tư: Sau khi uống 7 thang đơn trên, đau bụng đã giảm bảy tám phần mười, ăn uống bình thường, quá thời kỳ kinh nguyệt, ven lưỡi tía, ngực khó chịu chưa hết, vẫn điều trị theo phép cũ. Nhục quế tâm 3g, Trầm hương 12g, Ô dược 12g, Uất kim 12g, Kinh tam lăng 12g, Giới bạch đầu 12g, Qua lâu bì 12g, Tử đan sâm 12g, Đào nhân 12g, Ngoạ lăng nung 34g.
Nhận xét: Bệnh án này đau vùng bụng và rốn đã 8 năm chủ yếu do âm hàn ngưng kết, khí trệ huyết ứ gây nên, ngoài ra còn có cả giun đũa. Đối với chứng trầm hàn cố lãnh này, không thể đơn thuần nghĩ tới âm hàn phải đồng thời trừ ứ, ứ trừ được thì khí không trệ, khí không trệ thì âm hàn tự tan đi mới khỏi đau, cho nên trước tiên dùng Ô mai để làm yên giun làm chủ yếu, tình thế đau giảm bớt, tiếp tục theo phép ôn tán âm hàn lý khí khứ ứ làm chủ yếu, cơn đau làm giảm đi bảy tám phần; cuối cùng tiếp tục điều trị thêm vài thang, đã hành kinh, trước sau chữa chạy hơn một tháng, các chứng khỏi hết.
BƯỚUCỔ
A- Đại Cương
Bướucổđơn thuần là một bệnh to tuyến giáp thường do thiếu iot, hay gặp ở một số vùng nhất định (thường ở miền núi) nên còn gọi làbướucổđịa phương, nữ mắc bệnh nhiều. Có khi làbướucổtán phát. Trong một số trường hợp,bướucổlà phản ứng của tuyến giáp đối với sự mất cân bằng của nội tiết tuyến giáp.
Bướucổđơn thuần thường chia làm 2 loại: địa phương tính (tập trung ở một số vùng nhiều người mắc) và tản phát tính (nơi nào cũng có người mắc, thường gặp nhiều ở lứa tuổỉ trưởng thành, lúc có thai, cho con bú và thời kỳ tắt kinh.
Bướucổđơn thuần thuộc chứng "Anh" trong y họccổtruyền. Y văncổTrung Quốc trên 300 năm trước công nguyên đã có ghi về bệnh này như sách "Trửu Hậu Phương" đầu tiên đã ghi dùng Hải tảo (có iốt) để trị chứng ‘Anh’. Sách "Ngoại Đài Bí Yếu" đời Đường ghi 36 bài thuốc trị chứng 'Anh" trong đó 27 bài gồm các vị thuốc có chất iốt.
B- Nguyên Nhân Bệnh Lý Theo Y HọcCổTruyền
+Bướucổđịa phương: Do thiếu iốt. Ngoài ra còn có các yếu tố khác như di truyền, thiếu một số thức ăn khác, điều kiện vệ sinh kém... nên tuy cùng sống một địa phương mà cũng chỉ một số mắc bệnh (mặc dù qua kiểm tra tất cả người dân trong vùng đều có tuyến giáp khát iốt (gắn iốt phóng xạ tăng).
+Bướucổtán phát: gặp ở nữ nhiều hơn. Nhiều học giả cho là do phản ứng của tuyến giáp, hoặc bài tiết không đủ, hoặc do nhu cầu tăng, nội tiết tuyến giáp không dủ, tuyến làm việc tăng (phản ứng bù trừ) làm cho tổ chức tuyến tăng sinh phì đại. Những yếu tố có liên quan:
* Dị hình bẩm sinh nội tiết: hấp thụ các yếu tố kháng giáp có trong thức ăn hoặc do thuốc. Thường kèm với suy giáp kéo dài hoặc thoáng qua.
* Tăng nhu cầu nội tiết giáp: tuổi dậy thì, có thai, tắt kinh. Cũng có trường hợp chưa rõ nguyên nhân. Y họccổtruyền cho rằng bệnh ANH phát sinh là do liên quan với đất nước nơi ăn ở và tình chí (trạng thái tinh thần) thay đổi. Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: "Vùng núi đất đen có nguồn nước chảy ra không thể sống lâu ở đó, ăn uống nước đó dễ mắc bệnh "anh".
Sách ‘Ngoại Đài Bí Yếu’ cũng ghi: "Người vùng Trường An... uống nước cát dễ mắc bệnh anh”.
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ ghi về tình chí có liên quan đến bệnh như sau: "Bệnh "anh" là do lo lắng nhiều, khí kết mà sinh ra"..
Bệnh lý chủ yếu là đàm thấp, khí trệ: Người bệnh có tỳ khí kém, thêm ảnh hưởng của thức ăn nước uống làm cho đàm thấp nội sinh, đàm thấp sinh nhiều càng tăng thêm khí trệ mà sinh bệnh. Hoặc do tức giận, thướng can, can khí không thông đạt, uất nên sinh đờm, đờm khí kết ởcổmà sinh bệnh. Đàm thấp và khí trệ là hổ tương nhân quả cho nên khối u ngày càng to thêm. Cũng do can chủ sơ tiết, mà 2 mạch Xung, Nhâm liên hệ nhiều với kinh can, do đó, phụ nữ có kinh, thai nghén cho con bú đều liên quan đến khí huyết của can, những lúc đó dễ mắc bệnh.
C- Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng chủ yếu là to tuyến giáp.
Thể tán phát gặp nhiều ở nữ ở tuổi dậy thì, có thai, cho con bú, lúc tắt kinh thường to hơn và qua những kỳ đó tuyến lại nhỏ hơn. Thường tuyến giáp to nhẹ tản mạn, chất mềm và trơn láng. Đến tuổi trung niên về sau,bướucó thể cứng và có nốt cục.
Bướucổđịa phương tính to nhỏ không chừng (rất nhỏ hoặc rất to). Theo độ to nhỏ có thể chia:
Độ l: Nhìn kỹ có khi phải nhìn nghiêng mới phát hiện hoặc phải sờ nắn.
Độ 2: Nhìn thẳng đã thấy to.
Độ 3:Bướuquá to.
Đôi khibướuở vị trí đặc biệt hoặc bị chèn ép khó chẩn đoán.
Bướugiáp chìm:Bướuởcổnhưng trong lồng ngực sau xương ức.Bướulàm khó chịu mỗi khi nuốt và thở.Bướutrong lồng ngực, X quang thấy như một u trung thất.
Bướudưới lưỡi: Gặp ở phụ nữ, ở đáy lưỡi làm cho khó nhai, khó nuốt và khó nói.
Bướucổmới bắt đầu nhỏ mặt bóng nhẵn, về sau có thể to nhỏ không chừng, cứng thành cục hoặc nang, bề mặt có thể có tĩnh mạch nổi còng quèo. Trường hợp quá to sẽ có hiện tượng chèn ép như nếu chèn ép khí quản sinh ho, khó thở, vướngcổ, chèn ép thực quản thì nuốt khó, chèn hầu họng thì khàn giọng... Có khi xuất huyết trong nang gây đau vàbướuto đột ngột.
D- Chẩn đoán
Chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng (như trên đã mô tả).
- Xét nghiệm: Chuyển hóa cơ bản bình thường, iốt - protein trong huyết tương bình thường. Tỷ suất gắn iốt phóng xạ rất tăng trongbướugiáp địa phương tính nhưng gần như bình thường trongbướugiáp tản phát.
Khi thấybướucứng không đau có nhân, cần cảnh giác ung thư, nên làm giáp đồ bằng phóng xạ và làm sinh thiết.
E- Điều trị
Biện chứng luận trị theo YHCT:
Thường điều trị theo 2 thể bệnh sau:
l) Thể khí trệâ:
Chứng:Bướucổto thường tăng lên lúc tức giận, lúc có kinh hoặc có thai. Bụng đầy sườn đau, bụng dưới đau, rêu mỏng, mạch Huyền.
Phép trị: Lý khí, giải uất.
- Bài thuốc: Tứ Hải Thư Uất Hoàn thêm Hương phụ, Uất kim (Hải cáp phấn 8g, Hải đới 30g, Hải tảo 30g, Hải phiêu tiêu, Côn bố đều 20g - 30g, Trần bì 8g, Mộc hương, Hương phụ, Uất kim đều 12g.
Trường hợp khí uất hóa hỏa, ngườỉ phiền táo, dễ tức giận, hồi hộp mất ngủ, nhiều mồ hôi, tay run: thêm Đơn bì, Sơn chi, Liên tử tâm, Hoàng liên, Hạ khô thảo, Long đởm thảo.
2) Thể đàm thấp
Chứng:Bướucổto, chân tay mệt mỏi, buồn ngủ, ngực tức, kém ăn, bụng đầy, lưỡi bệu, rêu lưỡi dày, mạch Hoạt.
Phép trị: Hóa đàm, nhuyễn kiên, kiện tỳ, trừ thấp.
Bài thuốc: Lục Quân Tử Thang Hợp Hải Tảo Ngọc Hồ Thang gia giảm (Hải tảo, Hải đới, Côn bố đều 30g, Trần bì, Bán hạ, Xuyên khung đều 8g, Đương qui, Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh, Triết Bối mẫu đều 12g, Cam thảo 4g).
Gia giảm: Chân tay lạnh, sợ lạnh thêm Nhục quế 3 - 4g, Phụ tử (chế) 6 - 10g,bướuto có cục gia Đơn sâm 12g, Hương phụ (chế) 10g, Đào nhân 10g, Hồng hoa 6g.
2. Một Số Bài Thuốc Đơn Giản.
l) Hải đới 100g, sắc uống mỗi ngày ăn luôn bã.
2) Hải tảo, Côn bố lượng bằng nhau tán bột mịn luyện mật làm hòan, mỗi lần uống 10 - 20g ngậm nuốt, sau bữa cơm tối. Có thể dùng lâu dài.
3) Hải tảo, Côn bố lượng bằng nbau, Thanh bì lượng l/3 của Côn bố, sao vàng tán bột làm hòan. Mỗi ngày uống 10g sau bữa ăn tối. Uống lâu dài.
4) Uất kim, Đơn sâm, Hải tảo đều 15g. Sắc uống ngày 1 thang, có thể cho đường uống thường xuyên, liên tục trong 3 - 4 tuần. Dùng cho thể khí huyết ứ trệ.5) Hải đới 60g, Đậu xanh 150g. Nấu chín, cho đường ăn hàng ngày.
6) Côn bố, Hải tảo, Đậu nành 150 - 200g.
Nấụ chín hoặc thêm đường để ăn thường xuyên.
7) Hạt khô thảo 30g, Hải tảo 60g, sắc uống.
8) Triết Bối mẫu, Hảỉ tảo, Mẫu lệ đều 12g, tán bột mịn, trộn đều. Mỗi lần uống 6g, ngày 2 lần. Uống trước khi ăn với rượu trắng.
9) Bạch thược 15g, Huyền sâm 9g, Hạ khô thảo 30g, Hải phù thạch 30g, Hương phụ (chế) 12g, Bạch giới tử 12g. Sắc uống. Thêm Cương tàm 12g, Trạch tả 15g, Thất diệp nhất chi hoa 20g, kết quả càng tốt.
10) Mẫu lệ, Hải tảo, Côn bố, Bạch tật lê, Bạch thược, Sinh địa, Huyền sâm, Kỷ tử, Sung úy tử lượng bằng nhau. Tất cả tán bột mịn cho mật làm hoàn IOg.
Mỗi ngày uống 2 - 3 hoàn với nước sôi nguội.
11) Hà thủ ô 20g, Ô mai 10g, Côn bố 15g. Sắc uống.
12) Lá Sinh địa (Sinh đia diệp), Hạ khô thảo 30g, Sơn tra 20g, sắc uống.
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:194.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh