The Soda Pop
KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
ÁC HẠCH
Kết Quan Tính Chỉ Mạc Viêm
Đại Cương
Danh từ Ác Hạch phát xuất từ sách ‘Trửu Hậu Bị Cấp Phương’.
Trong y văn của Trung Quốc, có nhiều tài liệu đề cập đến chứng bệnh này.
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: “Chứng ác hạch, ở sâu trong thịt có hạch có hình giống như trái ô mai, trái lê, nhỏ như hột đậu, phía da bên ngoài khô, ở cả hai bên phải và trái cơ thể, đột nhiên mọc lên, do phong tà hợp với độc gây nên... Không trị khỏi, độc tà nhập vào bụng, gây nên phiền muộn, sợ lạnh thì sẽ chết. Lâu ngày chữa không được thì sẽ vỡ ra”. Đời nhà Đường, sách ‘Thiên Kim Dực Phương’, ‘Y Tâm Phương’ cũng có bàn đến chứng này.
Hiện nay cho bệnh này là ‘Huyết Ngưng Kết Tiết Chứng’ (huyết ngưng trệ ở các khớp), thuộc loại ‘Bì Trung Kết Hạch’ (lao trong da) là một loại của ‘Mai Hạch Đơn’.
Nguyên Nhân
Do ăn uống không điều độ, thấp tà nội uẩn bên trong uất lại lâu ngày hóa thành độc làm ngăn trở kinh lạc, ngưng tụ ở bì phu, kết thành hạch cứng. Hoặc do Tỳ không kiện vận được khiến cho đờm thấp sinh ra ở bên trong, khí huyết bị trở ngại, suy kiệt, lâu ngày sinh ra bệnh.
1- Phong hợp với độc: Phong độc ở bên ngoài xâm nhập vào làm cho lạc mạch bị ngăn trở, làm cho âm dương mất quân bình, khí huyết không đều hòa, tụ lại ở bì phu gây nên hạch.
2- Uống phải thuốc có độc, hoặc dùng thuốc quá liều, hóa thành hỏa độc làm cho lạc mạch bị ngưng trệ gây nên hạch.
Chẩn Đoán Yếu Điểm
+ Tuổi từ 20-40, nữ nhiều hơn.
+ Bệnh thường phát ở tay chân, đôi khi gặp ở mông, đùi.
+ Da sờ thấy nóng, hạch to nhỏ không nhất định, nhỏ thì như hột đậu, lớn thì như hột đào, da và hạch dính liền nhau, có mầu đỏ, có khi bị phù. Khi có kinh nguyệt thì to hơn nhưng sau khi hết kinh thì nhỏ lại. Nốt hạch không lõm nhưng co lại như vết sẹo, có thể vỡ ra, chảy nước vàng.
+ Ảnh hưởng đến nội tạng: chủ yếu là bụng đau, bào quyết, phúc mạc viêm, gan sưng to, chức năng gan rối loạn, tâm bào viêm, không thấy sốt hoặc sốt cao. Gân cơ đau, các khớp đau.
Triệu Chứng
+ Phong Độc: trong da có đờm hạch, sưng, mềm, mầu đỏ, đau khác thường, có thể kèm sốt, lúc nóng lúc lạnh, lưỡi đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Phù Sác có lực.
Điều trị: Thanh nhiệt hóa thấp, giải độc tán kết. Dùng bài Ngưu Bàng Giải Độc Thang gia giảm: Ngưu bàng (sao), Kim ngân hoa, Liên kiều, Huyền sâm đều 10g, Hạ khô thảo 30g, Bối mẫu, Hải tảo, Thương truật đều 6g, Bạch hoa xà thiệt thảo, Đan sâm, Hổ trượng đều 15g, Bạc hà, Kinh giới đều 4,5g. Sắc uống.
+ Đờm Nhiệt: Da có cục cứng, dính liền với hạch, mầu hồng tối, có lúc đau lúc không, ấn vào đau không rõ, hạch có thể nung mủ, vỡ ra, kèm sốt, miệng khô, muốn nôn, nôn mửa, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi hơi vàng bệu, mạch Huyền Hoạt.
Điều trị: Lý khí hóa đờm, thanh nhiệt tán kết. Dùng bài Ôn Đởm Thang gia giảm: Bán hạ (chế Gừng), Phục linh, Trần bì, Bối mẫu, Liên kiều đều 10g, Bạch giới tử (sao), Ngưu tất, Thanh bì, Quất lạc đều 6g, Trạch lan, Đương quy, Đan sâm, Xích thược đều 12g, Thanh mông thạch 15g, Thiên long 1 con.
+ Dược Độc: Trong da có cục cứng mầu đỏ tối, có thể loét ra, có thể kèm thở ngắn, thần trí hôn mê, không có sức, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi ít, mạch Tế Sác.
Điều trị: Phù chính, thác độc, thanh nhiệt hộ âm. Dùng bài Tứ Diệu Dũng An Thang gia giảm: Hoàng kỳ (sống), Ngân hoa đều 15g, Cam thảo, Đương quy, Thạch hộc, Đan sâm, Liên kiều đều 10g, Thiên tiên đằng, Thủ ô đằng, Kê huyết đằng, Câu đằng, Nam bắc sa sâm đều 12g, Bối mẫu, Đởm nam tinh, Quất bì đều 6g.
Thuốc đắp: Xung Hòa Cao, Dấm, Rượu, Dầu đều 1/3, trộn đều, đắp mỗi ngày 2-3 lần. Nếu hạch loét ra dùng An Dương Thang.
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Hóa Kiên Nhị Trần Thang gia giảm: Trạch lan, Phục linh, QQương quy vĩ đều 12g, Liên kiều, Ngân hoa, Hoàng cầm, Thanh bán hạ, Trần bì, Khương hoàng đều 10g, Bản lam căn 15g. Sắc uống.
+ Xà Thiệt Nhị Căn Thang: Ngưu bàng tử (sao), Ngân hoa, Liên kiều, Mao độc căn, Trà thụ căn, Xà thiệt thảo, Thương truật (chế), Hải tảo, Đan sâm, Hổ trượng, Thổ phục linh, Tang chi. Sắc uống.
+ Ngũ Đằng Thang gia giảm: Thiên tiên đằng, Thủ ô đằng, Kê huyết đằng đều 15g, Câu đằng, Thạch hộc, Hậu phác, Xích thược, Liên kiều, Đại thanh diệp, Ngân hoa đều 10g, Đại hoàng 5-10g, Đan sâm 18g. Sắc uống.
Tham Khảo
Chu Nhân Khang cho rằng: “Bệnh này thuộc loại nhiệt độc ứ trở ở lạc, khí trệ huyết ứ gây nên. Thuộc loại ‘Đơn’ của trung y. Cách trị dùng Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ. Dùng Ngân hoa, Liên kiều, Sơn chi, Đại thanh diệp để thanh nhiệt giải độc; Sinh địa, Thiên hoa phấn để dưỡng âm thanh nhiệt; Đương quy vĩ, Xích thược, Đào nhân, Hồng hoa, Nhũ hương (nướng), Một dược (nướng) để hoạt huyết hóa ứ; Khương hoàng để phá huyết, hành khí. Sau khi uống thuốc, thấy bệnh giảm, có thể uống cách ngày, uống lâu dài, mỗi năm phát bệnh một lần, uống cho đến khi khỏi, không thấy tái phát nữa”.
Bệnh Án Ác Hạch
(Trích trong ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học’).
Lâm X, nam, 7 tuổi. Nhập viện ngày 4-10-1964. Gần hai năm nay, tại vùng bụng bị sưng đỏ, đau, kèm sốt cao. Bệnh viện chẩn đoán là Chỉ Mạc Viêm (ác hạch). Kiểm tra thấy thân nhiệt 37,20C. tại vùng bụng dưới có thể thấy giống vết ban, mầu đỏ tối, đường kính khoảng 3 x 6mm, đau không rõ rệt. Mạch Hoạt, rêu lưỡi hơi vàng.
Chứng này thuộc nhiệt độc ngăn trở lạc, khí trệ huyết ứ. Điều trị: Thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ. Dùng Sinh địa 15g, Ngân hoa, Liên kiều, Chi tử, Thiên hoa phấn, Đại thanh diệp, Quy vĩ, Xích thược, Đào nhân đều 9g, Hồng hoa, Nhũ hương (nướng), Một dược (nướng) đều 6g, Khương hoàng 4,5g. Sắc uống.
Tái khám: Sau khi uống 4 thang, nốt sưng đỏ tiêu mất, không còn đau, cơ thể sốt. Dùng bài thuốc trên thêm Tử địa đinh, Đan sâm đều 9g, Xuyên phác 4,5g. Uống hơn 10 thang, 3 năm sau bị tái lại.
Ngày 13-7-1967, trước khi bị bệnh, vùng bụng có khối u sưng, mầu hơi đỏ, đau, có sốt, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Hoạt hơi Sác. Cũng dùng bài thuốc trên, thêm thuốc lợi thấp như Hoàng cầm, Ý dĩ nhân, Xích linh đều 9g. Uống 3 thang, khối u tan mất. Để tránh tái phát, cho dùng Long Đởm Tả Can hoàn và Nhị Diệu Hoàn uống xen kẽ. Tháng 8 năm 1968 khám lại: tại hông sườn, vú bên phải, vùng bụng dưới bên phải thấy nổi lên vết ban nhỏ, ấn nhẹ thấy đau. Vùng đau và toàn thân đều giảm” (Chu Nhân Khang Lâm Sàng Kinh Nghiệm Tập).
ÁC LỘ KHÔNG DỨT
Bình thường sản hậu sau khi sinh nếu cơ thể bình thường thì sau 20 ngày (khoảng 3 tuần), sản dịch (ác lộ) không còn tiết ra nữa, nếu quá thời gian này mà ác lộ vẫn cứ tiết ra lai rai không dứt gọi là chứng ‘Sản Hậu Ác Lộ Bất Tuyệt’ (Sinh Xong sản dịch ra không dứt). Ác Lộ Bất Chỉ, Ác Lộ Bất Ngưng.
Nếu chứng này kéo dài, có thể dẫn đến tình trạng huyết bị hư (thiếu máu) sinh ra nhiều biến chứng khác.
Tương đương với chứng ‘Sóùt nhau sau khi sinh’, Sinh xong ra huyết của YHHĐ.
Nguyên Nhân
Có thể do:
+ Khí Hư: Cơ thể vốn suy nhược, lúc sinh, khí bị mất, huyết bị hao, hoặc sau khi sinh, do mất quá nhiều sức, khiến cho Tỳ khí bị tổn thương, trung khí bị hư, hãm, mạch Nhâm, Xung không điều hoà, huyết không thu nhiếp lại được khiến cho sản dịch ra lâu ngày không cầm lại được
+ Huyết Nhiệt: Sản phụ vốn bị âm hư, khi sinh huyết bị mất, tân dịch bị tổn, phần doanh và âm bị suy, âm hư thì sinh nội nhiệt. Hoặc sau khi sinh xong ăn quá nhiều thức ăn cay nóng. Hoặc do Can khí uất trệ, lâu ngày hoá thành nhiệt, nhiệt làm tổn thương mạch Xung và Nhân, khiến cho huyết đi bậy gây nên.
+ Huyết Ứ: Sau khi sinh xong, bào cung, bào mạch đều rỗng và hư yếu, hàn tà thừa cơ xâm nhập vào, huyết bị hàn làm cho ngưng lại, kết thành ứ. Hoặc do thất tình nội thương, khí trệ làm cho huyết bị ứ, gây ngăn trở mạch Xung Nhâm, huyết mới không yên được, theo sản dịch chảy ra rỉ rả không dứt.
Sách ‘Thai Sản Tâm Pháp’ cho rằng: “Sau khi sinh mà ác lộ ra không dứt, không nhiều như chứng băng lậu, là do lúc sinh kinh huyết bị tổn thương, hoặc huyết hư tổn bất túc hoặc ác huyết ra không hết, huyết tốt khó yên, cùng kéo nhau ra, lâu ngày không khỏi.
Nguyên Tắc Điều Trị
Đối với chứng hư: do mạch Xung, Nhâm bị hư tổn, nên ôn dưỡng, cố nhiếp. Thực chứng, ứ trệ nên hoạt huyết, khử ứ. Do huyết nhiệt nên dưỡng âm, thanh nhiệt.
Triệu Chứng
+ Khí Hư: Sau khi sinh, quá thời gian bình thường mà sản dịch vẫn còn lai rai không ngừng, mầu hồng nhạt, lượng nhiều, chất dẻo dính, không có mùi hôi, có cảm giác bụng dưới trệ xuống, tinh thần mỏi mệt, chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi bình thường, mạch Hoãn Nhược.
Điều trị: Ích khí, nhiếp huyết.
. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang thêm Lộc giác giao, Ngải diệp sao cháy đen, để ôn dương hòa huyết và bổ hư (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).
. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang thêm A giao, Ngải diệp, Ô tặc cốt (Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học).
+ Khí Huyết Đều Hư: Sản hậu ác lộ không dứt, sắc huyết vàng nhạt, mặt xanh trắng, tinh lực sút kém, thân thể gầy yếu, sợ lạnh, đầu váng, mắt hoa, tai ù, hồi hộp, hơi thở ngắn, vùng bụng mềm không đau, lưỡi nhạt, không rêu, mạch Hư Tế Vi Nhược.
Điều trị: Ích khí, dưỡng huyết, nhiếp huyết. Dùng bài Thập Toàn Đại Bổ Thang
Hoặc Mẫu Lệ Tán (Nữ Khoa Chuẩn Thằng): Mẫu lệ, Xuyên khung, Thục địa, Bạch linh, Long cốt đều 30g, Tục đoạn, Đương quy, Ngải diệp (sao rượu), Nhân sâm, Ngũ vị tử, Địa du đều 15g, Cam thảo 7,5g.
+ Huyết Ứ: Sinh xong đau bụng, ác lộ ra không dứt, mầu huyết tím đen hoặc có cục, lưỡi có điểm ứ huyết, mạch Sáp.
Điều trị: Hoạt huyết, hoá ứ, lý huyết, quy kinh.
. Dùng bài Sinh Hóa Thang [Sản Bảo] (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).
. Dùng bài Sinh Hoá Thang thêm Mẫu lệ, Tây thảo, Tam thất (Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học).
(Đương quy, Xuyên khung hoạt huyết; Đào nhân khứ ứ; Bào khương tán hàn, hành ứ; Cam thảo ôn trung tiêu, giảm đau).
Hoặc dùng bài Phật Thủ Tán (Tứ Thời Khinh Trọng Thuật Thập Bát Chủng): Đương quy, Xuyên khung thêm Ích mẫu thảo, Huyền hồ (sao cháy đen), Gừng (sao cháy đen thành than) (Đương quy, Xuyên khung hoạt huyết, hành ứ, thêm Ích mẫu thảo để khử ứ, sinh tân, bột than Huyền hồ hoạt huyết, trấn thống; Bột than Gừng ôn hàn, hành khí, chỉ huyết).
Nếu kèm miệng khô, họng khô, mạch Huyền Sác, thêm Địa du, Hoàng bá (sao đen) để thanh nhiệt, chỉ huyết.
+ Huyết Nhiệt: ác lộ ra không dứt, sắc huyết đỏ tươi, tâm phiền, miệng khát nước, rêu lưỡi hồng, mạch Sác.
Điều trị: Dưỡng âm, thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết. Dùng bài:
. Bảo Âm Tiễn (Thẩm Thị Tôn Sinh Thư) (Sinh địa, Bạch thược, Sơn dược, Xuyên tục đoạn, Hoàng cầm, Hoàng bá, Cam thảo) bỏ Thục địa thêm A giao, Hạn liên thảo, Ô tặc cốt để dưỡng âm thanh nhiệt, cầm máu (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).
. Bảo Âm Tiễn thêm Mẫu lệ, Địa du (sao) (Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học).
Nếu vú và bụng dưới trướng đau, tâm phiền, dễ tức giận, ác lộ ra có cục, miệng đắng, họng khô, mạch Huyền Sác. Đó là do Can uất, huyết nhiệt. Nên dùng phương pháp sơ Can, giải uất, thanh nhiệt, chỉ huyết. Dùng bài Tiêu Dao Tán.
ADDISON
(A Đich Sâm Chứng - Addison)
Do nhiều nguyên nhân: miễn dịch, lao hạch phá hại các bộ phận (trên 90%) 2 bên tuyến thượng thận làm cho sự phân tiết của tuyến thượng thận không đầy đủ, gây ra bệnh. Còn được gọi là ‘Mạn Tính Thận Thượng Tuyến Bì Chất Cơ Năng Giảm Thoái Chứng’. Bệnh này thuộc phạm vi bệnh ‘Hắc Thư’, ‘Can Huyết Lao’, ‘Nữ Lao Đản’, ‘Nuy Chứng’ của YHCT.
Biểu hiện lâm sàng gồm: mỏi mệt, không có sức, tinh thần buồn chán, biếng ăn, sút cân, sắc da xám.
Đối với bệnh mạn tính, vỏ thượng thận bị suy, trừ trường hợp phản ứng của cơ thể hoặc gây ra những hiện tượng nguy hiểm thì có thể dùng đông dược để điều trị. Hiệu quả điều trị bằng đông dược khá ổn định và ít tác dụng phụ.
Nguyên Nhân
Bệnh có liên hệ nhiều đến tạng Tỳ và Thận. Biện chứng chủ yếu dựa trên khí hư huyết suy, Âm huyết bất túc.
+ Do Tiên Thiên Bất Túc: ngũ tạng suy yếu hoặc bố mẹ suy yếu, tuoỉ già suy yếu hoặc sinh dục quá mức, tinh huyết suy tổn, hoặc khi còn ở trong thai không được nuôi dưỡng tốt, thai nhi bất túc, hoặc sinh xong dinh dưỡng thất thường, thủy cốc và tinh khí không phát triển, khiến cho dưỡng chất không đủ, tinh khí bất túc, ngũ tạng suy yếu mà gây nên bệnh.
+ Do Lục Dâm Ngoại Tà: xâm nhập vào cơ thể, đình trệ lại không chữa trị khỏi, tà khí ẩn chứa lâu ngày làm cho chính khí bị tổn thương làm cho khí huyết, tạng phủ, âm dương đều suy gây nên bệnh.
+ Do Ăn Uống Không Điều Độ: lao thương quá mức hoặc do bệnh nặng, bệnh lâu ngày, không điều trị đúng mức khiến cho Tỳ Thận bị hao tổn, lâu ngày thì phần khí sẽ bị tổn thương, phần dương bị tổn hại, huyết ứ kết lại ở bên trong, chính khí khó phục hồi mà gây nên bệnh.
Chẩn Đoán Yếu Điểm
+ Nam bị nhiều hơn nữ, tỉ lệ lên đến 3/1.
+ Lứa tuổi từ 30 – 50 tuổi.
+ Sắc da ở vùng vú, bộ phận sinh dục mầu xanh xám.
+ Có thể bị chóng mặt, hoa mắt, hồi hộp, buồn nôn, nôn mửa, ăn ít, bụng trướng, bụng đau là những chứng trạng chính. Ngoài ra có thể bị mất ngủ, móng tay không mọc, cơ bắp nhão, teo...
Triệu Chứng Lâm Sàng
Sách ‘Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học’ chia thành 2 loại: Tỳ Thận Dương Hư và Can Thận Âm Hư.
+ Tỳ Thận dương hư: có các chứng trạng chủ yếu sợ lạnh, tay chân lạnh, phân lỏng, nước tiểu trong, nhiều, phù toàn thân, tình dục giảm, lông tóc không mượt, rụng lông ở âm bộ và nách, phái nam thì liệt dương, hoạt tinh, phụ nữ thì tử cung lạnh, đái hạ lượng nhiều, vô sinh, chất lưỡi nhạt, lưỡi nhạt, có dấu răng, rêu lưỡi nhuận, hoạt, mạch Trầm,Tế mà Nhu, Nhược.
+ Can Thận âm hư: có các chứng trạng như hoa mắt, tai ù, tay chân tê dại, ngũ tâm phiền nhiệt, bụng trướng, táo bón, di tinh, mồ hôi trộm, phụ nữ có thể thấy ngực căng, vú có hạch, lưỡi hồng, tân dịch ít, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch phần lớn là Huyền, Tế hoặc Tế Sác.
Sách ‘Bì Phu Bệnh Trung Y Liệu Trị Học’ phân làm hai loại:
+ Thận Khí Bất Túc, Ứ Huyết Ngưng Trở: Sắc mặt xám đen, sợ lạnh, suy giảm tình dục, liệt dương, bế kinh, hay quên, đờ đẫn, chỉ thích nằm, lưỡi nhạt, có điểm ứ huyết, lưỡi trắng nhuận, mạch Vi Tế.
+ Tỳ Hư Bất Túc kèm Ứ Huyết: Sắc mặt và da đều đen, mệt mỏi không có sức, đầu váng, hoa mắt hoặc đứng thẳng thì muốn ngã, ăn uống kém đi, muốn nôn, nôn mửa, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trì, Hoãn.
Điều Trị
Dựa theo kết quả biện chứng, phương pháp chữa là: bổ hư, hóa ứ.
+ Thận Khí Bất Túc: Ôn Thận, tráng dương, hóa ứ. Dùng bài Tứ Vật Hồi Dương Ẩm gia giảm: Cao ly sâm (Đảng sâm) 10g (nấu riêng trước), Phụ tử (chế), Bào khương, Chích thảo, Đào nhân đều 6g, Sơn dược, Sơn thù nhục, Đan sâm, Hoạt huyết đằng đều 12g, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả đều 9g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Trung Y Liệu Trị Học).
+ Tỳ Hư Bất Túc: Ôn dương, kiện Tỳ, hòa Vị, giáng nghịch. Dùng bài Dị Công Tán gia giảm: Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Trần bì đều 10g, Sơn dược, Biển đậu (sao) Bán hạ (chế Gừng), Cửu hương trùng đều 12g, Địa hoàng (can), Cúc hoa, Đan sâm đều 15g, Đào nhân, Giáp châu (Xuyên sơn giáp) đều 6g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Trung Y Liệu Trị Học)
Theo sách ‘Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học’:
Phương thuốc cơ bản điều trị loại Tỳ Thận hư là: Đảng sâm 60g, Hoàng kỳ 60g, Kê huyết đằng 20-30g, Tang ký sinh, Thỏ ty tử đều 18-24g, Tục đoạn 24g, Lộc giác giao, Bổ cốt chỉ, Đỗ trọng đều 16-20g, Kê nội kim, Giá trùng (Địa miết), Bồ hoàng (sống), Hổ phách (mạt) đều 10g.
Phương thuốc cơ bản trị Can Thận âm hư là: Sa sâm 16-24g, Tục đoạn 24g, Bạch thược 12-18g, Sinh địa, Kỷ tử, Đỗ trọng, Nữ trinh tử, Hạn liên thảo đều 12g, Quy thân, Miết trùng, Bồ hoàng (sống), Kê nội kim, Hổ phách (tán nhuyễn) đều 10g. Ngoài ra, nếu có các chứng kèm theo thì tùy chứng mà gia giảm.
Sau khi điều trị theo những nguyên tắc nêu trên, có 80% bệnh nhân biến chuyển tốt ở các mức độ khác nhau. Chứng trạng lâm sàng giảm nhẹ hoặc biến mất, lượng 17 Steroid, 17- KS trong nước tiểu trong 24 giờ tăng cao so với trước khi điều trị, có trường hợp hồi phục đến mức độ bình thường.
Có thể dùng thêm các bài thuốc sau:
+ Tả Quy Ẩm gia giảm: Chế phụ phiến, Sơn thù nhục đều 5g, Quế chi 3g, Thục địa, Sơn dược, Thỏ ty tử, Bổ cốt chỉ, Tiên linh tỳ, Lộc giác sương đều 9g, sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Tả Quy Hoàn gia Đan sâm, Tam thất, Quy bản giao, Cam thảo, sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Đương Quy Thang: Đương quy, Nhục quế, Mạch môn, Đại hoàng, Nhân trần, Hoàng cầm, Hoàng kỳ, Can khương, Xích phục linh, Thược dược, Hoàng liên, Thạch cao, Nhân sâm, Chích cam thảo. Sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
+ Bạch Truật Thang: Bạch truật, Quế tâm, Đậu khấu, Chỉ thực, Can cát, Hạnh nhân, Chích cam thảo. Sắc uống (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
Châm Cứu
+ Dùng các huyệt: Tỳ du, Vị du, Thận du, Bá hội. Châm bổ, khi đắc khí, lưu kim 30 phút. Trừ huyệt Bá hội ra, sau khi rút kim, cứu thêm 5-10 phút. Mỗi ngày trị một lần (Bì Phu Bệnh Trung Y Liệu Trị Học).
Tham Khảo
Sở nghiên cứu YHCT tỉnh Cát Lâm dùng cao nấu bằng thân và lá Sâm Cát Lâm 20%, Ethyl Alcohol (C2H5OH) điều trị 18 trường hợp suy thượng thận mạn tính, có hiệu quả rõ rệt 4 trường hợp, chuyển biến tốt 9 trường hợp (trong đó có 4 trường hợp hiệu quả). Biểu hiện của những trường hợp có kết quả là: thể trọng, huyết áp, nồng độ đường huyết và Natri trong huyết tăng lên, vỏ thượng thận và ACTH được cải thiện, sắc da giảm nhẹ. Thuốc cao này có hiệu quả đối với những bệnh nhân chức năng vỏ thượng thận bị suy thời kỳ đầu hoặc thường thay đổi. Khi ứng dụng cho dùng chỉ loại thuốc cao này thì có tác dụng hồi phục nhất định. Đối với bệnh nhân ở thời kỳ cuối hoặc không phải là thay đổi thường xuyên thì nên dùng phối hợp với kích thích tố vỏ thượng thận nhưng có thể giảm lượng thích hợp. Điều này cho thấy thuốc cao nấu bằng lá và cây Nhân sâm có một số thành phần có tác dụng tương tự như kích thích tố vỏ thượng thận.
Thẩm Thị dùng phép bổ Thận để điều trị 7 trường hợp công năng dự trữ của vỏ thượng thận hạ thấp (bệnh Addison), trong đó có một trường hợp chứng trạng không rõ, chỉ thấy da, môi có sắc đen, lưng ê ẩm hoặc sợ lạnh, 6 trường hợp còn lại có chứng trạng Thận hư. Dựa theo nguyên tắc Âm Dương hỗ căn, Dương hư lâu thì tổn thương đến Âm, vì vậy điều trị chủ yếu là cùng bổ cho Âm Dương. Dùng Thục địa, Sơn thù, Sơn dược, Bổ cốt chỉ, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, Ba kích nhục, Kỷ tử.
Sau khi điều trị, có 6 trường hợp sắc tố đen giảm, sức khỏe chuyển biến tốt. Trong 4 trường hợp trước khi điều trị thí nghiệm về sự dị thường của vỏ thượng thận thì có 3 trường hợp thu được sự cải thiện. Sau khi tiêm ACTH thì tần suất của tế bào bạch cầu ưa Basơ cũng tiến bộ rõ rệt, dựa theo thí nghiệm hưng phấn ACTH tiêm liên tục 2 ngày, trước khi điều trị người ta làm trắc nghiệm 14 lần thì phản ứng không yếu mà lại chậm kéo dài. Sau khi điều trị chỉ còn một trường hợp khác thường, còn lại đều có sự chuyển biến tốt rõ rệt. Dựa theo kết quả này, phương pháp bổ Thận để điều trị bệnh Addison khác với liệu pháp xử dụng cách thay thế kích thích tố. Sau khi bổ Thận, công năng dự trữ vỏ thượng Thận của bệnh nhân đã đạt được sự hồi phục ở các mức độ khác nhau. Vì vậy, những bệnh nhân bị bệnh Addison ở mức độ vừa thì phương pháp điều trị bằng Đông dược đạt được hệu quả rất tốt (Hiện Đại Nội Khoa Trung Y Học).
ALZHEIMER
Năm 1907, Gs Alois Alzeimer người Đức, lần đầu tiên đã mô tả về chứng trạng của bệnh này ở một phụ nữ 55 tuổi, vì vậy tên ông được dùng để đặt cho tên bệnh.
Bệnh được định nghĩa trên thực thể lâm sàng và giải phẫu bệnh. Về lâm sàng đây là sự sa sút trí nhớ hoặc mất trí, bệnh nhân không còn khả năng lý luận, suy nghĩ. Sự sa sút này tiến triển châm trong nhiều năm.
Về giải phẫu, bệnh có sự teo lan toả của vỏ não với sưn giãn rộng hệ thống não thất một cách thứ phát.
Bệnh thường gặp ở người cao tuổi: trên 70 tuổi là 10%, hiếm gặp ở người dưới 55 tuổi (0,05 ~ 0,1%), tần suất bệnh tăng dần từ 0,5% ở tuổi 65 đến 5% ở tuổi 75 và 20% sau tuổi 85.
Đông Y xếp vào loại Lão Niên Tính Si Ngai (Dại Khờ nơi người lớn tuổi), Vô Trí, Văn Trí.
Nguyên Nhân
Tuy chưa rõ nhưng theo các nhà nghiên cứu, có một số nguyên nhân thường được nhắc đến:
. Môi sinh (thuốc trừ sâu, môi trường ô nhiễm…).
. Bệnh tự miễn dịch.
. Sử dụng nhôm (được tìm thấy trong não bị lão hoá).
. Rối loạn ở đường dẫn truyền thần kinh liên quan đến trí nhớ.
. Di truyền (khoảng 10%).
Theo Đông Y:
Do tiên thiên bất túc, do tuổi già, nội thương do thất tình, ăn uống không điều hoà.
Triệu Chứng
Khởi đầu bởi nhiều rối loạn nhẹ, sau đó là trí nhớ giảm dần và không hồi phục được.
Bệnh diễn tiến qua bốn giai đoạn:
Bước đầu là khó khăn trong việc nhận biết được những gì mới, rối loạn về ngôn ngữ, đặc biệt là tìm chữ để nói, thay đổi nhân cách, có khi trở nên hung hăng, khiêu khích.
Bước thứ hai là không thể nhớ nổi, hay quên rồi dần thành đãng trí, thờ ơ. Bệnh nhân không tự chăm sóc được cho mình kể cả ăn mặc, vệ sinh. Rồi không phân biệt được sáng, chiều, tối, không còn đọc được, không hiểu người khác nói gì, không nhận ra người thân, hoàn toàn mất hết nhận thức. Có thể bị ảo giác, ảo tưởng, dáng đi thay đổi, run rẩy nhưng hiếm khi bị run lúc nghỉ, đều và nhanh. Giai đoạn nặng hơn, bệnh nhân không thể đi được, không làm được bất cứ việc gì thậm chí không thể nuốt và ăn được. Giai đoạn cuối, bệnh nhân bị hôn mê và chết do rối loạn dinh dưỡng, nhiễm trùng thứ phát, bệnh lý tim mạch…
Thường bệnh diễn tiến khoảng 8 ~ 10 (có khi đến 25 năm).
Theo Đông Y
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Do Can Khí Uất Kết Kèm Đờm Trệ: Dễ tức giận, Tâm phiền, uất ức, không muốn nói, hông sườn đầy tức, đau, lưỡi bẩn, rêu lưỡi dầy, nhớt, mạch Hoạt.
Điều trị: Sơ Can, lý khí, hoạt huyết, hoá đờm. Dùng bài Can Uất Phương Gia Vị: Xuyên khung, Đan sâm đều 15g, Đào nhân, Hồng hoa, Xích thược, Hương phụ đều 12g, Bán hạ, Sài hồ, Trần bì, Thanh bì, Thạch xương bồ đều 9g. Sắc uống.
(Hương phụ, Sài hồ, Thanh bì sơ Can, giải; Trần bì, Bán hạ, Thạch xương bồ thấm thấp, hoá đờm. Ngoài ra, Thạch xương bồ còn khai khiếu, tỉnh thần; Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm, Xích thược hoạt huyết, hoá ứ).
Hoả thịnh thêm Chi tử, Đơn bì đều 9g; Huyết hư thêm Đương quy 9g, thay Xích thược bằng Bạch thược; Tỳ hư thêm Bạch truật, Phục linh đều 9g, Cam thảo 6g.
Châm Cứu
Châm Bá hội, Tứ thần thông, Thái xung, Tam âm giao, Phong long.
(Bá hội, Tứ thần thông khai khiếu, tỉnh thần, tăng trí nhớ; Thái xung sơ Can, giải uất; Tam âm giao hoạt huyết, hoá ứ; Phong long thấm thấp, hoá đờm).
Châm lâu ngày, có thể thay đổi dùng các huyệt trên đầu sau đây: Thượng tinh, Tiền đỉnh, Hậu đỉnh, Cách du, Can du, Hồn môn, Tỳ du. Hoả thịnh dùng Hành gian thay Thái xung, thêm Hiệp khê. Huyết hư thêm Cách du, Can du; Tỳ hư thêm Túc tam lý; Hông sườn đau thêm Chương môn.
+ Can Thận Âm Hư Kèm Đờm Trệ: Bệnh kéo dài, chóng mặt, đầu vángtê và rung chân tay, trí nhớ giảm, chậm chạp, mắt không còn thần (dại), da mặt kém tươi, mồ hôi trộm, da khô, tức giận bất thường, run hoặc co rút cơ. Nặng hơn thì không đi lại được, có khả năng liệt nửa người, khó nói, lưỡi đỏ tối, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư bổ Can Thận, hoạt huyết, hoá đờm. Dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn Gia giảm: Thục địa, Phục linh đều 15g, Sơn thù du, Đơn bì, Trạch tả, Xích thược, Bạch thược, Xuyên khung, Hồng hoa đều 12g, Đào nhân, Thạch xương bồ, Viễn chí đều 9g. Sắc uống.
(Thục địa, Sơn thù bổ ích Can Thận; Bạch thược dưỡng Can huyết, nhu Can; Phục linh, Trạch tả, Viễn chí và Thạch xương bồ thấm thấp, hoá đờm. Viễn chí Thạch xương bồ khai khiếu, ích trí; Phục linh kiện Tỳ, tỉnh thần; Trạch tả dẫn hoả xuống; Đơn bì, Xích thược, Xuyên khung, Hồng hoa và Đào nhân hoạt huyết, hoá ứ).
Tỳ hư thêm Bán haÏ, Sơn dược đều 9g, Trần bì 6g. Âm hư hoả vượng thêm Tri mẫu và Hoàng bá 9g. váng đầu chóng mặt thêm Từ thạch 12g, Thiên ma, Câu đằng, Nữ trinh tử đều 9g. Họng khô, táo bón thêm Thiên hoa phấn, Bá tử nhân, Tang thầm. Lưỡi cứng khó nói thêm Trân châu mẫu, Bách hợp đều 12g. Liệt nửa người, tê tay chân, thêm Kê huyết đằng, Đan sâm đều 15g, Đương quy, A giao đều 9g.
Châm Cứu
Can du, Thận du, Chí thất, Tứ thần thông, Bá hội, Tam âm giao, Phong long.
(Can du, Thận du, Chí thất dưỡng Can Thận, chấn tinh, ích trí. Cứu Tứ thần thông, Bá hội dẫn âm lên tuỷ hải, khai khiếu, ích trí. Tam âm giao hoạt huyết, hoá ứ; Phong long táo thấp, hoá đờm).
Tỳ hư thêm Túc tam lý; Âm hư hoả vượng thêm Dũng tuyền; Đầu váng, chóng mặt thêm Phong trì; Họng khô, táo bón thêm Chiếu hải, Chi câu; Mắt mờ thêm Ấn đường. Mồ hôi trộm thêm Âm khích.Hay giận dữ thêm Hành gian.
+ Tỳ Thận Dương Hư Kèm Đờm Trệ: Di chuyển chậm, mất trí nhớ lẫn nhân cách, nói khó, nặng hơn thì không nói được, không suy nghĩ gì được, nói lộn xộn, mất trí nhớ, tê chân tay, lưỡi tối nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế, Hoạt Tế, Sáp.
Điều trị: Ôn Thận, kiện Tỳ, hoá đờm, tán ứ. Dùng bài Phụ Tử Nam Tinh Uất Kim? Thang: Sơn thù du, Uất kim, Xuyên khung, Xích thược, Đào nhân đều 12g, Chỉ xác, Đởm nam tinh, Hồng hoa đều 9g, Nhục quế, Phụ tử đều 6g.
(Nhục quế, Phụ tử, Sơn thù ôn Thận, kiện Tỳ; Vì trí nhớ và suy nghĩ dựa trên sức ấm của mệnh môn hoả và chức năng của Tỳ, 3 vị thuốc này có tác dụng ích trí; Đởm nang tinh, Chỉ xác hành khí, hoá đờm; Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa và Chỉ xác hoạt huyết, hoá ứ.
Chóng mặt, ù tai thêm Tang ký sinh 12g, Câu kỷ tử, Thiên ma, Tục đoạn đều 9g. Mệt mỏi, không có sức thêm Hoàng kỳ 15g, Đảng sâm, Bạch truật đều 9g, Cam thảo 6g.
Châm Cứu
Tỳ du, Thận du, Chí thất, Tứ thần thông, Bá hội, Tam âm giao, Phong long.
(Tỳ du, Thận du, Chí thất ôn Thận, kiện Tỳ, tăng nguồn hoá sinh trí nhớ; Tứ thần thông, Bá hội đưa dương lên bể tuỷ, khai khiếu, ích trí; Tam âm giao hoạt huyết, hoá ứ; Phong long táo thấp, hoá đờm).
Chóng mặt thêm Phong trì; Ù tai thêm Thính hội, Nhĩ môn; Mệt mỏi, thiếu sức thêm Túc tam lý; Mắt mờ thêm Ấn đường; Dễ tức giận thêm Hành gian.
+ Tâm Tỳ Đều Hư: Lẫn lộn, không phân biệt được, buồn sầu, hay khóc, trầm tư, nói khó, đi đứng chậm, tinh thần mệt mỏi, tự ra mồ hôi, không có sức, hồi hộp, sợ hãi, hơi thở ngắn, biếng ăn, lưới nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch Tế, Nhược.
Điều trị: Dưỡng Tâm, kiện Tỳ, an thần, ích trí. Dùng bài Dưỡng Tâm Thang: Nhân sâm, Mạch môn, Toan táo nhân đều 12g, Đương quy, Thục địa, Sinh địa, Phục linh đều 9g, Bá tử nhân, Ngũ vị tử đều 6g, Cam thảo 3g.
(Nhân sâm, Phục linh hợp với Cam thảo kiện Tỳ, ích khí, ích trí, bổ não; Mạch môn, Toan táo nhân, Đương quy, Sinh địa, Thục địa, Bá tử nhân và Ngũ vị tử tư âm huyết, dưỡng Tâm, an thần, ích trí).
Nói lẫn lộn thêm Thạch xương bồ, Long xỉ, Uất kim; Thấp ngăn trở trung tiêu, bỏ Đương quy, Bá tử nhân, Toan táo nhân và Ngũ vị tử, thêm Hoắc hương, Bội lan, Thạch xương bồ và Bạch đậu khấu đều 9g. Lưỡi đỏ, mạch Sác thêm Hoàng liên 9g. Huyết ứ, thêm Đan sâm 9g, Hổ phách 3g. Đờm nhiều thêm Thạch xương bồ, Viễn chí, Bán hạ và Trần bì đều 9g.
Châm Cứu
Tâm du, Cách du, Tỳ du, Chí thất, Bá hội, Tứ thần thông.
(Tâm du, Cách du, Tỳ du dưỡng Tâm Tỳ, tăng trí nhớ; Chí thất bổ tuỷ hải, tăng trí nhớ; Bá hội, Tứ thần thông dẫn khí lên tuỷ hải, khai khiếu, ích trí (tăng trí nhớ).
+ Can Dương Thượng Cang: Nhức đầu, chóng mặt, mặt đỏ, mắt đỏ, bứt rứt, ngủ không ngon giấc, ngủ hay mơ, lưỡi cứng, khó nói, tê tay chân, khó cử động miệng và mắt, liệt nửa người, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng hoặc hơi vàng, nhờn, mạch Tế Sác.
Điều trị: Bình can, tiềm dương, tỉnh thần, khai khiếu. Dùng bài Thiên Ma Câu Đằng Ẩm gia vị: Tang ký sinh, Toan táo nhân đều 12g, Thạch xương bồ, Bạch thược, Câu kỷ tử, Thiên ma, Câu đằng, Đỗ trọng, Ngưu tất, Dạ giao đằng, Hoàng cầm, Ích mẫu thảo đều 12g,Thạch quyết minh, Chi tử, Phục linh đều 6g.
(Thiên ma, Bạch thược, Câu đằng,Thạch quyết minh bình Can, tiềm dương; Hoàng cầm, Chi tử thanh Can tả hoả; Tang ký sinh, Bạch thược, Câu kỷ, Đỗ trọng tư âm, bổ Thận, chế dương; Toan táo nhân, Thạch xương bồ, Dạ giao đằng, Phục linh dưỡng Tâm, an thần; Thạch xương bồ tỉnh thần, khai khiếu; Ngưu tất, Ích mẫu thảo hoạt huyết, hoá ứ).
Táo bón, nước tiểu đỏ thjêm Đại hoàng 6g; Mang tiêu 6g; Hông sườn đau thêm Thanh bì 9g, Diên hồ sách 15g; Hồi hộp không yên thêm Mẫu lệ, Long cốt đều 12g.
Châm Cứu
Bá hội, Tứ thần thông, Phong trì, Tam âm giao, Huyền chung.
(Bá hội, Tứ thần thông, Phong trì bình Can, tiềm dương, tỉnh thần, khai khiếu; Tam âm giao, Huyền chung tư âm chế dương, ích Can Thận, bình Can).
Táo bón thêm Chiếu hải, Chi câu. Nước tiểu đỏ thêm Âm lăng tuyền; Hông sườn đau thêm Thái xung; Bứt rứt không yên thêm Đại lăng; Mặt đỏ, mắt đỏ, bứt rứt không yên thêm Hành gian; Khó ngủ, ngủ hay mơ thêm Đaị lăng).
+ Tâm Hoả Vượng: đau đầu, bứt rứt, mặt đỏ, môi đỏ, khó ngủ, ngủ hay mơ, nói năng lẫn lộn, nói cười huyên thuyên, lo âu, không phân biệt thân quen, nước tiểu vàng, táo bón, lưỡi đỏ, nhất là đầu lưỡi, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Sác.
Điều trị: Thanh Tâm, tả hoả, an thần. Dùng bài Tả Tâm Thang hợp với Đạo Xích Tán: Sinh địa 30g, Từ thạch, Huyền sâm đều 15g, Long cốt 12g, Hoàng cầm, Chi tử, Đơn bì, Uất kim đều 9g, Đại hoàng, Mộc thông, Đạm trúc diệp đều 6g, Hoàng liên, Cam thảo tiết đều 3g.
(Hoàng liên, Hoàng cầm, Chi tử, Đại hoàng, Mộc thông và Đạm trúc diệp thanh Tâm, tả hoả; Từ thạch, Long cốt trấn kinh, an thần; Sinh địa tư âm huyết của Tâm và thanh nhiệt, tránh cho âm khoong bị tổn thương vì tác dụng đắng của các vị thuốc khác; Huyền sâm thanh hư nhiệt; Đơn bì, Uất kim hoạt huyết, hoá ứ; Mộc thông, Đạm trúc diệp, Cam thảo tiết lợi thấp, thanh trường Vị, dẫn tà khí thoát ra đường tiểu).
Miệng và họng khô thêm Mạch môn, Thiên môn, Bách hợp đều 12g, Thạch hộc 9g; Mất ngủ, hay mơ thêm Toan táo nhân, Dạ giao đằng đều 12g, Phục thần 9g.
Châm Cứu
Thông lý, Đại lăng, Bá hội, Tứ thần thông.
(Thông lý, Đại lăng thanh Tâm, tả hoả, trọng trấn, an thần; Bá hội, Tứ thần thông an thần, khai khiếu).
Đầu đau thêm Đầu duy, Thái dương, Ấn đường (Thông thiên). Bứt rứt nhiều, khó ngủ, hay mơ châm ra máu Lao cung, Thiếu xung. Nói xàm, cử động vô ý thức châm ra máu Lao cung và Thiếu xung. Suy nghĩ lung tung, lo âu châm ra máu Ẩn bạch. Nước tiểu vàng thêm Trung cực. Miệng và họng khô thêm Chiếu hải.
+ Đờm Trọc Che Lấp Thanh Khiếu: Nặng đầu, da mặt vàng bủng, phù thủng, mệt mỏi, ngủ mê mệt, thở khò khè, nói năng lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, vui buồn lẫn lộn, không chú ý đến sự hiện diện của người khác, khạc nhổ đờm, bụng đầy trướng. Nặng hơn thì mất cảm giác, không thể tự làm những công việc của riêng mình (ăn uống, tiêu tiểu…), lưỡi nhạt, nhờn, mạch Hoạt, Nhu.
Điều trị: Kiện Tỳ, hoá đờm, tỉnh não, khai khiếu. Dùng bài Tẩy Tâm Thang: Nhân sâm, Toan táo nhân, Phục thần đều 12g, Bán hạ, Thạch xương bồ đều 9g, Trần bì, Thần khúc, Cam thảo đều 6g, Phụ tử 3g.
(Bán hạ, Thạch xương bồ, Trần bì hoá đờm, tỉnh não, khai khiếu; Nhân sâm, Phụ tử, Cam thảo ôn và kiện Tỳ, giúp cho Tỳ không bị đờm thấp làm tổn thương; Thần khúc giúp Tỳ vận hoá đờm thấp; Nhân sâm an thần, tăng trí nhớ; Toan táo nhân, Phục thần dưỡng Tâm, an thần, tăng trí nhớ).
Đờm ngăn trở thêm Triết bối mẫu, Đởm nam tinh, Viễn chí đều 9g; Bụng đầy trướng, bỏ Nhân sâm, Phụ tử thêm Toan táo nhân, Hoắc hương, Bội lan, Hậu phác, Lai phục tử, Chỉ xác , Mộc hương đều 9g.
Châm Cứu
Bá hội, Tứ thần thông, Phong trì,, Túc tam lý, Phong long, Âm lăng tuyền.
(Bá hội, Tứ thần thông, Phong trì làm nhẹ đầu, tỉnh não, khai khiếu; Túc tam lý kiện Tỳ để ngừa thấp trọc đình trệ; Âm lăng tuyền thấm thấp; Phong long hoá thấp).
Đờm ngăn trở thêm Trung quản. Bụng đầy trướng thêm Lương môn, Trung quản; Mệt mỏi không có sức thêm Túc tam lý; Ngủ nhiều thêm Tam gian; Nói khó, nói lẫn lộn thêm Thông lý; Vui buồn thất thường thêm Thần môn, Ẩn bạch.
Điều Dưỡng
. Hướng dẫn người bệnh tập luyện để giữ càng lâu càng tốt những hoạt động tối thiểu trong đời sống hàng ngày như dùng gậy khi di chuyển, cầm đũa, muống…
. Các chuyên viên về thần kinh đều thống nhất là bệnh nhân Alzheimer không mất hoàn toàn khả năng hiểu biết, vì vậy việc tập luyện ở người cao tuổi để kích thích trí tuệ rất quan trọng
CHỨNG ANH
Chứng anh là loại bệnh của tuyến giáp, thường được chia làm các chứng Khí Anh, Nhục Anh, Thạch Anh, Anh Ung.
Đặc điểm chủ yếu của chứng anh là: cổ sưng hoặc có khối u, di động theo động tác nuốt, khó tiêu vàkhó vỡ.
Nguyên Nhân
Bệnh ở vị trí trước cổ, hai bên hầu kết, có mạch nhâm và nhánh của mạch đốc, 2 kinh can thận cũng đi qua vùng hầu. Do đó các yếu tố gây tắc kinh lạc các mạch này gây rối loạn chức năng can thận, mạch Nhâm, mạch Đốc mạch sinh ra khí trệ, đàm ngưng huyết ứ, kết tụ vùng trước cổ sinh bệnh.
+ Khí trệ: Do thủy thổ bất hòa, ăn uống không điều độ, tình chí nội thương gây rối loạn khí cơ, khí trệ, khí uất, kết tụ ở cổ gây bệnh như chứng Khí anh.
+ Huyết ứ: khí trệ huyết ứ (do khí ỉa huyết soái), huyết ứ trước cổ sinh bệnh như chứng thạch anh.
+ Đờm ngưng: do thủy thổ bất hòa, tình chí nội thương hoặc chính khí suy, độc tà xâm nhập gây nên kinh lạc tắc trở gây chức năng tạng tỳ phế thận rối loạn, thủy thấp không hóa được tích tụ lại thành đàm ở hấu kết (sụn giáp) sinh bệnh như chứng nhục anh, anh ung.
Tóm lại theo YHCT thì chứng anh là một chứng bệnh do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do thủy thổ bất hứa, thất tình nội thương, chính khí bất túc, ngoại tà xâm nhập dẫn đến kinh lạc, tạng phủ thất điều, khí trệ huyết ứ, đờm trọc kết tụ ở cổ sinh bệnh.
Phương Pháp Điều Trị
Theo 3 nguyên nhân trên, trên lâm sàng có 3 thể bệnh chủ yếu cùng tên, mỗi thể bệnh có phép trị và bài thuốc như sau:
1. Thuốc uống.
+ Lý khí giải uất: Dùng bài Tiêu Dao Tán, Tứ Hải Sơ Uất Hoàn.
Chỉ định: chứng khí anh, có đặc điểm khối cục mềm, di động, đau ngực sườn, rêu lười trắng mỏng, mạch Huyền Hoạt.
+ Hoạt Huyết Tán Ứ: Dùng bài thuốc: Đào Hồng Tứ Vật Thang.
- Chỉ định: chứng thạch anh có triệu chứng cục khối cứng, đau cố định, lưỡi tím đen, có ban hoặc nốt ứ huyết, mạch Nhu Sáp.
+ Hóa Đờm Nhuyễn Kiên: dùng bài Hải Tảo Ngọc Hồ Thang.
- Chỉ định: chứng nhục anh do đàm ngưng kết sinh ra, không đau, ấn có cảm giác cứng hoặc nang, không đỏ không nóng, rêu lưỡi mỏng nhầy, mạch Huyền.
Ngoài ra, tùy tình hình bệnh lý mà có thể dùng các phép thanh nhiệt hóa đàm, bổ thận ích can, điều nhiếp mạch Xung Nhâm.
2. Phép dùng ngoài: có dán cao, châm cứu, phẫu thuật.
KHÍ ANH
Khí anh là tên gọi bệnh bướu giáp đơn thuần theo YHCT, còn gọi là bướu cổ. Bệnh phổ biến ở miền núi, có thể tập trung ở một vùng (gọi là bướu cổ địa phương), có thể xuất hiện lẻ tẻ ở nhiều nơi. Theo kết quả điều tra của một số tác giả thì tỷ lệ mắc bệnh khá cao ở nước ta, nhất là miền cao nguyên có vùng lên tới trên 90% người mắc bệnh. Bệnh có thể tránh được bằng cách ăn muối có trộn Iốt.
Nguyên Nhân
1 Người cư dân vùng cao nguyên cảm phải sơn lam chướng khí sinh bệnh.
2. Do nội thương tình chí, tức giận nhiều gây tổn thương can, can khí uất kết sinh đàm thấp, khí trệ sinh bệnh. Hoặc lo nghĩ nhiều tổn thương tỳ, kiện vận rối loạn, đàm thấp nội sinh, đàm trọc kết tụ ở cổ. sinh bệnh.
3. Thận khí hư tổn ngoại tà xâm nhập: do cơ thể phát triển nhanh, do sinh nhiều, thai nghén, cho con bú đều làm hao tồn thận khí, thủy không đủ muôi mộc, mộc khí uất kết khắc tỳ thổ, chức năng vận hóa rối loạn, đàm thấp nội sinh, khí trệ đàm kết ở cồ mà sinh bệnh.
Tóm lại, bệnh chù yếu do ngoại cảm sơn lam chướng khí (vùng thiếu Iốt) trên cơ thể thận khí suy (do yêu cầu phát triển, sanh nhiều, nuôi con, tinh thần u uất buồn phiền, y....)mà sinh bệnh.
Triệu Chứng Lâm Sàng
Bệnh phát nhiều ở tuổi thanh niên đang phát triển, nữ nhiều hơn nam, tỷ lệ cao vào thơi kỳ thai nghén và cho con bú, ở vùng lưu hành cũng gặp nhiều ở tuổi học sinh tiểu học. Lúc bắt đầu triệu chứng không rõ, tuyến giáp to dần, bờ không rõ, sắc da bình thường, không đau, ấn vào mềm, có loại to sệ xuống, cảm giác nặng. Trường hợp nặng đè ép khí quản, thực quản, họng thì có triệu chứng nuốt khó, giọng khàn, thở gấp khó thở, nếu chèn ép mạch máu thì có nổi tĩnh mạch ở cổ.
Chẩn đoán phân biệt: trong chẩn đoán thường cần phân biệt với:
- Nhục Anh: tức u giáp cứng hơn thường, khối u khu trú hình cầu hoặc hình trứng (hình thuẫn).
- Thạch Anh: tức ung thư tuyến giáp, hình thể lồi lõm không đều, cứng như đá, ít hoặc không di động theo động tác nuốt.
- Anh Ung: tức viêm tuyến giáp bán cấp, tuyến giáp sưng đau xuyên sang vùng chẫm sau tai kèm theo họng đau, đau đầu, sốt.
Biện Chứng Luận Trị
Thường chia ra 2 thể:.
+ Khí Trệ Đờm Ngưng: tuyến giáp sưng, bờ không rõ, sắc da bình thường, ấn mềm không đau, to nhỏ thay đổi theo trạng thái vui buồn của người bệnh (vui thì nhỏ, tức giận buồn phiền thì to ra), triệu chứng toàn thân không rõ. Chất lưới hồng nhạt, rêu trắng mỏng hoặc trắng vàng.
Điều trị:Sơ can, lý khí, hóa đờm, tiêu sưng. Dùng bài Tứ Hải Sơ Uất Hoàn (Dương Y Đại Toàn) : Thanh mộc hương 15g, Trần bì, Hải cáp phấn đều 6g, Hải đới, Hải tảo, Côn bố, Hải phiêu tiêu đều 60g, tán bột làm hoàn, mỗi lần uống 9g, ngày 2 lần với nước.
+ Thận Dương Hư Tổn: bệnh nhân đang ở thời kỳ phát triển, hoặc có thai, sau sanh, cho con bú, thường kèm theo triệu chứng váng đầu, lưng gối đau mỏi, mệt mỏi, ra mồ hôi trộm hoặc tự hãn, lưới sắc nhợt ít rêu, mạch Hư Tế Nhược.
Điều trị:bổ ích thận khí, nhuyễn kiên, tán kết. Dùng bài Tứ Hải Sơ Uất Hoàn thêm Thỏ ti tử, Nhục thung dung, Bổ cốt chi, Hà thủ ô để bổ thận, ích khí.
- Các phương pháp điều trị khác:
Châm Cứu
+ Ế phong, Đại chùy, Thiên đột, Khúc trì, Hợp cốc. Châm mỗi ngày hoặc cách ngày (Trung Y Ngoại Khoa Học).
Nhĩ Châm
+ Nội tiết tố, Tuyến giáp (Trung Y Ngoại Khoa Học).
Cứu Pháp
Thiên đột, Phong trì, Khúc trì, Trung chử (Trung Y Ngoại Khoa Học).
Một Số Bài Thuốc Đơn Giản:
+ Hải tảo, Côn bố đều 15 - 30g, sắc nước, chia hai lần uống trong ngày hoặc làm hoàn uống (Trung Y Ngoại Khoa Học).
+ Hải tảo, Côn bố lượng bằng nhau, Thanh bì lượng bằng 1/3 Côn bố, sao vàng tán bột làm hoàn. Mỗi ngày uống 10g, sau bữa ăn tối. Có thể dùng lâu dài (Trung Y Ngoại Khoa Học).
+ Uất kim, Đơn sâm, Hải tảo đều 15g, sắc uống ngày 1 thang, liên tục trong 3-4 tuần, có thể cho thêm đường uống (Trung Y Ngoại Khoa Học).
+ Hải đới 60g, Đậu xanh 150g nấu chín cho đường ăn hằng ngày (Trung Y Ngoại Khoa Học).
+ Hạ khô thảo 30g, Hải tảo 60g sắc uống (Trung Y Ngoại Khoa Học).
+ Hà thủ ô 20g, Ô mai 10g, Côn bố 15g, sắc uống (Trung Y Ngoại Khoa Học).
+ Lá sinh địa, Hạ khô thảo đều 30g, Sơn tra 20g sắc uống.
Phòng Bệnh Và Điều Dưỡng
. Luôn giữ tinh thần thanh thản thoải mái, tự kiềm chế không tức giận, không buồn phiền, không lo nghĩ quá nhiều.
. Vùng có lưu hành bệnh, chú ý cải tạo nguồn nước và dùng muối Iốt bắt buộc.
. Nên dùng thường xuyên ăn các chất hải tảo và các chất hải sản nhất là phụ nữ thời kỳ cho con bú và thời kỳ có thai, tuổi dậy thì.
NHỤC ANH
Nhục anh tức U giáp lành tính, có đặc điểm lâm sàng là u hình trứng hoặc hình nửa bán cầu, đặc cứng, bề mặt trơn, ấn không đau, đi động lên xuống theo động tác nuốt, mầu da bình thường, phát triển chậm, khó tiêu và không vỡ.
Nguyên Nhân
+ Tình chí nội thương, tức giận gây tổn thương can, lo nghĩ nhiều làm tổn thương tỳ, Tỳ bị tổn thương thì chức năng kiện vận bị rối loạn, khí trệ, đờm ngưng, huyết ứ, kết tụ ở cổ gây nên bệnh.
+ Thủy thổ bất hòa, vùng cao nguyên nước uống không bình thường, uống lâu ngày gây rối loạn tạng phủ, khí trệ, đờm trọc, huyết ứ tích tụ tại cổ gây nên bệnh.
Triệu Chứng Lâm Sàng
Tuổi mắc bệnh thường dưới 40, nữ nhiều nam ít, phát hiện cục u một bên hoặc cả hai hình bán cầu hoặc hình trứng bề mặt trơn tru, di động theo động tác nuốt, ấn không đau, phát triển chậm, không có triệu chứng toàn thân rõ rệt. Trường hợp khối u to lên có thể chèn ép khí quản, thực quản gây nuốt khó, khó thở, giọng khàn. Có người kèm theo tính tình nóng, dễ gắt, hồi hộp, ngực tức, ra mồ hôi, kinh nguyệt không đều, chân tay run, mạch Tế Sác, hoặc dễ đói, giảm cân, mệt mỏi, người gầy, rụng tóc, tiêulỏng, phần nhiều dễ ung thư hóa.
Chẩn Đoán Phân Biệt
Cần phân biệt với
- Khí Anh: tức bướu giáp đơn thuần.
- Thạch Anh: tức ung thư tuyến giáp, hình thể lồi lõm không đều, cứng như đá, ít hoặc không di động theo động tác nuốt.
- Anh Ung: tức viêm tuyến giáp bán cấp, tuyến giáp sưng đau xuyên sang vùng chẫm sau tai kèm theo họng đau, đau đầu, sốt.
Biện Chứng Luận Trị
+ Khí Trệ Đờm Ngưng: khối u bề mặt trơn, cứng vừa, ấn không đau, kèm theo ngực đầy tức, họng hơi nghẹn, rêu lưới mỏng hơi nhầy, mạch Huyền Tế.
Điều trị: Khai uất, hóa đờm, nhuyễn kiên, tán kết.
Bài thuốc: Hải Tảo Ngọc Hồ Thang hợp Tiêu Dao Tán gia giảm.
+ Vị Nhiệt Tỳ Nhược: kèm theo triệu chứng ăn nhiều mau đói, người gầy, tiêu lỏng, lười rêu mỏng nhầy, mạch Nhu.
Điều trị: Sơ can lý khí, tư âm, thanh vị nhiệt. Dùng bài Hải Tảo Ngọc Hồ Thang hợp Ngọc Nữ Tiễn gia giảm.
+ Can Thận Âm Hư: kèm theo váng đầu, hồi hộp, bứt rứt, ra mồ hôi, tay run, kinh nguyệt lượng ít hoặc bế kinh, lười đỏ, mạch Sác.
Điều trị: tư bổ can thận, dưỡng âm, thanh nhiệt. Dùng bài Tri Bá Địa Hoàng Hoàn gia giảm hoặc bài thuốc kinh nghiệm trị bướu (Đương quy, Đan sâm, Hoàng dược tử, Hạ khô thảo, Sinh mẫu lệ, Côn bố, Hải phù thạch) gia giảm.
+ Đờm Ứ Ngưng Kết: khối u cứng hoặc đau, chất lười đỏ tía, xám, hoặc ban ứ huyết, mạch Tế Sáp.
Điều trị: hóa đờm, nhuyễn kiên, khai uất, hành ứ. Dùng bài Hải Tảo Ngọc Hồ Thang, hợp với Tiểu Kim Đơn (Bạch giao hương, Thảo ô đầu, Ngũ linh chi, Địa long, Chế mã tiền tử, đều 45g, Nhũ hướng, Một dược (khử dầu) đều 22,5g, Đương qui thân 22,5g, Xạ hương 9g, Mực tàu 3,6g). Tất cả tán bột mịn, dùng bột gạo nếp làm hoàn bằng hạt khiếm thực, mỗi lần uống 1 hạt, ngày 2 lần với rượu. Phụ nữ có thai không dùng.
Các Phương Pháp Khác
+ Dán cao: dùng Dương Hòa Giải Ngưng Cao.
+ Châm cứu: Chọn huyệt Định suyễn, châm cách nhật.
Hoặc châm kim thẳng quanh bướu.
Phòng Bệnh Và Điều Dưỡng
1. Luôn giừ tinh thần thanh thản, tránh giận dữ, lo buồn.
2. Trường hợp trị lâu không thấy tiến bộ hoặc khối u to hơn nên cắt bỏ.
ÁP XE GAN
(Can Ung - Liver Abcess)
Đại Cương
Là những ổ mủ to hoặc nhỏ, nhiều hoặc ít, ở vào khoảng cửa ở thành ống mật và huyết quản hoặc đã lan vào mô gan.
Chứng Can ung đã được nhắc đến từ lâu trong sách Nội Kinh (thế kỷ thứ 2).
Thiên ‘Đại Kỳ Luận’ (Tố Vấn 48) viết: “Chứng Can ung, hai bên hông sườn đầy, nằm xuống thì kinh sợ, không tiểu được”, đây là những triệu chứng của áp xe gan.
Từ Nội Kinh đến đời nhà Tống, đều ít bàn đến chứng Can ung. Đến sau đời nhà Tống, nhà Nguyên chứng Can ung mới được bàn đến nhiều hơn.
Đời nhà Tống, sách ‘Sang Dương Kinh Nghiệm Toàn Thư’ viết: “Tâm Can ung... ung do từ Tâm, Tâm chủ hành huyết khí, huyết nhiệt làm huyết bị tổn thương ứ lại ở kinh lạc, đó là chứng bệnh độc”, cho thấy chứng Can ung là chứng trong huyết có nhiệt độc làm tổn thương kinh lạc, nhập vào Tâm, Can gây nên bệnh. Đời nhà Thanh, sách ‘Y Tông Kim Giám’ viết: “Can ung do tình uất khí nghịch gây nên”. Sách ‘Biện Chứng Lục q 13’ viết: “Can, một khi tức giận thì lá gan phình lên, Can khí sẽ bị nghịch. Giận dữ nhiều thì lá gan nở to, trống rỗng, khó bình phục. Tức giận thì hoả động, giận nhiều thì hoả thịnh, hoả thịnh thì sẽ làm cho âm huyết bị khô, âm huyết khô thì Can khí bị táo nhiều, huyết không nuôi dưỡng được Can khiến cho dễ tức giận, khí tức giận gây nên tổn thương Can, uất kết lại gây nên chứng ung” hoặc “Chứng Can ung không khỏi thì sinh ra tức giận, uất lại mà sinh ra ung vậy”.
Có những biểu hiện giống chứng Hiếp Thống của Đông Y.
Nguyên Nhân
+ Theo YHHĐ:
. Do amip và vi khuẩn xâm nhập vào gan qua một trong ba đường: Động mạch, tĩnh mạch cửa và ống mật.
. Xuất phát từ nhiễm khuẩn huyết, vi khuẩn qua động mạch gan xâm nhập vào gan, nhất là mặt gan ngoài.
. Bắt nguồn từ một áp xe ruột dư, một ổ mủ khác ở bụng, amip và vi khuẩn theo đường tĩnh mạch cửa xâm nhập vào gan và thường trú ở thuỳ phải. Hoặc từ ống mật amip chạy vào gan, phổ biến nhất vào thuỳ trái.
. Ở Việt Nam, đa số là loại áp xe gan do amip, áp xe gan – ống mật.
+ Theo YHCT:
. Do Tình Chí Uất Kết: Can chủ sơ tiết, nếu Can khí bị uất kết, khí nghịch làm cho huyết ứ trệ ở kinh Can lâu ngày hoá độc gây ra. Mộc khắc Tỳ thổ, Tỳ mất chức năng kiện vận, sẽ sinh ra thấp nhiệt, ngừng trệ ở Can Đởm lâu ngày sẽ sinh ra ung.
. Do Ăn Uống Không Điều Độ: Thức ăn cao lương mỹ vị (nhiều chất béo), cay nóng, thức ăn nướng... làm tổn thương trường vị, mất chức năng vận hoá, thuỷ thấp không vận chuyển được, sinh ra thấp nhiệt ở bên trong, ứ kết lại ở Can Đởm. Khí huyết và thấp, đờm cùng bị ngăn trở gây nên chứng Can ung. Sách ‘Mã Bồi Chi Ngoại Khoa Y Án’ viết: ”Thích uống rượu, mỗi lần uống nhiều, rượu vào trong Vị sẽ làm cho gan nở ra, Đởm bốc lên. Đởm bùng lên thì khí huyết không thông được, đờm trọc ở trong vị sẽ tràn ra hai bên hông sườn. Đờm, khí, huyết hợp lại với nhau, kết lại thành chứng ung”.
. Do Tổn Thương: dùng sức quá mức hoặc do té ngã tổn thương làm cho lạc mạch bị ứ huyết, huyết ứ hoá ra nhiệt khiến cho huyết bị bại, huyết nhục bị thối nát hoá ra mủ thành chứng ung.
. Do ôn độc hoặc thấp nhiệt độc lâu ngày không giải trừ được, làm thương tổn tạng Can, khiến cho khí huyết bị ứ trệ, huyết nhục bị thối nát hoá ra mủ (Nội Khoa Học Thành Đô).
. Do biến chứng từ một số bệnh khác như Trường ung (viêm ruột), giun đũa (giun chui ống mật), do ký sinh trùng Amip (Entamoeba Histolytica) gây ra (vì vậy còn gọi là Áp xe gan Amip), chứng kết hung phát vàng da hoặc sau khi giải phẫu mật, do viêm nhiễm ở đường mật lan sang (gọi là Áp xe đường mật), tà độc lưu trệ, ứ ở bên trong làm tổn thương Can mạch, uất lại gây nên.
Mã Bồi Chi nhắc đến một số yếu tố gây bệnh như sau: “Đờm khí huyết trệ ứ ở Can lạc” – “Đàm nhiệt nhập vào Can lạc”.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng bệnh thường diễn biến qua 3 giai đoạn:
1- Giai Đoạn Nung Mủ:
+ Chứng: Nóng lạnh thất thường, hạ sườn bên phải đau, ấn vào đau hơn, không muốn nằm nghiêng, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng trắng, mạch Huyền Hoạt. Giai đoạn này tương ứng với giai đoạn viêm của YHHĐ.
+ Biện Chứng:Can Đởm có quan hệ Biểu Lý vì vậy tà độc nhập vào Can gây ra lúc nóng lúc lạnh. Can bệnh, khí cơ không thông, khí huyết bị ứ trệ làm tổn thương huyết lạc khiến cho hạ sườn bên phải đau, không nằm nghiêng được. Nhiệt tà làm hại tân dịch gây ra khát. Khí uất, huyết trệ, tam tiêu thuỷ đạo không thông gây ra nước tiểu vàng. Rêu lưỡi trắng, vàng, mạch Huyền Hoạt là dấu hiệu thấp nhiệt uất trệ ở Can.
+ Nguyên nhân: do Can uất hoá hoả hoặc huyết ứ hoá nhiệt, thấp nhiệt nung nấu, ngưng kết ở Can Đởm lâu ngày gây nên.
2- Giai Đoạn Thành Mủ:
+ Chứng: Lạnh run, sốt cao, ra mồ hôi, hông sườn đầy, đau, đau lan đến bụng dưới hoặc nách, vai, miệng khát, tâm phiền, muốn nôn, nôn, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác.
+ Biện Chứng: Tà chính giao tranh, mủ hình thành vì vậy gây ra rét run, sốt cao, ra mồ hôi. Tà khí ngăn trở ở kinh lạc, khí huyết bị ứ trệ, hoá thành mủ khiến cho Can tạng sưng trướng, hông sườn đau. Tạng và kinh Can bị uất trệ không thông gây ra đau lan xuống bụng dưới hoặc lên nách, vai. Nhiệt làm hại phần âm vì vậy gây ra khát, tâm phiền, nhiệt độc xâm nhập vào Vị. Lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác là dấu hiệu nhiệt độc thịnh.
+ Nguyên nhân: do hoả độc mạnh, phần âm bị tổn thương, khí bị tiêu, huyết bị tổn hại gây nên.
3- Giai Đoạn Tiềm Phục
Chứng: hạ sườn phải hơi đau, miệng hơi khô, lưỡi hồng, rêu lưỡi ít, mạch Tế Nhược.
Biện chứng: Tà độc nhập vào Can, làm cho khí huyết bị tổn hại, nhiệt làm tổn thương phần âm khiến cho khí huyết đều hư, khí âm bất túc biểu hiện bằng hông sườn bên phải đau, mỏi mệt không có sức, miệng khô, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Nhược.
Nguyên nhân: Do tà độc lâu ngày làm cho Vị âm bất túc, Tỳ dương hư tổn, khí huyết đều suy.
Chẩn Đoán Phân Biệt
Để người bệnh nằm ngửa, đùi hơi co để làm giãn các cơ thành bụng, thầy thuốc ngồi bên phải, luồn tay trái vào vùng thắt lưng, bàn tay ngửa áp sát vào lưng để đẩy gan ra phía trước bụng khi gan to. Bàn tay phải đặt trên bụng, các ngón tay hơi chếch so với bờ sườn. Bảo người bệnh thở mạnh, có thể sờ thấy bờ dưới của gan.
+ Gan to nhưng mềm và đều đặn là do bệnh của tim.
+ Gan lổn nhổn, bờ sắc là gan bị xơ.
+ Gan lổn nhổn, bờ tù có thể là áp xe gan đường mật và ứ mật.
+ Khối u cứng có thể là ung thư gan.
+ Khối u mềm có thể là áp xe gan.
Sai lầm khi chẩn đoán phân biệt áp xe gan hơi khó vì thường dựa theo các triệu chứng phụ và chẩn đoán:
. Thấy bệnh nhân sốt nên nghĩ đến sốt rét, phổi viêm.
. Thấy thể trạng suy kiệt nhanh nên nghĩ đến lao...
Điều Trị
1- Giai Đoạn Nung Mủ
Điều Trị: Thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, tán kết.
Sách ‘Nội Khoa Học Thành Đô’ dùng bài: Sài Hồ Thanh Can Tán (Y Tông Kim Giám): Cam thảo (sống), Sài hồ, Chi tử, Sinh địa, Hoàng liên, Thanh bì, Liên kiều, Xích thược, Long đởm thảo. Tán bột. Ngày uống 8-12g.
Gia Giảm: Hạ sườn phải đau: thêm Diên hồ sách, Mộc hương.
. Sốt: thêm Bồ công anh, Hạ khô thảo, Vương bất lưu hành.
. Táo bón thêm: Đại hoàng (sống), Mang tiêu.
2- Giai Đoạn Thành Mủ
Điều Trị: Thanh nhiệt, giải độc, khứ hủ, bài nùng.
Sách ‘Nội Khoa Học Thành Đô’ dùng bài: Hoàng Liên Giải Độc Thang (Ngoại Đài Bí Yếu): Chi tử 12g, Hoàng cầm 12g, Hoàng bá 8g, Hoàng liên 12g.
Thêm Sài hồ 8g, Bại tương thảo 8g, Ngư tinh thảo 20g, Đông qua nhân 8g, Ý dĩ nhân 8g, Đào nhân 8g. Sắc uống.
* Gia Giảm:
. Nhiệt độc hoả thịnh xâm nhập vào Tâm bào gây ra hôn mê, nói cuồng: thêm Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn hoặc Chí Bảo Đơn.
. Chính khí không thắng nổi tà khí, biểu hiện sắc mặt vàng, gầy ốm, tinh thần uỷ mị, mồ hôi tự ra: thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Đương qui.
. Ho ói ra mủ, máu, áp xe bị vỡ: thêm Triết bối mẫu, Cát cánh.
. Tiêu ra mủ, máu: thêm Bạch đầu ông, Tần bì.
. Muốn nôn, nôn: thêm Tử diệp (lá Tía tô), Hoàng liên.
Tiêu Viêm Thập Tam Vị Phương (Giang Tây Trung Y Dược 1, 1983): Kim ngân hoa 24g, Liên kiều, Bồ công anh đều 12g, Tử hoa địa đinh 15g, Bản lam căn 18g (hoặc Đại thanh diệp 12g), Xích thược, Đại du (sinh) đều 12g, Liên kiều 6g, Hoàng cầm 12g, Hoàng bá 9g, Đại hoàng (sống), Hoạt thạch đều 12g, Mộc thông 6g. Sắc uống, ngày một thang, chia làm 3 lần uống.
TD: Thanh nhiệt, giải độc, thông phủ, tiết nhiệt, lương huyết, hoạt huyết. Trị áp xe gan, đinh nhọt lở loét.
(Đây là bài Ngũ Vị Tiêu Độc Ẩm, Ngân Kiều Tán hợp với Hoàng Liên Giải Độc Thang gia giảm. Các chứng do hoả nhiệt độc mới phát gây nên, các chứng ung nhọt trong hoặc ngoài, tuỳ chứng mà dùng bài này gia giảm cho phù hợp, có hiệu quả cao).
3- Giai Đoạn Tiềm Phục
Điều Trị : Ích khí, dưỡng huyết, giải độc.
Sách ‘ Nội Khoa Học Thành Đô’ dùng bài Thánh Dũ Thang (Tỳ Vị Luận): Bạch thược 30g, Nhân sâm 30g, Đương qui 20g, Hoàng kỳ 20g, Xuyên khung 30g, Thục địa 30g.
Thêm Bại tương thảo 20g, Bồ công anh 30g.
Sắc uống
Gia Giảm:
. Lưỡi hồng, ít nước miếng: thêm Thiên hoa phấn, Ngọc trúc.
. Bụng dưới trướng: thêm Cốc tinh thảo, Kiến khúc.
Đi sâu vào chi tiết bệnh chứng, sách ‘Trung Y Cương Mục’ giới thiệu 5 loại Can ung như sau:
1- Can Uất Hoá Hoả: Phát bệnh nhanh, vùng hông sườn sưng đỏ, đau, không thích ấn vào, không nằm xuống được, sốt, sợ lạnh, miệng đắng, khô, hay cáu gắt, chóng mặt, mắt đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Huyền Sác.
Điều Trị: Sơ Can, giải uất, thanh nhiệt, tả hoả. Dùng bài Sài Hồ Thanh Can Thang: Sài hồ, Đương quy, Xuyên khung, Xích thược, Sinh địa, Liên kiều, Ngưu bàng tử, Hoàng cầm, Chi tử, Thiên hoa phấn, Phòng phong, Cam thảo.
(Sài hồ sơ Can, giải uất; Hoàng cầm, Chi tử hợp với Sài hồ để thanh Can, tả hoả; Sinh địa, Đương quy tư âm, dưỡng huyết, nhu Can; Xuyên khung, Xích thược hành khí, hoạt huyết; Thiên hoa phấn, Phòng phong, Ngưu bàng tử, Liên kiều, cam thảo giải độc, tiêu ung).
Gia giảm: Can hoả nhiều thêm Hạ khô thảo, Long đởm thảo, Kim ngân hoa để thanh Can, tả hoả; Hông sườn đau thêm Huyền hồ, Uất kim để hoạt huyết, chỉ thống. Váng đầu, hoa mắt thêm Cúc hoa, Tang thầm để thanh Can, minh mục. Miệng khô, khát thêm Thạch hộc, Sa sâm, Mạch môn để sinh tân, chỉ khát.
2- Thấp Nhiệt Uẩn Kết: Hông sườn đau tức,miệng đắng, họng khô, ăn uống ít, lúc nóng lúc lạnh, nước tiểu vàng đục hoặc đỏ, sít, táo bón, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Huyền Hoạt hoặc hoạt Sác.
Điều trị: Sơ lợi Can Đởm, thanh nhiệt, lợi thấp.
Dùng bài Long Đởm Tả Can Thang (Hoà Tễ Cục Phương): Cam thảo, Đương quy, Hoàng cầm, Long đởm thảo, Mộc thông, Sài hồ, Sinh địa, Sơn chi, Trạch tả, Xa tiền tử.
(Long đởm thảo tả thực hoả ở Can Đởm, thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu; Hoàng cầm, Chi tử, Sài hồ vị đắng, tính hàn, để tả hoả; Xa tiền tử, Mộc thông, Trạch tả thanh lợi thấp nhiệt, làm cho thấp nhiệt thoát ra qua đường tiểu; Sinh địa, Đương quy để lương huyết, ích âm; Cam thảo điều hoà các vị thuốc.
Gia giảm: Thấp nhiều thêm Nhân trần, Khổ sâm để thanh nhiệt, hoá thấp. Nhiệt nhiều thêm Ngân hoa, Liên kiều, Bồ công anh để thanh nhiệt, giải độc. Bụng đau thêm Uất kim, Huyền hồ, Thanh bì để hành khí, hoạt huyết, chỉ thống. Hạ sườn có khối u thêm Xích thược, Tạo giác thích để hoạt huyết, thông lạc, tán kết. Ăn uống khó tiêu thêm Phục linh, Trần bì để tỉnh Tỳ, hỗ trợ việc vận hoá thức ăn. Táo bón thêm Đại hoàng (sống) để tả hạ, thông tiện.
3- Đờm Trọc Trở Kết: Hông sườn đau, hạ sườn sưng đau, ấn vào đau hơn, khó thở, ho có đờm, ngực và hông sườn đầy tức, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch huyền Hoạt.
Điều trị: Hoá đàm, tán kết, hoạt huyết, thông lạc.
Dùng bài Sơ Uất Địch Đàm Thang: Hương phụ, Uất kim, Bán hạ, Trúc nhự, Quát lâu nhân, Phật thủ, Phục linh, Chỉ xác, Tô ngạnh, Tam thất, Đương quy, Quất hồng.
(Uất kim, Hương phụ sơ Can, hành khí; Trúc nhự, Bán hạ, Quát lâu nhân táo thấp, hoá đờm; Phật thủ, Chỉ xác, Quất hồng, Tô ngạnh hành khí, hoá đờm, khoan hung, khai uất; Phục linh kiện Tỳ, lợi thấp, hoá đờm; Đương quy, Tam thất hoạt huyết, hoá ứ, chỉ thống).
Gia giảm: Đờm trọc nhiều, khí cơ bị ngăn trở, phiền muộn thêm Đởm tinh, Trúc lịch, Trần bì để hoá đờm, hành khí. Tỳ Vị không vận hoá được thức ăn thêm Bạch truật, Thần khúc, Khấu nhân để kiện Tỳ, trợ vận. Hông sườn cứng đau thêm Xích thược, Xuyên sơn giáp (sao), Đào nhân, Tạo giác thích để hoạt huyết, tán kết, chỉ thống.
4- Khí Trệ Huyết Ứ: Hông sườn đau, đau lâm râm hoặc đau như kim đâm, ấn vào đau hơn, chuyển động khó, không có nóng lạnh, lưỡi có vết ban tím ứ huyết, mạch Huyền Sáp.
Điều trị: Hoạt huyết, hoá ứ, hành khí, thông lạc.
Dùng bài Thanh Can Hoạt Lạc Thang (Thanh bì, Uất kim, Đào nhân, Tân giáng, Trạch lan, Tam thất, Xích thược, Đương quy, Tô ngạnh, Chỉ xác, Ngoạ lăng tử.
(Uất kim hành khí, giải uất, tán kết; Xích thược, Đào nhân, Tân giáng hoạt huyết, hoá ứ, thông lạc; Tam thất hoạt huyết, tiêu thủng, chỉ thống; Chỉ xác, Tô ngạnh lý khí, hành trệ; Đương quy hoạt huyết, bổ huyết; Ngoạ lăng tử nhuyễn kiên, hoá đờm, tán kết, hành ứ, chỉ thống).
Gia giảm: Đau như kim đâm thêm Nhũ hương, Một dược để hoạt huyết, phá ứ, chỉ thống. Bụng đau thêm Mộc hương, Nguyên hồ, Xuyên luyện tử để hành khí, chỉ thống. Vùng sưng cứng thêm Tạo giác thích, Xuyên sơn giáp để phá ứ, tán kết.
5- Tà Ủng Thể Hư: Da tại chỗ sưng đỏ, to, hông sườn căng to như cái trống, ấn vào đau như kim đâm nhưng lại mềm, cơ thể gầy ốm, sắc da vàng úa, tinh thần uể oải, ăn uống kém, họng khô, khát, lưỡi đỏ, rêu lưỡi sạch, mạch Sác mà Tế. Hoặc tay chân lạnh, nằm xuống thì đổ mồ hôi, lỵ phân mủ máu, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, Mạch Trầm Tế mà Nhược.
Điều trị: Bổ ích khí huyết, thác lý bài nùng.
Dùng bài Thác Lý Tiêu Độc Tán: Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Phục linh, Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung, Kim ngân hoa, Bạch chỉ, Cát cánh, Tạo giác thích, Cam thảo.
(Nhân sâm, Bạch truật, Phục linh, Hoàng kỳ ích khí, kiện Tỳ; Đươgn quy, Xuyên khung, Bạch thược dưỡng huyết, hoà doanh; Kim ngân hoa thanh nhiệt, giải độc; Bạch chỉ, Cát cánh tán kết, bài nùng; Tạo giác thích phá kết, tiêu thủng; Cam thảo điều hoà các vị thuốc.
Gia giảm: Mủ không giảm thêm Đông qua nhân, Bại tương thảo, Ngư tinh thảo, Ý dĩ nhân (sống) để thác lý, bài nùng. Bụng đau, lỵ mủ máu thêm Bạch đầu ông, Mã xỉ hiện để giải độc, chỉ lỵ. Nếu mủ vỡ ra làm cho Vị âm bị tổn thương, thêm Thạch hộc, Thái tử sâm, Mạch môn để ích khí, dưỡng âm.
Biến Chứng
+ Nếu phát hiện sớm, điều trị kịp thời, đúng cách, bệnh sẽ phục hồi nhanh.
+ Nếu không điều trị đúng hoặc kịp thời, gan sẽ biến thành ổ mủ to, có khi chứa trên 2~3 lít mủ mầu sô cô la, tanh, không thối.
+ Bệnh nhân có thể cầm cự trong một thời gian khá dài nhưng sức khoẻ ngày càng suy kiệt.
+ Áp xe sẽ tiến triển và gây ra các biến chứng: rò vào cơ hoành, màng phổi, phổi, vỡ vào màng bụng, rất nguy hiểm, tử vong cao.
Y Án Áp Xe Gan Do Vi Khuẩn
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’)
Hoàng X, nam, bộ đội, 25 tuổi. Sốt cao 39-400C, sườn bên phải đau, bụng đầy, ăn không ngon, muốn nôn, gan sưng to, ấn vào đau. Siêu âm thấy trên đường dọc đi qua điểm giữa xương đòn có hai mặt bằng nước ở gian sườn 6 và 7. mặt bằng thứ nhất rộng 1,5cm, sâu dưới da 3cm, mặt thứ hai rộng 1cm, sâu dưới da khoảng 4,5cm. Khoa nội chẩn đoán là áp xe gan, chuyển sang khoa ngoại. Sau khi tiêm nhiều kháng sinh ở khoa nội và khoa ngoại, thân nhiệt hạ xuống 380C, các chứng khác hơi biến chuyển. Dựa vào bệnh chứng, khoa nội và ngoại hội chẩn quyết định tạm hoãn không mổ, theo dõi điều trị. Vẫn truyền kháng sinh vào tĩnh mạch nhưng sau 3 ngày thân nhiệt không hạ, các chứng cũng không bớt, vì vậy chuyển sang khoa Đông y.
Dựa vào mạch Huyền Sác, rêu lưỡi dầy, kém nhuận, chất lưỡi đỏ.
Chẩn đoán là chứng Can ung do tà uẩn, huyết ứ, thối nát thành mủ.
Điều trị: Sơ Can, giải độc, bài nùng, hoá hủ. Dùng bài Đại Sài Hồ Thang và Sài Hồ Thanh Can Thang: Sài hồ, Mộc hương, Tam tiên (sinh) đều 9g, Bồ công anh, Hoàng cầm, Khổ sâm, Nhân trần, Liên kiều, Xích thược đều 15g, Bản lam căn 30g, Xuyên quân, Cam thảo đều 6g. Sắc uống ngày một thang.
Uống 6 thang thì thân nhiệt hạ xuống còn khoảng 37,50C, ăn được nhiều hơn, bụng đỡ đầy. Uống thêm 6 thang nữa, thân nhiệt bình thường, các chứng đều hết. Kiểm tra siêu âm không thấy có chất dịch ở hai chỗ cũ. Uống thêm 6 thang nữa, khỏi bệnh, xuất viện”.
Y Án Áp Xe Gan Do Amip
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’)
“Chu X, nam, 38 tuổi, công nhân. Sơ chẩn ngày 16-2-1976. bệnh nhân đã từng được chọc gan 6 lần ở một bệnh viện, lấy ra 1 lít chất mủ mầu nâu. Chẩn đoán xác định là áp xe gan do amip. Đã sử dụng Emetin, Chloroquin điều trị 10 ngày, bệnh không chuyển, chuyển đến bệnh viện để điều trị.
Khám thấy thân nhiệt 40,30C, bạch cầu 19.600/mm3, tế bào trung tính 81%, tế bào lympho
19%. Siêu âm thấy gian sườn 7 từ đường nách trước đến đường nách giữa thấy một mặt bằng nước khoảng 2cm, đường kính 4,5 x 6,5cm. X quang thấy cơ hoành bị đẩy lên cao, hoạt động bị hạn chế, hình của gan to, gian sườn 7-8 bên phải có thể thấy mặt bằng nước dài 2,5cm. Khám Đông y thấy sốt cao kéo dài không hạ, sườn bên phải đau, thở vào càng đau hơn, khát, thích uống, ăn ít, bụng đầy, khí của phủ tạng không thông, nước tiểu vàng, đỏ, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bẩn. Bệnh nhân cho biết bệnh phát sau khi gặp lạnh, đến nay đã hơn nửa tháng. Bệnh do thấp nhiệt ẩn náu kết ở tạng phủ, trùng độc làm thành ung. Điều trị: phải thông phủ, tiết độc, thanh nhiệt, trừ thấp, sát trùng, tiêu ung.
Điều trị theo hai bước: Trước tiên dùng bài Phan Tả Diệp Ẩm: Phan tả diệp 12g, hãm với nước sôi, để nguội, bỏ bã, uống hết một lần. Uống thuốc xong ngay hôm đó đại tiên ra phân rất thối, rồi sốt hạ.
Sau đó dùng bài Sát Trùng Tiêu Ung Thang: Khổ sâm phiến, Thổ phục linh, Xích thược, Nhân trần đều 15g, Ngư tinh thảo, Liên kiều, Kim ngân hoa đều 12g, Đạm tử linh 10g, Cam thảo (sống) 5g. Sắc uống ngày một thang. Uống 4 thang, ngày 21-2 khám lại, các triệu chứng đã hết, mạch Huyền, Tế, lưỡi đỏ nhạt, rêu lưỡi hơi vàng. Thuốc đã trúng bệnh, cho uống tiếp 4 thang nữa để củng cố kết quả. Sau khi uống thuốc, siêu âm, X quang, xét nghiệm máu lại, thấy đều bình thường. Chọc gan không hút được gì cả. Tháng 8-1978 hỏi lại, không thấy tái phát
ÁP XE PHỔI
(PHẾ UNG - LUNGS ABCESS)
Đại Cương
. Áp xe phổi là trạng thái phổi có mủ.
. Chứng trạng lâm sàng rõ nhất là sốt, ho kèm ngực tức, có khi ho ra mủ, máu.
. Chương thứ 8 ‘Phế Nuy, Phế Ung, Khái Nghịch Mạch Chứng Tịnh Trị’ (Kim Qũy Yếu Lược) ghi: "Ho mà ngực đau, rét run, mạch Sác, họng khô, không khát, ói ra đàm đục, hôi thối, lâu lâu lại ói ra mủ như nước cháo, đó là chứng Phế Ung".
Theo YHHĐ, chứng Phế Ung thường gặp trong các chứng Phế lở loét, có mủ, Phế viêm hóa mủ, Ung thư phổi, Phế quản dãn, Phế quản viêm mạn...
Theo sách ‘Thiên Kim Phương’, có thể dùng Đậu nành (Hoàng đậu) để kiểm tra và theo dõi diễn tiến chứng Phế Ung như sau:
. Kiểm Tra: cho người bệnh nhai Đậu nành, nếu cảm thấy có vị thơm ngọt thường là bị áp xe phổi, nếu người bệnh cảm thấy có vị tanh hôi thì thường không phải là bệnh áp xe phổi.
. Theo dõi diễn tiến bệnh: Sau khi được điều trị một thời gian, nếu người bệnh nhai Đậu nành mà cảm thấy tanh không thể nuốt được là bệnh đã diễn biến tốt, có thể cho ngừng thuốc được rồi. Trái lại nếu vẫn cảm thấy vị thơm ngọt thì bệnh chưa hết, phải điều chỉnh lại phương pháp điều trị cho thích hợp.
Nguyên Nhân
Nguyên nhân chủ yếu do cảm nhiễm ngoại tà. Phong nhiệt độc, phong hàn hóa nhiệt uất kết lại ở Phế, nung nấu Phế khiến Phế khí không thông, nhiệt ủng, huyết ứ kết lại thành ung.
Thiên ‘Phế Nuy Phế Ung Khái Thấu Thượng Khí Bệnh Mạch Chứng Tịnh Trị’ (Kim Quỹ Yếu Lược) viết: “Phong vào phần Vệ thì thở ra được, không hít vào được. Nhiệt nhiều ở phần Vinh thì hít vào được nhưng thở ra không được. Phong làm tổn thương bì mao, nhiệt làm tổn thương huyết mạch. Phong lưu ở Phế, người bệnh ho, miệng khô, suyễn đầy, họng khô, không khát, khạc ra nhiều đàm đặc, thường bị rét run. Nóng quá huyết ngưng trệ chứa kết lại thành mủ”... Cho thấy chứng Phế ung do phong nhiệt làm tổn thương Phế.
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: “ “Chứng Phế ung, do phong hàn làm tổn thương Phế, khí kết tụ lại gây nên... Khí bị hư, hàn thừa cơ hư làm tổn thương Phế, hàn làm cho huyết ngưng trệ, uẩn kết lại thành ung, nhiệt tăng lên, nhiệt tích không tan đi huyết bị bại hóa thành mủ”.
Sách ‘Loại Chứng Trị Tài’viết: “Chứng Phế ung, do cảm phải phong hàn...”.
Sách ‘Y Học Cương Mục q 19’ viết: “Chứng Phế ung, do ăn uống thức ăn cay, nóng, thức ăn nướng, hoặc uống rượu nóng, táo nhiệt làm tổn thương Phế gây nên bệnh, cần trị sớm”.
Sách ‘Thọ Thế bảo Nguyên’ viết: “ Do điều lý thất thường, lao nhọc làm tổn thương chính khí, phong hàn thừa cơ lấn lên, phong sinh nhiệt, uẩn tích lại không tan gây nên chứng Phế ung”.
Nguyên Tắc Điều Trị
Phế ung là bệnh đàm nhiệt ủng trệ, thuộc thực chứng, vì vậy đa số dùng phép Thanh Phế giải độc làm chính, không nên dùng thuốc bổ quá sớm.
Nếu đã thành mủ, nên dùng phép thanh nhiệt giải độc, tiêu mủ, tán kết.
Nếu có khó thở, khan tiếng, lượng mủ máu nhiều mà hôi, móng tay chân tím tái... đó là chứng rất nặng, nên phối hợp với y học hiện đại để điều trị tích cực.
Nếu ho nôn ra máu lượng ít, kéo dài không dứt, sốt về chiều, tâm phiền, miệng họng khô, mồ hôi trộm hoặc tự ra mồ hôi, hơi thở ngắn, gầy ốm, chất lưỡi đỏ tía, lưới ít rêu, mạch Hư, Sác là dấu hiệu khí âm quá hao tổn, nhiệt độc chưa dứt. Điều trị nên phù chính, khu tà.
Trong phép dường Phế, tư âm, nên phối hợp các vị thuốc tiêu mủ, giải độc. Có thể chọn dùng bài Cát Cánh Hạnh Nhân Tiễn gia giảm.
Nếu tà khí hư, chính khí khôi phục dần dần, chuyển sang thời kỳ hồi phục, cơ thể bớt nóng, ho giảm nhẹ, đờm ít... mạch Tế không lực, nên dùng phép dưỡng khí âm, thanh đờm nhiệt, trừ dư tà.
Triệu Chứng Lâm Sàng
Trên lâm sàng, bệnh thường phát triển theo ba giai đoạn như sau:
I- Giai Đoạn Mới Phát:
a- Chứng:Ho đàm dính, vùng ngực đau tức, sợ lạnh, sốt, có khi ho nhiều, khó thở, miệng khô, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Phù Hoạt mà Sác ( NKT.Hải), mạch Sác Thực (NKT.Đô).
b- Biện Chứng:
.Sợ lạnh, phát sốt: do phong nhiệt xâm nhập vào Phế, tà khí và chính khí tranh nhau gây ra.
. Ho, ngực đau, khó thở: do nhiệt độc nung nấu Phế làm cho Phế mất chức năng tuyên thanh.
. Đàm dính, miệng khô, mạch Sác dấu hiệu của nhiệt độc.
. Rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Phù là dấu hiệu phong nhiệt từ phần biểu vào phần lý.
c- Nguyên Nhân:Do phong nhiệt xâm nhập vào Phế, làm tổn thương huyết mạch, huyết bị nhiệt nung đốt gây ra thối thịt, kết lại thành mủ.
d- Điều trị:
+ NKT.Hải: Sơ tán phong nhiệt, thanh Phế, hóa đàm. Dùng bài Ngân Kiều Tán (Ôn Bệnh Điều Biện ) gia giảm: Bạc hà 8g, Cát cánh 8g, Cam thảo 4g, Đậu xị 8g, Kim ngân hoa 12g, Kinh giới huệ 6g, Liên kiều 8g, Lô căn 8g, Ngưu bàng tử 12g, Trúc diệp 6g.
(Kim ngân hoa, Liên kiều, để sơ tán phong nhiệt; Bạc hà, Cát cánh, Đậu xị, Kinh giới, Ngưu bàng tử để tuyên thông Phế khí, Lô căn, Trúc diệp để thanh nhiệt, sinh tân dịch).
-Đầu đau thêm Cúc hoa, Mạn kinh tử, Thanh diệp để giải phong nhiệt, làm nhẹ đầu, sáng mắt. Ho nhiều, đàm nhiều: thêm Bối mẫu, Hạnh nhân, Qua lâu để giảm ho, hóa đàm. Nhiệt làm tổn thương tân dịch: thêm Sa sâm (Huyền sâm), Thiên môn (Thạch hộc), Thiên hoa phấn để nhuận Phế, sinh tân. Ngực đau nhiều: thêm Uất kim, Đào nhân để thông kinh, tán ứ, giảm đau.
+ Sách ‘Trung Quốc Đương Đại Danh Y Nghiệm Phương Đại Toàn’ dùng bài:
1- Ngư Tinh Thảo Kê Áp Phương: Ngư tinh thảo 30g, Kê áp (trứng gà) 1 trái. Ngư tinh thảo sắc trước, lọc bỏ bã, cho Kê áp vào quậy đều uống. Chia 2 lần uống trong ngày. Uống liên tục 15-20 ngày.
2- Phế Nùng Thang Hợp Tễ: Hàn băng thạch 10g, Nha tạo 6g, Nhũ hương 10g, Thiên trúc hoàng 10g, Tử thảo 10g. Sắc, chia 2 lần uống.
+ Sách ‘Nhật Bản Hán Y Danh Phương Tuyển’ dùng 3 bài sau:
1- Phế Ung Thang: Bạch giới tử 2g, Bối mẫu 4g, Cát cánh 4g, Cam thảo 2g, Hạnh nhân 4g, Hoàng cầm 4g, Qua lâu căn 2g. Sắc uống.
2- Vi Kinh Hợp Tứ Thuận Thang: Bối mẫu 4g, Cam thảo 2g, Cát cánh 2g, Đào nhân 4g, Đông qua tử 4g. Tử uyển 2g, Vĩ kinh 4g, Ý dĩ nhân 8g. Sắc uống.
3- Sài Hồ Cát Cánh Gia Đình Lịch Thang: Bán hạ 6g, Cam thảo 2g, Cát cánh 4g, Chỉ thực 2g, Đình lịch tử 2g, Hoàng cầm 4g, Qua lâu nhân 4g, Sài hồ 6g, Sinh khương (khô) 2g. Sắc uống.
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’:
1- Thanh Nhiệt Bài Nùng Thang: Bối mẫu 10g, Bồ công anh 30g, Cát cánh 10g, Chỉ thực 10g, Đan bì 10g, Đào nhân 10g, Đình lịch tử 10g, Đông qua tử 30g, Hoàng cầm 16g, Kim ngân hoa 30g, Lô căn (tươi) 60g, Tô tử 10g, Ý dĩ nhân 30g. Sắc uống ngày 1 thang.
2- Vi Kinh Thang Hợp Cát Cánh Thang Gia Vị: Cam thảo 24g, Cát cánh 50g, Đông qua nhân 50g, Hoàng cầm 24g, Kim ngân hoa 24g, Liên kiều 24g, Ngư tinh thảo 50g, Qua lâu 24g, Vi căn 50g, Ý dĩ nhân 24g. Sắc uống.
+ Sách ‘Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng’ dùng:
1- Ngư Tinh Thảo Cát Cánh Thang: Cát Cánh 20g, Ngư tinh thảo 40g.
2- Ngư tinh thảo 40g, Phổi heo 80g, nấu, ăn cả nước lẫn cái, 3-5 lần/ ngày.
+ Thanh Nhiệt Tuyên Phế Thang: Ngân hoa đằng, Thạch liên (Hột sen) đều 30g, Liên kiều 15g, Ngư tinh thảo (cho vào sau) 50g, Ma hoàng (sống) 10g, Cát cánh 15g, Cam thảo (sống) 10g. Sắc uống (Trung Y Tạp Chí 1987: 7).
Châm Cứu:Đại chùy (Đc 14), Phế du (Bq 13), Đại trường du (Bq 25), Phong long (Vi 40), Khổng tối (P 6), Ngư tế (P 10) (Bị Cấp Châm Cứu).
Nhĩ Châm:Phế, Chi khí quản, Tỳ, Huyết dịch, Huyết cơ điểm, Giao cảm, Bình suyễn, Mê căn (Bị Cấp Châm Cứu).
II- Thời kỳ nung mủ
- Triệu chứng:Sốt cao, ra mồ hôi, không sợ lạnh, ho, thở gấp, ngực đầy, tức, nôn ra đờm dãi tanh hôi hoặc mủ máu, miệng khô, họng khô, rêu lưỡi vàng dầy, mạch Hoạt Sác.
- Biện chứng:Sốt cao, không sợ lạnh là do nhiệt độc cao, tà khí và chính khí giao tranh, nhiệt bị bức bách gây nên ra mồ hôi. Đờm nhiệt uất ở Phế gây nên ho, thở gấp, nôn ra đờm mủ máu, ngực đau tức. Tân dịch bị hao tổn nên miệng khô, họng khô. Rêu lưỡi vàng dầy, mạch Hoạt, Sác là do nhiệt độc uất kết trong thời kỳ nung mủ.
Điều Trị:
+ Sách ‘ NKHT.Hải’: Thanh nhiệt, giải độc, hóa ứ, tán kết, dùng bài: Thiên Kim Vi Hành Thang (Thiên Kim Phương): Đào nhân 12g, Đông qua nhân 12g, Vĩ kinh 40g, Ý dĩ nhân 20g. Thêm Áp chích thảo 8g, Kim ngân hoa 12g, Liên kiều 8g, Ngư tinh thảo 16g. (Dùng Vi hành để thanh nhiệt, tuyên Phế; Đào nhân, Đông qua nhân, Ý dĩ để hóa trọc, trừ ứ, tán kết; Áp chích thảo, Kim ngân hoa, Liên kiều để thanh nhiệt giải độc).
-Nhiệt nhiều thêm Chi tử, Hoàng cầm, Thạch cao, Tri mẫu. Ói ra đàm đục, suyễn: thêm Đình lịch tử, Tang bạch bì.
+ Sách ‘NKHT.Đô’: Thanh nhiệt giải độc, tuyên Phế, hóa ứ, dùng bài: Thiên Kim Vi Hành Thang Gia Vị (Thiên Kim Phương): Đào nhân 12g, Đông qua nhân 12g, Vi kinh 40g, Ý dĩ nhân 20g. Thêm Áp chích thảo 8g, Kim ngân hoa 12g, Liên kiều 8g, Ngư tinh thảo 16g.
. Phiền khát thêm Thiên hoa phấn, Tri mẫu. Táo bón thêm Đại hoàng. Ho đàm thêm Bối mẫu, Qua lâu bì.
- Sinh Hoàng Đậu Tương: Hoàng đậu (Đậu nành) 40-100g, rửa sạch, ngâm nước cho nở ra, xay nhuyễn với nước, lọc bỏ bã thành nước đậu sống. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần khoảng 200ml (Thiên Gia Diệu Phương).
- Phức Phương Ngư Cát Thang: Bối mẫu 10g, Cam thảo 6g, Cát cánh 16g, Đào nhân 10g, Đông qua nhân 30g, Hoàng cầm 10g, Kim ngân hoa 30g, Ngư tinh thảo 30g, Ý dĩ nhân 30g (Thiên Gia Diệu Phương).
- Thanh Nhiệt Thác Nùng Thang: Đông qua tử, Ngân hoa, Bồ công anh, Ý dĩ nhân (sống) đều 30g, Lô căn (tươi) 60g, Cát cánh, Đan bì, Chỉ thực, Đình lịch tử, Xuyên bối mẫu, Đào nhân, Tô tử đều 10g, Hoàng cầm 15g. Sắc uống (Thiên Gia Diệu Phương).
TD: Thanh nhiệt, giải độc, khứ đờm, thác nùng.
- Phục Phương Thanh Nhiệt Giải Độc Thang: Dã mãng mạch căn, Lô căn đều 15 – 30g, Ngư tinh thảo, Kim ngân hoa đều 15g, Hồng đằng 9 – 15g, Hoàng cầm, Cát cánh 6 – 9g, Đan sâm, Đào nhân đều 9g. Sắc uống. Đã trị 20 ca, khỏi hẳn 19 ca, hiệu quả ít: 1 ca (Trung Tây Y Kết Hợp Tạp Chí 1991: 5).
III- Giai Đoạn Vỡ Mủ
a- Chứng:Sốt, khát, thích uống nước, ho ói ra mủ, máu hoặc như nước cơm, mùi tanh hôi, ngực đầy tức, đau, thở khó, không nằm được, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sác.
b -Biện Chứng:
. Ói ra đàm lẫn mủ, máu, tanh hôi: do mủ vỡ ra trong Phế.
. Ngực đầy, đau, thở khó (suyễn), không nằm được: do Phế khí bị ủng tắc không thông.
. Phiền khát, thích uống: do nhiệt độc nung đốt làm cho Phế Vị âm bị tổn thương
. Chất lưỡi đỏ, mạch Hoạt Sác: dấu hiệu nhiệt độc quá thịnh.
c- Hướng điều trị:Bài nùng, giải độc, thanh nhiệt, sinh tân.
d- Điều Trị:
+ Sách ‘NKHT.Hải’ dùng bài:
- Cát Cánh Thang hợp Thiên Kim Vi Hành Thang: Bại tương thảo 8g, Cam thảo 24g, Cát cánh 50g, Đông qua nhân 50g, Hoàng cầm 24g, Kim ngân hoa 24g, Liên kiều 24g, Ngư tinh thảo 50g, Qua lâu 24g, Vi căn 50g, Ý dĩ nhân 24g. Sắc uống.
(Dùng Bại tương thảo, Hoàng cầm, Qua lâu, Vi hành để thanh nhiệt, tuyên Phế; Cát cánh hỗ trợ tác dụng tuyên Phế, Đào nhân, Đông qua nhân, Ý dĩ để hóa trọc, trừ ứ, tán kết; Áp chích thảo, Kim ngân hoa, Liên kiều để thanh nhiệt giải độc).
+ Sách ‘NKHT. Đô’: Bài nùng, hóa ứ, thanh nhiệt, giải độc, dùng bài Cát Cánh Thang Gia Vị (Tế Sinh Phương): Bách hợp 20g, Bối mẫu 40g, Cam thảo 80g, Cát cánh 40g, Chỉ xác 40g, Đương qui 40g, Hạnh nhân 20g, Hoàng kỳ 60g, Phòng phong 40g, Qua lâu nhân 40g, Tang bạch bì 40g, Ý dĩ nhân 40g, Sắc uống.
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương ‘: dưỡng âm, thanh Phế, hóa ứ, bài nùng, dùng bài Bách Hợp Bạch Cập Trư Nhục Thang: Bách hợp 120g, Bạch cập 60g, Thịt heo (Trư nhục) 100-200g. Thuốc tán bột, mỗi lần dùng 10-12g, trộn với thịt heo giã nhỏ, chưng cách thủy cho chín, ăn ngày một lần.
+ Tư Âm Giải Độc Thang ((Sơn Tây Trung Y Tạp Chí): Huyền sâm 15g, Ngân hoa, Bồ công anh. Lô căn, Tử hoa địa đinh, Bại tương thảo, Cát cánh, Thiên môn, Mạch môn, Thiên hoa phấn đều 10g, Đông qua nhân, Ý dĩ nhân đều 18g. Sắc uống.
TD: Tư âm, giải độc, thanh ung, bài nùng. Trị trẻ nhỏ bị áp xe phổi. Đã dùng bài này trị 11 ca đều khỏi hẳn.
Châm Cứu
Phế du (Bq 13), Thái uyên (P 9), Thái khê (Th 3), Khổng tối (P 6), Trung đô (C 6) (Bị Cấp Châm Cứu).
Tham Khảo
+ HÓA NÙNG TÁN (Trung Quốc Đương Đại Trung Y Danh Nhân Chí): Bối mẫu 40g, Cát cánh 40g, Cam thảo 5g. Tán thành bột. Mỗi lần dùng 5g, ngày 3 lần. Uống với nước sắc Ý dĩ.
Tác dụng: Thanh nhiệt, tán kết, lợi khí, bài nùng. Trị Phế nhiệt, ho ra đờm mủ.
+VÂN MẪU CAO (Lý Luận Biền Văn): Vân mẫu, Hỏa tiêu, Cam thảo đều 128g, Hòe chi, Tang bạch bì, Liễu chi, Trắc bá diệp. Cát cánh bì đều 64g, Bạch chỉ, Một dược, Xích thược, Nhục quế, Hoàng kỳ, Huyết kiệt, Đương quy, Bồ hoàng, Bạch cập, Xuyên khung, Bạch vi, Mộc hương, Phòng phong, Hậu phác, Cát cánh, Sài hồ, Đảng sâm, Thương truật, Hoàng cầm, Long đởm thảo, Hợp hoan bì, Nhũ hương, Phục linh đều 15g. Chưng với dầu Mè, thêm Hoàng đơn, Tùng hương 32g, trộn cho đều thành cao. Dùng để đắp bên ngoài.
Tác dụng: Thanh Phế, hóa đờm, tiêu ứ, bài nùng kiêm bổ hư. Trị Phế ung.
+ PHẾ UNG TÁN (Tinh Độc Đường Tổ Truyền Bí Phương): Ngư tinh thảo, Kim ngân hoa, Đông qua nhân, Bản lam căn đều 30g, Cát cánh, Xuyên bối mẫu, Đào nhân, Hoàng cầm, Hoàng liên đều 15g, Cam thảo 10g. Tán nhuyễn. Mỗi lần uống 10g, ngày 3 lần.
Tác dụng: Thanh nhiệt, giải độc, lợi Phế, bài nùng. Trị Phế ung.
Y Án Trị Áp Xe Phổi
(Trích trong"Thiên Gia Diệu Phương", q Thượng)
Thôi X, nam 45 tuổi. Sốt cao, ho, nôn ra đàm dính có mủ, hôi thối, ngực đau, thở gấp, khát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác hữu lực. Chẩn đoán là Phế ung (áp xe phổi).
Dùng bài Thanh Nhiệt Bài Nung Thang: Đông qua tử, Ngân hoa, Bồ công anh, Ý dĩ nhân đều 30g, Lô căn (tươi) 60g, Cát cánh, Đơn bì, Chỉ thực, Đình lịch tử, Bối mẫu, Đào nhân, Tô tử đều 10g, Hoàng cầm 15g. Sắc uống ngày một thang. Sau hai tháng, các triệu chứng đều giảm chỉ có đàm còn hôi thối. Dùng bài trên, uống tiếp 5 thang nữa, các chứng đều khỏi”.
2- Hoạn X, nữ 19 tuổi, công nhân. Vì sốt, ho, ngực đau 4 ngày mà vào viện. Xét nghiệm bạch cầu 12.000mm3, bạch cầu trung tính 83%. Chụp X quang thấy phía trên phổi bên trái có một đám mờ lớn, ở giữa là vùng trong suốt và mặt dịch phẳng. Chẩn đoán là áp xe phổi bên trái. Sau khi nhập viện, nhiệt độ còn liên tục cao 39-400C, ho nhiều, đàm khạc ra như mủ, ăn kém, miệng khô, khát, táo bón, lưỡi đỏ, chất lưỡi vàng nhạt, bệu, mạch Hoạt Sác.
Cho uống Phức Phương Ngư Cát Thang: Ngư tinh thảo, Đông qua nhân, Kim ngân hoa, Ý dĩ nhân đều 30g, Cát cánh 15g, Hoàng cầm, Đào nhân, Bối mẫu đều 10g, Cam thảo 5g. Sắc uống ngày một thang.
Uống một tuần, sốt giảm dần, sau 10 ngày, thân nhiệt xuống bình thường, ho và đàm mủ giảm bớt. Uống thêm hai tuần nữa các triệu chứng đều hết. Kiểm tra lại bằng X quang: viêm ở phía trên phổi trái, có hấp thu rõ ràng, mặt dịch phẳng không còn. Lại dùng bài thuốc trên có gia giảm điều trị thêm hai tuần nữa. Chụp X quang kiểm tra lại: viêm ở phía trên phổi trái đã hấp thu, chỉ còn hang chưa hoàn toàn khép kín. Nói chung tình hình người bệnh tốt, cho xuất viện. Hai tháng sau kiểm tra lại, không thấy hang ở phía dưới phổi trái nữa”.
3- “Điền X, nam 58 tuổi, nông dân. Ho, khạc đờm, ngực đau gần nửa năm. Lúc đầu sốt, lạnh, sườn đau nhức, ho rất đau, có lúc nôn ra đờm dính. Bệnh kéo dài, khạc ra nhiều máu mủ, mùi rất tanh, cơ thể gầy ốm, sắc mặt tiều tụy, miệng khô, họng khô, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Hoạt Sác.
Bảo người bệnh nhai đậu tương (nành) sống để xem bệnh, người bệnh nhai thấy trong miệng có vị ngọt. Cho dùng Sinh Hoàng Đậu Tương: Đậu tương vừa đủ, rửa sạch, ngâm vào nước cho nở ra, xay nhuyễn với nước, lọc bỏ bã đậu thành sữa đậu nành sống. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần khoảng 300ml. Uống được 10 ngày thì lượng mủ giảm đi, sốt giảm, ăn được nhiều hơn. Sau khi uống 20 ngày, bệnh nhân nhai thấy vị tanh của đậu, khó có thể nuốt nổi, vì vậy, ngưng uống thuốc. Sau đó, các triệu chứng đều giảm nhanh, khỏe dần. Theo dõi không thấy bệnh tái phát”.
4- Lê X, nam, 25 tuổi. Một năm trước bắt đầu ho, thở nhanh, gầy ốm. Mấy tháng sau thấy ho khạc ra mủ máu, mùi tanh hôi, ngực đau, sốt về chiều, mồ hôi trộm, miệng khô, họng khô, mạch Hoạt.
Cho dùng ‘Bách Hợp Bạch Cập Trư Nhục Thang’: Bách hợp 120g, Bạch cập 60g, Thịt heo (trư nhục) nạc vừa đủ, băm nát. Hai vị thuốc tán thành bột. Lấy 6g thuốc bột, trộn với thịt heo, cho nước vào trộn đều sền sệt, chưng cách thủy cho chín, ăn ngày một lần. Uống hơn hai tháng, hết nôn ra máu mủ, sốt cũng hết. Còn cảm thấy ngực đau, ho, ăn ít. Lại cho dùng bài Tứ Quân Thang (Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo) thêm Hoàng kỳ để bổ dưỡng Phế khí. Uống mấy thang, bệnh khỏi hẳn”.
ÂM DƯƠNG DỊCH
Là trường hợp chuyển bệnh từ người nam sang người nữ và ngược lại (âm dương dịch).
Từ đời nhà Hán (thế kỷ thứ 2) trong sách ‘Thương Hàn Luận’ đã ghi: “Thương hàn âm dương dịch, người bệnh cơ thể nặng nề, hơi thở ngắn, bụng dưới đau hoặc đau rút đến giữa âm đạo, nhiệt bốc lên ngực, đầu nặng, không nhấc lên được, mắt mờ đi, chân, gối co rút, dùng bài Thiêu Côn Tán làm chính”.
Về nghĩa của âm dương dịch, các y gia sau này cắt nghĩa không thống nhất. Cách chung có hai cách giải thích:
+ Một cho là chứng bệnh nam truyền cho nữ, nữ truyền cho nam, chữ dịch ở đây được giải thích là giao dịch.
+ Nhóm khác cho rằng đó là chứng nữ lao phục, do sau khi giao hợp thì phát bệnh, do tinh khí bị hư tổn, nên bệnh sinh ra. Chữ dịch ở đây được hiểu là biến dịch.
Sách ‘Loại Chứng Hoạt Nhân Thư’ dùng bài Quát Lâu Căn Trúc Nhự Thang, Trúc Bì Thang, Đương Quy Bạch Truật Tán.
Sách ‘Âm Chứng Lược Lệ’ dùng bài Đương Quy Tứ Nghịch Thang hoặc Thông Mạch Tứ Nghịch
Thang.
Sách ‘Chứng Trị Chuẩn Thằng’ dùng bài Độc Sâm Thang uống với Thiêu Côn Tán...
Các dẫn chứng trên cho thấy chứng bệnh này đã được Đông Y nhắc đến từ rất lâu.
Nếu do thận tinh hư tổn, chính khí suy bại, nguyên tắc điều trị là phải phù chính, cố bản. Nếu do âm hư nội nhiệt cần bổ Thận, ích tinh, tư âm, thanh nhiệt làm chính.
Nếu do dương suy hàn ngưng phải bổ Thận, chấn tinh, đại bổ nguyên khí.
Nguyên nhân: Bệnh nhân vừa bị bệnh nặng xong, chính khí chưa hồi phục, tà khí chưa ra hết đã giao hợp, hai khí âm dương truyền sang lẫn nhau. Đàn ông bệnh truyền sang đàn bà, đàn bà bệnh truyền sang đàn ông. Sách ‘Đại Chúng Vạn Bệnh Cố Vấn’ viết: “Người mắc bệnh thương hàn vừa mới khỏi, khí huyết chưa hòa, vội giao hợp, hai khí âm dương cảm nhau, độc dư của người bệnh liền truyền sang cho người khỏe mạnh”.
Thường do ba nguyên nhân chính sau:
+ Âm Hư Nội Nhiệt: Bị bệnh ôn nhiệt, nhiệt thiêu đốt tân dịch hoặc phần âm bị tổn thương, mới bị bệnh nặng khỏi, phần âm và tân dịch chưa phục hồi, vẫn còn dư nhiệt mà đã giao hợp, thận tinh tiết ra, chân âm bị hao tổn. Âm dịch suy yếu sẽ sinh ra hư nhiệt. Thận chủ cốt, sinh tủy, là biển tủy của não, nếu thận tinh bị tổn hại thì biển tủy sẽ trống rỗng sẽ gây nên âm hư nội nhiệt. Tinh kiệt tủy hư là nguyên nhân chính gây nên chứng âm dương dịch.
+ Dương Suy Hàn Ngưng: Bị bệnh thương hàn, hàn tà làm tổn thương phần dương hoặc mồ hôi ra nhiều làm hại phần dương, mới bị bệnh nặng khỏi, dương khí chưa phục hồi, hàn tà vẫn còn mà đã giao hợp làm hao tổn tinh và dương khí. Tinh kiệt thì dương khí không sinh ra được, thận dương sẽ bất túc, mệnh môn hỏa sẽ suy, hàn tà thừa cơ xâm nhập và hãm lại ở bên trong khiến cho âm hàn vượng ở bên trong, hàn ngưng ở kinh mạch sẽ gây nên âm dương dịch.
+ Tinh Kiệt Khí Suy: Phần khí của cơ thể vốn bị suy yếu, bị thương hàn, ôn bệnh lâu ngày khiến cho chính khí bị tổn thương, bệnh lâu ngày chưa khỏi, hàn nhiệt chưa hết, chính khí chưa hồi phục mà đã vội giao hợp thận tinh bị hao tổn, suy kiệt, tinh không hóa được khí, nguyên khí bị yếu sẽ khiến cho thận tinh và nguyên khí suy kiệt gây nên âm dương dịch.
Triệu chứng: Người bệnh thấy nặng nề, khó thở, bụng dưới nặng, run giật các khủy tay, chân, mắt mờ, đầu nặng.
Đàn bà thì bụng dưới và lưng đau thắt.
Đàn ông thì dương vật sưng dần lên (khi chết dương vật vẫn sưng).
Trên lâm sàng thường gặp một số trường hợp sau:
1- Âm Hư Nội Nhiệt: Tinh thần mỏi mệt, gầy ốm, sốt về chiều, mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, họng khô, gò má đỏ, đầu váng, tai ù, hoa mắt, mất ngủ, hay mơ, lưng đau, chân yếu, tự cảm thấy hơi nóng từ bụng dưới bốc lên đến ngực, lưỡi đỏ, ít nước miếng, mạch Tế Sác không lực.
Điều trị: Bổ Thận, ích tinh, tư âm, thanh nhiệt.
Dùng bài Tả Quy Hoàn hợp với bài Thiêu Côn Tán (Thương Hàn Luận): Dùng âm mao (lông mu) một mớ (6-8g), đàn ông dùng của dàn bà, đàn bà dùng của đàn ông, đốt thành tro, hòa nước cho uống hoặc uống với Trúc Bì Thang. Ngày uống 3 lần. Uống xong đi tiểu sẽ dễ, đầu âm hành hơi sưng thì có công hiệu).
(Trong bài dùng Thục địa, Sơn thù, Sơn dược, Câu kỷ, Quy bản giao, Thỏ ty tử để bổ Thận, ích tinh, dưỡng Can huyết, thanh hư nhiệt; Lộc giác giao chấn bổ tinh tủy; Địa cốt bì, Bạch vi, Ngân sài hồ để thanh hư nhiệt. Thiêu Côn Tán để thông tán dẫn tà ra khỏi bộ phận sinh dục.
Gia giảm: Tiểu không thông thêm Bạch mao căn; Mồ hôi trộm thêm Long cốt, Mẫu lệ, Ngũ vị tử; Hơi thở ngắn thêm Nhân sâm, Tử hà xa.
2- Âm Suy Hàn Ngưng: Chân tay lạnh, lưng và chân lạnh đau, bụng dưới đau thắt lan đến âm đạo, thích ấm, thích xoa bóp, đầu nặng không nhấc lên nổi, mờ mắt, tiểu không thông hoặc tiểu không tự chủ, tiêu lỏng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Trầm Trì.
Nếu bụng đau, bộ phận sinh dục co rút, sắc mặt xanh xám, trán ra mồ hôi lạnh, tay chân lạnh, mạch Vi muốn tuyệt.
Điều trị: Ôn dương, bổ Thận, tán hàn, chỉ thống.
Dùng bài Hữu Quy Hoàn hợp với Phù Mệnh Sinh Hỏa Đơn, Thiêu Côn Tán gia giảm: Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Thỏ ty tử, Lộc giác giao, Đỗ trọng, Nhục thung dung, Nhục quế, Phụ tử, Nhân sâm, Hoàng kỳ, Ngô thù du + Thiêu Côn Tán.
(Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Thỏ ty tử, Nhục thung dung, Lộc giác giao, Đỗ trọng để bổ thận tinh, ôn thận dương; Nhục quế, Phụ tử để ôn dương, tán hàn; Nhân sâm, Hoàng kỳ bổ khí, dưỡng huyết; Ngô thù du noãn Can, ôn kinh, chỉ thống; Thiêu Côn Tán (tro) khiến cho hàn độc theo âm khiếu thoát ra ngoài).
Nếu thấy bụng đau, tiêu ra phân sống, đó là Tỳ Thận dương hư, hàn ngưng ở trung tiêu. Trước tiên dùng bài Phụ Tử Lý Trung Thang để ôn dương, kiện Tỳ, chỉ tả, sau đó cho dùng Hữu Quy Hoàn để ôn bổ Thận Dương).
Nếu âm hàn quá thịnh, âm cực dương thoát biểu hiện sắc mặt xanh xám, trán ra mồ hôi lạnh, tay chân lạnh, mạch Vi muốn tuyệt, lập tức cho dùng bài Tứ Nghịch Thang, Tứ Nghịch Gia Nhân Sâm Thang để hồi dương cứu nghịch.
3- Tinh Kiệt Khí Suy: Tinh thần mê muội, hụt hơi, tiếng nói yếu, mệt, đầu váng, không ngóc đầu dậy được, mắt mờ, tay chân co rút, lưng đau, chân yếu, cử động thì ra mồ hôi, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Nhược, không lực hoặc Hư Đại.
Điều trị: Bổ Thận, ích tinh, đại bổ nguyên khí.
Dùng bài Tả Quy Hoàn hợp với Tứ Quân Tử Thang gia vị: Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Câu kỷ tử, Thỏ ty tử, Lộc giác giao, Quy bản giao, Ngưu tất, Nhân sâm, Bạch truật, Phục linh, Tử hà xa, Hoàng kỳ.
(Tả Quy Hoàn để bổ Thận ích tinh; Tứ Quân Tử Thang ích khí, kiện Tỳ; Tử hà xa ích tinh, bồi nguyên; Hoàng kỳ đại bổ Phế khí, cố biểu, chỉ hãn).
Tham khảo: “Bệnh này theo tục gọi là bệnh Hiệp thương hàn, người bệnh xấu hổ không dám nói thật, làm cho thầy thuốc không rõ được nguyên nhân gây bệnh, điều trị sai, dẫn đến nguy kịch tính mạng. Đó là một bệnh quái, nên phải có thuốc ‘kỳ’ (độc đáo) mới chữa khỏi. Thuốc ‘kỳ’ đó là phương ‘Thiêu Côn Tán’ vậy. Phương thuốc độc đáo này đãù cứu được nhiều người rồi, kết quả chắc chắn, đừng coi thường. Người đời nay trị bệnh này, thường dùng âm mao đốt thành tro, hòa nước cho uống, nam uống của nữ, nữ uống của nam, đều là dựa theo phương ‘Thiêu Côn Tán’ vậy” (Đại Chúng Vạn Bệnh Cố Vấn).
Y Án Thượng Mã Phong - Trúng Phòng
(Trích trong “Cuộc Đời Và Kinh Nghiệm Của Người Thợ Già Trị Bệnh” của Lê Đức Thiếp, Việt Nam).
Anh Sơn, làm nghề nông và đơm đó bắt tôm cá. Hôm đó, trời giá rét, lúc gần 5 giờ sáng, tôi được mời đến khám bệnh cho anh ta. Anh nằm, tay chân duỗi thẳng, mặt và tay chân để lộ ra đều thâm đen xì, mắt không chuyển động, con ngươi giống như người đã chết. Chẩn mạch thấy đã hết chạy, chỉ còn chỗ tim, lồng ngực còn đập nhè nhẹ, hơi thở còn thoi thóp. Chị vợ khai: ‘Nhà con lúc 4 giờ sáng, dậy đi lấy lờ đó (đơm tôm cá) về rồi lạnh quá, vào phòng nằm với con cho ấm, lát sau, anh ấy đòi hỏi nơi con. Đang trong lúc ấy (giao hợp), con thấy anh ấy lạnh toát đi mà nín thở, hỏi anh ấy không nói. Con sợ quá, đẩy vội anh ấy xuống, rồi mời bà con tới. Tôi đáp: Như vậy là bệnh trúng phòng (thượng mã phong) rồi, bây giờ đã lỡ đẩy anh ấy ra rồi mà cũng chậm quá rồi, nhưng cứ phải mau mau ấp ủ cho anh ấy và đem vào phòng kín, đốt lò sưởi rất lớn cho nóng cả trong phòng để sưởi ấm cho anh ấy. Đồng thời, nhờ mấy anh em đây thay phiên nhau hà hơi của mình vào miệng của anh ấy (theo phương pháp hô hấp nhân tạo miệng truyền miệng). Anh Hải (em anh Sơn) cầm hai tay anh Sơn dơ lên, hạ xuống luôn luôn cho chuyển động khí huyết, may ra thì sống. Đồng thời tôi chuẩn bị sắc thuốc: Đảng sâm 12g, Phỉ tử 12g, Can khương 12g, Nhục quế 12g.
Cạy miệng đổ dần dần vào cho uống… Khoảng 8 giờ 30, anh Sơn đã tỉnh lại. Cho uống tiếp 1 thang thuốc nữa
ÂM DƯỠNG
Xuất xứ: ‘Cát Hồng Trửu Hậu Bị Cấp Phương’.
Phụ nữ phía ngoài bộ phận sinh dục và âm đạo bị ngứa, đau ngứa không chịu nổi hoặc có đới hạ tiết ra nhiều, gọi là Âm Dưỡng.
Còn gọi là ‘Âm Môn Dưỡng’, ‘Âm Môn Tao Dưỡng’,‘Âm Dưỡng Thoát’.
Nếu nặng hơn sinh ra lở loét, gọi là Âm Sang.
Tương đương chứng Ngứa Âm Đạo, Ngoại Âm Viêm, Âm Đạo Viêm, Ngoại Âm Dinh Dưỡng Bất Lương, Viêm Âm Hộ, Viêm Tuyến Bartholin, Mào Gà Âm Hộ, Herpes Âm Hôk, Giang Mai Âm Hộ… của YHHĐ.
Nguyên Nhân
Sách ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’ cho rằng: “Chứng Âm dưỡng đa số do thấp nhiệt sinh trùng, thuộc Can kinh hoá ra”.
Trên lâm sàng thường do:
+ Do Can Thận Âm Hư: Cơ thể vốn bị âm hư, bệnh năng lâu ngày không khỏi hoặc sinh xong sữa ra nhiều quá làm tổn hao tinh huyết khiến cho Can Thận âm hư. Can mạch đi ngang qua bộ phận sinh dục, Thận quản lý tiền âm và hậu âm, nếu Can Thận âm hư, tinh huyết không đủ, âm hộ không được dinh dưỡng, huyết bị táo sẽ sinh phong, phong động gây nên ngứa.
+ Do Can Kinh Có Thấp Nhiệt: Uất ức, giận dữ làm tổn thương Can, Can uất hóa nhiệt, Can khí sẽ phạm Tỳ, khiến cho Tỳ hư, thấp thịnh. Thấp nhiệt uất kết lại làm tổn thương mạch Nhâm, mạch Đới, đới hạ sẽ ra nhiều, làm ẩm ướt âm bộ, phát ra ngứa.
+ Do Thấp Trọc Tư Sinh: Cơ thể vốn bị Tỳ hư, thấp thịnh, tích lại lâu ngày hóa thành nhiệt, lưu chú ở hạ tiêu, làm tổn thương mạch Nhâm và Đới. Thấp nhiệt uẩn tích sinh ra trọc, hoặc vùng bộ phận sinh dục không khô hoặc âm đạo bị ẩm ướt lâu ngày, thấp trọc sinh ra, gây nên ngứa.
Triệu Chứng
+ Can Thận Âm Hư: Âm bộ khô, sít, ngứa không chịu nổi hoặc da vùng âm bộ biến thành trắng, sưng to hoặc teo lại, vỡ ra lở loét, ngũ tâm phiền nhiệt, đầu váng, hoa mắt, trời nóng thì ra mồ hôi, lưng đau, gối mỏi, lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, mạch Huyền Tế mà Sác.
Biện chứng: Can Thận âm hư, tinh huyết đều suy, huyết táo sinh phong, phong động sinh ra ngứa. Âm hộ thuộc về Can Thận, vì vậy, âm hộ khô, sít, ngứa không chịu nổi. Phong thịnh thì sinh ra sưng, do đó da vùng âm đạo sưng. Da vùng âm đạo không được nuôi dưỡng thì sinh ra mầu trắng, co rút lại, lở loét. Âm hư sinh nội nhiệt, vì vậy ngũ tâm bị phiền nhiệt. Can dương thịnh thì sốt cao, ra mồ hôi. Thận hư thì lưng đau, gối mỏi. Lưỡi đỏ, mạch Huyền Tế mà Sác là dấu hiệu Can Thận âm hư.
Điều trị: Điều bổ Can Thận, tư âm giáng hỏa. Dùng bài Tri Bá Địa Hoàng Hoàn thêm Hà thủ ô (chế), Bạch tiên bì.
+ Can Kinh Có Thấp Nhiệt: Vùng âm bộ ngứa, đau, đới hạ ra nhiều, mầu vàng như mủ, dính, hôi, đầu váng, hoa mắt, miệng đắng, họng khô, tâm phiền không yên, táo bón, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Huyền Hoạt mà Sác.
Biện chứng: Can kinh có thấp nhiệt rót xuống, làm tổn thương mạch Nhâm, mạch Đới, vì thế đới hạ ra nhiều, mầu vàng như mủ, dính, hôi. Thấp nhiệt thấm ướt thì gây nên ngứa, đau. Thấp nhiệt nung nấu gây nên đầu váng, hoa mắt, miệng đắng, họng khô. Nhiệt nhập vào tâm thần gây nên tâm phiền không yên. Thấp nhiệt làm tổn thương tân dịch vì vậy bị táo bón, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Huyền Hoạt mà Sác là dấu hiệu Can kinh có thấp nhiệt.
Điều trị: Tả Can thanh nhiệt, trừ thấp, chỉ dưỡng (giảm ngứa).
. Sách ‘Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học’ dùng bài Long Đởm Tả Can Thang.
. Sách ‘Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học’ dùng bài Tỳ Giải Thấm Thấp Thang (Dương Khoa Tâm Đắc Tập): Tỳ giải, Ý dĩ nhân, Hoàng bá, Xích phục linh, Đơn bì, Trạch tả, Hoạt thạch, Thông thảo. Thêm Tri mẫu, Thương truật.
(Ý dĩ nhân, Thương truật kiện Tỳ, hoá thấp; Hoàng bá, Tri mẫu khử thấp nhiệt ở hạ tiêu; Tỳ giải, Xích linh, Trạch tả, Hoạt thạch, Thông thảo trừ thấp, hoá nhiệt).
+ Thấp Trọc Tự Sinh (Can KInh Có Uất Nhiệt): Vùng âm đạo ngứa, như có con trùng bò, ngứa không chịu nổi, nóng rát, đau, đới hạ ra nhiều, mầu vàng tươi hoặc trắng như bã đậu, có mùi hôi, tâm phiền, ít ngủ, ngực đầy, khó thở, miệng đắng, họng khô, nước tiểu vàng, đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Hoạt Sác.
Biện Chứng: Thấp nhiệt và bệnh trọc thường hỗ trợ nhau để sinh ra. Trọc tà phát sinh thì âm bộ ngứa như có con trùng bò, ngứa chịu không được. Nếu bốc lên tâm thần sẽ làm cho tâm phiền, ít ngủ. Thấp nhiệt nung nấu bên trong thì miệng đắng, họng khô. Thấp nhiệt làm tổn thương tân dịch gây nên tiểu ít, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Hoạt Sác là dấu hiệu thấp nhiệt, bệnh trọc hỗ trợ nhau sinh ra.
Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc, sát trùng.
. Sách ‘Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học’ dùng bài Tỳ Giải Thấm Thấp Thang thêm Bạch đầu ông, Khổ sâm, Phòng phong.
. Sách ‘Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học’ dùng bài Đan Chi Tiêu Dao Tán.
Thuốc Rửa
. Xà Sàng Tử Tán: Xà sàng tử, Hoa tiêu, MInh phàn, Khổ sâm, Bách bộ đều 10~15g. Sắc cho sôi, để âm ấm ngồi vào ngâm, ngày 1 lần. 10 ngày là một liệu trình.
. Xà Sàng Tử Tẩy Phương (Dương Y Đại Toàn): Xà sàng tử 30g, Ba tiêu, Bạch phàn đều 10g. Nấu lấy nước, rửa mỗi ngày.
. Lá Lốt 40g, nấu, cho ít muối, ngâm rửa.
. Hạc sắt, Khổ sâm, Uy linh tiên, Quy vĩ, Xà sàng tử, Lang độc. Sắc lấy nước rửa. Mỗi ngày 1~2 lần. 7-10 ngày là một liệu trình
ÂM ĐẠO VIÊM
(Vulvovaginitis - Vulvovaginite)
Đại Cương
Vùng phía ngoài bộ phận sinh dục, một hoặc cả 2 bên sưng đau, gọi là Âm Thủng.
Tương đương chứng Âm đạo viêm, Viêm tuyến Batholin, Ngoại âm huyết thủng của YHHĐ.
Còn gọi là Âm Hộ Thủng Thống, Âm Thủng.
Nguyên Nhân
+ Do Can Kinh Có Thấp Nhiệt: Can kinh vốn bị uất, lâu ngày hoá thành nhiệt, Can uất sẽ làm cho Tỳ bị hư (Can khí phạm Tỳ), Tỳ hư thì thấp sẽ thịnh, thấp và nhiệt kết với nhau rót xuống bộ phận sinh dục (âm bộ), tà không thoát đi được gây nên bệnh.
+ Do Ngoại Thương: Do mổ xẻ, bị vết thương hoặc do té ngã gây tổn thương vùng âm hộ, khí huyết bị ứ trệ, không thoát ra ngoài được làm cho âm đạo bị viêm.
Chẩn Đoán
. Dựa vào bệnh sử: Hạ tiêu bị nhiễm thấp nhiệt hoặc hàn thấp hoặc nhiễm tà độc hoặc bị chấn thương.
. Dựa vào bệnh chứng: Bên ngoài âm đạo, một hoặc cả hai bên sưng, có khi sưng đến nỗi đi lại khó khăn vì bị cọ xát gây nên đau hoặc có kèm sốt, tiểu nhiều, tiểu buốt, nước tiểu vàng, mạch Huyền Sác.
. Kiểm tra: khám thấy vùng âm đạo sưng, nóng, ấn vào đau.
. Xét nghiệm thấy lượng bạch cầu tăng cao.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Can Kinh Có Thấp Nhiệt: Âm đạo sưng đỏ, đau thường kèm sốt, hông sườn đau, miệng đắng, họng khô, nước tiểu ít, mầu đỏ, táo bón, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Huyền Sác hoặc Nhu Sác.
Điều trị: Thanh Can, lợi thấp, tiêu thủng, chỉ thống. Dùng bài Long Đởm Tả Can Thang thêm Bồ công, Tử hoa địa đinh.
Nếu Can uất, Tỳ hư dùng bài Tiêu Dao Tán. Nếu chỗ viêm loét ra, chảy mủ hoặc lở loét, trị giống như chứng Âm Sang.
+ Ngoại Thương: Âm đạo sưng đỏ, đau hoặc ứ máu tại chỗ, có dấu hiệu ngoại thương, lưỡi bình thường hoặc hơi có vết ứ máu, mạch bình thường.
Điều trị: Hoạt huyết, hoá ứ, tiêu thủng, chỉ thống. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang thêm Tam Thất
ÂM HÀNH ĐỜM HẠCH
Âm hành đờm hạch chỉ trường hợp quanh âm hành nổi lên những khối u nhỏ. Mặt dưới âm hành có những vệt hoặc cục ban cứng, có thể làm cho âm hành đau, co rút.
Tương đương chứng Lao Sinh Dục (Âm Hành Ngạnh Kết).
Nguyên Nhân
Tiền âm là nơi tụ của tông cân, là nơi giao hội của kinh Thái âm và Dương minh. Ăn uống không điều độ, Tỳ mất chức năng vận hoá, đờm trọc bên trong sẽ phát sinh, dồn xuống tông cân, ngưng tụ lại thành hạch. Hoặc Can Thận âm hư, hoả vượng nung đốt tân dịch thành đờm, đờm trọc dồn xuống, kết ở tông cân thành nốt u.
Chẩn Đoán
Đa số gặp nơi người trung niên. Thường thấy âm hành nặng trệ xuống, lúc tiểu có cảm giác hơi đau, tiểu không thông, đụng vào âm hành thấy đau hoặc teo lại, nặng hơn có cảm giác như có cái gì vướng hoặc bị liệt dương.
Sờ vào âm hành thấy có nốt u, một hoặc nhiều nốt, ấn vào thấy đau.
Triệu Chứng
+ Đờm Trọc Ngưng Kết: Trên mặt của âm hành có những nốt hạch, âm hành không cử động thì không thấy có dấu hiệu bệnh rõ, lưỡi nhạt, rìa lưỡi có vết răng, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Nhu.
Điều trị: Kiện Tỳ, hoà Vị, hoá đờm, tán kết. Dùng bài Hoá Kiên Nhị Trần Hoàn thêm Bạch giới tử.
+ Âm Hư Đờm Hoả: Âm hành kết hạch, hơi đau, da hơi ửng đỏ hoặc hơi nóng, về chiều thì đỏ, ngũ tâm phiền nhiệt, họng khô, tai ù, lưng đau, gối mỏi.
Điều trị: Tư âm, giáng hoả, hoá đờm, tán kết. Dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn, Đại Bổ Âm Hoàn thêm Tiêu Hạch Hoàn.
ÂM HÃN
Âm hãn là tình trạng ở bìu dái của nam giới ra nhiều mồ hôi hoặc mồ hôi có mùi hôi.
Chứng này thuộc loại ‘Lãnh Hãn’.
Chứng âm hãn đa số do Thận dương hư, mệnh môn hoả suy, mồ hôi theo khí tiết ra hoặc kinh Can có thấp nhiệt, lưu chú ở hạ tiêu khiến cho âm bộ ra mồ hôi. Vì vậy, tuy bệnh ở Thận và Can, mệnh môn hoả suy, phần âm suy yếu, thấp nhiệt rót xuống gây nên bệnh.
Nguyên nhân
Trương Cảnh Nhạc trong sách ‘Cảnh Nhạc Toàn Thư’ viết: «Chứng hãn (ra mồ hôi) có âm có dương, dương hãn là nhiệt hãn, còn âm hãn là lãnh hãn. Người ta chỉ biết nhiệt làm cho ra mồ hôi mà không biết hàn cũng có thể ra mồ hôi. Có thể nói hàn tà, do dương khí ở bên trong bị hư, nên hàn sinh ra ở trong, mà âm trung không có dương thì âm không thể sinh, do đó mồ hôi theo khí mà thoát ra». Đời nhà Thanh, Trương Thạch Ngoan cho rằng thấp nhiệt lưu chú ở hạ tiêu gây nên chứng âm hãn. Sách ‘Trương Thị Y Thông’ viết: «Dương suy yếu thì hai dịch hoàn lạnh, âm hãn ra như nước, tiểu xong có hơi khí táo thoát ra, vùng trước bộ phận sinh dục lạnh, sợ lạnh, thích nóng, đầu gối lạnh, do Can kinh có thấp nhiệt».
Như vậy, theo các y gia xưa, nguyên nhân gây bệnh âm hãn có hai loại:
+ Thận Dương Bất Túc: Do cơ thể dương vốn bị hư yếu hoặc tương tư hoặc phòng dục quá mức làm cho thận dương bất túc, dương hư thì âm cũng hư. Mồ hôi là dịch của âm, âm thịnh thì bên trong hàn sinh nhiệt. Dương hư thì âm không làm chu được mồ hôi sẽ theo khí thoát ra gây nên chứng âm hãn.
+ Can kinh Thấp Nhiệt: Bình thường thích uống rượu, ăn thức ăn cay, nóng, làm cho thấp nhiệt sinh ra ở bên trong, uất lại ở kinh Can, rót xuống vùng bộ phận sinh dục gây nên chứng âm hãn.
Triệu Chứng
1- Thận Dương Hư Yếu: Bộ phận sinh dục ra mồ hôi, âm nang ướt, lạnh, sợ lạnh, tay chân lạnh, lưng đau, chân mỏi, tiểu nhiều, hoặc dương vật không cương cứng được, di tinh, tảo tinh, tiết tinh, lưỡi nhạt rêu lưỡi có vết răng, mạch Trầm Trì.
Điều Trị: Ôn bổ Thận dương, ích khí bồi nguyên.
+ Dùng bài An Thận Hoàn gia vị: Nhục quế, Ba kích, Nhục thung dung, Phá cố chỉ, Bạch truật, Sơn dược, Phụ tử (bào), Tỳ giải, Bạch tật lê, Đào nhân, Phục linh.
(Đây là bài An Thận Hoàn bỏ Thạch hộc. Dùng Nhục quế, Ba kích, Nhucj thung dung, Phá cố chỉ để ôn bổ Thận dương; Bạch truật, Sơn dược, Phục linh ích khí kiện Tỳ để giữ vững cơ bản của hậu thiên; Phụ tử ôn dương, trợ hoả, khứ nhiệt, tán hàn; Hợp với Tỳ giải đề lợi thấp trọc; Bạch tật lê sơ Can, khứ phong; Đào nhân hoạt huyết, thông lạc (Trung Y Cương Mục).
2- Can Kinh Có Thấp Nhiệt: Vùng bộ phận sinh dục ra mồ hôi, da dịch hoàn ẩm, hâm hấp nóng, mùi tanh hôi, hông sườn trướng đau, miệng đắng, da thịt đỏ,
dương vật mềm yếu, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, sơ Can, dưỡng huyết.
+ Dùng bài Thanh Nang Thang gia giảm: Sài hồ, Hoàng cầm, Khương hoạt, Phòng phong, Thương truật, Ma hoàng căn, Trạch tả, Trư linh, Đương quy, Hồng hoa, Mộc thông, Hoạt thạch, Cam thảo.
(Đây là bài Thanh Nang Thang bỏ Thăng ma, Cảo bản, thêm Mộc thông, Hoạt thạch. Dùng Sài hồ, Hoàng cầm để sơ Can, thanh nhiệt; Khương hoạt, Thương truật, Phòng phong, Ma hoàng căn đê khứ phong, trừ thấp, chỉ hãn theo ý ‘Phong năng thắng thấp’; Trạch tả, Trư linh, Hoath thạch, Mộc thông để thấm lợi thấp nhiệt; Đương quy, Hồng hoa để hoạt huyết, điều Can; Thương truật, Cam thảo kiện Tỳ, táo thấp để lấy thổ sinh nguồn của thấp (Trung Y Cương Mục).
ÂM LÃNH
Đại cương
Âm lãnh chỉ tình trạng bộ phận sinh dục của nam giới bị lạnh.
Còn gọi là ‘Âm Hàn’, ‘Âm Đầu Hàn’.
Chứng này phát sinh do Thận dương suy yếu, tiền âm không ấm hoặc do ngoại cảm hàn tà, hàn ngưng ở Can kinh gây nên bệnh. Bên ngoài có hàn, bên trong kinh Can bị thấp nhiệt, khiến cho Can mạch bị bế tắc, cơ quan sinh dục không được nuôi dưỡng gây nên chứng âm lãnh. Bệnh này ngoài dấu hiệu lạnh ở bộ phận sinh dục ngoài ra không có dấu hiệu gì khác thường.
Thường do Thận dương bất túc, mệnh môn hoả suy. Đa số có liệt dương, di tinh, sán khí, dịch hoàn co rút.
Trong điều trị thường dùng ôn dương, tán hàn làm chính. Tuỳ chứng có thể thêm điều khí, chỉ thống, thanh nhiệt, lợi thấp.
Nguyên Nhân Gây Bệnh
Từ đời nhà Hán, Trương Trọng Cảnh cho rằng do Thận tinh bị hao tổn gây nên. Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược – Huyết Tý Hư Lao Bệnh Mạch Chứng Tịnh Trị’ viết: «Chứng thất tinh, bụng dưới căng tức, âm đầu lạnh, ngã xuống, mạch cực hư, Khổng, Trì, đó là chứng thanh cốc, vong huyết, thất tinh».
Đời nhà Tuỳ, sách ‘Chũ Bệnh Nguyên Hậu Luận’ cho rằng bệnh do âm dương đều suy gây nên. Thận chủ tinh tuỷ, khai khiếu ra ở nhị âm, nếu âm hư, dương suy khí huyết không được nuôi dưỡng gây nên bệnh.
Đời nhà Thanh, sách ‘Tạp Bệnh Nguyên Lưu Tê Chúc’ viết: «Chứng âm lãnh, cách chung vùng hạ bộ bị dương hư, âm hàn làm cho khí ngưng trệ ở Thận, gây nên bệnh». hoặc «Do mệnh môn hỏa suy, nguyên dương hư tổn, dương vật không cương lên được, gây nên bệnh… Do hàn sán, quyết lãnh, tiểu trường, bàng quang bị bôn đồn, gây nên bệnh».
Sách ‘Trương Thị Y Thông’ viết: «Âm nuy nhược mà hai dịch hoàn lạnh, mồ hôi ra như nước, tiểu nhiều, vùng háng lạnh, sợ lạnh, thích nóng, gối lạnh, Can kinh có thấp nhiệt».
Như vậy có thể thấy nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do Thận dương bất túc, mệnh môn hỏa suy, hàn tà ở bộ phận sinh dục, Can kinh có thấp nhiệt làm ngăn trở kinh lạc khiến cho bộ phận sinh dục mất điều dưỡng gây ra chứng âm lãnh.
Triệu chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
Thận Dương Hư Tổn, Mệnh Môn Hỏa Suy: Vùng tiền âm lạnh, sợ lạnh, thích nóng, suy giảm tình dục, tinh lạnh, lưng đau, chân yếu, tinh thần mỏi mệt, liệt dương, xuất tinh sớm, nước tiểu trong, đêm tiểu nhiều, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm, Tế, Nhược.
Điều trị: Bổ ích Thận khí, ôn tán hàn tà.
+ Dùng bài Hữu Quy Hoàn gia vị: Thục địa, Sơn dược, Câu kỷ tử, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, Lộc giác giao, Sơn thù, Phụ tử, Nhục quế, Đương quy, Cam thảo, Tiên linh tỳ, Ba kích, Ngải diệp.
(Đây là bài Hữu Quy Hoàn thêm Tiên linh tỳ, Ba kích, Ngải diệp. Dùng Thục địa, Sơn thù, Sơn dược, Câu kỷ tử để bổ Can Thận âm, làm cho âm sinh, dương trưởng; Phụ tử, Nhục quế, Ngải diệp ôn kinh, tán hàn để bổ thận dương; Ddỗ trọng, Thỏ ty tử, Tiên linh tỳ, Ba kích, Lộc giác giao bổ thận, tráng dương; Đương quy dưỡng huyết, nhuận táo; Cam thảo điều hòa các vị thuốc (Trung Y Cương Mục).
Hàn Tà Nội Xâm, Ngưng Trệ Can Mạch: Vùng tiền âm lạnh, hoặc âm hành, dịch hoàn lạnh đau, bụng dưới đau rút, chân tay lạnh, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Trì, Huyền hoặc Hoãn.
Điều Trị: Ôn noãn Can Thận, tán hàn, hành trệ.
+ Dùng bài Noãn Can Tiễn hợp với Tiêu Quế Thang gia giảm: Nhục quế, Xuyên tiêu, Tiểu hồi, Ngô thù du, Trầm hương, Ô dược, Thanh bì, Sài hồ, Quế chi, Ma hoàng, Trần bì.
(Đây là bài Noãn Can Tiễn hợp với Tiêu Quế Thang thêm Ma hoàng, bỏ Câu kỷ tử, Phục linh, Lương khương. Dùng Nhục quế, Xuyên tiêu, Tiểu hồi, Ngô thù du noãn can thận, ôn kinh, khứ hàn; Trầm hương, Ô dược, Thanh bì, Trần bì hành khí, chỉ thống; Sài hồ sơ thông can khí, dẫn thuốc đi vào Can; Ma hoàng, Quế chi tán hàn ở biểu.
Can Kinh Có Thấp Nhiệt Làm Ngăn Trở Dương Khí: Vùng tiền âm lạnh, ra mồ hôi, âm nang ẩm ướt, ngứa, có mùi hôi, kèm hông sườn đau, đầy trướng, phiền táo, dễ tức giận, miệng đắng, họng khô, táo bón, nước tiểu vàng, đỏ, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Huyền Sác.
Điều Trị: Thanh nhiệt, lợi thấp.
+ Thanh Hồn Thang gia vị: Sài hồ, Hoàng bá (tẩy rượu), Trạch tả, Đương quy vĩ, Ma hoàng căn, Phòng kỷ, Long đởm thảo, Phục linh, Hồng hoa, Ngũ vị tử.
(Đây là bài Thanh Hồn Thang bỏ Thăng ma, Khương hoạt, Cam thảo. Dùng Long đởm thảo, Trạch tả, Hoàng bá, Phục linh, Phòng kỷ để thanh nhiệt, lợi thấp; Sài hồ sơ lợi Can khí; Hồng hoa, Đương quy hòa huyết, thông lạc; Ma hoàng căn, Ngũ vị tử thu liễm, chỉ hãn.
ÂM NANG HUYẾT THỦNG
Vùng âm nang có huyết ứ lại sưng lên, gọi là Âm Nang Huyết Thủng.
Thuộc chứng Huyết Sán của Đông Y.
Do vùng âm nang bị trực tiếp tổn thương gây nên, hoặc do ngoại thương làm cho huyết ứ lại gây nên.
Sách ‘Thọ Thế Bảo Nguyên’ viết: “Ngoại thận, do lao tổn bị thương, dịch hoàn một bên sưng to, có khí đau, bên trong có ứ huyết, gọi là Huyết Sán”.
Thuộc chứng ‘Ngoại Thương Tính Âm Nang Huyết Thủng’.
Nguyên Nhân
Đường Dung Xuyên, trong ‘Huyết Chứng Luận – Điệt Đả Huyết’ viết: “Té ngã gây rách da, huyết bị tổn, gân cơ bị tổn thương thì bị đau”…
Thường có thể do:
+ Té Ngã Tổn Thương: Vùng âm nang bị tổn thương do té ngã, đánh đập… khiến cho huyết bị tổn thương, máu ứbtích tụ lại ở bìu dái, gây nên bệnh.
+ Sau Khi Bị Thương Chảy Máu: Vùng bìu dái hoặc háng bị rách, chảy máu, không cầm máu được, máu chảy ra thấm vào bên trong bìu dái gây nên bệnh.
Triệu Chứng
+ Xuất Huyết Ứ Huyết: Bìu dái sưng to, xệ xuống, da bìu dái mầu đỏ tím tối hoặc có từng mảng đen như vết ứ huyết. Nếu tổn thương nhẹ, chỗ sưng co lại, đau, xệ xuống. Nếu nặng thì cứng thành khối u, đau chói.
Điều trị: Chỉ huyết, hoá ứ, tiêu thủng, chỉ thống. Dùng bài Thập Khôi Tán hợp với Hoa Nhuỵ Thạch Tán: Đại kế, Tiểu kế đều 15g, Hà diệp, Trắc bá diệp (tro), Mao căn (tro) đều 6g, Tây thảo căn, Đại hoàng (tro), Chi tử, Tông lư bì (tro), Mẫu đơn bì, Hoa nhuỵ thạch đều 10g. Sắc uống.
(Đại hoàng, Đơn bì, Chi tử hoạt huyết, hoá ứ, thanh nhiệt, lương huyết để dưỡng huyết, hoá nhiệt; Đại kế, Tiểu kế, Hà diệp, Trắc bá, Mao căn, Tây thảo căn, Tông lư bì là những vị thuốc chỉ huyết; Hoa nhuỵ thạch là thánh dược để chỉ huyết, hoá ứ. Huyết cầm lại, ứ được khứ thì sẽ hết đau).
Nếu bìu dái sưng trướng đau lâu ngày không giảm, mà lại phát sốt đó là do huyết bị hoại tử hoá thành nhiệt, có thể thêm Bồ công anh, Kim ngân hoa, Hoàng bá, Ngư tinh thảo, Bạch hoa xà thiệt thảo để thanh nhiệt, hoá độc.
Nếu bìu dái sưng đau, chưa giảm mà chảy máu không cầm, dùng bài trên, bỏ Đại kế, Tiểu kế, Trắc bá diệp, Tông lư bì là những thuốc cầm máu, thêm Đương quy, Xích thược, Xuyên khung, Hồng hoa để hoạt huyết, hoá ứ (Trung Y Cương Mục).
Thuốc Trị Ngoài
. Dùng Điệt Đả Hoàn hoà với rượu, bôi vùng bệnh (Trung Y Cương Mục).
. Sau khi hết chảy máu, dùng Mang tiêu, sao nóng, bọc vào vải chườm, mỗi lần khoảng 30 phút (Trung Y Cương Mục).
. Nếu bị tổn thương mà dịch hoàn không bị rách dùng Như Ý Kim Hoàng Tán đắp (Trung Y Cương Mục).
+ Ứ Huyết Kết Tụ: Âm nang sưng đau, có thể sờ thấy phía trong bìu dái có khối ú, ấn vào đau, nặng, cứng không bớt, càng lúc càng sưng to.
Điều trị: Hoạt huyết, hoá ứ, thông lạc, tán kết. Dùng bài Phục Nguyên Hoạt Huyết Thang phối hợp với Hoạt Lạc Hiệu Linh DDơn: Sài hồ, Nhũ hương, Một dược, Cam thảo, Đào nhân đều 6g, Thiên hoa phấn, Đương quy, Hồng hoa, Đan sâm đều 10g, Xuyên sơn giáp 15g, Đại hoàng (thục) 3~5g. Sắc uống.
(Đương quy, Hồng hoa, Đan sâm, Đào nhân, Nhũ hương, Một dược dưỡng huyết, hoạt huyết, khứ ứ, sinh tân; Xuyên sơn giáp phá ứ, thông lạc; Đại hoàng khu trừ bại huyết; Thiên hoa phấn nhuận táo, tán kết; Cam thảo hoãn cấp chỉ thống; Sài hồ sơ Can, hoà huyết.
Nếu bìu dái sưng cứng khó tan, thêm Thuỷ điệt để phá huyết, trục ứ. Thêm Mẫu lệ (sống) để nhuyễn kiên, tán kết. Nếu có dấu hiệu khí hư, thêm Hoàng kỳ để ích khí. Nếu vùng bìu dái lạnh, thêm Tiểu hồi, Nhục quế để ôn kinh
ÂM NANG ÂM HÀNH TƯỢNG BÌ THỦNG
Da vùng bìu dái, âm hành bị nhiễm trùng, chủ yếu thấy sưng to, Da vùng bìu dái, dương vật cứng lại giống như da con voi, không đau, không ngứa. Lúc đầu có thể bị nóng lạnh, nổi hạch ở háng. Dần dần da vùng bệnh đỏ lên như trái dâu chín
Chứng này thuộc phạm vi chứng ‘Đồi Sán’. Đồi Sán là tên gọi đã sớm được nhắc đến trong sách Nội Kinh.
Nguyên Nhân
Thiên ‘Âm Dương Biệt Luận’ (Tố Vấn 7) viết: “Tam dương bệnh phát nóng lạnh… thành chứng Đồi Sán”. Sách ‘Nho Môn Sự Thân’ viết: “Chứng Đồi sán, âm nang sưng to, như thăng như đấu, không ngứa không đau, do địa khí, Tỳ thấp sinh ra.
Triệu Chứng Lâm Sàng
+ Đờm Thấp Uất Kết: Lúc đầu da bìu dái và âm hành ứ nước rồi bìu dái sưng to, âm hành có thể không sưng. Khi bìu dái sưng quá to, vỡ nước thì âm hành mới có thể bị sưng. Có khi bìu dái sưng to như quả cam, có cảm giác nặng xệ xuống, da căng mỏng, lỗi lõm không đều, không đỏ, không nóng, không đau, không ngứa, không lở loét, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Nhu, Hoãn.
Điều trị: Khứ đờm, trừ thấp, lý khí, sơ Can, hoạt huyết, nhuyễn kiên. Dùng bài Quất Hạch Hoàn hợp với Ngũ Linh Tán gia giảm: Quất hạch, Mộc hương, Xuyên luyện tử, Hậu phác, Chỉ thực, Đào nhân, Nguyên hồ, Mộc thông, Nhục quế, Côn bố. Hải tảo, Phục linh, Trạch tả, Trư linh, Thương truật, Bán hạ, Trần bì.
(Quất hạch, Mộc hương, Xuyên luyện tử, Hậu phác, Chỉ thực sơ lý khí ở Can Tỳ để tán két; Đào nhân, Nguyên hồ hoạt huyết, phá ứ; Mộc thông, Trạch tả, Phục linh, Trư linh lợi thấp, tiêu thủng; Thương truật, Côn bố, Hải tảo hoá đờm, nhuyễn kiên, tán kết; Nhục quế ôn thông dương khí, hoá thấp, thông lạc; Bán hạ, Trần bì hoà Vị, hoá đờm, táo thấp).
Thuốc Dùng Ngoài
. Dùng Dương Hoà Giải Ngưng Cao, trộn với Quế Xạ Tán bôi (Trung Y Cương Mục).
. Dịch hoàn sưng to như quả cam: dùng Mạn kinh tử (tươi), giã nát đắp (Trung Y Cương Mục).
+ Đờm Nhiệt Ngưng Kết: Bìu dái sưng to, cứng, da vùng bìu dái sưng, đỏ, đau, ngứa, lở loét chảy nước, tiểu ít, nước tiểu rít, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Huyền Hoạt mà Sác.
Điều trị: Thanh hoá đờm thấp, lý khí, hoạt huyết, nhuyễn kiên, tiêu thủng. Dùng bài Quất Hạch Hoàn hợp với Long Đởm Tả Can Thang (Quất hạch, Hải tảo, Côn bố, Hải đái, xuyên luyện tử, Đào nhân, Hậu phác, Mộc thông, Chỉ thực, Nguyên hồ sách, Nhục quế, Mộc hương, Long đởm thảo, Hoàng cầm, Chi tử, Trạch tả, Xa tiền tử, Đương quy, Sài hồ, Sinh địa, Cam thảo.
Quất Hạch Hoàn lý khí, tán kết, hoá đờm, nhuyễn kiên; Long Đởm Tả Can Thang thanh lợi thấp nhiệt ở Can kinh).
Thuốc Dùng Ngoài
. Kim Hoàng Tán, bôi (Trung Y Cương Mục).
. Tiểu hồi (tươi) một ít, Cam thảo (sống), lấy phần ở rễ, dài khoảng 30cm, Trần trà diệp (lá chè lâu năm) 3g, Muối ăn một ít. Nấu lấy nước rửa (Trung Y Cương Mục).
ÂM SANG
Đại Cương
Là chứng âm hộ người phụ nữ có mụn nhọt lở loét, chảy nước vàng và mủ.
Còn gọi là Âm Trọc.
Tương đương chứng Loét âm đạo, Mép lớn âm hộ viêm lở loét, Viêm sinh dục ngoài của YHHĐ.
Nguyên Nhân
Đa số do thấp nhiệt rót xuống dưới uất kết lại hoá thành độc hoặc do chính khí bị tổn thương, hàn thấp ngưng kết lại gây nên bệnh.
+ Thấp Nhiệt: Hạ tiêu bị thấp nhiệt hoặc tức giận làm tổn thương Can, Can uất hoá thành nhiệt. Can khí phạm Tỳ, Tỳ hư thì thấp sẽ thịnh, thấp nhiệt rót xuống dưới, uất kết lại hoá thành độc, hoá thành mủ gây nên bệnh.
+ Hàn Thấp: Do hàn thấp tụ lại ở âm hộ hoặc do lúc hành kinh hoặc sau khi sinh hàn thấp ngừng trệ lại, huyết ứ phía bên trong, khí không thông hoặc đờm trọc đình lại phía bên trong, đờm và ứ ngăn trở khiến cho da vùng âm hộ bị ngứa, lâu ngày sinh lở loét gây nên âm đạo lở loét.
Chẩn Đoán
. Dựa vào bệnh sử: Vào chu kỳ kinh nguyệt hoặc sau khi sinh, vùng hạ tiêu bị nhiễm thấp nhiệt hoặc hàn thấp, vùng âm đạo sưng, đau, hoặc tuyến Bartholin bị viêm.
. Chứng trạng: âm hộ sưng đỏ, nóng, đau hoặc có khối u cứng, vỡ ra, chảy mủ.
. Khám thấy: Vùng bên ngoài âm đạo hoặc mép lớn sưng đỏ, nóng, ấn vào đau, có mủ hoặc mủ chảy ra lở loét.
. Xét nghiệm: lượng bạch cầu tăng cao.
Chẩn Đoán Phân Biệt
Cần phân biệt với:
. Giang mai, hạ cam (xét nghiệm cho thấy Widal dương tính).
. Hạ cam mềm: phát ra nhiều chỗ, có mủ, đau (xét nghiệm cho kết quả rõ hơn loại khuẩn gây bệnh).
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Thấp Nhiệt: Vùng âm đạo lở loét, sưng nóng đỏ, đau, lở loét chảy nước, mủ, dính, có mùi hôi, đầu váng, hoa mắt, miệng đắng, họng khô, cơ thể nóng, tâm phiền, táo bón, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác.
Điều trị: Tả Can, thanh nhiệt, trừ thấp.
Dùng bài Long Đởm Tả Can Thang thêm Thổ phục linh, Bồ công anh.
. Nếu nhiệt độc nhiều, sốt không giảm, khát, thích uống nước lạnh, mủ ra có mùi hôi thối. Dùng phép giải độc, thanh nhiệt, hoá hủ, trừ thấp. Dùng bài Tiên Phương Hoạt Mệnh Ẩm (Hiệu Chú Phụ Nhân Lương Phương): Bạch chỉ, Bối mẫu, Phòng phong, Xích thược, Đương quy vĩ, Tạo giác thích, Thiên hoa phấn, Xuyên sơn giáp, Nhũ hương, Một dược, Kim ngân hoa, Trần bì, Cam thảo (tiết).
(Kim ngân hoa thanh nhiệt, giải độc; Bạch chỉ, Phòng phong tán phong, trừ thấp; Xích thược, Quy vĩ, Nhũ hương, Một dược hoạt huyết, hoá hủ, tiêu thủng; Xuyên sơn giáp, Tạo giác thích hoạt huyết, nhuyễn kiên, tán kết; Trần bì, Bối mẫu lý khí, hoá đờm; Thiên hoa phấn dưỡng âm, thanh nhiệt; Cam thảo giải độc, hoà trung).
+ Hàn Thấp: Âm đạo sưng cứng, lở loét, mầu da âm đạo không thay đổi hoặc đau, mụn vỡ chảy mủ ra không dứt, tinh thần mỏi mệt, ăn ít, lưỡi trắng, rêu lưỡi trắng bệu, mạch Tế Nhược.
Điều trị: Ôn kinh, hoá thấp, hoạt huyết, tán kết. Dùng bài Dương Hoà Thang (Ngoại Khoa Toàn Sinh Tập): Thục địa, Lộc giác giao, Tro Gừng, Nhục quế, Ma hoàng, Cam thảo, Bạch giới tử. Thêm Thương truật, Phục linh, Nga truật, Tạo giác thích.
(Thục địa, Lộc giác giao bổ tinh, trợ dương; Tro Gừng, Nhục quế ôn kinh thông mạch; Ma hoàng, Bạch giới tử thông dương, tán ứ, tiêu sang (lở loét); Nga truật, Tạo giác thích hành khí, hoạt huyết, tán kết; Thương truật, Phục linh táo thấp, lợi thuỷ, hoá trọc; Cam thảo giải độc, điều hoà các vị thuốc).
. Nếu chính khí suy yếu, tà khí thịnh, có triệu chứng nhọt lở loét không thu miệng lại, hoảng sợ, hơi thở ngắn. Dùng phương pháp thác lý, tiêu độc. Dùng bài Thác Lý Tiêu Độc Tán (Ngoại Khoa Chính Tông): Nhân sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ, Cam thảo, Phục linh, Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung, Ngân hoa, Bạch chỉ, Tạo giác thích, Cát cánh.
(Nhân sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ, Cam thảo bổ khí, trợ dương; Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung dưỡng huyết, hoạt huyết; Ngân hoa, Bạch chỉ, Tạo giác thích tiêu thủng, bài nùng; Hoàng kỳ, Cát cánh đẩy tà độc ra ngoài).
Thuốc Bôi:
. Lúc mới bị: dùng Ngoại Tiêu Kim Hoàng Tán: Đại hoàng (sống), Hoàng bá, Khương hoàng, Bạch chỉ đều 10g, Nam tinh, Trần bì, Thương truật, Hậu phác, cam thảo đều 4g, Thiên hoa phấn 24g. Tán nhuyễn, trộn với dầu Mè (Dừa), bôi.
. Thời kỳ nung mủ, nếu không tự vỡ ra: Rạch cho thoát mủ ra. Sau đó dùng Sinh Cơ Tán đắp vào: Tượng bì (nướng), Long cốt (nung), Xích thạch chi, Huyết kiệt, Nhũ hương (chế), Một dược (chế), Nhi trà đều 30g, Băng phiến 10g. Tán nhuyễn rắc vào vết thương (Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học).
ÂM ĐẠO ĐAU
(Âm Thống)
Đại Cương
Phụ nữ trong âm đạo hoặc âm hộ thấy đau, có khi lan đến bụng dưới hoặc đến vú gọi là Âm Thống hoặc Âm Trung Thống, Âm Hộ Thống, Tiểu Hộ Giá Thống, Giá Thống.
Nguyên Nhân
Theo Đông Y, bộ phận sinh dục là nơi hội tụ bên ngoài của tông cân, đồng thời mạch Xung, Nhâm và 3 đường kinh âm ở chân vận hành ngang qua đó. Can chủ cân, Thận khai khiếu ra nhị âm, vì vậy, đau vùng bộ phận sinh dục có liên hệ với Can và Thận.
Thường do:
+ Can Thận Suy Tổn: Do tiên thiên bất túc, lập gia đình sớm, sinh đẻ nhiều hoặc sinh hoạt tình dục không điều độ làm hao tổn tinh huyết, tổn thương đến Can, Thận, Can mạch và bộ phận sinh dục. Cân lạc của Thận nhập vào bộ phận sinh dục, nếu cân mạch ở bộ phận sinh dục không được nuôi dưỡng sẽ bị sưng đau, co rút.
+ Can Uất Khí Trệ: Do tình chí uất ức hoặc tức giận quá khiến cho Can uất, khí trệ, kinh mạch vùng bộ phận sinh dục không thông, khí huyết vận hành bị ngăn trở gây nên đau.
+ Can Kinh Thấp Nhiệt: Do phiền táo, giận dữ uất kết, Can uất hoá thành nhiệt, ảnh hưởng đến Tỳ, Tỳ hư sinh thấp, thấp nhiệt cùng kết lại, dồn xuống hạ tiêu. Hoặc thấp nhiệt xâm nhập vào hạ tiêu làm cho âm hộ sưng đau.
+ Hàn Ngưng Can Mạch: Do âm hộ có âm hàn lâu ngày, hoặc nhân cơ hội hành kinh, sinh đẻ, hàn tà thừa cơ bên trong hư yếu mà xâm nhập vào hạ tiêu, khí huyết tương bác nhau khiến cho Can mạch bị bế tắc gây nên bệnh.
Chẩn Đoán
. Bệnh sử: Trước đó có cảm phải hàn tà, tình chí uất ức hoặc sinh hoạt tình dục không điều độ.
. Triệu chứng: Tự nhiên âm đạo hoặc bộ phận sinh dục sưng đau, đau lan đến bụng dưới hoặc đến vú, lúc đau nhiều lúc đau ít, lúc đau lúc không.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Can Thận Suy Tổn: Bộ phận sinh dục sưng đau hoặc đau rát, có ít hoặc không có huyết trắng, lưng đau, chân mỏi, đầu váng, tai ù, mắt khô dính, uể oải không có sức, lưỡi nhạt, rêu lưỡi nhạt, mạch Trầm, Tế.
Điều trị: Tư dưỡng Can Thận, hoãn cấp chỉ thống. Dùng bài Đương Quy Địa Hoàng Ẩm thêm Mẫu lệ, Bạch thược, Diên hồ sách.
+ Can Uất Khí Trệ: Bộ phận sinh dục sưng đau, lan đến bụng dưới, hai bên hông sườn và hai vú, phiền táo, dễ tức giận, ngực đầy tức, lưỡi đỏ, rêu lưỡi nhạt, mạch Huyền.
Điều trị: Sơ Can, giải uất, lý khí, chỉ thống. Dùng bài Tiêu Dao Tán thêm Xuyên luyện tử, Hương phụ, Diên hồ sách.
Nếu Can uất hoá hoả, biểu hiện là trong bộ phận sinh dục nóng rát, miệng đắng, họng khô, khát, thích uống, táo bón, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác. Điều trị: Sơ Can, tiết hoả. Dùng bài thuốc trên thêm Đơn bì, Chi tử và Hạ khô thảo.
+ Can Kinh Có Thấp Nhiệt: Bộ phận sinh dục sưng đau, nhiều huyết trắng, mầu vàng như mủ, dính, có mùi hôi, đầu váng, hoa mắt, miệng đắng, họng khô, khát, thích uống nước, táo bón, nước tiểu vàng, rêu lưỡi vàng, bệu, mạch Huyền Hoạt mà Sác.
Điều trị: Tả Can, thanh nhiệt, trừ thấp, chỉ thống. Dùng bài Long Đởm Tả Can Thang thêm Hoàng bá, Uất kim.
+ Hàn Trệ Can Mạch: Bộ phận sinh dục co thắt, đau chịu không được, sợ lạnh, tay chân lạnh, các khớp đau nhức, lưỡi tối, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Khẩn.
Điều trị: Ôn kinh, tán hàn, hành trệ, chỉ thống. Dùng bài Xuyên Luyện Thang (Trúc Lâm Nữ Khoa) bỏ Binh lang, Trạch tả: Xuyên luyện tử, Tiểu hồi, Trư linh, Bạch truật, Ô dược, Nhũ hương, Diên hồ sách, Mộc hương, Ma hoàng, Sinh khương, Thông bạch
ÂM XUÝ
Xuất xứ: Kim Quỹ Yếu Lược – Phụ Nhân Mạch Chứng Tịnh Trị.
Là chứng trong âm đạo phụ nữ có những hơi khí tiết ra, có khi thành tiếng kêu, giống như đánh hơi (trung tiện).
Nguyên Nhân
Đa số do trung khí bất túc, hơi do cốc khí dồn xuống gây nên. Hoặc do Vị trường bị táo, khí không thông đi được, bị rối loạn khí, khí không chuyển theo cách thông thường ra hậu môn nên gây ra bệnh. Hoặc do Tỳ Dương không vận hoá, đờm thấp đình tụ lại, làm cho khí bị ngăn trở, tiết xuống dưới gây nên bệnh.
+ Khí Hư: Do Tỳ vốn suy yếu hoặc do lao nhọc làm tổn thương Tỳ, Tỳ mất chức năng vận hoá, khí huyết quá suy khiến cho trung khí bị hạ hãm, phủ khí không theo con đường bình thường mà lại dồn vào bộ phận sinh dục gây nên bệnh.
+ Vị Táo: Cơ thể vốn sẵn dương thịnh hoặc do cảm phải nhiệt tà hoặc do ăn thức ăn quá cay, nóng, khiến cho nhiệt thịnh nung đốt tân dịch, trong Vị bị táo, táo bón, làm cho phủ khí không tiết xuống được, dồn vào bộ phận sinh dục gây nên.
+ Khí Uất: Người tinh thần sẵn uất ức hoặc giận dữ quá làm tổn thương Can, Can khí không thoải mái, khí bị rối loạn, bế tắc ở trung tiêu làm cho phủ khí không theo đường bình thường của mình mà chuyển vào bộ phận sinh dục gây nên bệnh.
+ Đờm Thấp: Cơ thể vốn béo phì, bên trong có đờm thấp hoặc ăn nhiều thức ăn ngọt, béo, khiến cho Tỳ mất chức năng kiện viện, thì sinh ra đờm thấp ở trung tiêu, đờm và trọc khí lẫn lộn làm cho hậu môn bị ngăn trở, khí không đi theo con đường thông thường mà dồn vào bộ phận sinh dục gây nên bệnh.
Chẩn Đoán
. Thường bị táo bón, hay uất ức hoặc sẵn bị trung khí bất túc.
. Trong âm đạo thỉnh thoảng lại có hơi thoát ra, giống như trung tiện hoặc u uất không thoải mái.
. Kiểm tra âm đạo, không có gì khác thường, có khi bị viêm.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Khí Hư: Tiếng hơi đánh ra nặng, có khi liên tục, có khi gián đọc, mệt mỏi, không có sức, hơi thở ngắn, nói đứt quãng, vùng bụng đầy tức hoặc bụng dưới trằn nặng, da mặt không tươi, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Nhược, Hoãn.
Điều trị: Kiện Tỳ, ích khí, thăng thanh, giáng trọc. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang thêm Chỉ xác.
+ Vị Táo: Trong âm đạo luôn có hơi, miệng táo, họng khô, táo bón, bụng đầy trướng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác.
Điều trị: Tả nhiệt, nhuận táo, lý khí, đạo trệ. Dùng bài Ma Tử Nhân Hoàn (Kim Quỹ Yếu Lược).
(Ma tử nhân, Hạnh nhân lý khí, nhuận trường, thông tiện; Đại hoàng, Chỉ thực, Hậu phác tả nhiệt, phá tích, đạo trệ; Thược dược, Bạch mật dưỡng âm, nhuận táo).
+ Khí Uất: Trong âm đạo có tiếng hơi, lúc nặng lúc nhẹ, tinh thần ưu uất, phiền táo, dễ tức giận, ngực sườn đau, bụng dưới trướng đau, ợ hơi, ăn ít, thích thở dài, lưỡi bình thường, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Huyền hoặc Huyền Sáp.
Điều trị: Sơ Can, lý Tỳ, khai uất, hành khí. Dùng bài Tiêu Dao Tán thêm Chỉ xác.
+ Đờm Thấp: Trong âm đạo có hơi, huyết trắng nhiều, mầu trắng đục, hông sườn đầy tức, nôn ra đờm dãi, lo sợ, hơi thở ngắn, trong miệng nhạt, dính, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng bệu, mạch Hoạt Hoãn.
Điều trị: Kiện Tỳ, ôn trung, táo thấp, hoá đờm. Dùng bài Quất Bán Chỉ Khương Thang (Ôn Bệnh Điều Biện), thêm Bạch truật.
(Bạch truật, Phục linh kiện Tỳ, thấm thấp, ninh Tâm; Quế chi, Sinh khương ôn trung, thông dương, hoá ẩm, chỉ ẩu; Bán hạ, Quất bì táo thấp, hoá đờm, giáng nghịch, chỉ ẩu; Chỉ thực hành khí, trừ bỉ).
ẨM CHỨNG
Đại Cương
Ẩm chứng là loại tật bệnh lượng thủy dịch trong cơ thể tăng cao chủ yếu ứ đọng ở một bộ phận nào đó không chuyển hóa được.
Chứng này có tên là ‘Tích Ẩm’ ghi trong sách Nội Kinh; Sách ‘Kim Quĩ Yếu Lược’ gọi là ‘Đàm Ẩm’. Tuy nhiên, dựa vào vị trí thủy ẩm tích chứa khác nhau, trong nghĩa rộng của bệnh danh Đàm ẩm, chia làm bốn loại: Loại ẩm tà lưu đọng ở dưới sườn gọi là Huyền ẩm; Ẩm tà tràn ra tay chân gọi là Dật ẩm; Ẩm tà phạm vào vùng ngực và Phế, gọi là Chi ẩm. Ngoài ra, còn có các tên Vi ẩm, Lưu ẩm, Phục ẩm v.v ... cũng đều vẫn thuộc bốn loại ẩm nói trên.
Trong lâm sàng, các loại Viêm Khí Quản Mạn Tính, Hen Suyễn, Tràn Dịch Màng Phổi, Rối Loạn Tiêu Hóa, Tắc Ruột v.v... thuộc Y học hiện đại, ở giai đoạn nào đó, có thể đối chiếu với ẩm chứng để biện chứng luận trị.
Nguyên Nhân
Có thể do nội nhân và ngoại nhân.
Nội nhân do dương khí bất túc, tân dịch vận hóa vô lực gây nên.
Ngoại nhân do do cảm nhiễm hàn thấp lâu ngày hoặc tổn thương ăn uống, khiến dương khí bị uất không vận hóa được gây nên.
Trong quá trình phát bệnh, hai loại này thường ảnh hưởng lẫn nhau.
1) Ngoại cảm hàn thấp: Khí hậu ẩm lạnh, hoặc lội nước dầm mưa, thủy thấp từ bên ngoài thấm vào, phần dương bảo vệ bên ngoài bị thương trước tiên, dần dần từ biểu vào lý, dương khí của nội tạng bị thấp tà làm khốn đốn đến không được thoải mái khiến cho thủy thấp ứ đọng mà thành bệnh. Sách ‘Tố Vấn’ viết: “Thấp tà thắng thì người ta bị ẩm tích lại mà thành chứng tâm thống”.. đó là chỉ trường hợp này.
2) Bị tồn thương do ăn uống - như uống nước lạnh hoặc ăn nhiều thứ sống lạnh, nóng và lạnh làm tổn thương nhau, dương khí ở trung tiêu bị uất kết, Tỳ không vận hóa được đọng lại thành chứng ẩm, như sách Kim Quỹ Yếu Lược viết: “Uống nước nhiều, ắt sẽ bị khó thở (suyễn), và ăn ít uống nhiều, nước đọng lại ở dưới Tâm. ... Nói lên ăn uống không điều độ, hoặc uống nước nhiều sẽ đọng lại thành chứng ẩm.
3) Dương khí suy yếu: Thủy dịch của cơ thể phải nhờ dương khí mới biến hóa được. Người bị ốm lâu thể lực yếu hoặc vì tuổi cao khí yếu, dương khí Tỳ Thận bất túc, thủy dịch khó chuyển hóa, bị ứ đọng lại thành chứng ẩm.
Sự trao đổi thủy dịch bình thường là do quá trình khí hóa thống nhất của ba tạng Tỳ Phế Thận hợp tác điều hòa với nhau. Trong đó Phế có tác dụng làm cho thủy dịch lưu thông xuống dưới, Tỳ có công năng hấp thụ và chuyển vận đi lên, Thận có công năng
phân biệt trong đục, chưng cất thủy dịch và làm nhiệm vụ mở đóng. Dương khí của ba tạng này đầy đủ, phối hợp với nhau, mới có thể hoàn thành sự hấp thụ, vận hành và bài tiết thủy dịch.
Trong ba tạng, dương khí ở tạng Thận và rất quan trọng. Trong trường hợp bệnh lý, Phế Tỳ Thận ảnh hưởng lẫn nhau, như ngoại cảm hàn thấp, đầu tiên phạm Phế rồi mới đến Tỳ, Thận tổn thương. Bị tổn thương vì ăn uống thì Tỳ Vị bị hại, bệnh kéo dài sẽ lan tới Phế Thận. Chứng ẩm do dương hư là phát từ bên trong, tuy chủ yếu là do Tỳ Thận, nhưng cũng có thể đi nghịch lên ảnh hưởng đến Phế, vì vậy trên lâm sàng có những loại chứng khác nhau.
Biện Chứng
Trước tiên cần phân biệt ẩm tà ứ đọng ở vị trí nào mới có thể có biện pháp điều trị.
Ẩm tà lưu ở Vị Trường thì vùng trung quản có tiếng nước óc ách, uống nước vào thì mửa, hoặc trong ruột có tiếng sôi réo.
Ẩm tà đọng ở Phế thường có chứng ho suyễn, khạc đờm có nhiều bọt trắng.
Ẩm tà ở dưới hông sườn thì hông sườn trướng đau, khi ho thì đau tăng.
Ẩm tà ứ đọng ở Bàng quang thì bụng dưới căng cứng hoặc chướng đầy, tiểu tiện không thông...
Đồng thời, còn căn cứ vào các đặc điểm của bệnh như dương hư âm thịnh, hoặc bản hư tiêu thực, linh hoạt nắm vững hư hay thực, hoãn hay cấp, khi biện chứng mới xác đáng.
Về phương diện điều trị, sách ‘Kim Quĩ Yếu Lược’ có nêu ra các phương pháp: tuyên tán, lợi thủy, trục thủy và ôn hóa khác nhau, và đề ra nguyên tắc "Bệnh đàm ẩm, nên dùng thuốc ấm để hòa". Đó là do ẩm là dương tà, gặp lạnh thì tụ, được ấm thì lưu thông, dù dùng thuốc tuyên tán, lợi thủy hay trục ẩm đều phải chú ý đến việc ôn hóa. Nếu nghiêng về dương hư, phải lấy kiện Tỳ ôn Thận làm chủ yếu, để củng cố gốc.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
Ẩm Tà Hại Phế
Chứng: Ho suyễn, ngực đầy, thậm chí không nằm được, đờm nhiều, gặp thời tiết lạnh thì bệnh tăng. Thoạt tiên có thể có biểu chứng: sốt, sợ lạnh, cơ thể đau, dần dà vùng mặt bị phù thũng nhẹ, lưỡi nhạt, mạch Huyền Khẩn.
Biện Chứng: Do ẩm tà tích ở Phế, Phế khí không tuyên giáng, làm cho ho và ngực đầy, không nằm được, đờm nhiều. Thủy theo khí đưa lên làm cho phù thũng vùng mặt. Rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền Khẩn là dấu hiệu hàn ẩm thịnh ở trong.
Điều trị: Ôn phế, hóa ẩm, bình suyễn, chỉ khái.
Chủ yếu dùng Ôn Phế Hóa Ẩm Thang (tức Tiểu Thanh Long Thang) gia giảm. Bài này vừa ôn Phế hóa ẩm, vừa biểu tán phong hàn, thích hợp với chứng do Hàn ở bên ngoài dẫn đến nội ẩm.
Nếu ẩm tà lâu ngày uất lại hóa nhiệt, có thêm chứng dưới Tâm cứng đầy, sắc mặt sạm, phiền khát mà uống nước không nhiều, rêu lưỡi vàng hoặc trắng vàng lẫn lộn. Mạch Trầm Khẩn, nên cần phải hành thủy, tán kết, thanh nhiệt, bổ hư, dùng Mộc Phòng Kỷ Thang gia giảm. Trong bài dùng cả hai vị Phòng Kỷ và Quế chi vừa hành thủy vừa làm tan khí kết, có thể tiêu được bỉ rắn ở dưới Tâm; Thạch cao để thanh uất nhiệt, Nhân sâm để bổ hư phù chính.
Sau khi uống thuốc, nếu dưới Tâm vẫn đầy, bỏ Thạch cao thêm Bạch linh, Mang tiêu để thông thủy, tán kết.
Ẩm Ứ Đọng Ở Ngực Sườn.
Chứng: Ngực sườn chướng đau, khi ho thì đau tăng, xoay mình và hít thở cũng đau, đôi khi hơi thở ngắn, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền.
Biện chứng: Ngực sườn là con đường thăng giáng của khí cơ, nếu ẩm ứ đọng ở ngực sườn, cản trở lưu thông đường thở gây nên đau ngực và khó xoay chuyển. Thủy ẩm dồn ngược lên Phế do đó ho và ngắn hơi, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền là triệu chứng thủy ẩm ứ đọng trong cơ thể.
Điều trị: Công trục thủy ẩm.
Dùng bài Thập Táo Thang gia giảm. Phương này trục ẩm hạ mạnh, chỉ được dùng khi ẩm tà ủng thực mà chính khí chưa suy. Trong bài có Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, trục thủy mạnh, liều lượng nên dùng vừa phải. Nếu bệnh ở loại chính hư tà thực, có thể dùng Đình Lịch Đại Táo Tả Phế Thang hợp với Tam Tử Thang gia giảm.
Ẩm Ứ đọng ở Trường Vị
Chứng: Hình thể gầy ốm, ăn uống kém, trong dạ dầy có tiếng nước óc ách hoặc sôi, tiêu lỏng, sợ lạnh, nhất là vùng lưng, đôi khi chóng mặt, hoa mắt, hồi hộp, ngắn hơi, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt.
- Biện chứng: Tỳ Vị kiện vận mất chức năng cho nên ăn uống sút kém, thủy cốc không hóa ra chất tinh vi để nuôi dưỡng cơ thể cho nên gầy còm. Thủy ẩm đọng ở trong dạ dày hoặc chảy xuống ruột, không chuyển hóa được, uống vào dễ mửa hoặc bụng óc ách, sôi, tiêu lỏng. Thanh dương bị ẩm tà ngăn trở không phát huy được, cho nên sợ lạnh, chóng mặt, hoa mắt. Thủy ẩm tràn lên Tâm Phế, làm cho hồi hộp, ngắn hơi; Rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt là hiện tượng hàn ẩm ứ đọng.
Điều trị: Ôn dương, lợi thủy.
Dùng bài Linh Quế Truật Cam Thang để lợi ẩm và ôn Tỳ dương. Trong bài có Phục linh vị đạm, có tác dụng thấm dẫn nước chảy xuống dưới; Quế, Cam thảo để ôn dương hóa khí; Bạch truật kiện Tỳ trừ thấp. Nếu nôn mửa, chóng mặt, thêm Bán hạ, Sinh khương đế hòa Vị, giáng nghịch. Dương hư nặng, có thể dùng thêm Can khương, Nhục quế để lấy tân ôn trợ dương, hiệu quả càng nhanh.
Bệnh tình khá nặng có triệu chứng vùng bụng chướng đầy, sôi bụng, táo bón, miệng khô, lưỡi ráo, rêu lưỡi trắng nhớt hoặc vàng tro, mạch Trầm Huyền, đó là ẩm tà đọng ở Trường Vị lâu ngày hóa nhiệt, điều trị theo phép lợi thủy, trục ẩm, dùng bài Kỷ Tiêu
Lịch Hoàng Hoàn gồm những vị cay đắng, có tác dụng tuyên tiết để tiêu thủy. Có đằng trước và đằng sau khiến thủy ẩm bài tiết theo đường đại, tiểu tiện.
Ẩm Tà Ứ Đọng Ở Bàng Quang
Chứng: Bụng dưới chướng đầy, tiểu tiện không thông, chóng mặt, hoa mắt, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt.
Biện chứng: Ẩm tà ứ đọng ở Bàng quang, khí hóa không lợi cho nên bụng dưới chướng đầy mà tiểu ít. Nước tràn lên trên thì gây nên chóng mặt, hoa mắt. Rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt đều là chứng hậu của thủy ẩm ứ đọng.
Điều trị: Hóa khí, hành thủy.
Phương dược 1: Dùng bài Ngũ Linh Tán. Trong bài có Quế chi, Bạch truật để ôn dương hóa khí; Phục linh, Trư linh, Trạch tả để đưa nước chảy xuống, đồng thời có công hóa khí hành thủy.
Nếu bụng dưới co cứng cảm giác lạnh, suyễn, hơi thở ngắn, ớn lạnh, chân tay lạnh, lưỡi bệu mà nhuận, mạch Trầm Tế là chứng hậu của Thận dương hư suy, nên tăng cường sức ôn Thận, hóa ẩm. Dùng bài Ngũ Linh Tán có thể thêm Phụ tử, Nhục quế. Nếu bệnh nhẹ có thể dùng bài Thận Khí Hoàn điều trị tiếp tục.
Chứng Dật Ẩm ghi trong sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ thì chứng trạng chủ yếu là đau nhức nặng nề toàn thân. Thậm chí chân tay phù thũng, căn cứ vào đó, có thể xếp Dật ẩm thuộc phạm vi thủy thũng. Sách ‘Y Tông Kim Giám’ cũng ghi: "Dật ẩm tức ngày nay gọi là phong thủy, bì thủy", đó là lý do không giới thiệu Dật ẩm trong ẩm chứng ở đây nhưng lại có ảnh hưởng đến nhau.
Tóm lại, ẩm chứng thuộc loại dương hư âm thịnh, ‘bản’ hư mà "tiêu' thực. ‘Bản’ thuộc Tỳ Thận dương hư không vận hóa được chất tinh vi, ‘Tiêu' là thủy ẩm ứ đọng. Còn kiện Tỳ ôn Thận là phép chính trị, đợi khi thủy ẩm tạm ổn, rêu lưỡi hóa dần, mạch chuyển Hư Nhược, vẫn cần phải ôn bổ Tỳ Thận, phù chính đã làm bền gốc để củng cố về sau: Đồng thời chú ý phòng ngừa ngoại tà xâm phạm, hạn chế rượu, thuốc và thức có mỡ, kết quả điều trị càng được nâng cao.
Y ÁN ĐÀM ẨM
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư)
I) Bệnh nhân: Chu x x, nam giới, 50 tuổi.
Từ ngoại cảm phong hàn dẫn đến ẩm chứng, Phế khí không tuyên thông, lại sinh ra ho và thở gấp, ngực khó chịu, ớn lạnh, rêu lưỡi mỏng nhớt, mạch Hoạt. Chữa theo bệnh Đàm ẩm trong sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ là điều hòa bằng thuốc ấm. Dùng bài Quế Chi Gia Hậu Phác Hạnh Nhân Thang (Quế chi 6g, Cam thảo 2g, Hậu phác 6g, Hạnh nhân 12g, Phục linh 12g, Tô tử 20g, Bạch truật 12g, Viễn chí (chích) 4g, Lai phục tử 8g, Toàn phúc hoa 12g, Trần bì 4g, Bán hạ 8g, Nga quản thạch 12g (nung).
Khám lần 2: Uống 2 đơn thang trên, các chứng đều giảm.
Khám lần 3: Dùng đơn cũ, bỏ Tuyền phúc hoa thêm Bạch truật 20g, Bổ cốt chi (sao) 20g.
2) Bệnh nhân: Du X, nam, 56 tuổi.
Khám lần đầu: Phong hàn bó chặt ở ngoài, đờm ẩm tụ ở trong, Phế bị vít lấp mất sự túc giáng, phát cơn ho thở suyễn suốt ngày đêm không nằm được, cơ thể lạnh, sợ lạnh, kém ăn, muốn nôn, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Phù Huyền Hoạt.
Dùng Tiểu Thanh Long Thang gia giảm để sơ giải ngoại tà, ôn hóa đàm ẩm: Ma hoàng (chích) 1,6g, Quế chi 3,2g, Phục linh 12g, Khương bán hạ 8g, Can khương 1,6g, Ngũ vị tử 1,6g, Tô tử 8g, Hạnh nhân 12g, Nga quản thạch 12g, Thục phụ phiến 4g. Kết hợp với Háo Suyễn Tử Kim Đan 2 viên (nuốt).
Khám lần 2: Uống 2 đơn thang trên, ho suyễn thở ban ngày giảm rõ rệt, ban đêm bệnh vẫn y nguyên, tiếp tục uống đơn trước.
Khám lần 3: Ho suyễn thở ban đêm cũng giảm nhẹ, hết muốn nôn. Nhưng quá trình bị đàm ẩm quá lâu, không thể chuyển hóa hết ngay; Tỳ là nguồn sinh ra đờm - Phế là nơi chứa đờm, cần lý Tỳ, túc Phế, ôn hóa đàm ẩm.
Dùng đơn cũ, thêm Bạch truật 20g, Bổ cốt chi (sao) 20g.
-Nhận xét: Hai bệnh án trên đều do ẩm tà ràng buộc ở Phế, nhưng bệnh có nặng, nhẹ, nên dùng thuốc cũng khác nhau.
Trường hợp nhẹ là ẩm tà chưa thịnh, ho suyễn không nặng lắm, bệnh nhẹ mà dễ chữa. Trường hợp nặng là hàn ẩm khá thịnh, ho suyễn không nằm được, bệnh nặng mà khó khỏi, cho nên dùng thuốc ôn Phế hóa ẩm liều cao để bình suyễn, chữa ho. Đó là điều cần phân biệt so sánh.
3) Bệnh nhân: Mạnh X, nam, 63 tuổi.
Khám lần đầu: Ho suyễn đã hơn 10 năm, gặp ngoại cảm bệnh tăng, ngực khó chịu, kém ăn, rêu lưỡi vàng sạm, mạch Huyền Hoạt. Bệnh nhân nghiện rượu, tửu thấp sinh đàm tụ ẩm, thấm vào Phế gây nên ho; Phế bị bệnh liên lụy đến Thận, Thận khí mất chức năng thu nạp gây nên suyễn. Rõ ràng là xuất hiện trên thực dưới hư. Điều trị cần mở lối thượng tiêu, để tuyên Phế khí, kiện vận Tỳ Vị kiêm cả nạp Thận khí. Dùng Ma hoàng (chích) 4g, Hạnh nhân 12g, Tang bạch bì 20g, Tô tử 12g, Bối mẫu 12g, Quất hồng 4g, Hải phù thạch 16g, Phục linh 12g, Bổ cốt chỉ (sao) 20g, Hồ đào nhục 2 quả.
Khám lần 2: Sau khi uống 3 thang, ho suyễn đều giảm. Tiếp tục uống đơn cũ.
Khám lần 3: Ho suyễn đã giảm, ăn thấy ngon, Phế khí đã giáng xuống, Vị có dấu hiệu tỉnh táo, tà khí mới tuy đã rút lui, nhưng ẩm tà chứa chấp lâu ngày khó biến hóa, hơn nữa lại cao tuổi, sự nhiếp nạp của Thận cũng kém, cho nên rất dễ thăng lên, nên dùng phương pháp kiện Tỳ hóa đàm, túc Phế, nạp Thận. Dùng Nam sa sâm 12g, Tô tử 12g, Hạnh nhân 12g, Phục linh 12g, Viễn chí 6g, Toàn phúc hoa 12g, Quất hồng 4g, Hải phù thạch 16g, Bổ cốt chi 20g, Hồ đào nhục 2 quả.
4) Bệnh nhân: Trương X, nữ, 21 tuổi. Đau ngực và ho suyễn đã hơn 10 năm, về chiều phát sốt, khạc ra đờm dính. Sau khi vào viện, nhiệt độ 38 – 390C, X quang kết luận là ‘Tràn dịch màng Phổi’, đã hai lần rút nước nhưng bệnh không giảm rõ rệt. Chuyển sang điều trị Đông y. Người bệnh ho suyễn lan tỏa ngực sườn, mạch Hoạt Thực.
Chẩn đoán: Nước tích đọng ở ngực sườn thuộc chứng Huyền ẩm.
Phép trị: Trục thủy theo phép hạ mạnh, cho uống Thập Táo Thang. Sau khi uống một thang, tiêu ra nước khoảng 2 ống nhỏ, ho suyễn giảm dần, thể ôn giảm, ăn uống tăng. Cách ba ngày sau lại cho uống thêm một thang nữa, lại tiêu ra nước rất nhiều, các chứng trạng tiêu hết.
Nhận xét: Hai bệnh án trên, bị ho suyễn hơn 10 năm, bệnh dai dẳng không dứt. Bệnh án họ Mạnh do tà lưu ở Phế gây nên chứng Chi ẩm, trên thực dưới hư, đàm ẩm hóa nhiệt, cho nên dùng phép tuyên Phế, nạp Thận (khác với bệnh án họ Chu và Du). Bệnh án sau cùng do chứng ẩm đọng ở ngực sườn, thuộc thực chứng, cho nên dùng phương pháp trục thủy, xổ mạnh. Sau khi triệu chứng cơ bản đã hết, vẫn nên tiếp tục điều trị theo cách phù chính, hóa ẩm như dùng các bài ‘Linh Quế Truật Cam Thang’, ‘Nhị Trần Thang’ thêm Đảng sâm, Hoàng kỳ... để củng cố kết quả, phòng ngừa tái phát.
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:238.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh