Pair of Vintage Old School Fru
KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. CÂY NHÀ LÁ VƯỜN
CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC
RUNG RÚC
Tên thường gọi: Rung rúc, Rút đế, Đồng bìa, Cứt chuột, Lão thử nhĩ, Cẩu cước thích, Đề vân thảo,Thiết bao kim, Ô long căn, Câu nhi trà.
Tên khoa học: Berchemia lineata(L.) DC.
Họ khoa học:Thuộc họ Táo ta -Rhamnaceae.
Cây Rung rúc
(Mô tả, hình ảnh cây Rung rúc, bào chế, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Cây nhỏ dạng bụi leo cao 1-4m, cành non mảnh có màu xanh nhạt, không lông. Lá mọc so le; phiến nhỏ, xoan, bầu dục, dài 1,5-2,5cm, rộng 0,7-1,2cm, tù hai đầu, gân phụ 5-6 cặp, nổi rõ, gần song song, cuống 5-7mm. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành hay ở nách lá; hoa nhỏ, màu trắng, mẫu 5, cánh hoa dài hơn đài thuôn, có móng nhỏ ở phía dưới; đĩa mật dày, mép chia thuỳ, bầu ẩn trong đĩa mật, 2 ô. Quả hạch dài 5-6mm, hình trứng, màu đen; hạt 2.
Hoa nở tháng 8-9; quả chín từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau.
Bộ phận dùng:
Rễ -Radix Berchemiae Lineatae.
Phân bố:
Loài của Ấn Độ, Xích Kim, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Cây mọc rất phổ biến nơi đất trống, dãi nắng, ven rừng thưa thứ sinh, miền trung du, gặp nhiều miền Bắc Việt Nam.
Thu hái:
Thu hái rễ quanh năm, rửa sạch, thái phiến, phơi khô dùng dần. Khi dùng, tẩm rượu sao cho thơm.
Thành phần hoá học
Có chứa Saponin và hoạt chất khác đang nghiên cứu.
Vị thuốc Rung rúc
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị
Vị ngọt nhạt, hơi đắng và chát, tính bình;
Tác dụng:
Có tác dụng khử ứ, chỉ khái, khư đàm, giảm đau.
Chủ trị:
Thường được dùng trị:
1. Khái huyết trong lao phổi, viêm khí quản cấp;
2. Chảy máu dạ dày và ruột, chảy máu cam, nội thương xuất huyết;
3. Bệnh tinh thần phân lập;
4. Viêm gan, viêm tinh hoàn;
5. Đòn ngã tổn thương, đau nhức khớp xương do phong thấp.
Liều dùng:
Liều dùng 30-50g, dạng thuốc sắc.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Rung rúc
Lao phổi có khái huyết:
Rung rúc 60g, Mỏ quạ 30g, Bạch cập 12g, A giao 10g, sắc uống.
Viêm khí quản cấp:
Lá Rung rúc và rượu 60g, sắc nước, chia 2 lần uống trong ngày, điều trị liên tục trong 15 ngày.
Chữa mụn nhọt sưng đau (chưa vỡ mủ):
Lá non của cây rung rúc 30g; rửa sạch, để ráo nước, giã nát với chút muối, đắp lên mụn nhọt sau 2 giờ tháo băng, đắp ngày 1 lần. Đồng thời dùng cúc hoa trắng 15g, cam thảo 5g, đổ 200ml nước sắc còn 100ml, chia 2 lần nước trong ngày. Uống liền 5 ngày.
Chữa ho lâu ngày do nhiễm lạnh:
Rễ rung rúc 30g, xuyên phá thạch 10g, cam thảo 9g. Tất cả cho vào ấm, đổ 700ml nước sắc còn 300ml chia 3 lần uống trong ngày sắc uống trong ngày, uống lúc còn ấm. 10 ngày một liệu trình.
Hoặc lá và cành non của cây rung rúc 60g rửa sạch, đổ 200ml nước sắc còn 100ml, đổ 60ml rượu trắng đun sôi, chia 2 lần uống trong ngày uống liên tục trong 15 ngày.
Hỗ trợ điều trị trĩ ngoại:
Lá và cành non của cây rung rúc 30g, rửa sạch, thái ngắn; đuôi lợn 1 cái, làm sạch, chặt khúc ướp vừa, đổ nước và để lão thử nhĩ hầm nhừ ăn cả nước lẫn cái. 10 ngày một liệu trình.
Chữa mẩn tịt:
Rễ cây rung rúc 30g, đổ 500ml nước sắc còn 250, chia 3 lần uống trong ngày. 5 ngày một liệu trình.
Chữa phong tê thấp, xương khớp đau, nhức, mỏi
Rễ rung rúc thái mỏng, sao vàng 200g, rượu trắng (30 - 40 độ) 1 lít; ngâm trong 15 ngày trở lên; ngày uống 20 - 30ml.
Dùng ngoài trị viêm mủ da, rắn độc cắn:
Giã cây tươi, thêm muối, đắp;
Dân gian còn dùng trị sốt rét, ỉa chảy.
CÂY RÙM NÀO CHỮA ĐỘNG KINH
Tên khác Rùm nao, Mọt, Cánh kiến
Tên khoa học Mallotus philippinensis(Lam.) Muell. -Arg., thuộc họ Thầu dầu -Euphorbiaceae.
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây nhỡ, cao 5-10m. Cành non có lông màu gỉ sắt. Lá nguyên, mọc so le; có 3 gân gốc, mặt dưới phủ lông trắng mềm hình sao và có nhiều tuyến. Lá non màu hồng tím, gần cuống lá có 2 tuyến, lá kèm rụng sớm. Hoa nhỏ, đơn tính, cùng gốc. Cụm hoa đực mọc thành bông ở đầu cành hay nách lá. Cụm hoa cái cũng là bông ở đầu cành. Hoa đực có 16-32 nhị. Hoa cái có bầu 2-3 ô phủ lông mềm màu đỏ tươi. Quả nang, hình cầu dẹt làm thành 3 múi, phủ nhiều lông lẫn với nhiều tuyến màu đỏ, khi chín nứt thành 3 mảnh. Hạt hình cầu hay hình trứng, màu đen.
Mùa quả tháng 4-5.
Bộ phận dùng:
Rễ, lông bao phủ quanh quả và vỏ cây -Radix, Pilus Fructi et Cortex Malloti Philippinensis.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Đông dương, Malaixia, Philippin tới Úc châu. Ở nước ta, cây thường mọc hoang ở rìa rừng nhiều nơi. Đến mùa quả chín, thu quả vào một cái rây, xoa quả vào rây để lấy lớp lông đỏ ở ngoài, ta được một thứ bột mịn màu đỏ. Rễ, vỏ thu hái quanh năm.
Thành phần hoá học:
Hoạt chất chính trong hạch và lông rùm nao là một chất màu kết tinh hình phiến mỏng.
Anderson gọi chất này là rotìerin, Perkin gọi là malotoxin, Merck gọi là kamalin.
Tại các nước, người ta dùng hạch và lông cùa cây này với tên Kamala lậm thuốc chữa sán. Ưu điểm của nó là nó có tác dụng tẩy luôn, dẽ uống, không gây nôn mửa.
Liều dùng: Trẻ em ngày uống 2g bột chia làm 2 lần uống, mỗi lần cách nhau nửa giờ.
Người lớn: Ngày uống 6-12g cũng chia làm hai lần uống, mỗi lần cách nhau nửa giờ.
Tác dụng kiềm và đun nóng, rotlerin sẽ cho métylphlorogluxin. Khử ôxy bằng natri hydroxuyt và kẽm sẽ được đimetylphlorogluxin.
Tác dụng axit clohydric, rotlerin sẽ cho isorotlerin.
Ngoài rotlerin ra, rùm nao còn chứa một chất nhựa đỏ, một chất nhựa màu vàng, một chất có tinh thể màu vàng và sáp.
Vị thuốc Rùm nao
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị - Công dụng:
Vị hơi đắng, hơi chát, tính mát; rễ có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp. Các tuyến và lông trên thân quả có vị đắng, có tác dụng sát trùng tẩy nhẹ và cầm máu. Vỏ cây cũng có tác dụng thu liễm.
Chỉ định:
Rễ dùng trị lỵ cấp tính, hầu họng sưng đau; vỏ chữa động kinh và ỉa chảy; tuyến và lông của quả dùng tẩy sán dây, giun mỏ và chữa phù thũng, còn dùng trị giang mai và các bệnh ngoài da (mụn nhọt, ghẻ ngứa). Ở Ấn Độ, bột này dùng uống có tác dụng tránh thụ thai mà người ta cho rằng yếu tố chống thụ thai là rottlerin.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Rùm nao
Tẩy sán và giun mỏ:
Dùng mỗi ngày 2-6g bột Rùm nao trộn với ít bột gạo rang; uống làm 2 lần, mỗi lần cách nhau 1/2 giờ. Trẻ em dùng ít hơn.
Chữa động kinh:
Vỏ thân cây Rùm nao 10g, rễ Găng trâu 5g. Sắc uống làm 1 lần trong ngày (kinh nghiệm dân gian).
Chữa ỉa chảy:
6-12g vỏ thân sao vàng, sắc uống.
Tham khảo
Chú thích:
Trong các tài liệu cũ, thường ghi cây này với tên cánh kiến và nói là dùng nhuộm răng. Chúng tôi cho rằng đây là một sự lầm lẫn khi điều tra. Vì vị cánh kiến dùng để nhuộm răng là một thứ nhựa do một con sâu sống trên nhiều cây tiết ra. Ta gọi là gôm lắc hay sen lac (shell lac), stich lac (stick lac) (xem vị này)
CỎ BỢ
Tên thường dùng: tần, tứ diệp thảo, điền tự thảo, phá đồng tiền, dạ hợp thảo, phak vèn
Tên tiếng Trung: 蘋
Tên khoa học: Marsilea quadrifolia L.
Họ khoa học: họ Tần Marsileaceae, bộ dương xỉ
Cây cỏ bợ
( Mô tả, hình ảnh cây cỏ bợ, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả
Cây cỏ bợ là loài cỏ mọc hoang ở những nơi ẩm hay ở dưới nước, có thân rễ bò mảnh,mang từng nhóm 2 lá một, cuống lá dài 5-15cm, mỗi lá gồm 4 lá chét, xếp chéo chữ thập. Tối đến các lá chét rủ xuống, từ gốc mỗi nhóm lá phát xuất ra một rễ chùm phụ. Bào tử quả rất bé, nằm ở gốc cuống lá chia làm nhiều ô ngang trong chứa bào tử nang lớn, sẽ sinh nguyên tản cái và nhiều bào tử mang nhỏ sẽ cho nguyên tản đực. Mỗi ô đó tương đương với một ổ tử nang và có áo riêng của nó
Thu hái và chế biến
Cây cỏ bợ là một loại cỏ mọc hoang ở khắp nơi ở Việt Nam, cây mọc cạnh ao, đầm nơi ẩm thấp, đồng ruộng.
Nhân dân Việt Nam có nơi hái vê làm món ăn sống, có khi hái về sao vàng hoặc phơi khô, sắc đặc uống làm thuốc. có nơi giã cây tươi để sử dụng
Bộ phận dùng
Sử dụng lá và thân.
Thành phần hóa học
Người ta đã biết trong Cỏ bợ có nước 84,2%, protid 4,6%, glucid 1,6%, caroten 0,72%, vitamin C 76mg%. Cỏ bợ còn chứa cyclolaudenol.
Vị thuốc cỏ bợ
Mô tả dược liệu
Tính vị
Vị ngọt, hơi đắng, tính mát
Công dụng
Người ta thường hái Cỏ bợ về làm rau ăn sống, xào, luộc hoặc nấu canh với tôm tép. Ðể làm thuốc, thường dùng trị:
1. Suy nhược thần kinh, sốt cao không ngủ, điên cuồng;
2. Viêm thận phù 2 chân, viêm gan, viêm kết mạc;
3. Sưng đau lợi răng;
4. Ðinh nhọt, sưng độc, sưng vú, tắc tia sữa, rắn độc cắn;
5. Sốt rét, động kinh;
6. Khí hư, bạch đới;
7. Thổ huyết, đái ra máu, sỏi thận, sỏi bàng quang, đái đường.
Liều dùng
Ngày dùng 20-30g cây tươi phơi khô, sao vàng, sắc uống
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc cỏ bợ
-Chữa sỏi thận, sỏi bàng quang: dùng cây cỏ bợ dạng tươi đem rửa thật sạch, giã nát rồi vắt lấy nước cốt dùng để uống vào mỗi buổi sáng. Mỗi ngày người bệnh cần uống 1 bát như vậy và uống liên tục trong một liệu trình khoảng 5 ngày sẽ có tác dụng rất tốt.
- Chữa bí tiểu, tiểu dắt Dùng cỏ bợ tươi 20-30g (hoặc cỏ khô 10-15g) sắc nước uống thay nước trong ngày. Cách này rất đơn giản nhưng mang lại hiệu quả nhanh chóng và an toàn.
- Hỗ trợ chữa bệnh tiểu đường Dùng cỏ bợ kết hợp với vị thuốc thiên hoa phấn, mỗi vị 10-15g, sắc nước uống thay nước trong ngày. Cách này có tác dụng làm giảm các triệu chứng bệnh tiểu đường và ngăn chặn tình trạng bệnh phát triển hiệu quả.
Tham khảo
Một số bài thuốc từ cây cỏ Bợ bốn lá :
– Bài thuốc 1: Rau bợ 20g, lá sen non 30g tất cả nấu canh ăn hằng ngày. Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, mát can thận, an thần hạ áp, trị sang nở, rôm sảy, mày đay, rối loạn chuyển hoá chức năng gan…
– Bài thuốc 2: Cỏ bợ 30g, thiên hoa phấn 10g, hoài sơn 50g. Cỏ bợ và thiên hoa phấn sắc kỹ lọc lấy dịch chiết rồi cho hoài sơn vào nấu cháo. Bài thuốc có tác dụng kiện tỳ, lợi vị, kích thích tuyến tuỵ tiết insulin, ức chế hấp thu đường của tế bào, đồng thời làm chậm quá trình tổng hợp, lên men và đường hóa của tế bào, giúp cơ thể ổn định đường huyết, làm giảm cảm giác thèm ăn ở người tiểu đường. Thích hợp cho những người rối loạn chuyển hoá đường, tiểu đường, ăn uống kém…
– Bài thuốc 3: Cỏ bợ 50g, rau muống 50g tất cả đem nấu canh, dùng trong 7 – 10 ngày hoặc đến khi hết phù. Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giảm viêm, lợi niệu, tiêu phù, thích dụng trong các trường hợp phù viêm thận cấp và mạn tính, viêm bàng quang, phù do suy tim, phù do tỳ trợ vận kém …
– Bài thuốc 4: Cỏ bợ 100-200g rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt uống liên tục 7- 10 ngày có tác dụng thanh nhiệt lợi tiểu, cường thận, mạnh bàng quang, thông niệu đạo, bài sỏi. Thích hợp cho các trường hợp mắc sỏi thận, sỏi bàng quang và niệu quản, trị tiểu rắt, tiểu buốt, tiểu không thông trong viêm nhiễm đường sinh dục, tiết niệu, mẩn ngứa, mề đay, rôm sảy…
– Bài thuốc 5: Cỏ bợ 50-100g, lá sen non 30g, cỏ nhọ nồi 20g, tất cả sơ chế đem xào hoặc nấu canh ăn 5-10 ngày. Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết giải thử, bền vững thành mạch, chống xuất huyết. Thích hợp cho những người chảy máu cam, đại tiểu tiện ra máu, suy tĩnh mạch chi, rong kinh, phiền nhiệt, háo khát… Ngoài ra có thể vắt lấy nước cốt uống hằng ngày.
– Bài thuốc 6: Rau bợ 30-50g, lá vông non 20g, tất cả đem nấu canh ăn 5-7 ngày, bài thuốc có tác dụng nâng cao chính khí, an thần gây ngủ, thư giãn thần kinh, nhuận tràng. Thích dụng trong các trường hợp: suy nhược thần kinh, làm việc trí óc căng thẳng, đau đầu mất ngủ, táo bón, trĩ nội, trĩ ngoại…
– Bài thuốc 7: Cỏ bợ 200-300g, rau rửa sạch thái nhỏ, cua đồng 200g, đem sơ chế giã lọc lấy nước cốt. Tất cả đem nấu canh ăn hằng ngày, bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, an thần, bồi bổ cơ thể, kích thích quá trình tổng hợp, phát triển, tái tạo tế bào xương. Tốt cho những người gãy xương, loãng xương, trẻ em còi xương, chậm phát triển chiều cao, thiếu canxi, mới ốm dậy, suy nhược cơ thể…
Chú ý:
Rau bợ mọc sâu dưới bùn đất nên khi thu hái chỉ lấy phần thân và lá non, rửa sạch rồi ngâm với nước muối loãng cho bớt đi vị tanh của bùn. Hơn nữa do rau có tính hàn nên những người tỳ, vị hư nhược hay tỳ thận dương hư có các biểu hiện như lạnh bụng, đi ngoài phân lỏng, ăn uống tích trệ, ậm ạch khó tiêu, chân tay lạnh không nên dùng.
CÂY VÔNG NEM
Vông nem
Tên khác
Tên khác: Vông nem, Cây lá vông, Hải đồng bì, thích đồng bì, co toóng lang(Thái), bơ tòng(Tày).
Tên khoa học:-Erythrina variegataL.
Tên đồng nghĩa:Corallodendron orientale (Linnaeus) Kuntze; Erythrina corallodendron Linnaeus var. orientalis Linnaeus; E. indica Lamarck; E. loureiroi G. Don ["loureiri"]; E. orientalis (Lin­naeus) Murray; E. variegata var. orientalis (Linnaeus) Merrill.
Họ khoa học:thuộc họ Ðậu -Fabaceae.
Cây vông nem
( Mô tả, hình ảnh cây vông nem, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây to cao tới 10m, vỏ xanh rồi nâu, có nhiều gai ngắn. Lá mọc so le, có 3 lá chét hình tam giác. Vào tháng 3-5, sau khi lá rụng, cây ra hoa. Chùm hoa dày gồm nhiều hoa màu đỏ chói. đài hình ống có 5 răng nhỏ; tràng dài, cánh cò rộng, nhị tập hợp thành bó vượt ra khỏi tràng. Quả đậu không lông, có eo giữa các hạt. Hạt hình thận, màu nâu.
Quả đậu, màu đen, thót lại ở gốc và thắt lại giữa các hạt; hạt 5-8, hình thận, màu đỏ hay nâu.
Bộ phận dùng:
Vỏ và lá -Cortex et Folium Erythrinae Variegatae. Vỏ vông nem thường được gọi là Hải đồng bì.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố rộng từ Ðông Á châu tới Phi châu nhiệt đới. Ở Á châu, loài này phổ biến ở Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Thường gặp trong các bụi dọc bờ biển, lân cận với các rừng ngập mặn và trong rừng thưa, nhiều nơi ở nước ta. Cũng thường được trồng làm cây bóng mát dọc đường ở các khu dân cư. Người ta thu hái lá vào mùa xuân, chọn lá bánh tẻ, dùng tươi hay phơi khô, thu hái vỏ cây quanh năm.
Thành phần hóa học:
Trong lá và thân có một alcaloid là erythrin, có độc. Chất này có tác dụng làm giảm và có khi làm mất hẳn hoạt động thần kinh trung ương, tuy nhiên không ảnh hưởng đến sự kích thích vận động và sự co bóp của cơ. Còn có chất saponin gọi là migarin làm dãn đồng tử. Trong hạt có alcaloid gọi là hypophorin có tác dụng tăng phản xạ kích thích đưa đến sự co giật, uốn ván.
Tác dụng dược lý
- Lá vông có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương, trấn tĩnh, gây ngủ, hạ thân nhiệt và hạ huyết áp.
- Tác dụng tăng co bóp của cơ. Trên súc vật thí nghiệm, nước sắc lá vông 10% có tác dụng làm co cứng cơ chân ếch và cơ thắt trực tràng
- Tác dụng sát trùng, chữa bệnh ngoài da
- Lá vông ít độc. Thí nghiệm trên chuột trắng, chuột lang, chuột bạch, thỏ, mèo, chó, khỉ đều không có hiện tượng ngộ độc nào.
Còn theo tài liệu nước ngoài (Ấn Độ, Trung Quốc) vỏ thân vông nem có tác dụng làm giảm hoại động của hộ thần kinh trung ương. Dạng alkaloid toàn phần chiết từ vỏ thân cây vông nem dòng với liều 0,5 - 2,0 mg/kg có tác đụng ức chế sự co bóp của một cô lập thỏ và tử cung cô lập chuột cống trắng; với liều dùng 15mg/kg tiêm tĩnh mạch có tác dụng làm thỏ gục đầu.
Chất erythrin có trong vỏ thân có tác dụng đối kháng với strychnin, do đó có thể dùng làm thuốc giải độc trong trường hợp ngộ độc strychnin (The Indian materia medica 1999 - P.508).
Chất hypaphorin và một số alkaloid khác như erythroidin, erythramin... tồn tại trong hạt vông nem đều có tác dụng giống curare gây giãn cơ vân.
Dịch chiết nước từ vỏ thân vông nem thí nghiệm trên ống kính, có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn và một số nấm gây bệnh ngoài da (Trung dược từ hải II trang 2307)
Ở Ấn Độ, lá vông nem được coi là có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, trị giun sán, lợi sữa và điều kinh. Hạt dùng tươi thì có độc, nhưng sau khi luộc
hoặc rang lại có thể ăn được (The Wealth of India . V. II - P.195- 198)
Vị thuốc lá vông, hải đồng bì
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị
Lá vông nem, hải đồng bì có vị đắng nhạt, hơi chát, tính bình.
Vỏ thân cây vông nem (thích đồng bì) vị đắng, tính bình
Quy kinh:
Lá vông vào 2 kinh vị và đại tràng.
Vỏ thân cây vông vào 2 kinh Can và thận.
Tác dụng trong YHCT
Tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương, làm an thần, gây ngủ, hạ nhiệt, hạ huyết áp, co bóp các cơ.
Ðông y cho là nó còn có tác dụng sát trùng, tiêu tích, trừ phong thấp.
Vỏ cây có tác dụng khư phong thông lạc, sát trùng, làm tê liệt, trấn tĩnh.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường dùng chữa tim hay hồi hộp, ít ngủ hoặc mất ngủ, trẻ em cam tích, viêm ruột ỉa chảy, Kiết lỵ, viêm da, lở chảy nước, phong thấp, chân tê phù, ung độc. Ngày dùng 4-6g dạng thuốc sắc.
Cách dùng:
Ðể làm thuốc an thần, có thể phối hợp với Lạc tiên, lá Dâu, tâm Sen.
Ðể chữa bệnh Trĩ, dùng lá tươi xào với trứng gà ăn, rồi dùng lá già giã ra, nướng nóng đắp vào hậu môn.
Ðể chữa vết thương, dùng lá tươi nấu nước rửa và lá khô tán bột rắc.
Liều dùng: 10-15g
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc lá vông (thích đồng diệp) và vỏ thân cây vông nem (thích đồng bì)
Phong thấp:
Vỏ vông nem, cỏ Chân chim, Kê huyết đằng, Phòng kỷ, Ý dĩ sao, ngưu tất mỗi vị 15g, sắc uống.
Sau khi sinh, máu xấu đưa lên choáng đầu, mờ mắt:
Vỏ cây Vông nem già, lá Mần tưới, Cỏ màn chầu, Ngưu tất, mỗi vị 10-15g, sắc uống.
Chữa trẻ khó ngủ, trằn trọc, mồ hôi trộm
Hái lá vông nem và lá dâu bánh tẻ, mỗi thứ 10-15g, nấu canh ăn vào bữa tối.
Chữa viêm đại tràng mãn tính
Vông nem 15g, lá nhót 25g, sao vàng hạ thổ, sắc nước uống trong ngày
Chữa đại tiện ra máu, trĩ
Lá vông 15g, lá sen 15g, sắc uống. Lá tươi giã nát đắp vào búi trĩ bị sa.
Chữa kinh nguyệt không đều, rong kinh
Hoa cây vông nem 40g, sắc uống
Chữa bệnh ngoài da
Vỏ vông nem, vỏ cây dâm bụt, xà sàng tử, rễ chút chít lượng thích hợp, tán nhỏ, pha thành rượu liều lượng 1/5, bôi ngoài da.
Tham khảo
Vông nem là một loại cây khá quen thuộc, có thể gặp khắp nơi trên đất nước Việt Nam, là cây tương đối dễ trồng. Ngoài công dụng làm thuốc, lá còn có thể dùng nấu canh ăn ngon.
THĂNG MA
Tên khác:
Vị thuốc Thăng ma còn gọiChâu Thăng ma(Bản Kinh),Châu ma(Biệt Lục),Kê cốt thăng ma(Bản Thảo Kinh tập Chú),Quỷ kiếm thăng ma(Bản Thảo Cương Mục).
Tên khoa học:Cimicifuga foetida L- Họ Mao Lương (Ranunculacae).
Cây Thăng ma
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô Tả:
Cây thảo, sống lâu năm, cao độ 1-1,3m, lá kép hình lông chim, lá chét thuôn, có chỗ khía và có răng cưa, đầu nhọn. Hoa tự hình chùm. Trục hoa tự mang nhiều hoa màu trắng, có cuống. Mọc ở miền núi thuộc các tỉnh Thiểm Tây, Tứ Xuyên và các vùng đông bắc Trung Quốc.
Thu hái:
Vào mùa xuân, thu. Đào hái về, cắt bỏ thân mầm, phơi hoặc sấy khô.
Phần dùng làm thuốc:
Thân rễ (Rhizoma Cimicifugae).
Mô tả dược liệu:
Củ hình dài, phân nhiều nhánh thành đốt, dài 20-30cm, đường kính 1,6-3,3cm. Mặt ngoài mầu nâu đen, nhám, không phẳng, trên mặt có mấy vân hoa như màng võng, chung quanh còn để lại rễ nhỏ, chất cứng. Cạnh dưới lồi lõm, có vết của rễ tơ. Rễ nhẹ nhưng cứng chắc, khó bẻ, vết bẻ không thẳng, có tính chất sợi, mầu trắng vàng nhạt hoặc mầu xanh vàng. Không mùi, vị hơi đắng nhưng chát (Dược Tài Học).
Bào chế:
Ngâm nước khoảng 1 giờ, bỏ vào nồi, đậy kín, ủ 1 đêm, thái thành phiến, phơi khô dùng hoặc tẩm mật sao qua rồi dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
Bảo quản:
Để nơi khô ráo, thoáng mát.
Thành phần hóa học:
Isoferulic acid, Caffeic acid (Takao Inoue và cộng sự, Chem Pharm Bull 1978, 26: 2279).
Cimifugin (Kiyoshi Hata và cộng sự, Chem Pharm Bull 1978, 26: 2279).
Norvi Snagin (Kimiyue Bab và cộng sự, Chem Pharm Bull 1981, 29: 2182).
Visnagin, Norvi snagin, Visammiol (Mokoto Ito và cộng sự, Chem Pharm Bull 1976, 24: 580).
Cimicilen (Murav’ev I A và cộng sự, C A 1985, 103: 206007m).
Cimigenol, Cimigenyl xyloside, Dahurinol (Nokuko Sakurai và cộng sự, Dược Học Tạp Chí [Nhật Bản] 1972, 92: 724).
Cimicifugoside (Hemmi H và cộng sự, J Pharmacobio – Dyn 1979, 2: 339).
Tác dụng dược lý:
- Nước chiết xuất Thăng ma có tác dụng hạ nhiệt, giảm đau, chống viêm, chống co giật, giải độc (Trung Dược Học).
- Dịch chiết thăng ma có tác dụng ức chế tim, làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp, ức chế ruột và tử cung cô lập có thai nhưng lại gây hưng phấn bàng quang và tử cung không có thai (Trung Dược Học).
- Nước sắc Thăng ma có tác dụng ức chế vi khuẩn lao và một số nấm ngoài da (Trung Dược Học).
Vị thuốc Thăng ma
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
Vị đắng, hơi hàn, không độc (Biệt Lục).
Khí bình, vị hơi đắng (Y Học Khải Nguyên).
Vị hơi đắng, tính hơi hàn (Thang Dịch Bản Thảo).
Vị đắng, ngọt, kiêm cay, khí thăng (Dược Tính Luận).
Quy kinh:
Vào kinh túc Dương minh Vị, túc Thái âm Tỳ (Y học Khải Nguyên).
Vào kinh thủ Dương minh Đại trường, thủ Thái âm Phế (Thang Dịch Bản Thảo).
Vào kinh Phế, Vị (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Công dụng:
. Hành dương, vận kinh (Lan Thất Bí Tàng).
. Năng giải Tỳ Vị cơ nhục gián nhiệt (Bản Thảo Bị Yếu).
. Tiêu ban chẩn, hành ứ huyết (Bản Thảo Cương Mục).
. Tuyên độc, thấu chẩn, thăng dương, cử hãm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Kiêng kỵ:
Phàm các chứng thổ huyết, chảy máu cam, ho nhiều đờm, âm hư hỏa vượng, thận kinh bất túc, khí nghịch, nôn mửa, điên cuồng: không nên dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
Thương hàn mới phát ở thái dương, đậu chẩn mọc rồi, hạ nguyên bất túc, âm hư hỏa đờm: cấm dùng (Đắc Phối Bản Thảo).
Sởi đã mọc và suyễn đầy, khí nghịch: không dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Liều dùng:
4 – 8g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Thăng ma
Trị dương độc mà mặt đỏ loang lổ, họng đau, nôn ra mủ máu:
Cam thảo 80g, Đương quy 80g, Hùng hoàng 20g, Miết giáp 1 miếng to bằng ngón tay (nướng), Thăng ma 80g, Thục tiêu 40g. Sắc uống hết 1 lần cho ra mồ hôi (Thăng Ma Miết Giáp Thang – Kim Quỹ Yếu Lược).
Trị đột nhiên bị mụn nhọt, đau:
Thăng ma, mài với giấm bôi (Trửu Hậu phương).
Trị miệng lở loét:
Thăng ma, Hoàng bá, Đại thanh. Sắc, ngậm nuốt dần (Ngoại Đài Bí Yếu).
Trị thương hàn sau đó phát sốt rét, phát cơn không nhất định:
Thăng ma 40g, Thường sơn 40g, Độc tất 40g. Tán bột. Mỗi lần dùng 16g, sắc với 1 chén nước còn 6 phân, bỏ bã, uống lúc đói. Uống xong thường bị nôn ra, có thể uống tiếp (Thánh Huệ phương).
Trị thương hàn mà đã dùng phép phát hãn, phép thổ mà độc khí không giảm:
Chích thảo 20g, Huyền sâm 20g, Thăng ma 20g. Chặt nhỏ thuốc ra. Mỗi lần dùng 20g, sắc với 1 chén nước còn 7 phân, bỏ bã, uống (Huyền Sâm Thăng Ma Thang – Loại Chứng Hoạt Nhân Thư).
Trị cấm khẩu lỵ:
Thăng ma (loại mầu xanh), sao với giấm 4g, Liên nhục (bỏ tim, sao cháy vàng 30 hột, Nhân sâm 12g. Sắc với 1 chén nước còn ½ chén, uống. Hoặc tán nhuyễn, trộn với mật làm viên, mỗi lần uống 16g (Y Học Quảng Bút Ký).
Trị thời khí ôn dịch, đầu đau, sốt, tay chân bứt rứt, đau nhức, sang chẩn vừa mới phát hoặc chưa phát:
Thăng ma, Bạch thược, Chích thảo đều 400g, Cát căn 600g. tán bột. Mỗi lần dùng 12g, sắc với 1,5 chén nước còn 1 chén, bỏ bã, uống nóng, ngày 2-3 lần (Thăng Ma Cát Căn Thang – Diêm Thị Tiểu Nhi Phương Luận).
Trị phụ nữ vú sưng, trong vú có khối u:
Thăng ma, Cam thảo tiết, Thanh bì đều 8g, Qua lâu nhân 12g. sắc uống nóng (Chứng Trị Chuẩn Thằng).
Trị tâm và tỳ có hư nhiệt bốc lên trên, miệng lưỡi lở, cuống lưỡi co (rụt), 2 bên má sưng đau:
Chi tử 30g, Đại thanh 24g, Hạnh nhân 24g, Hoàng kỳ 24g, Mộc thông 30g, Sài hồ 30g, Thăng ma 30g, Thạch cao 60g, Thược dược 30g. Mỗi lần dùng 12g, thêm Gừng 5 lát, sắc uống (Thăng Ma Sài Hồ Thang – Tam Nhân Cực – Bệnh Chứng Phương Luận).
Trị dạ dầy nóng, miệng có nhọt, chân răng sưng, chân răng ra máu:
Thăng ma 4g, Đơn bì 2g, Quy thân 1g, Sinh địa 1g, Hoàng liên 1g. Sắc uống (Thanh Vị Tán – Lan Thất Bí Tàng).
Trị hơi thở ngắn, khí ở ngực bị dồn xuống:
Hoàng kỳ 20g, Thăng ma 4g, Tri mẫu 8g, Cát cánh 8g, sắc uống (Thăng Hãm Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị tử cung sa:
Thăng ma 4g, Trứng gà 1 trái. Khoét 1 lỗ ở trứng gà, cho thuốc bột Thăng ma vào, đậy kín, chưng chín, đập ra ăn. ngày 1 lần, 10 ngày là 1 liệu trình, nghỉ 2 ngày rồi lại tiếp liệu trình 2. Đã trị 120 ca. Uống 1 liệu trình đã khỏi là 62 ca, 2 liệu trình khỏi: 36 ca; 3 liệu trình khỏi 8 ca; Hơn 3 liệu trình 12 ca; Không khỏi: 2 ca (Lý Trị Phương, Sơn Đông Trung Y Tạp Chí 1986, (3): 43).
Trị tử cung sa:
Dùng Thăng ma Mẫu Lệ Tán (Thăng ma 6g, Mẫu lệ 12g), tán nhuyễn, chia làm 2-3 lần uống. Độ I uống 1 tháng, độ II uống 2 tháng, độ III uống 3 tháng là 1iệu trình. Trị 723 ca tử cung sa. Kết quả: 1 liệu trình 121 ca, khỏi hẳn 67 ca, chuyển biến tốt: 38, không kết quả: 16. Trị 227 ca với 2 liệu trình, khỏi hẳn 124, chuyển biến tốt 89, không kết quả 14. Trị 375 ca 3 liệu trình, khỏi 338, chuyển biến tốt 29, không kết quả 8. Kết quả chung khỏi hoàn toàn đạt 73, 1% tốt, có chuyển biến tốt 21,6%. Tỉ lệ chung đạt 94,7% (Tôn Thụ Liên, Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1987, (8): 368).
Tham khảo
Tác dụng của Thăng ma trong các tài liệu khác
Thăng ma dùng chung với Thông bạch, Bạch chỉ, Thạch cao trị phong tà ở kính thủ, túc Dương minh; Dùng chung với Sâm, Truật, Thược trị nhiệt ở bì phu của thủ túc Thái dương (Dược Phẩm Vậng Yếu).
Thăng ma bẩm thụ khí rất thanh sạch, đưa lên 9 tầng trời, cho nên, người nguyên khí kém thì dùng vị này (là thuốc dương dược trong âm dược) vì nguyên khí của người hư nhược thì thăng lên nhiều mà giáng xuống ít. Kinh nói: Âm tinh đi lên để nuôi dưỡng thì con người sống lâu, dương tinh giáng xuống thì con người chết yểu. Lý Đông Viên dùng Thăng ma trong bài Bổ Trung Thang là ông đã nhìn thấy riêng về ý nghĩa tinh vi đó: dùng Thăng ma để dẫn thanh khí của túc Dương minh xoáy vòng đi lên theo hướng bên phải, dùng Sài hồ để dẫn thanh khí của túc Thiếudương đi xoáy vòng lên theo hướng bên trái, giúp cho Sâm, Kỳ, Quy, Truật để bổ nguyên khí trong Tỳ Vị (Dược Phẩm Vậng Yếu).
Không nên dùng lượng nhiều vì thuốc kích thích dễ gây ra nôn mửa, liều cao gây nên đầu đau, chóng mặt (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Phân biệt:
Ở Trung Quốc còn có loại Thăng ma thuộc họ Cúc (Serratura chinensis): Cây thảo sống lâu năm, lá mọc so le, nguyên, mép có răng cưa, lá ở phía dưới có cuống dài, lá ở phía trên có cuống ngắn hơn. Hoa hình đầu, lưỡng tính, màu trắng. Quả bế hình thoi, một đầu nhọn. Mọc ở miền rừng núi các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến (Dược Liệu Việt Nam).
QUA LÂU
Tên khác
Cây qua lâu còn có tên khác làdưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua, dây bạc bát, người Tày gọi làthau ca.
Tên thuốc: Fructus Trichosanthes
Tên khoa học:Trichosanthes sp
Họ Bí (Cucurbitaceae)
Cây qua lâu
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây thảo leo sống nhiều năm, thân có rãnh, tua cuốn có 2-3 (-5) nhánh. Lá mọc so le; phiến dài 5-14cm, rộng 3-5cm, chia 3-5 thuỳ, dày, dai, mặt trên nhám nhám. Cây có hoa khác chỗ, chùm hoa đực dài 15cm, lá bắc to có răng; hoa rộng 7cm, màu trắng, cánh hoa cao 2,5cm, nhị 3. Hoa cái mọc đơn độc; bầu có cuống, dài 3cm. Quả mọng tròn, to 9-10cm, màu vàng cam; hạt tròn dẹp, dài 11-16mm, rộng 7-12mm, trong có lớp vỏ lụa màu xanh. Ra hoa tháng 6-8, có quả tháng 9-10.
Bộ phận dùng:
Hột, khô, mẩy, chắc, có vỏ cứng dày, nhân trắng không lép, có nhiều dầu, nguyên hạt, không vụn nát, không ẩm mốc đen là tốt.
Cách Bào chế:
Theo Trung Y: Dùng vỏ quả. Qua lâu thì nhân, hột và rễ đều dùng làm thuốc nhưng tác dụng khác nhau. Dùng hột thì bẻ vỏ cứng và màng mỏng ép bỏ dầu mà dùng(Lôi Công Bào Chích Luận).
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
+ Đập nhẹ cho vỏ tách đôi, bỏ vỏ lấy nhân, giã nát (dùng sống) để trừ nhiệt.
+ Có thể tẩm mật ong sao qua (bổ Phế ) để khỏi rát cổ (dùng chín).
+ Muốn làm nhanh thì lấy hột sao qua, chà hoặc giã cho nát vỏ lấy nhân rồi làm như trên.
Thành phần chủ yếu:
Theo sách Trung dược học: Quả Qua lâu có saponin, triterponoid, acid hữu cơ, resin, chất đường, sắc tố và dầu béo. Qua lâu nhân (semen Trichosanthis) có dầu béo, trong đó có nhiều loại cholesterol. Qua lâu bì (pericarpium trichosanthis) có nhiều loại amino acid và chất giống alkaloid. Trong rễ Qua lâu (Thiên hoa phấn) có rất nhiều tinh bột. Viện Y học Bắc kinh nghiên cứu thấy trong Thiên hoa phấn có chừng 1% saponozit.
Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Triterpenoid saponin có tác dụng khu đàm. Qua lâu nhân có nhiều dầu béo nên có tác dụng gây xổ mạnh, Qua lâu bì tác dụng nhẹ, Qua lâu sương thì có tác dụng hòa hoãn hơn. Thuốc có tác dụng giãn động mạch vành rõ rệt, gia tăng lưu lượng máu của động mạch vành, chống thiếu oxy và hạ mỡ máu. Invitro, thuốc có tác dụng ức chế trực khuẩn đại tràng, trực khuẩn lî sonnei, trực khuẩn biến dạng, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn mủ xanh, phẩy khuẩn thổ tả và nấm gây bệnh ngoài da. Thuốc có tác dụng chống hoạt tính ung thư.
Bảo quản:
Để nơi khô ráo, mát, tránh nóng nhân sẽ bị đen.
Vị thuốc qua lâu
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
Vị ngọt, đắng, tính hàn.
Quy kinh:
Vào kinh Phế, vị và Đại trường.
Công dụng:
Tả hoả, nhuận Phế, hạ khí, hạ đờm, nhuận táo.
Kiêng ky:
Tỳ Vị hư hàn không nên dùng. Dùng nhiều sinh ra tiêu lỏng.
Liều dùng:
Ngày dùng 12 - 16g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc qua lâu
Trị động mạch vành:
Qua lâu nhân chế thành viên dùng, ngày 3 lần mỗi lần 4 viên (lượng thuốc mỗi ngày tương đương với 31,2g thuốc sống, cá biệt bệnh nhân có cơn đau thắt ngực dùng Nitroglycerine hoặc Quan tâm tô hợp hoàn (thành phẩm)). Đã trị 100 ca và theo dõi từ 2 tuần đến 14 tháng. Có kết quả lâm sàng (triệu chứng giảm) 76% kết quả điện tâm đồ 52,9% (Tổ phòng trị bệnh động mạch vành - Bệnh viện Nhân dân số 3, trực thuộc Học viện Y số 2 Thượng hải, Tạp chí Tân y dược học 1974,3:20). Báo cáo của 13 Bệnh viện ở Thượng hải dùng dịch chích Qua lâu trị 413 ca bệnh mạch vành, kết quả lâm sàng 78,1%, kết quả điện tâm đồ 56% (Thông tin Trung thảo dược 1976,9:47).
Trị viêm phế quản thể đàm nhiệt; ngực đau do đàm vàng hoặc ápxe phổi:
Tiểu hãm hung thang (Thương hàn luận): Qua lâu thực 12g, Bán hạ 10g, Hoàng liên 4g, sắc uống. Toàn qua lâu, Ý dĩ nhân đều 15g, Cát cánh 10g, Kim ngân hoa 10g, Bồ công anh 12g, sắc uống. Bài này trị ápxe phổi có kết hợp trụ sinh kết quả tốt.
Trị viêm tuyến vú cấp: sưng nóng đỏ đau sốt.
Toàn qua lâu, Kim ngân hoa, Bồ công anh đều 15g sắc uống kết hợp rút ngắn thời gian điều trị. 4.Trị táo bón: Qua lâu thực 15g, Cam thảo 3g, sắc uống, có thể hòa thêm ít mật ong.
Trị da xạm:
Thiên hoa phấn 16g giã nhỏ, thêm nước đun sôi để nguội lọc nước uống.
Trị trẻ em vàng da:
Thiên hoa phấn giã nhỏ, cho nước đun sôi để nguội gạn nước uống. Có thể thêm mật ong cho dễ uống.
Trị phụ nữ cho con bú ít sữa:
Thiên hoa phấn đốt tồn tính tán nhỏ ngày uống 16 - 20g.
Trị viêm họng mất tiếng:
Qua lâu bì, Bạch cương tằm, Cam thảo đều 10g, Gừng tươi 4g, nước 500ml sắc còn 150ml chia 2 lần uống trong ngày.
PHÂN QUY
Phân quy được lấy từ con quy (Anphitobius diaperinus Panzer) thuộc họ quy (Tenebrionidae), tên khác là sâm quy (tên gọi ở vùng núi cao miền Bắc). Đó là con mọt gạo hay mọt ngô, một loại côn trùng nhỏ, dài 2-3mm, rộng 1-2mm, có cánh cứng màu đen, sống ở những kho, thùng lương thực, nhất là ngũ cốc. Nó sinh sản rất nhanh. Trứng của nó nở ra sâu (ấu trùng) màu trắng, rồi thành con quy trưởng thành. Thời gian biến đổi này thường diễn ra trong vòng 30-35 ngày. Người ta bắt quy về nuôi trong lọ thủy tinh rộng miệng, cho ăn bỏng ngô hay bỏng gạo, có nơi bằng bánh quy, để lấy phân làm thuốc.
Con quy chưa được đề cập đến trong các tài liệu về y học cổ truyền. Công dụng chữa bệnh của phân quy chỉ là dựa theo kinh nghiệm dân gian. Muốn lấy phân quy, người ta đổ lọ nuôi quy ra một cái rây nhỏ (mắt rây vừa lọt cục phân), rây để lấy phân. Rây lại phân quy bằng rây có mắt nhỏ hơn để loại bỏ tạp chất như vụn bỏng, rác... Đem phân sao cho khô và có mùi thơm. Dược liệu là những hạt rất nhỏ, màu nâu xám nhạt, vị nhạt, chứa nhiều acid amin như lysin, arginin, hislidin, valin, phenylalanin, leucin, methionin...
Phân quy là một vị thuốc bổ cho trẻ em, chữa chứng cam tích như ăn không tiêu, gầy yếu, xanh xao, nôn trớ, đau mắtnhiều dử. Liều dùng hằng ngày: 2-4g dưới dạng thuốc bột. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác như bạch chỉ, sử quân tử, hoài sơn, ý dĩ.
SƠN TRA
Sơn tra
Tên khác
-Tên dân gian:Còn gọi là bắc sơn tra, nam sơn tra, dã sơn tra, aubepine.
-Tên Hán Việt:Xích qua tử, Thử tra, Dương cầu (Đường Bản Thảo), Hầu tra (Thế Y Đắc Hiệu phương), Mao tra (Nhật Dụng Bản Thảo), Phàm tử, Hệ mai (Nhĩ Nhã), Đường cầu tử (Bản Thảo Đồ Kinh), Sơn l{ quả (Thực Liệu Bản Thảo), Hầu lê, Sơn quả tử, Sơn tra tử, Sơn thường tử, Tiểu nang tử, Mộc đào tử, Địa chi lê, Hòa viên tử, Thị tra tử, Đường cầu tử, Sơn lật hồng quả, Ưởng sơn hồng quả (Hòa Hán Dược Khảo), Ty thế đoạn, Toan táo (Bách Nhất Tuyển phương), Đường lê tử (Toàn Ấu Tâm Giám), Thường cầu, Tra nhục, Mao tra, Sơn l{ hồng quả, Sơn tra thán, Tiêu sơn tra, Sao tra nhục, Sinh sơn tra (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Toan mai tử, Sơn lê (Trung Quốc Thụ Mộc Phân Loại Học).
- Tên khoa học:làCrataegus cuneara Sied.et Zucc.
- Họ khoa học:Họ Hoa hồng (Rosaceae).
Cây sơn tra
(Mô tả, hình ảnh cây sơn tra, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả cây sơn tra
Bắc sơn tra là một loại cây cao 6m, cành nhỏ thường có gai. Lá dài 5-10cm. Rộng 4-7cm, có 3-5 thuỳ, mép có răng cưa, mặt dưới dọc theo các gân có lông mịn, cuống lá dài 2-6cm. Hoa mẫu 5, hợp thành tán. Đài có lông mịn, cánh hoa màu trắng, 10 nhị. Quả hình cầu, đường kính 1-1m5cm, khi chín có màu đỏ thắm.
Cây nam sơn tra hay dã sơn tra cao 15m, có gai nhỏ 5-8mm. Lá dài 2-6cm. Rộng 1-4,5cm, có 3-7 thuỳ , mặt dưới lúc đầu có lông, sau nhẵn. Hoa mẫu 5, hợp thành tán. Cánh hoa trắng, 20 nhị. Quả hình cầu đường kính 1-1,2cm, chín có màu vàng hay đỏ.
Ở Việt Nam hiện nay đang khai thác với tên sơn tra hay chua chát, quả của hai loại cây khác nhau.
Cây chua chát, còn gọi la cây sán sá (Tầy) có tên khoa học là Malus doumeri (Bois) Chev, thuộc họ Hoa hồng Rosaceae. Cây này cao 10-15m, cây non có gai. Lá nguyên hình bầu dục dài 6-15cm, rộng 3-6cm, mép khứa răng cưa. Hoa hợp thành tán từ 3-5 hoa. Hoa mẫu 5, cánh màu trắng. Quả tròn hơi dẹt, khi chín ngả màu vàng lục, đường kính 5-6cm, cao 4-5cm, vị hơi chua hơi chát. Mùa hoa tháng 1-2, mùa quả thags 9-10, cây này thường được khai thác ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Nhân dân ở đay cũng bán sang Trung Quốc với tên sơn tra.
Cây táo mèo, còn gọi là chi tô di (Mèo) có tên khoa học Docynia indica (Mall.) Dec. cùng thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây nhỡ cao 5-6m, cây non cành có gai. Lá đa dạng, ở cây non lá mọc so le, xẻ 3-5 thuỳ, mép có răng cưa không đều. Ở thời kỳ cây trưởng thành lá hình bầu dục dài 6-10cm, rộng 2-4cm, mép nguyên hoặc hơi khía răng. Hoa họp từ 1-3 hoa, mẫu 5, cánh hoa màu trắng. Nhị 30-50. Quả hình cầu thuôn, đường kính 3-4cm, khi chín màu vàng lục, có vị chua hơi chát. Mùa hoa tháng 3, mùa quả tháng 9-10. Táo mèo mọc hoang và được trồng ở Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai độ cao trên 1000m. Ngoài ra còn cây Docynia delavayi (Fanch.) Schneid mùa hoa tháng 3 mùa quả tháng 6-7. Lá cây này cứng hơn cây trên, mặt dưới lá có lông cũng dày hơn. Quả cũng tương tự nhưng có cuống dài hơn. Cũng được thu mua với tên táo mèo hay sơn tra.
Phân bố, thu hái sơn tra
Trước đây sơn tra hoàn toàn nhập của Trung Quốc. Những năm gần đây ta đã thu mua táo mèo và chua chát dùng với tên sơn tra. Nhưng ta thấy hai cây này đều khác chi sơn tra thất do đó cần nghiên cứu so sánh việc sử dụng. Điều chú ý là một số tỉnh Hoa Nam Trung Quốc cũng nhập của ta những quả này với tên sơn tra. Nói chung quả chua chát và quả táo mèo của ta có đường kính lớn hơn sơn tra, khi chín sơn tra thật có màu đỏ mận hay đỏ tươi.
Quả sơn tra hay chua chát, táo mèo chín được hái về thái ngang hay bổ dọc, phơi hay sấy khô.
2. Tại Trung Quốc người ta dùng nhiều loại sơn tra khác nhau thuộc nhiều loài như Crataegus pinnatifida Bunge var.major N.E.Br., Crataegus cuneata Sieb.et Zucc., Crataegus scabrigolia (Fr.) Rehd., Craraegus Wattiana Heme et Lãe v.v...
Tại châu Âu chủ yếu người ta dùng Crataegus oxyacanth L. hoặc Crataegus sanguinea Pall.
Bộ phận dùng làm thuốc
Sơn tra là quả chín thái mỏng phơi hay sấy khô của cây bắc hay nam sơn tra.
Chế biến sơn tra như thế nào?
Quả sơn tra được hái về, sau đó đem thái miếng, phơi hoặc sấy khô dùng làm thuốc
Bảo quản sơn tra:
Bảo quản khô ráo, tránh ẩm mốc.
Thành phần hoá học của sơn tra
Theo nghiên cứ của sơn tra Trung Quốc, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã thấy có axit xitric, vitamin C, thấy hydrat cacbon và protit (Dược hoàng liên sơn) thấy có 2,76% tamin, 16,4% chất đường, 2,7% axit hữu cơ.
Các chất tan trong nước là 31%, độ trpo 2,25% tan hoàn toàn trong HCL.
Theo nghiên cứu của các nhà dược học Liên Xô cũ về quả sơn tra loài Crataegus oxyacantha L. và Crataegus sanguina Pall. ngoài chất tamin, fructoza còn có các chất cholin, axtylcholin và phytosterin. Mới đây người ta lại còn thấy các axit oleanic, ursolic và craraegic.
Trong hoa các loại sơn tra kể trên, có quexetinm quexitrin, tinh dầu và một số chất khác. Trong vỏ cây Crataegus oxyacantha người ta còn thấy 2 chất đắng craraegin và oxyacanthin.
Tác dụng dược lý của sơn tra
1. Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu về quả sơn tra Việt Nam và Trung Quốc.
2. Quả sơn tra của Liên Xô cũ được Pôtguôcxki B.B (1951) và Checnưxep (1954) nghiên cứu thấy chế phẩm của sơn tra làm tăng sự co bóp của cơ tim đồng thời làm giảm sự kích thích cơ tim. Sơn tra còn làm tăng sự tuần hoàn ở mạch máu tim và mạch máu ở não, tăng độ nhạy của tim đối với tác dụng của cac glucozit chữa tim.
3. Hoa và lá sơn tra Crataegus oxyacantha được nhân dân và y học Châu Âu dùng từ lâu làm thuốc chữa tim, trong thí nghiệm và trên lâm sáng, thuốc chế từ hoa và lá Crataegus oxyacantha làm mạnh tim, điều hoà sự tuần hoàn, giảm sự kích thích của thần kinh.
Vị thuốc sơn tra
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị
+ Vị chua, lạnh, không độc (Tân Tu Bản Thảo).
+ Vị chua, ngọt, hơi ôn (Bản Thảo Cương Mục).
+ Vị ngọt, chua, không độc (Nhật Dụng Bản Thảo).
Quy kinh:
Vào kinh túc Dương minh Vị, túc Thái âm Tz (Bản Thảo Kinh Sơ).
Vào kinh Tz, Can (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
Vào kinh Tz (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
Tác dụng:
+ Tiêu thực, hóa tích, hoạt huyết, tán ứ (Trung Dược Học).
+ Nấu lấy nước trị lở sơn (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Uống chủ lợi thủy, gội đầu, tắm trị chàm, lở loét (Tân Tu Bản Thảo).
+ Hóa thực tích, hành khí kết, kiện vị, khoan cách, tiêu khí tích, huyết kết (Nhật Dụng Bản Thảo).
+ Tiêu nhục tích trệ, hạ khí, trị ợ chua (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Hóa ẩm thực, kiện tzvị, hành kết khí, tiêu ứ huyết (Bản Thảo Kinh Sơ). Chủ trị: + Trị các chứng tích trệ, bụng đầy, tiêu chảy, sản hậu ứ trệ, sản dịch ra không hết, sán khí, dịch hoàn đau (Trung Dược Học)
Liều dùng:
Ngày uống 3-10g dưới dạng thuốc sắc, uống một vị hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Tây y dùng dưới dạng cao lỏng (ngày uống 3 đến 4 lần trước bữa ăn, mỗi lần 20-30 giọt) hoặc cồn thuốc (ngày uống 3-4 lần, mỗi lần 20-30 giọt) để chữa các bệnh về tim mạch, cao huyết áp, giảm đau.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc sơn tra
Chữa ăn uống không tiêu
Sơn tra 10g, chỉ thực 6g, trần bì5gm hoàng liên 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia ba lần uống trong ngày.
Chữa hóc xương cá
Sơn tra 15g, sắc đặc với 200ml nước. Ngậm một lúc lâu rồi nuốt đi
Chữa ghẻ lở, lở sơn:
Nấu nước sơn tra mà tắm.
Trị sinh xong mà sản dịch không ra hết, bụng đau, bụng đau gò lại:
Sơn tra 90g, sắc kỹ, thêm ít đường, uống lúc đói rất hay (Đan Khê Tâm Pháp).
Trị thịt tích lại không tiêu:
Sơn tra nhục 120g, sắc kỹ, ăn cả nước lẫn cái (Giản Tiện phương).
Trị sán khí gây nên thiên trụy (thoái vị), dịch hoàn sệ xuống:
Sơn tra nhục, Hồi hương (sao), đều 30g, tán bột, làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 50 viên với nước sôi, lúc đói (Vệ Sinh Giản Dị phương).
Trị trường phong hạ huyết, uống nhiều thuốc mát hoặc thuốc nóng và thuốc trị Tỳ hư mà không khỏi
Dùng 1 vị Sơn khỏa quả, tục gọi là Toan táo, lại có tên khác là Ty thế đoàn, phơi khô, tán bột. Dùng lá Ngải sắc lấy nước uống thuốc thì khỏi ngay (Bách Nhất Tuyển phương).
Trị người lớn tuổi lưng đau, chân đau:
Sơn tra nhục, Lộc nhung (nướng), lượng bằng nhau, tán bột. Luyện với mật làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 50 viên với rượu (Thế Y Đắc Hiệu phương).
Trị ợ hơi, rối loạn tiêu hóa:
Sơn tra sống, Sơn tra sao đều 20g, sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). + Trị tiêu chảy: Sơn tra thán 10g, tán bột, uống với nước sôi (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị trẻ nhỏ tiêu chảy:
Lưu Đại Phát dùng sirô Sơn tra cho uống, mỗi lần 5 – 10ml, ngày 3 lần. Đã trị 212 ca, kết quả đều khỏi. 173 ca khỏi trong 2 – 3 ngày (Hồ Bắc trung Y Tạp Chí 1985, 4: 28).
Trị kinh nguyệt bế do ứ huyết hoặc sau khi sinh bụng đau do ứ trệ:
Sơn tra 40g, sắc, bỏ bã, trộn với 25g đường, uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị kiết lỵ cấp, đại trường viêm cấp:
Sơn tra 60g, sao cháy sơ. Thêm 30ml rượu, trộn đều, sao lại cho khô rượu. Thêm 200ml nước, sắc khoảng 15 phút, bỏ bã, thêm 60g ờnnng, sắc cho sôi, uống nóng, ngày 1 thang. Trị 100 ca đều khỏi. Thường chỉ 1 thang là có kết quả (Tân Y Học Tạp Chí 1975, 2: 111). Trị 51 ca kiết lỵ cấp, khỏi 41 ca, kết quả tốt hơn dùng thuốc Chlorocid [Tây y] (Chu Kiến Viễn, Tân Y Học Tạp Chí 1977, 1: 3).
Trị kiết lỵ cấp, đại trường viêm cấp:
Sơn tra (sao cháy) 120g, Bạch biển đậu (hoa) 30g. sắc uống ngày 1 thang. Trị 91 ca, có kết quả 97,80%. Báo cáo cho biết Sơn tra trị lỵ tốt hơn còn Bạch biển đậu (hoa) đối với đại trường viêm tốt hơn (Trung Thảo Dược Học Báo 1973, 3: 31).
Trị lỵ mới phát:
Sơn tra 30g, sắc nước. Thêm đường mía 30g, Tế trà sắc sôi, uống nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị lipid máu cao:
Sơn tra, Mạch nha (cô đặc). Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30g. mỗi ệuuu trình 14 ngày. Trị 127 ca Cholesterol cao, có kết quả 92% (Liêu Ninh Trung Y Tạp Chí 1979, 5: 23).
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:167.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh