Lamborghini Huracán LP 610-4 t
KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. CÂY NHÀ LÁ VƯỜN
CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC
MẠN KINH TỬ
Tên khác
Còn gọi làkinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá
1. Tên dược: Frutus viticis.
2. Tên thực vật: 1. Vitex trifolia L. var simplicifolia Cham.
2. Vitex trifolia L.
3. Tên thường gọi: Mạn kinh tử.
Cây Màn kinh tử
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả cây
Màn kinh tử là một cây nhỏ hay nhỡ, mùi thơm, có thể cao tới 3m. cành non có 4 cạnh, có lông mềm bao phủ. Lá kép và thường gồm 3 lá chét. Có thứ chỉ có 1 lá chét (var. unifoliata). Trên cùng một cành nhiều khi phía trên hay phía dưới có lá đơn, chỉ gồm 1 lá chét. Cuống gầy hơi tròn có lông, dài 1 - 3cm, lá chét không cuống phiến lá chét hình trứng ngược hay hình cám dài 2,45 - 9cm, rộng 1 - 3cm, phía dưới hẹp lại. Mặt trên nhẵn, mặt dưới nhiều lông trắng. Những lá chét hai bên nhỏ hơn, gân không nổi rõ. Hoa màu lơ nhạt, dài 13 -14mm, mọc thành chùy xim ở đầu cành, nhiều khi phía dưới có lá. Quả hình bầu dục có rãnh, đầu hơi dẹt, rộng chừng 6mm, được che kín quá nửa bởi đài phát triển và tồn tại.
Màn kinh tử có hình dáng rất đặc biệt. Hình cầu đường kính 5 - 6mm, mặt ngoài màu nâu đỏ đen, hơi phủ lớp phấn màu trắng tro (nếu soi kính sẽ thấy lông). Trên đỉnh có chỗ hơi hõm xuống. Phía cuống có đài tồn tại 1/2 - 2/3 quả, phía trên đài chia 5 hay 2 thùy. Vỏ ngoài mỏng, vỏ giữa xốp, vỏ trong màu xám vàng, chất nhẹ nhưng chắc, cắt ngang trông như có dầu, màu trắng có 4 ngăn, mỗi ngăn có 1 hạt. Vị đắng mùi thơm đặt biệt.
Phân bố thu hái và chế biến
Màn kinh tử mọc hoang rất nhiều ở khắp nơi trong nước ta. Loại 1 lá chét rất phổ biến, ở dọc bờ biển các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Còn mọc ở các tỉnh ven biển Trung Quốc và Malaysia cũng có.
Vào các tháng 9 - 11 quả chín hái về phơi khô, loại bỏ cuống và tạp chất là được.
Thành phần chủ yếu:
Quả có tinh dầu, trong tinh dầu có Cam phen, pinen, ditecpen alcool và tecphenilaxetat, có ancaloit, vitamin A.
Tác dụng dược lý:
Y học hiện đại chưa thấy có tài liệu nghiên cưú.
Vị thuốc Màn kinh tử
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
Cay, đắng và tính ôn.
Qui kinh:
Can, vị và bàng quang.
Công dụng:
Trừ phong và thanh nhiệt, làm cho đầu óc và mắt sáng suốt.
Chỉ định và phối hợp:
- Ðau đầu và đau nửa đầudo nhiễm phong và nhiệt ngoại sinh: Dùng phối hợp mạn kinh tử với phòng phong, cúc hoa và xuyên khung.
- Can dương nhiễu loạn phía trên biểu hiện như mắt đau, sưng và đỏ, chảy nhiều nước mắt, hoa mắt và mờ mắt: Dùng phối hợp mạn kinh tử với cúc hoa thuyền thoái và bạch tật lệ.
- Hội chứng phong thấp biểu hiện như đau khớp, chuột rút và nặng chân tay: Dùng phối hợp mạn kinh tử với phòng phong, tần giao và mộc qua.
Liều dùng:
6-12g.
Thận trọng và chống chỉ định:
Cần thận trọng dùng mạn kinh tử cho các loại đau đầu hoặc các vấn đề về mắt, do âm hư hoặc Thiếu máu.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Màn kinh tử
Trị đau đầu do cảm mạo:
Cúc chung ẩm: Mạn kinh tử 12g, Cúc hoa 12g, Phòng phong, Toàn phúc hoa mỗi thứ 12g, Xuyên khung 6g, Khương hoạt 6g, Sinh thạch cao 20g, Chỉ xác 8g, Cam thảo 4g, sắc nước uống.
Chữa đau đầu do huyết áp cao:
Mạn kinh tử thang: Mạn kinh tử 12g, Cúc hoa 12g, Bạc hà 8g ( cho sau), Bạch chỉ 8g, Câu đằng 12 - 16g sắc nước uống.
Chữa đau nửa đầu ( thiên đầu thống):
Mạn kinh tử 10g, Cam cúc hoa 8g, Xuyên khung 4g, Tế tân 3g, Cam thảo 4g, Bạch chỉ 3g, đổ 600ml nước sắc đặc còn 1/3 chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa đau mắt đỏ do phong nhiệt ( Viêm màng tiếp hợp cấp):
Mạn kinh tử 16g, Cúc hoa 12g, Chi tử 12g, Hoàng cầm 12g, Mộc tặc 12g, Thiền thoái 4g sắc nước uống hoặc dùng bài: Mạn kinh tử 12g, Cúc hoa 12g, Thảo quyết minh 12g, Đưong qui 12g, Đào nhân 8g, sắc nước uống. Trường hợp hư chứng ( khí hư là chính) dùng thêm bài Bổ trung ích khí.
KIM TIỀN THẢO
Tên Khác:
Tên dân gian:Kim tiền thảo còn gọi Bạch Nhĩ Thảo, Bản Trì Liên, Biến Địa Hương, Biến Địa Kim Tiền, Cửu Lý Hương, Nhũ Hương Đằng, Phật Nhĩ Thảo, Thiên Niên Lãnh(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Đại Kim Tiền Thảo, Giang Tô Kim Tiền Thảo, Quá Lộ Hoàng, Quảng Kim Tiền Thảo, Tứ Xuyên Đại Kim Tiền Thảo(Trung Dược Học), Đồng Tiền Lông, Mắt Rồng, Mắt Trâu, Vảy Rồng( Việt Nam).
Tên Khoa Học:Herba Jinqiancao, Desmodium styracifolium (Osbeck) Merr.
Họ khoa học:Họ Cánh Bướm (Fabaceae).
Cây kim tiền thảo
(Mô tả, hình ảnh cây kim tiền thảo, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô Tả:
Cây kim tiền thảo là một cây thuốc nam quý. Dạng cây thảo, sống lâu năm, bò sát đất, dài khoảng 1m. Lá mọc so le, gồm 3 lá chét hình tròn, có lông &1 vàng. Hoa tự hình chùm. Tràng hoa hình bướm, màu tía. Quả loại đậu, dài 14-16mmm, chứa 4-5 hạt.
Phân bố:
Cây mọc hoang khắp càng vùng đồi núi nước ta, hiện nay có nhiều nơi đã tiến hành trồng đại trà cây thuốc này. Ví dụ: Hà Nội, Lào Cai, Yên Bái….
Thu Hái, Sơ Chế:
Thu hái vào mùa hè,lúc cay có nhiều lá và hoa. Phơi khô.
Bộ Phận Dùng: Toàn cây.
Bào Chế:
Rửa sạch phơi khô, để dùng.
Bảo Quản:
Để chỗ kín, tránh ẩm mốc.
Thành Phần Hóa Học:
Trong Kim tiền thảo có:
·Loại Herba Glechomae Longitubae: L-Pinocamphone, L-Menthone, L-Pulegone, a-Pinene, Limonene, p-Cymene, Isopinocamphone, Isomenthone, Linalôl, Menthol, a-Terpinol, Ursolic acid, b- Sitosterol, Palmitic, acid, Amino acid, Tannins, Choline, Succinic acid, Potassium nitrate.
·Loại Herba Desmodii Styracifolii: Ancloid, Tannin, Flavones, Phenols.
·Loại Lysimachiae Christinae: Phenols, Sterols, Flavones, Tannín, Essential oils (Trung Dược Học).
Tác Dụng Dược Lý:
+Tác Dụng Lên Tim Mạch: nước sắc Kim tiền thảo của Quảng Đông, chích vào chó bị gây mê thấy tuần hoàn mạch vành tăng, hạ áp lực động mạch, làm chậm nhịp tim, giảm lượng oxy ở tim. Tuần hoàn của Thận và não cũng tăng. Thí nghiệm trên heo, thấy cơ tim co lại.
+Tác Dụng Trên Mật: Thí nghiệm trên chó bị gây mê thấy thuốc có tác dụng tăng nhanh bài tiết mật nhờ vậy có tác dụng tống sạn mật, làm giảm đau ở ống mật, hết vàngda.
+Tác Dụng Đối Với Hệ Bài Tiết: nước sắc Kim tiền thảo có tác dụng lợi tiểu đối với chuột và thỏ, có thể do chất Potasium chứa trong thuốc.
+Tác Dụng Đối Với Sỏi, Sạn: nước sắc Kim tiền thảo liều cao ( trên 80g), thường được dùng trị sạn ở mật hoặc đường tiểu.
+Đối Với Bệnh Nhiễm Khuẩn: nước sắc Kim tiền thảo trị 10 cas ho gà, có 7 cas khỏi, 2 cas có tiến triển. Loại Lysimachia (Quá Lộ Hoàng) đối với tụ cầu vàng, loại Glechoma ( HoạtHuyết Đơn) đối với tụ cầu vàng, trực khuẩn thương hàn, lỵ, trực khuẩn mủ xanh đều có tác dụng ức chế.
+Điều trị bệnh ở ngực: Dùng nướccốt Kim tiền thảo tươi trị 13 cas tuyến vú viêm, có kết quả rất tốt. Tất cả khỏi trong vòng 6 ngày. Có 8 cas khỏi trong 3 ngày hoặc ngắn hơn. 2 trong số những cas này không thích ứng với trụ sinh.
Vị thuốc kim tiền thảo
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị, quy kinh
Vị ngọt mặn tính hơi hàn, qui kinh Can đởm thận bàng quang (theo sách Dược điển nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa xuất bản năm 1985).
Tác Dụng:
+Thanh nhiệt, lợi thủy, tiêu sạn, giải độc, tiêu viêm (Trung Dược Học).
+Lợi thủy, thông lâm, tiêu tích tụ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
“Trị chứng nga chưởng phong dùng Kim tiền thảo xát vào là khỏi. Dùng nước cốt Kim tiền thảo ngậm, súc miệng rồi nhổ đi trị răng đau rất hay. Vì Kim tiền thảo khứ phong, tán độc do đó, nấu nước Kim tiền thảo mà tắm rửa trị ghẻ lở rấùt thần hiệu...” (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
. “Có thể dùng độc vị Kim tiền thảo sắc uống thay nước trà để tống sỏi ra” (Trung Dược Học).
. “Kim tiền thảo có nhiều chủng loại, chia làm 5 loại họ thực vật khác nhau:
1)Đại Kim tiền thảo Tứ Xuyên , thuộc họ Anh thảo, trị bệnh sỏi ở gan mật đạt hiệu quả tốt.
2)Tiểu Kim tiền thảo Tứ Xuyên, thuộc họ Toàn hoa, có thể dùng trị lỵ, bệnh mắt, ghẻ lở.
3)Kim tiền thảo Quảng Đông, thuộc họ Đậu, thường dùng trị bệnh sỏi ở gan mật và Thận.
4)Kim tiền thảo Giang Tây, thuộc họ Hoa tán, thường dùng trị bệnh Thận viêm, sỏi Thận.
5)Kim tiền thảo Giang Tô, thuộc họ Hoa Môi, những năm gần đây phát hiện thấy có thể trị sỏi bàng quang” (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ Trị:
+ Trị các chứng nhiệt lâm, thạch lâm, sỏi mật, hoàng đản, ung nhọt do nhiệt độc (Trung Dược Học).
+Trị gan mật kết sỏi, sỏi Thận, tiểu buốt, hoàng đản (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều Dùng: 20-40g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc kim tiền thảo
Trị sỏi thận, sỏi tiết niệu, sỏi bàng quang: Đau bụng dưới, đau lan ra phía sau, có những cơn đau quặn kéo dài, đau kéo dái hàng tháng lúc tăng lúc giảm. Đi tiểu buốt, lúc thông lúc bí, thường phải đi nhiều lần, lượng nước tiểu ít, nước tiểu đỏ.
Bài thuốc: kim tiền thảo 16g, ké đầu ngựa 16g, cối xay 16g, rễ cỏ xước 16g, Đinh lăng (rễ) 16g, cỏ tranh rễ 16g, mã đề 16g, thổ phục linh 16g, vỏ bi ngò 16g, mộc thông 10g. Sắc ngày 1 thang.
Trị mụn nhọt,ghẻ lở:
Kim tiền thảo Xa tiền thảo tươi, giã nát, cho rượu vào, vắt lấy nước cốt, lấy lông ngỗng chấm thuốc bôi vào vết thương (Bạch Hổ Đơn - Chúc Thị Hiệu Phương).
Trị sạn mật:
Bài 1: Chỉ xác (sao) 10-15g, Xuyên luyện tử 10g, Hoàng tinh 10g, Kim tiền thảo 30g, Sinh địa 6-10g (cho vào sau). Sắc uống (Trung Dược Học).
Bài 2: Kim tiền thảo 30g, Xuyên phá thạch 15g, Trần bì 30g, Uất kim 12g, Xuyên quân (cho vào sau) 10g. Sắc uống (Trung Dược Học).
Trị sạn mật:
Bệnh viện ngoại khoa thuộc Viện nghiên cứu Trung Y Trung Quốc báo cáo 4 cas sạn mật được trị bằng Kim tiền thảo có kết quả tốt (Trung Y Tạp Chí 1958, 11:749).
Trị sạn đường tiểu:
Kim tiền thảo 30-60g, Hải kim sa (gói vào túi vải) 15g, Đông quỳ tử 15g, Xuyên phá thạch 15g, Hoài ngưu tất 12g, Hoạt thạch 15g, sắc uống (Trung Dược Học).
Trị sỏi đường tiểu:
Kim tiền thảo 30g, Xa tiền tử (bọc vào túi vải) 15g, Xuyên sơn giáp (chích) 10g, Thanh bì 10g, Đào nhân 10g, Ô dược 19g, Xuyên ngưu tất 12g. Sắc uống (Trung Dược Học).
Trị sỏi đường tiểu do thận hư thấp nhiệt:
Hoàng kỳ 30g, Hoàng tinh 15g, Hoài ngưu tất 15g, Kim tiền thảo 20g, Hải kim sa (gói vào túi vải), Xuyên phá thạch 15g, Vương bất lưu hành 15g. Sắc uống (Trung Dược Học).
Trị trĩ:
Mỗi ngày dùng toàn cây Kim tiền thảo tươi 100g (nếu khô 50g) sắc uống. Nghiêm Tư Khôn đã theo dõi trên 30 cas sau khi uống 1-3 thang thuốc, thấy hết sưng và đau. Đối với trĩ nội và ngoại đều có kết quả như nhau (Tạp chí: Bệnh Hậu Môn Đường Ruột Trung Quốc 1986, 2:48).
Trị đường mật viêm không do vi khuẩn:
Tác giả Lý Gia Trân theo dõi 52 cas bệnh đường mật viêm không do vi khuẩn, có sốt nhẹ và triệu chứng điểnhình, dùng Kim tiền thảo sắc uống sáng 1 lần hoặc nhiều lần trong ngày. Mỗi ngày dùng 30g, có khi 20g hoặc 10g/ ngày. 30 ngày là 1 liệu trình. Thông thường uống trong 2-3 tháng có kết quả với tỉ lệ 76,9% (Trung Y Bắc Kinh Tạp Chí 1985, 1:26)
Trị quai bị:
Đắp Kim tiền thảo vào chỗ sưng đau để trị 50 cas tuyến mang tai viêm (quai bị), thời gian giảm sưng là 12 giờ.
Trị Phỏng:
Đắp Kim tiền thảotrị 30 cas bị phỏng độ 2 và 3 có kết quả tốt tất cả. (Trung Dược Học). .
Tham Khảo:
Kiêng Kỵ:
+Tỳ hư, tiêu chảy: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Độc Tính:
Kim tiền thảo không độc. Cho dùng liều 20g/kg liên tục trong tuần đối với súc vật thí nghiệm không thấy có tác dụng phụ (Trung Dược Học).
MÃ TIỀN TỬ (Semen Strychni)
Tên khác
Tên thường dùng: Mã tiền tử nguyên tên là Phan mộc miếtdùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản thảo cương mục-quyển 18, là hạt chín phơi hay sấy khô của cây Mã tiền,
Phân loại:Strychnos pierriana A.W.Hillhoặc loạiMã tiền S.nux vomina L.
Họ khoa học:thuộc họ Mã tiền (Longaniaceae).
Cây mã tiền
(Mô tả, hình ảnh cây mã tiền, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Mã tiền (danh pháp hai phần: Strychnos nux-vomica, đồng nghĩa Strychnos colubrina, Strychnos lucida, Strychnos spireana, Strychnos vomica) là một loài cây gỗ thường xanh bản địa Đông Nam Á, thành viên của họ Loganiaceae. Nó là cây gỗ kích thước trung bình, có thể cao tới 25 m, mọc tại các môi trường sinh sống thưa cây cối tới độ cao 1.200 m. Lá của nó hình trứng kích thước 5 x 9 cm (3,5 x 2 inch). Các cành nhỏ không lông hoặc có lông tơ. Ra hoa từ mùa xuân tới mùa hè.
Phân bố:
Cây Mã tiền có nhiều ở nước ta và các nước Đông nam á như Lào (gọi là Koktoung ka), Campuchia (gọi là Sleng thom, sleng touch), Thái lan (gọi là Co bên kho), Ấn Độ, Miến điện, Vân nam Trung quốc.
Thành phần hóa học của mã tiền tử
Strychnine, brucine, cloubrine, psedostrychnine, vomicine, loganin.
Nó là nguồn chính của ancaloit có độc tính cao như strychnin (C21H22N2O2) và brucin (C23H26N2O4), sử dụng trong y học, cũng như các ancaloit khác như colubrin và vomicin, được chiết ra từ hạt bên trong quả mọng hình tròn có màu từ xanh tới da cam. Hạt của nó chứa khoảng 1,5% strychnin, còn hoa khô chứa khoảng 1,023 %. Tuy nhiên, ngay cả vỏ cây cũng chứa các hợp chất độc, bao gồm cả brucin.
Tác dụng dược lý của mã tiền tử
Mã tiền có chất strychnine có tác dụng hưng phấn toàn bộ trung khu thần kinh, trước hết là hưng phấn chức năng phản xạ tủy sống, tiếp theo là hưng phấn trung khu hô hấp và vận mạch ở hành tủy, nâng cao chức năng trung khu cảm giác của vỏ não.
Thuốc rất đắng kích thích lên thụ cảm vị giác làm tăng tiết dịch vị, tăng chức năng tiêu hóa, kích thích thèm ăn, nhưng đối với người không có tác dụng hưng phấn cơ trơn của ruột và dạ dày.
Trên súc vật thực nghiệm, thuốc có tác dụng cầm ho hóa đàm. Dùng thuốc kéo dài và tăng lượng làm tăng tác dụng kháng histamin của thỏ nhà.
Nước sắc thuốc với tỷ lệ 1:2 trên ống nghiệm có tác dụng ức chế nhiều loại nấm, 1% dịch kiềm Mã tiền trên thực nghiệm hoàn toàn ức chế sự sinh trưởng của các loại trực khuẩn ái huyết cúm, song cầu khuẩn phế viêm, liên cầu khuẩn A.
Dịch kiềm Mã tiền có tác dụng làm tê thần kinh cảm giác (phần rễ).
Độc tính: người lớn dùng uống 1 lần 5 - 20mg strychnine bị trúng độc, 30mg gây tử vong. Y văn cổ có báo cáo dùng uống 7 hạt Mã tiền gây tử vong.
Vị thuốc mã tiền
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị:
Vị đắng hàn, có độc mạnh
Quy kinh
Qui kinh Can Tỳ.
Công dụng
Thuốc có tác dụng tiêu thũng tán kết, thông lạc chỉ thống. Chủ trị các chứng ung thư sang độc, thương tổn sưng đau, chứng phong thấp tý đau nhức không khỏi hoặc co rút, tê dại, liệt.
Chủ trị
Sách Bản thảo cương mục: " trị thương hàn nhiệt bệnh, hầu họng sưng đau, tiêu hòn cục.".
Sách Đắc phối bản thảo: " tán nhũ ung, trị hầu tý, đơn độc".
Sách Y học trung trung tham tây lục: " thuốc có độc mạnh. khai thông kinh lạc, có tác dụng thấm sâu vào khớp mạnh hơn các thuốc khác".
Liều thường dùng và chú ý:
Liều uống trong: 0,3 - 0,6g, bào chế cho vào thuốc hoàn tán. Dùng ngoài đắp thuốc bột trộn giấm, hoặc thổi bột vào họng, lượng theo yêu cầu. Thuốc thổi họng không quá liều uống.
Chú ý: Uống trong không dùng sống mà phải bào chế giảm độc, không dùng quá liều, không uống lâu. Người yếu, phụ nữ có thai không dùng. Thuốc có thể hấp thu qua da cho nên dùng ngoài diện tích không quá lớn.
Triệu chứng nhiễm độc: nhẹ thì mồm khô, váng đầu, người cảm giác co đầu. Nặng thì Đầu đau, co giật từng cơn đến co cứng, liệt cơ hô hấp, tử vong, tránh ánh sáng, tiếng động và chuyển cấp cứu kịp thời. Xử trí cấp cứu như cấp cứu nhiễm độc Strychnine.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc mã tiền
Trị viêm khớp và viêm khớp dạng thấp: thuốc có tác dụng hoạt lạc chỉ thống.
Mã tiền tử 300g, Ngưu tất, Cam thảo, Thương truật, Ma hoàng, Toàn yết, Cương tàm, Nhũ hương, Một dược đều 36g.
Cách chế:
Bỏ Mã tiền vào nồi đất cho vào 300g đỗ xanh và nước vừa đủ nấu cho đến lúc đỗ xanh nứt ra là được. Lấy Mã tiền ra bóc vỏ đen, cắt thành lát mỏng phơi khô, lại cho vào nồi có cát sao thành màu vàng đen. Nhũ hương, Một dược bỏ lên miếng ngói sao bỏ dầu (đến lúc thấy hết sủi bọt là được), Ngưu tất, Cam thảo, Thương truật, Ma hoàng, Toàn yết, Cương tàm đều bỏ vào nồi đất sao vàng. Tất cả tán xay thành bột mịn trộn đều.
Cách dùng:
Người cơ thể khỏe mỗi lần uống 0,5 - 1g, cơ thể yếu và người già giảm liều.
Uống với rượu trước lúc ngủ (sau khi uống tránh gió).
Bài này trị các chứng đau khớp do phong thấp, Đau lưng, đau cánh tay, chứng tê dại toàn thân hoặc khu trú.
Kiên hổ hoàn: Chế Mã tiền tử, Chế Xuyên ô, Chế thảo ô, Khương hoạt, Độc hoạt mỗi thứ 200g, chế Phụ tử 40g, Chế Nhũ hương, Chế Một dược đều 80g, Toàn Đương qui, Ngưu tất, Ma hoàng, Mộc qua đều 170g. Tán bột mịn, dùng Quế chi 60g sắc nước làm hoàn bằng hạt đỗ xanh. Uống ấm trước khi ngủ với nước sôi ấm, mỗi lần 3 - 4g nuốt.
Thuốc phong Bà Giằng (Thanh hóa), trị đau nhức tê thấp sưng khớp: Bột Mã tiền chế 50g, bột Hương phụ tử chế 13g, bột Mộc hương 8g, bột Địa liền 6g, bột Thương truật 20g, bột Quế chi 3g, tá dược vừa đủ hoàn 1000 viên. Mỗi ngày uống 4 viên, tối đa 6 - 8 viên. Theo hướng dẫn uống khi nào thấy giật giật mới có kết quả. Một đợt uống 50 viên lại nghỉ.
Bài Mã kiệt tán (kinh nghiệm của Tôn Quan Lam): chế Mã tiền 30g (hương dâu sao cháy vàng), Huyết kiện 60g, tán bột mịn trộn đều chia thành 60 gói. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 gói (1,5g). tác giả dùng trị 16 ca đã dùng nhiều thuốc không khỏi, khi dùng thuốc này 1 - 2 liều khỏi (Tạp chí Sơn đông Trung y 1986,1:49).
Trị di chứng bại liệt trẻ em:
Viên Bại liệt trẻ em: Mã tiền tử (sao cát), Xuyên tỳ giải, Ngưu tất, Mộc qua, Ô xà nhục, Tục đọan, Ngô công, Dâm dương hoắc (chích), Đương qui, Nhục thung dung, Kim mao cẩu tích, Ô tặc cốt đều 30g, Thỏ ty tử , Cương tàm 60g, các loại thuốc tán bột mịn. Dâm dương hoắc sắc nước hòa bột trộn làm hoàn. Mỗi lần uống 0,3 - 1,0 (cơ thể yếu giảm liều), ngày 3 lần với nước sôi ấm.
Đảng sâm, Bạch truật đều 60g, Mã tiền chế, Đương qui, Nhũ hương, Một dược, Xuyên sơn giáp đều 30g, Ngô công 5 con, tán bột mịn hòa mật làm viên bằng hạt đỗ xanh, mỗi lần uống 2 - 4g, ngày 2 lần với rượu ấm. Trị chân tay yếu, cơ thể suy nhược.
Trị chứng nhược cơ (Myasthenia):
Chế Mã tiền tán bột mịn làm viên bọc ( mỗi viên 0,2g), mỗi lần 1 viên, ngày uống 3 lần sau khi ăn với nước ấm, cách 2 - 4 ngày tăng 1 viên cho đến 7 viên mỗi ngày, nếu chưa đủ và có hiện tượng giật cơ thì ngưng. Nếu trước đã uống Neostigmin mà lực cơ không tiến bộ nên giảm liều dần và ngưng thuốc. Có biện chứng luận trị dùng thuốc. Đã trị 8 ca, khỏi trước mắt 4 ca, có tiến bộ 1 ca, không kết quả 3 ca (Tạp chí Trung y Triết giang 1986,1:27).
Trị liệt cơ hô hấp:
Trần văn Quang dùng Mã tiền tử tán (gồm Mã tiền tử, Địa long), mỗi ngày 1,8 - 2,4g, chia 2 lần uống, trẻ em giảm liều. Chứng hư thêm Sinh mạch tán gia vị. Chứng thực dùng thêm Thừa khí thang, thông thường dùng Hoàng long thang gia vị, uống hoặc thụt hậu môn. Căn cứ tình hình bệnh thêm châm cứu, ngửi oxy, truyền dịch, chống suy hô hấp. Đã trị 14 ca, khỏi 11 ca, tử vong 2 (Tạp chí Trung y Sơn đông 1985,3:25).
Trị chứng loạn dưỡng cơ tiến triển:
La luyện Hoa dùng bài: Đảng sâm, Sơn dược đều 15g, Hoàng kỳ 20g, Thục địa, Đương qui, Thỏ ty tử, Câu kỷ tử, Bạch truật, Bạch linh, Xích thược, Ngưu tất, Địa long đều 9g, Cam thảo 30g, chế Mã tiền tử (ngâm trong nước 7 ngày, lấy ra thái mỏng phơi khô, ép dầu cho hết) 0,3g (hòa thuốc uống), mỗi ngày 1 thang, dung liên tục 20 thang. Trị 4 ca có kết quả: lực cơ tăng rõ (Tạp chí Trung tây y kết hợp 1987,4:202).
Trị liệt mặt:
Lấy lượng Mã tiền vừa đủ ngâm vào nước trong 24 giờ, lấy ra cắt theo chiều dọc dày 1mm, dán vào 1 miếng keo dán hoặc keo giảm đau, các miếng Mã tiền cách nhau 0,5cm to nhỏ tùy diện tích má liệt, dán vào má liệt 7 ngày thay một lần. Trị 52 ca mắc bệnh, bình quân từ 6 đến 21 ngày. Kết quả dán 1 lần là khỏi 42 ca, 2 lần khỏi 10 ca, kết quả 100% (Báo cáo của Chu Tân Vũ, Tạp chí Y trung cấp 1989,1:45).
Mã tiền 500g cho nước đun sôi 28 phút, cạo vỏ lấy nhân cắt lát bỏ trên giấy đặt trên miếng ngói tẩm giấm nung khô tán bột mịn trộn giấm thành hồ đun lửa nhỏ 25 phút, hồ hơi ấm dán lên vùng má không lệch, 24 giờ thay một lần, thời gian trời ấm nóng 7 - 9 ngày, trời mát lạnh 12 - 14 ngày. Đã trị 224 ca, khỏi 189 ca, tiến bộ 8 ca, không khỏi 27 ca. Lấy thuốc sau 2 ngày làm sạch má, vùng đen mỗi ngày bôi sữa sữa tươi 3 lần, dùng sữa người sau 3 - 7 ngày bớt đen dần và khỏi (Báo cáo của Bồ thế Lâm Trung y Thiểm tây 1985,5:222).
Dùng bột Mã tiền 1g, Long não bột 0,3g, Vaselin 4g cho lửa nhỏ trộn đều bôi vào miếng cao 7 x 7cm, dán vào vùng má đau trước dái tai, 4 ngày thay 1 lần, sau 4 - 32 ngày điều trị 100 ca có 98 ca khỏi, 2 ca tiến bộ, theo dõi 57 ca trong 1 - 4 năm không tái phát ( Báo cáo của Trần An Huy, Tạp chí Trung Y Giang tô 1988,6:31).
Tham khảo
Kiêng kỵ:
Người mất ngủ và di tinh cấm uống. Hạt mã tiền rất độc, nếu dùng theo đường uống phải qua chế biến và bào chế. Sau khi uống phải tránh gió. Nếu thấy ngộ độc (giật giật ở môi và các cơ; nặng hơn thấy ngáp, nước dãi chảy nhiều, nôn mửa, sợ ánh sáng, mạch nhanh và yếu…), có thể lấy nhục quế 8g sắc uống để giải độc.
CÂY MỘT LÁ
Tên thường gọi: Cây một lá, lan một lá, Lan cờ, Trâu châu, Châu diệp, thanh thiên quỳ, Slam lài, bâu thooc, kíp lầu. Chân trâu diệp, Bâu thoọc, Kíp lầu(Quảng Hoa-Cao Bằng).
Tên khoa học:Nervilia fordii Schultze.
Họ khoa học:Thuộc họ Lan Orchidaceae
Cây bầu thooc - thanh thiên quỳ
(Mô tả, hình ảnh cây bầu thooc, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Cây một lá, còn có tên là thanh thiên quỳ hay bâu thooc hay chân châu diệp là một cây thuốc quý, đây là cây sinh địa, loại cỏ sống lâu, cao từ 20-30cm. Thân rất ngắn, củ tròn to, có thể nặng tới 1.5-20g. Thẳng từ củ, chỉ mọc lên có một lá riêng lẻ sau khi hoa tàn. Lá hình tim tròn, xếp theo các gân lá hình chân vịt, đường kính 10-25cm mép uốn lượn. Gân lá tỏa đều từ cuống lá, cuống lá dài 10-20cm, màu tím hồng. Cụm hoa có cán dài 20-30cm. Hoa thưa 15-20 cái, mọc thành chùm hay bông màu trắng, đốm tím hồng hay màu vàng hơi xanh lục. Lá đài và cánh hoa giống nhau. Cánh môi 3 thùy, có rất thùy tận cùng hình ba cạnh, cột sài 6mm, phồng ở đỉnh. Ra hoa tháng 3-5, quả nang vào các tháng 4-6. Khi hoa nở, đầu cánh hoa phía trên chụm lại làm toang hoa giống như chiếc đèn lồng. Quả hình thoi, trên có múi giống như chiếc đèn lồng. Quả hình thoi trên có múi trông giống như quả khế con, dài 2-3cm.
Thường sau khi hoa tàn rồi, lá mới phát triển do đó hoặc ta chỉ thấy cây mang hoa, hoặc quả, không có lá, hoặc chỉ thấy cây có lá, thường một lá.
Phân bố, thu hái
Loài phân bố ở Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan. Ở nước ta cây bầu thooc mọc trên kẽ đá, nơi rợp vùng núi đá vôi và ở nơi ẩm vùng chân núi Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Hoà Bình, Ninh Bình. Thu hái vào mùa thu, rửa sạch, phơi khô, vò nhẹ rồi phơi lại. Phơi và vò ngày 2-3 lần cho tới khô hẳn. Cũng có thể thu hái toàn cây quanh năm, dùng tươi hay phơi khô.
Nơi sống: Cây chỉ mọc ở khe núi, nơi thấp và ẩm ướt, dưới bóng cây to. Miền núi phía bắc gồm: Văn Uyên, Cao Lộc, Đồng Mỏ, Hữu Lũng, Trùng Kháng, Quảng Uyên (Cao Bằng). Gần đây các tỉnh: Lao Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Tây, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu…
Bộ phận dùng làm thuốc:
Toàn cây hay củ, có khi chỉ dùng lá – Herba Nerviliae thường gọi là Thanh thiên quỳ.
Chế biến
Để bảo vệ chỉ nên thu lá, để củ lại cho cây tiếp tục phát triển. Trong khi hái nên tách riêng lá to và nhỏ để dễ chế biến. Có 2 cách chế biến
Cách 1: Hái lá về rửa sạch đất, phơi se lá dùng tay vò, vừa phơi vừa vò. Mới đầu vỏ từng lá một. Sau có thể vò nhiều lá cho đến khi khô khoảng 2-3 ngày.
Cách thứ 2: Lá hái về rửa sạch đồ qua nước sôi, rồi tiếp tục làm như trên.
Tuy nhiên có nơi chỉ hái về rửa sạch phơi khô không vò cũng không đồ hay nhúng nước sôi trước khi vò và phơi.
Chế biến tốt, lá có màu tro sẫm hay lục đen, lá vo tròn thành cục mùi thơm. Theo thói quen, lá nhỏ là loại tốt.
Thành phần hóa học
Một số nghiên cứu y học hiện đại cho thấy cây một lá có chứa:
Một loạt các flavonoid, triterpenes, và sterol
Năm glycosides cycloartane mới, nervisides D-H (1-5)
Ba flavonol glycosides mới, nervilifordizins A-C (1-3), được phân lập từ toàn thân của cây Nervilia fordii. Cấu trúc của chúng đã được làm sáng tỏ như rhamnazin 3-O-β-d-xylopyranosyl- (1 → 4) -β-d-glucopyranoside (1), rhamnazin 3-O-β-d-glucopyranosyl- (1 → 4) -β- d-glucopyranoside (2) và rhamnazin 3-O-β-d-xylopyranosyl- (1 → 4) -β-d-glucopyranoside-4'-O-β-d-glucopyranoside (3)
Năm 7-O-methylkaempferol và -quercetin glycosides mới, cụ thể là, nervilifordins AE (1-5), được phân lập từ toàn bộ cây Nervilia fordii, cùng với bảy flavonoid được biết đến (6, 7 và 9-13) và một được biết đến coumarin (8)
Tác dụng dược lý
Theo y học hiện đại hoạt chất của Nervilia fordii có tác dụng chữa viêm phổi cấp, rối loạn chuyển hóa, kháng virut và kháng u. Hiện tại tăng cường và ứng dụng lâm sàng trong điều trị hen suyễn, viêm phế quản mãn tính hen, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, viêm phổi do bức xạ, viêm tụy cấp tính, viêm họng cấp tính, mãn tính.
Hiện nay cây một lá đang được nghiên cứ điều trị các chứng ung thư, ung thư vòm họng, ung thư phổi,
Vị thuốc cây một lá
(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)
Tính vị:
Vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính bình, không độc
Quy kinh
Vào kinh can
Tác dụng:
Tác dụng thanh nhiệt, nhuận phế, giảm ho, làm dịu đau, tán ứ.
Chủ trị:
Chữa lao phổi, viêm phế quản, viêm miệng, viêm họng cấp tính.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
ở nước ta đồng bào sử dụng lá làm thuốc giải độc, nhất là ngộ độc nấm. Người ta dùng 2-3 lá phơi khô thái nhỏ, hãm với nước sôi trong ít phút rồi chiết nước uống. Ngày uống 2 lần. Người ta cũng dùng nó làm thuốc bồi dưỡng cơ thể, thuốc bổ và mát phổi, chữa lao phổi, ho. Ngày dùng 10-20 lá dưới dạng thuốc sắc, thuốc hãm, hấp đường hoặc chế biến thành cao lỏng để uống. Dùng ngoài lấy lá tươi giã nát, đắp lên các chỗ đau nhức hoặc đắp mụn nhọt các vết lở.
Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng trị 1. Ho lao phổi, viêm phế quản; 2. Viêm miệng, viêm họng cấp tính, tạng lao; 3. Trẻ em hấp thụ kém và nuôi dưỡng kém; 4. Rối loạn kinh nguyệt; 5. Ðòn ngã tổn thương, viêm mủ da. Liều dùng 10-15g dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu. Dùng ngoài giã củ tươi vừa đủ đắp vào chỗ đau.
Liều dùng:
Ngày dùng 12 đến 20g dưới dạng thuốc sắc.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc bầu thooc - cây một lá
Dùng uống chữa lao phổi làm cho phổi mát đỡ nóng, dùng ngoài giã nát đắp lên nơi đau, mụn nhọt.
Ngày dùng 12-20g dưới dạng thuốc sắc.
Chữa ngộ độc, giải độc nấm
Lấy 2-3 lá cây một lá phơi khô thái nhỏ, hãm với nước sôi trong 3 phút rồi chắt lấy nước uống ngày 2 lần.
Bồi dưỡng cơ thể, mát phổi, chữa lao phổi và ho
Mỗi ngày dùng 10-20 lá cây một lá cho vào nồi sắc hoặc hấp đường hoặc chế biến thành cao lỏng để uống cũng có tác dụng rất tốt.
Chữa viêm nhiễm, lở loét
Dùng lá cây một lá tươi giã nát, đắp lên các chỗ đau nhức hoặc đắp mụn nhọt, các vết lở loét viêm nhiễm ngoài da rất hiệu quả.
Cây này ngâm rượu uống cũng có tác dụng chữa rối loạn kinh nguyệt, ho, viêm phế quản, viêm phổi rất tốt.
Viêm miệng, viêm họng cấp tính:
Cây tươi lan một lá dùng nhai.
Tạng lao:
Lan một lá 15g nấu với thịt lợn làm canh ăn.
Trẻ em hấp thụ kém và nuôi dưỡng kém:
Củ lan một lá 5-10g nấu với thịt lợn nạc hoặc trứng gia cầm và ăn như thức ăn.
Tham khảo
So sánh
Tại Trung Quốc, thanh thiên quỳ thường bị giả mạo hay nhầm với lá mã đề. Nhưng chỉ cần ngâm lá với nuớc một lúc cho mềm rồi tải lên mặt phẳng xem và so sánh là phân biệt dễ dàng.
Tại nước ta, chú ý không nhầm lẫn cây một lá với cây bát giác liên (Dysosma chengii) cũng có củ và 1 lá 3. Có tác giả đã xác định tên khoa học của nhưng lá bát giác liên hình 6 cạnh, gân toả từ cây một lá là Pogonia flabellifolium Lind L.
CÂY SAO ĐEN
Sao đen - Hopea odorataRoxb., thuộc họ Sao dầu -Dipterocarpaceae.
Mô tả: Cây gỗ lớn có thân cao suôn thẳng từ 20-30m, có những lằn nứt dọc theo thớ, màu đen. Lá gần như không cuống, hình trái xoan thuôn hay trái xoan ngọn giáo, nhọn tù, dài 6-17cm, rộng 3-9cm, mặt trên láng và xanh bóng, mặt dưới mịn; gân chính rõ với 7-10 cặp gân phụ. Hoa nhỏ, mọc thành chùm màu trắng, có mùi thơm nhẹ. Quả có 2 cánh lớn dài 5-6cm, do 2 thuỳ của đài hoa cùng lớn lên. Vỏ quả dai và mỏng, lúc chín có màu nâu.
Bộ phận dùng: Vỏ cây, nhựa -Cortex et Resina Hopeae Odoratae.
Nơi sống và thu hái: Loài của Ấn Độ, Thái Lan, Mianma, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc hoang ở rừng các tỉnh Tây Nguyên và Nam Bộ, trong các rừng rậm. Cũng thường được làm cây bóng mát. Thu hái vỏ cây quanh năm. Cạo bỏ lớp vỏ ngoài, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô.
Thành phần hoá học: Sao đen cho một chất nhựa có màu sắc thay đổi từ vàng nhạt đến vàng đỏ hay nâu thẫm. Thành phần chủ yếu là các acid damarolic và damaresen a và b. Mặt trong của vỏ cây hay cành lớn còn chứa một tỷ lệ tanin cao (14,57% của trọng lượng khô).
Tính vị, tác dụng: Vỏ Sao đen có vị chát, có tác dụng làm săn da, cầm máu, làm chắc chân răng.
Công dụng: Người ta dùng vỏ Sao đen thay vỏ Chay để ăn trầu. Vỏ còn dùng chữa viêm lợi, áp xe lợi và trị sâu răng.
Ở Ấn Độ, nhựa cây dùng dưới dạng bột làm thuốc cầm máu.
Cách dùng Có thể dùng vỏ khô ngâm rượu hoặc sắc nước đặc để ngậm.
- Ngâm rượu: Lấy vỏ sao cạo sạch lớp ngoài, cho vào rượu thường (30-40o). Sau vài giờ, ta được dịch chiết màu nâu đen hơi đỏ, ngả sang màu sôcôla. Dùng rượu này súc miệng ngày 3 lần, mỗi lần 3 lượt liền, ngậm rồi nhổ nước đi.
- Sắc nước: Lấy 50g vỏ thêm 30ml nước cho vào đun sôi, giữ sôi trong 15 phút, dùng nước sắc súc miệng, ngậm trong 10-15 phút. Ngày làm 2-3 lần, dùng liền trong 3-4 ngày.
4. Rượu Thuốc Ngậm Chữa Đau Nhức Răng:
Thành Phần: Vỏ sao đen 150g Lá Bàng Tươi xay 200g Phèn Chua 200g Ngũ Bội Tử 200g (Bỏ vỏ xay) Nhục Quế 200g Vỏ Sà Cừ 200g Rượu trắng 1 lít. Bạn Ngâm cùng 1 lít Rượu Trắng 10 ngày dùng được.. Sáng ngậm 1 lần. Trưa ngậm 1 lần. Tối ngậm 1 lần, mỗi 1 lần Ngậm 10 phút đến 20 phút xong bạn nhổ đi.
MÃ TIỀN TỬ (Semen Strychni)
Tên khác
Tên thường dùng: Mã tiền tử nguyên tên là Phan mộc miếtdùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản thảo cương mục-quyển 18, là hạt chín phơi hay sấy khô của cây Mã tiền,
Phân loại:Strychnos pierriana A.W.Hillhoặc loạiMã tiền S.nux vomina L.
Họ khoa học:thuộc họ Mã tiền (Longaniaceae).
Cây mã tiền
(Mô tả, hình ảnh cây mã tiền, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Mã tiền (danh pháp hai phần: Strychnos nux-vomica, đồng nghĩa Strychnos colubrina, Strychnos lucida, Strychnos spireana, Strychnos vomica) là một loài cây gỗ thường xanh bản địa Đông Nam Á, thành viên của họ Loganiaceae. Nó là cây gỗ kích thước trung bình, có thể cao tới 25 m, mọc tại các môi trường sinh sống thưa cây cối tới độ cao 1.200 m. Lá của nó hình trứng kích thước 5 x 9 cm (3,5 x 2 inch). Các cành nhỏ không lông hoặc có lông tơ. Ra hoa từ mùa xuân tới mùa hè.
Phân bố:
Cây Mã tiền có nhiều ở nước ta và các nước Đông nam á như Lào (gọi là Koktoung ka), Campuchia (gọi là Sleng thom, sleng touch), Thái lan (gọi là Co bên kho), Ấn Độ, Miến điện, Vân nam Trung quốc.
Thành phần hóa học của mã tiền tử
Strychnine, brucine, cloubrine, psedostrychnine, vomicine, loganin.
Nó là nguồn chính của ancaloit có độc tính cao như strychnin (C21H22N2O2) và brucin (C23H26N2O4), sử dụng trong y học, cũng như các ancaloit khác như colubrin và vomicin, được chiết ra từ hạt bên trong quả mọng hình tròn có màu từ xanh tới da cam. Hạt của nó chứa khoảng 1,5% strychnin, còn hoa khô chứa khoảng 1,023 %. Tuy nhiên, ngay cả vỏ cây cũng chứa các hợp chất độc, bao gồm cả brucin.
Tác dụng dược lý của mã tiền tử
Mã tiền có chất strychnine có tác dụng hưng phấn toàn bộ trung khu thần kinh, trước hết là hưng phấn chức năng phản xạ tủy sống, tiếp theo là hưng phấn trung khu hô hấp và vận mạch ở hành tủy, nâng cao chức năng trung khu cảm giác của vỏ não.
Thuốc rất đắng kích thích lên thụ cảm vị giác làm tăng tiết dịch vị, tăng chức năng tiêu hóa, kích thích thèm ăn, nhưng đối với người không có tác dụng hưng phấn cơ trơn của ruột và dạ dày.
Trên súc vật thực nghiệm, thuốc có tác dụng cầm ho hóa đàm. Dùng thuốc kéo dài và tăng lượng làm tăng tác dụng kháng histamin của thỏ nhà.
Nước sắc thuốc với tỷ lệ 1:2 trên ống nghiệm có tác dụng ức chế nhiều loại nấm, 1% dịch kiềm Mã tiền trên thực nghiệm hoàn toàn ức chế sự sinh trưởng của các loại trực khuẩn ái huyết cúm, song cầu khuẩn phế viêm, liên cầu khuẩn A.
Dịch kiềm Mã tiền có tác dụng làm tê thần kinh cảm giác (phần rễ).
Độc tính: người lớn dùng uống 1 lần 5 - 20mg strychnine bị trúng độc, 30mg gây tử vong. Y văn cổ có báo cáo dùng uống 7 hạt Mã tiền gây tử vong.
Vị thuốc mã tiền
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị:
Vị đắng hàn, có độc mạnh
Quy kinh
Qui kinh Can Tỳ.
Công dụng
Thuốc có tác dụng tiêu thũng tán kết, thông lạc chỉ thống. Chủ trị các chứng ung thư sang độc, thương tổn sưng đau, chứng phong thấp tý đau nhức không khỏi hoặc co rút, tê dại, liệt.
Chủ trị
Sách Bản thảo cương mục: " trị thương hàn nhiệt bệnh, hầu họng sưng đau, tiêu hòn cục.".
Sách Đắc phối bản thảo: " tán nhũ ung, trị hầu tý, đơn độc".
Sách Y học trung trung tham tây lục: " thuốc có độc mạnh. khai thông kinh lạc, có tác dụng thấm sâu vào khớp mạnh hơn các thuốc khác".
Liều thường dùng và chú ý:
Liều uống trong: 0,3 - 0,6g, bào chế cho vào thuốc hoàn tán. Dùng ngoài đắp thuốc bột trộn giấm, hoặc thổi bột vào họng, lượng theo yêu cầu. Thuốc thổi họng không quá liều uống.
Chú ý: Uống trong không dùng sống mà phải bào chế giảm độc, không dùng quá liều, không uống lâu. Người yếu, phụ nữ có thai không dùng. Thuốc có thể hấp thu qua da cho nên dùng ngoài diện tích không quá lớn.
Triệu chứng nhiễm độc: nhẹ thì mồm khô, váng đầu, người cảm giác co đầu. Nặng thì Đầu đau, co giật từng cơn đến co cứng, liệt cơ hô hấp, tử vong, tránh ánh sáng, tiếng động và chuyển cấp cứu kịp thời. Xử trí cấp cứu như cấp cứu nhiễm độc Strychnine.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc mã tiền
Trị viêm khớp và viêm khớp dạng thấp: thuốc có tác dụng hoạt lạc chỉ thống.
Mã tiền tử 300g, Ngưu tất, Cam thảo, Thương truật, Ma hoàng, Toàn yết, Cương tàm, Nhũ hương, Một dược đều 36g.
Cách chế:
Bỏ Mã tiền vào nồi đất cho vào 300g đỗ xanh và nước vừa đủ nấu cho đến lúc đỗ xanh nứt ra là được. Lấy Mã tiền ra bóc vỏ đen, cắt thành lát mỏng phơi khô, lại cho vào nồi có cát sao thành màu vàng đen. Nhũ hương, Một dược bỏ lên miếng ngói sao bỏ dầu (đến lúc thấy hết sủi bọt là được), Ngưu tất, Cam thảo, Thương truật, Ma hoàng, Toàn yết, Cương tàm đều bỏ vào nồi đất sao vàng. Tất cả tán xay thành bột mịn trộn đều.
Cách dùng:
Người cơ thể khỏe mỗi lần uống 0,5 - 1g, cơ thể yếu và người già giảm liều.
Uống với rượu trước lúc ngủ (sau khi uống tránh gió).
Bài này trị các chứng đau khớp do phong thấp, Đau lưng, đau cánh tay, chứng tê dại toàn thân hoặc khu trú.
Kiên hổ hoàn: Chế Mã tiền tử, Chế Xuyên ô, Chế thảo ô, Khương hoạt, Độc hoạt mỗi thứ 200g, chế Phụ tử 40g, Chế Nhũ hương, Chế Một dược đều 80g, Toàn Đương qui, Ngưu tất, Ma hoàng, Mộc qua đều 170g. Tán bột mịn, dùng Quế chi 60g sắc nước làm hoàn bằng hạt đỗ xanh. Uống ấm trước khi ngủ với nước sôi ấm, mỗi lần 3 - 4g nuốt.
Thuốc phong Bà Giằng (Thanh hóa), trị đau nhức tê thấp sưng khớp: Bột Mã tiền chế 50g, bột Hương phụ tử chế 13g, bột Mộc hương 8g, bột Địa liền 6g, bột Thương truật 20g, bột Quế chi 3g, tá dược vừa đủ hoàn 1000 viên. Mỗi ngày uống 4 viên, tối đa 6 - 8 viên. Theo hướng dẫn uống khi nào thấy giật giật mới có kết quả. Một đợt uống 50 viên lại nghỉ.
Bài Mã kiệt tán (kinh nghiệm của Tôn Quan Lam): chế Mã tiền 30g (hương dâu sao cháy vàng), Huyết kiện 60g, tán bột mịn trộn đều chia thành 60 gói. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 gói (1,5g). tác giả dùng trị 16 ca đã dùng nhiều thuốc không khỏi, khi dùng thuốc này 1 - 2 liều khỏi (Tạp chí Sơn đông Trung y 1986,1:49).
Trị di chứng bại liệt trẻ em:
Viên Bại liệt trẻ em: Mã tiền tử (sao cát), Xuyên tỳ giải, Ngưu tất, Mộc qua, Ô xà nhục, Tục đọan, Ngô công, Dâm dương hoắc (chích), Đương qui, Nhục thung dung, Kim mao cẩu tích, Ô tặc cốt đều 30g, Thỏ ty tử , Cương tàm 60g, các loại thuốc tán bột mịn. Dâm dương hoắc sắc nước hòa bột trộn làm hoàn. Mỗi lần uống 0,3 - 1,0 (cơ thể yếu giảm liều), ngày 3 lần với nước sôi ấm.
Đảng sâm, Bạch truật đều 60g, Mã tiền chế, Đương qui, Nhũ hương, Một dược, Xuyên sơn giáp đều 30g, Ngô công 5 con, tán bột mịn hòa mật làm viên bằng hạt đỗ xanh, mỗi lần uống 2 - 4g, ngày 2 lần với rượu ấm. Trị chân tay yếu, cơ thể suy nhược.
Trị chứng nhược cơ (Myasthenia):
Chế Mã tiền tán bột mịn làm viên bọc ( mỗi viên 0,2g), mỗi lần 1 viên, ngày uống 3 lần sau khi ăn với nước ấm, cách 2 - 4 ngày tăng 1 viên cho đến 7 viên mỗi ngày, nếu chưa đủ và có hiện tượng giật cơ thì ngưng. Nếu trước đã uống Neostigmin mà lực cơ không tiến bộ nên giảm liều dần và ngưng thuốc. Có biện chứng luận trị dùng thuốc. Đã trị 8 ca, khỏi trước mắt 4 ca, có tiến bộ 1 ca, không kết quả 3 ca (Tạp chí Trung y Triết giang 1986,1:27).
Trị liệt cơ hô hấp:
Trần văn Quang dùng Mã tiền tử tán (gồm Mã tiền tử, Địa long), mỗi ngày 1,8 - 2,4g, chia 2 lần uống, trẻ em giảm liều. Chứng hư thêm Sinh mạch tán gia vị. Chứng thực dùng thêm Thừa khí thang, thông thường dùng Hoàng long thang gia vị, uống hoặc thụt hậu môn. Căn cứ tình hình bệnh thêm châm cứu, ngửi oxy, truyền dịch, chống suy hô hấp. Đã trị 14 ca, khỏi 11 ca, tử vong 2 (Tạp chí Trung y Sơn đông 1985,3:25).
Trị chứng loạn dưỡng cơ tiến triển:
La luyện Hoa dùng bài: Đảng sâm, Sơn dược đều 15g, Hoàng kỳ 20g, Thục địa, Đương qui, Thỏ ty tử, Câu kỷ tử, Bạch truật, Bạch linh, Xích thược, Ngưu tất, Địa long đều 9g, Cam thảo 30g, chế Mã tiền tử (ngâm trong nước 7 ngày, lấy ra thái mỏng phơi khô, ép dầu cho hết) 0,3g (hòa thuốc uống), mỗi ngày 1 thang, dung liên tục 20 thang. Trị 4 ca có kết quả: lực cơ tăng rõ (Tạp chí Trung tây y kết hợp 1987,4:202).
Trị liệt mặt:
Lấy lượng Mã tiền vừa đủ ngâm vào nước trong 24 giờ, lấy ra cắt theo chiều dọc dày 1mm, dán vào 1 miếng keo dán hoặc keo giảm đau, các miếng Mã tiền cách nhau 0,5cm to nhỏ tùy diện tích má liệt, dán vào má liệt 7 ngày thay một lần. Trị 52 ca mắc bệnh, bình quân từ 6 đến 21 ngày. Kết quả dán 1 lần là khỏi 42 ca, 2 lần khỏi 10 ca, kết quả 100% (Báo cáo của Chu Tân Vũ, Tạp chí Y trung cấp 1989,1:45).
Mã tiền 500g cho nước đun sôi 28 phút, cạo vỏ lấy nhân cắt lát bỏ trên giấy đặt trên miếng ngói tẩm giấm nung khô tán bột mịn trộn giấm thành hồ đun lửa nhỏ 25 phút, hồ hơi ấm dán lên vùng má không lệch, 24 giờ thay một lần, thời gian trời ấm nóng 7 - 9 ngày, trời mát lạnh 12 - 14 ngày. Đã trị 224 ca, khỏi 189 ca, tiến bộ 8 ca, không khỏi 27 ca. Lấy thuốc sau 2 ngày làm sạch má, vùng đen mỗi ngày bôi sữa sữa tươi 3 lần, dùng sữa người sau 3 - 7 ngày bớt đen dần và khỏi (Báo cáo của Bồ thế Lâm Trung y Thiểm tây 1985,5:222).
Dùng bột Mã tiền 1g, Long não bột 0,3g, Vaselin 4g cho lửa nhỏ trộn đều bôi vào miếng cao 7 x 7cm, dán vào vùng má đau trước dái tai, 4 ngày thay 1 lần, sau 4 - 32 ngày điều trị 100 ca có 98 ca khỏi, 2 ca tiến bộ, theo dõi 57 ca trong 1 - 4 năm không tái phát ( Báo cáo của Trần An Huy, Tạp chí Trung Y Giang tô 1988,6:31).
Tham khảo
Kiêng kỵ:
Người mất ngủ và di tinh cấm uống. Hạt mã tiền rất độc, nếu dùng theo đường uống phải qua chế biến và bào chế. Sau khi uống phải tránh gió. Nếu thấy ngộ độc (giật giật ở môi và các cơ; nặng hơn thấy ngáp, nước dãi chảy nhiều, nôn mửa, sợ ánh sáng, mạch nhanh và yếu…), có thể lấy nhục quế 8g sắc uống để giải độc.
KIM NGÂN HOA
Tên khác
Tên dân gian:Vị thuốcKim ngân hoa còn gọi Nhẫn đông hoa(Tân Tu Bản Thảo), Ngân hoa(Ôn Bệnh Điều Biện), Kim Ngân Hoa, Kim Ngân Hoa Lộ, Mật Ngân Hoa, Ngân Hoa Thán, Tế Ngân Hoa, Thổ Ngân Hoa, Tỉnh Ngân Hoa(Đông Dược Học Thiết Yếu),Song Hoa(Trung Dược Tài Thủ Sách), Song Bào Hoa(Triết Giang Dân Gian Thảo Dược), Nhị Hoa(Thiểm Tây Trung Dược Chí), Nhị Bảo Hoa (Giang Tô Nghiệm Phương ThảoDược Tuyển Biên), Kim Đằng Hoa (Hà Bắc Dược Tài).
Tên Khoa Học:Lonicera japonica Thunb.
Họ khoa học:Họ Cơm Cháy (Caprifolianceae).
Cây kim ngân hoa
(Mô tả, hình ảnh cây kim ngân hoa, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô Tả:
Cây kim ngân hoa là một cây thuốc quý. Cây loại dây leo, thân có thể dài đến 9-10m, rỗng, có nhiều cành, lúc non mầu xanh, khi gìa mầu đỏ nâu, trên thân có những vạch chạy dọc. Lá mọc đối nhau, hình trứng dài. Phiến lá rộng 1,5 - 5cm, dài 38cm. Lá cây quanh năm xanh tươi, mùa rét không rụng. Hoa khi mới nở có mầu trắng, nở ra lâu chuyển thành mầu vàng. Hoa mọc ở kẽ lá, mỗi kẽ lá có 2 hoa mọc trên 1 cuống chung. Lá bắc giống như lá cây nhưng nhỏ hơn. Tràng hoa cánh hợp, dài từ 2,5-3,5cm, chia làm 2 môi không đều. Môi rộng lại chia thành 4 thùy nhỏ, 5 nhụy dính ở họng tràng, mọc thò dài ra ngoài hoa. Quả hình cầu, màu đen.Nụ hoa hình gậy, hơi cong queo, dài 25cm, đường kính đạt đến 5mm. Mặt ngoài màu vàng đến vàng nâu, phủ đầy lông ngắn. Mùi thơm nhẹ vị đắng. Mùa hoa: tháng 3-5, mùa quả: tháng 6-8. Mọc hoang ở nhưng vùng rừng núi, ưa ẩm và ưa sáng.
Thu Hái, Sơ Chế:
Thu hái vào đầu mùa Hạ, lúc nụ sắp nở. Nên hái khoảng 9 - 10 giờ sáng (khi sương đã ráo). Đem thái mỏng, phơi hoặc sấy khô.
Bộ Phận Dùng:
Hoa mới chớm nở. Lá và dây ít dùng.
Mô Tả Dược Liệu:
Dây có nhiều lá, cuộn vòng hoặc chặt thành từng đoạn dài 35cm.
Lá mọc đối nhăn nheo, dài 47cm, rộng 24cm, hình trứng. Phiến lá dày, mặt trên màu lục đen, nhẵn hoặc có ít lông, mặt dưới mầu lục nhạt, có nhiều lông ngắn mịn và gân lá hình lông chim lồi lên,cuống lá dài. Hoa: nụ hoa hình ống dài 0,8-1,6cm, hơi cong, màu vàng nhạt, dưới nhỏ, đường kính 11,25mm, trên phồng to, đường kính 23mm. Lác đác có hoa mới nở, dưới nhỏ, trên loe hình môi. Mặt ngoài có lông trắng nhỏ mịn (soi kính lúp), phía dưới có đài nhỏ hình chén 5 răng, màu nâu vàng, dài khoảng 11,5mm. Chất nhẹ, hơi giòn, mùi thơm, vị hơi đắng (Dược Tài Học).
Bào Chế:
+ Hoa tươi: gĩa nát, vắt nước, đun sôi, uống.
+ Hoa khô: sắc uống hoặc sấy nhẹ lửa cho khô, tán bột.
+ Hoa tươi hoặc khô đều có thể ngâm với rượu theo tỉ lệ 1/5 để uống (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Bảo Quản:
Dễ hút ẩm, mốc, biến màu, mất hương vị. để nơi khô ráo, tránh ẩm, đựng trong hũ có lót vôi sống.
Thành Phần Hóa Học:
+ Luteolin, Inositol, Tannin (Trung Dược Học).
+ Hoa chứa Scolymozid (Lonicerin), 1 số Carotenoid (S Caroten, Cryptoxantin, Auroxantin). Lá chứa Loganin (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
+ Chlorogenic acid, Isochlorogenic acid (Lý Bá Đình, Trung Thảo Dược 1986, 17 (6): 250).
+ Ginnol, b-Sitosterol, Stigmasterol, b-Sitosterol-D-Glucoside, Stimasteryl-D-Glucoside (Sim K S và cộng sự, C A 1981,94: 52765p).
Tác Dụng Dược Lý:
+ Tác Dụng Kháng Khuẩn: nước sắc hoa Kim ngân có tác dụng ức chế mạnh đối với tụ cầu khuẩn, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn lỵ Shiga. Nước sắc có tác dụng mạnh hơn các dạng bào chế khác (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Khi nghiên cứu tác dụng kháng khuẩn in vitro bằng các phương phápkhuyếch tán và hệ nồng độ, người ta thấy nước sắc cô đặc 100% của hoa Kim ngân có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với các trực khuẩn lỵ, dịch hạch, thương hàn, cận thương hàn, liên cầu khuẩn tan máu, phẩy khuẩn tả. Tác dụng yếu hơn đối với các trực khuẩn bạch hầu, E.Coli, Phế cầu, Tụ cầu khuẩn vàng. Nước sắc lá Kim ngân với nồng độ 201,2% ức chế trực khuẩn Shiga, với nồng độ 2050% ức chế trực khuẩn cận thương hàn, nồng độ 100% có tác dụng đối với tiêu cầu khuẩn (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
+ Tác Dụng Trên Chuyển Hóa Chất Béo: Kim ngân có tác dụng tăng cường chuyển hóa các chất béo (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
+ Tác Dụng Trên Đường Huyết: nước sắc hoa Kim ngân cho uống có tác dụng ngăn chặn choáng phản vệ chuột lang. Ở chuột lang uống Kim ngân, số lượng và tính chất các dưỡng bào ở mạc treo ruột ít thay đổi. Lượng Histamin ở phổi chuột lang bị choáng phản vệ cao gấp rưỡi so với chuột lang bình thường và chuột lang uống Kim ngân trước khi gây choáng (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
+ Tác Dụng Kháng Khuẩn: Thuốc có tác dụng ức chế nhiều loại vi khuẩn: tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn, liên cầu khuẩn dung huyết, phế cầu khuẩn, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn ho gà, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn mủ xanh, não cầu khuẩn, trực khuẩn lao... cùng các loại nấm ngoài da, Spirochete, virus cúm (Trung Dược Học).
+ Tác Dụng Kháng Viêm: làm giảm chất xuất tiết, giải nhiệt và làm tăng tác dụng thực bào của bạch cầu (Trung Dược Học).
+ Tác Dụng Hưng Phấn Trung Khu Thần Kinh: cường độ bằng 1/6 của cà phê (Trung Dược Học).
+ Tác dụng chống lao: Nước sắc Kim ngân hoa in Vitro có tác dụng chống Mycobacterium tuberculosis. Cho chuột uống nướcsắc Kim ngân hoa rồi cho chíchvi khuẩn lao cho thấy ít thay đổi ở phổi hơn lô đối chứng (Chinese Hebral Medicine).
+ Kháng Virus: Nước sắc Kim ngân hoa có thể làm giảm sức hoạt động của PR8 ở virus cúm nhưng không có tác dụng ở phôi gà con đã tiêm chủng (Chinese Hebral Medicine).
+ Tác dụng chuyển hóa Lipid: cho chuột béo phì dùng lượng lớn Cholesterol vỗ béo cho chuột đồng thời cho uống nướcsắc Kim ngân hoa, mức Cholesterol trong máu của chúng thấp hơn so với nhóm đối chứng (Chinese Hebral Medicine).
+ Trong nhãn khoa: theo dõi 36 bệnh nhân không chọn trước, nướcsắc Kim ngân hoa được dùng cho những trường hợp kết mạc viêm mạn, giác mạc loét (Chinese Hebral Medicine).
+ Trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn: dùng dịch chiết Kim ngân hoa chích vào huyệt hoặcvào bắp có hiệu quả trong điều trị bệnh phổi viêm cấp nặng và lỵ. Cũng dùng trong 1 số trương hợp ruột dư viêm có mủ, quai bị lở ngứa (Chinese Hebral Medicine).
+ Làm hạ Cholesterol trong máu (Trung Dược Học).
+ Tăng bài tiết dịch vị và mật (Trung Dược Học).
+ Tăng tác dụng thu liễm do có chất Tanin (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Có tác dụng lợi tiểu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Độc Tính:
Chuột nhắt trắng, sau khi được cho uống nước sắc Kim ngân liên tục 7 ngày với liều gấp 150 lần liều điều trị cho người, vẫn sống bình thường, giải phẫu các bộ phận không thay đổi gì đặc biệt (Tài Nguyên Cây Thuốc Vị Thuốc Việt Nam).
Vị thuốc kim ngân hoa
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính Vị:
+ Vị đắng, tính hàn (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Vị đắng, ngọt, khí bình, tính hơi hàn, không độc (Bản Thảo Dược Tính Đại Toàn).
+ Vị ngọt, tính hàn (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Vị ngọt, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy Kinh:
+ Vào kinh túcDương minh Vị, túc Thái âm Tỳ (Đắc Phối Bản Thảo).
+Vào kinh Phế (Lôi Công Bào Chích Luận).
+ Vào kinh Phế, Vị (Trung Dược Học).
+ Vào kinh Phế, Vị, Tâm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+Vào kinh Phế, Vị, Tâm Tỳ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác Dụng, Chủ Trị:
+ Thanh nhiệt, giải chư sang (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Là thuốc chủ yếu để chỉ tiêu khát (Y Học Nhập Môn).
+ Tiêu thủng, tán độc, bổ hư, liệu phong, uống lâu ngày tăng tuổi thọ (Lôi Công Bào Cês Dược Tính Giải).
+ Khu phong, trừ thấp, tán nhiệt, liệu tý, tiểu thủng, chỉ lỵ (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Thanh nhiệt, giải độc. Trị ôn bệnh phát nhiệt, nhiệt lỵ, rôm sẩy, mụn nhọt, ghẻ lở, hắc lào, giang mai độc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Thanh nhiệt, giải độc (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Thanh nhiệt, giải độc, giải trừ các khí ôn dịch, uế trọc tà. Trị ôn bệnh phát sốt, nhiệt lỵ, rôm sẩy, mụn nhọt, hắc lào, giang mai (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều Dùng:12 – 20g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Kim ngân hoa
Trị thái âm ôn bệnh mới phát, tà khí ở Phế vệ, sốt mà không sợ lạnh, sáng sớm khát nước:
Liên kiều 40g, Ngân hoa 40g, Khổ cát cánh 24g, Bạc hà 24g, Trúc diệp 16g, Cam thảo (sống) 20g, Kinh giới tuệ 16g, Đạm đậu xị 20g, Ngưu bàng tử 24g. Tán thành bột. Mỗi lần dùng 24g uống với nước sắc Vi căn tươi (Ngân Kiều Tán – Ôn Bệnh Điều Biện).
Trị mụn nhọt sắc đỏ biến thành đen:
Kim ngân hoa (cả cành, lá) 80g, Hoàng kỳ 160g, Cam thảo 40g. cắt nhỏ, dùng 1 cân rượu ngâm, chưng 2-3 giờ, bỏ bã, uống dần (Hồi Sang Kim Ngân Hoa Tán – Hoạt Pháp Cơ yếu).
Trị phát bối, nhọt độc:
Kim ngân hoa 160g, Cam thảo (sao) 40g. Tán bột. Mỗi lần dùng 16g, sắc với 1 chén rượu, 1 chén nước, còn 1 chén, bỏ bã, uống nóng (Vệ Sinh Gia Bảo).
Trị phát bối, ung nhọt mới phát:
Kim ngân hoa nửa cân, nước 10 chén. Sắc còn 2 chén. Thêm Đương quy 80g, sắc còn 1 chén, uống (Động Thiên Áo Chỉ).
Trị sữa không xuống, kết lại gây nên vú sưng đau, đau chịu không nổi:
Kim ngân hoa, Đương quy, Hoàng kỳ (nướng mật), Cam thảo đều 10g. Sắc, thêm ½ chén rượu, uống (Kim Ngân Hoa Tán – Tế Âm Cương Mục).
Trị vú có khối kết, sưng to, đỏ, chảy nước:
Kim ngân hoa, Hoàng kỳ (sống) đều 20g, Đương quy 32g, Cam thảo 4g, Lá Ngô đồng 50 lá. Nước ½ chén, rượu ½ chén, sắc uống (Ngân Hoa Thang – Trúc Lâm Nữ Khoa).
Trị mụn nhọt, lở ngứa:
Hoa kim ngân 20g, Cam thảo 12g, sắc uống. Bên ngoài dùng Hoa kim ngân tươi trộn với rượu đắp chung quanh chỗ đau (Kim Ngân Hoa Tửu - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị ruột dư viêm cấp hoặc phúc mạc viêm:
Kim ngân hoa 120g, Mạch môn 40g, Địa du 40g, Hoàng cầm 16g, Cam thảo 12g, Huyền sâm 80g, Ý dĩ nhân 20g, Đương qui 80g, sắc uống (Thanh Trường Ẩm - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị họng đau, quai bị:
Kim ngân hoa 16g, Liên kiều 12g, Trúc diệp 12g, Ngưu bàng tử 12g, Cát cánh 8g, Kinh giới tuệ 8g, Bạc hà 4g, Cam thảo 4g, Đậu xị 18g, sắc uống (Ngân Kiều Tán- Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Dự phòng não viêm:
Kim ngân hoa 20g, Bồ công anh 20g, Hạ khô thảo 20g, sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị ung nhọt, dị ứng, mẩn ngứa:
Hoa kim ngân 10g, Ké đầu ngựa 4g, nước 200ml. Sắc còn 100ml, chia 2 lần uống trong ngày (Dược Liệu Việt Nam).
Trị mụn nhọt, lở ngứa:
Kim ngân hoa 6g, Cam thảo 3g, nước 200ml. Sắc còn 100ml, chia 23 lần uống trong ngày (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Trị dị ứng, mụn nhọt, lở ngứa:
Kim ngân 6g (hoa) hoặc 12g (lá và cành), nước 100ml, sắc còn 10ml, thêm 4g đường. Cho vào ống hàn kín, hấp tiệt trung để bảo quản. Nếu dùng ngay thì không cần đóng ống, chỉ cần đun sôi, giữ sôi trong 15 phút đến 1/2 giờ là uống được . Ngườilớn uống 24 liều trên, trẻ nhỏ 12 liều (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Trị cảm cúm:
Hoa kim ngân 6g, Cam thảo 3g, nước 200ml. Sắc còn 100ml, chia 2-3 lần uống trong ngày (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Trị cảm cúm:
Kim ngân 4g, Tía tô 3g, Kinh giới 3g, Cam thảo đất 3g, Cúc tần hoặc Sài hồ nam 3g, Mạn kinh 2g, Gừng 3 lát. Sắc uống (Tài NguyênCây Thuốc Việt Nam).
Trị sởi:
Hoa kim ngân 30g, Cỏ ban 30g. Dùng tươi, gĩa nhỏ, thêm nước, gạn uống. Có thể phơi khô, sắc uống (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam)
Tham Khảo
+ Được Đương quy có tác dụng trị nhiệt độc huyết lỵ (Đắc Chân Bản Thảo).
+ Được Hoàng kỳ, Đương quy, Cam thảo, có tác dụng thác ung thủng. Được Phấn thảo có tác dụng giải nhiệt độc hạ lợi (Đắc Phối Bản Thảo).
+ Ông Lý Thời Trân cho rằng Kim ngân người xưa cho là vị thuốc cốt yếu trong việc trị phong, trừ được chứng trướng mãn, trị được lỵ tật mà sau này người ta không ai để ý đến, mãi về sau lại có người bảo là vị thuốc cốt yếu trong các vị thuốc trị những chứng ung nhọt mà người xưa chưa từng nói đến.... Xét trong sách ‘Ngoại Khoa Tinh Yếu’ ông Trần Tử Minh có nói: Rượu Kim ngân trị bệnh ung thư mới phát rất thần hiệu vô biên (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Kim ngân đâu đâu cũng có, ở nhà quê người ta trồng rất nhiều, dây nó leo cuốn vào cây cho nên gọi là Tả triền đằng. Cây và lá của nó qua mùa đông không rụng vì vậy gọi là Nhẫn đông đằng (Kim Chỉ Nam Dược Tính).
+ Hiệu lực giải biểu của Kim ngân hoa kém hơn Cát căn nhưng lại thanh nhiệt hay hơn Cát cănNgân hoa sao cháy có thể dùng để trị nhiệt độc huyết lỵ vào phần huyết, thanh huyết nhiệt. Nước cất từ Kim ngân hoa có thể trợ vị, tán thử, thanh nhiệt giải độc. Kim ngân hoa là vị thuốc chủ yếu trị chứng dương đỏ sưng thuộc ngoại khoa, không nên sử dụng đối với chứng âm. Dây Kim ngân hoa còn gọi là Nhẫn đông đằng, có thể thanh phong nhiệt rong kinh lạc và làm yên được đau nhức Rong kinh“ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Dây Kim ngân còn gọi là Nhẫn đông đằng công dụng giống như hoa nhưng kém hơn, có tác dụng thanh nhiệt ở kinh lạc, giảm đau. Kim ngân hoa sao đen gọi là Kim ngân hoa thán có tác dụng lương huyết, trị lỵ xích lỵ, tiêu ra máu (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Phân biệt:
Ngoài Kim ngân nói trên, người ta còn dùng một số loại Kim ngân sau:
1- Kim Ngân Dại (Lonicera dasystyla Rehd). Lá hình trứng nhọn dài 28cm, rộng 14cm. Mép lá trên nguyên, lá gốc chia thùy. Phiến lá mỏng, mặt trên nhẵn, mặt dưới phủ lông mịn. Hoa ống tràng, thẳng hoặc hơi cong, dài 1,8 - 2,2cm. Bầu nhẵn.
2- Kim Ngân Lông (Lonicera cambodiaha Pierre): Lá hình thuôn hơi dài, dài khoảng 5 - 12cm, rộng 36cm. Mép lá nguyên cuộn xuống dưới mặt lá. Phiến lá khá dày, mặt trên nhẵn, trừ cuối gân giữa, mặt dưới lông xù xì, nhất là ở gân lá. Hoa ống tràng, thẳng hoặc hơi cong, dài 56cm. Bầu có nhiều lông.
3- Lonicera confusa D C. Lá hình thuôn dài, dài 46cm, rộng 1,5 - 3cm. Mép lá nguyên. Phiến lá hơi dầy, mặt trên nhẵn, mặt dưới có nhiều lông ngắn mịn, hoa ống tràng thẳng hoặc hơi cong, dài 3cm. Bầu có lông (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Kiêng Kỵ:
+ Tỳ Vị hư hàn, tiêu chảy không phải do nhiệt, mồ hôi ra nhiều: cẩn thận khi dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Tỳ vị hư hàn, tiêu chảy, mụn nhọt loại âm tính hoặc sau khi vỡ mủ mà khí lực yếu,mủ trong lỏng: không nên dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
MẬT ĐÀ TĂNG
Tên thường gọi: Còn gọi là đà tăng, kim đà tăng, lô đê.
Tên tiếng Trung: 宓 陀 曾
Tên khoa học:Lithargyrum.
Mật đà tăng
(Mô tả, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả
Mật đà tăng là tiếng Ấn Độ phiên âm. Nguyên là dư phẩm của việc chế biến bạc, thường thấy ở đáy lò nấu bạc. Có thứ tự nhiên, từng cục vuông bằng đầu ngón tay, ánh vàng sẫm. - Đây là một vị thuốc quý.
Bộ phận dùng:
Dùng đáy lò nấu vàng bạc lâu năm. Đáy lò vỡ người ta nấu lại thành miếng đen óng ánh xám.
Xuất xứ:
Vị này thường có ở làng nghề gia công chế tác vàng bạc, ở trong nước, và nước khác..
Cách bào chế:
Dùng sống tán bột mịn hoặc nung đỏ, để nguội rồi lấy tán lấy bột (rây số 22). Trộn với dầu mè, dầu thầu dầu, giấm v.v... đến độ sền sệt.
Thành phần hoá học:
Thành phần chủ yếu của mật đà tăng là chì oxit (PbO), tuy nhiên cũng còn lại một phần chì chưa bị oxy hóa. Ngoài ra, trong mật đà tăng còn lẫn nhiều tạp chất như Al3, Sb3 hoặc Sb4 , sắt Fe3, Ca2 và Mg2 .
Vị thuốc mật đà tăng
(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)
Tính vị:
Vị mặn, cay, tính bình, hơi độc. Tỷ trọng cao không có mùi vị
Quy kinh:
Vào kinh Can.
Tác dụng:
Thuốc sát trùng. Tác dụng trừ đờm, sát trùng, thu liễm trấn kinh
Chủ trị:
Thường dùng làm thuốc bị bệnh ngoài da, trị sang lở, chốc đầu, nước ăn chân (trộn với dầu), trị hôi nách (trộn với giấm).
Dùng chữa ngũ Trĩ, tẩy vết xạm ngoài da, chủ yếu là chế cao dán nhọt.
Liều dùng:
Liều uống hàng ngày là 0.5-1g
Tác dụng chữa bệnh của mật đà tăng
Trị chàm (Eczema):
Mật đà tăng 500g, Hoàng đơn 20g, Vỏ chàm 300g, Thầu dầu 1.000g.
Điều chế: Mật đà tăng tán nhỏ rây mịn. Hoàng đơn tán nhỏ rây mịn. Vỏ chàm đốt tồn tính, tán mịn. Dầu thầu dầu, Mật đà tăng, vỏ Chàm đun sôi 10 phút rồi cho Hoàng đơn vào quấy đều, bắc ra lại quấy đều cho đến khi nguội (nếu không Mật đà sẽ tăng sẽ lắng xuống).
Rót vào lọ rộng miệng, quấy đều khi dùng.
Trị hôi nách:
Mật đà tăng 30g (tán min), Giấm thanh 100ml hòa chung bôi vào nách, ngày vài lần. (Kinh Nghiệm Dân Gian).
Trị sang lở, chốc đầu, nước ăn chân:
Mật đà tăng 30g (tán min), Trộn với dầu mè cho sệt bôi ngày vài lần. (Kinh Nghiệm dân gian).
Chữa xạm, khô sần da:
Mật đà tăng (tán mịn), Hoạt thạch (tán mịn), lượng bằng nhau. Pha nước chín bôi ngày vài lần. (Kinh Nghiệm Dân Gian).
Chữa hôi nách:
Mật Đà Tăng 8g, Lưu Hoàng 8g, Đinh Hương 4g, Khô Phàm 8g, tất cả nghiền nhỏ trộn đều, sáng tối mỗi ngày bôi vào các vị trí “bốc mùi”..(Kinh Nghiệm dân gian).
Chữa miệng hôi thối:
Mật đà tăng 4g, hòa ấm súc miệng, nhổ đi.
Tham khảo
Kiêng kỵ
Tuy nhiên những người trúng hàn không phải thực tà cấm dùng.
Thuốc nếu dùng lâu có thể gây nhiễm độc chì, do đó cần thận trọng, chỉ dùng khi có sự chỉ định của thầy thuốc.
Trong một số đơn thuốc cổ phương có sử dụng duyên đơn, duyên phấn hay mật đà tăng để chữa bệnh lở loét miệng dưới dạng bôi, làm cao dán mụn nhọt hoặc uống (nhưng rất hạn chế với liều lượng nhỏ).
CỐI XAY
Tên cây : Cối xay,
cây dằng xay, quýnh ma, kim hoa thảo, ma bản thảo, ma mãnh thảo, nhĩ hương thảo, co tó ép (Thái), phao tôn (Tày).
Mô tả : Cây nhỏ, sống dai, mọc thành bụi, cao 1 - 1,5m, có lông mềm hình sao. Lá mọc so le, hình tim, có cuống dài, mép khía răng. Hoa vàng, mọc riêng lẻ ở kẽ lá, cuống gấp khúc, quả nom giống cái cối xay, có lông. Hạt hình thận, nhẵn, màu đen nhạt.
Phân bố : Cây mọc hoang và được trồng ở khắp nơi.
Bộ phận dùng : Toàn cây. Thu hái vào mùa hạ, thu. Dùng tươi hoặc phơi khô.
Thành phần hóa học : Toàn cây chứa chất nhầy, asparagin.
Công dụng : Chữa cảm sốt, Nhức đầu, ù tai, bí tiểu, tiện, bạch đới : Ngày 4 - 8 g rễ hoặc lá, sắc. Chữa mụn nhọt, lỵ, rắn cắn : Lá tươi và hạt (ngày 8 - 12g) giã, thêm nước uống, bã đắp. Chữa vàng da, hậu sản : Phối hợp cối xay với các dược liệu khác.
CỦ GIÓ
Tên khác Còn gọi là kim qủa lãm, sơn từ cô, kim ngưu đởm, kim khổ lãm, địa đởm.
Tên khoa học Tinsospora capillipes Gagnep.
Thuộc họ tiết dê Menispermaceae.
Cây Củ gió
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Dây leo, mềm, thường xanh; cành tròn có lông nhỏ. Rễ dài, cứ từng đoạn lại phình lên thành củ mập, vỏ ngoài màu vàng nâu, ruột màu trắng. Lá hình mác, mọc so le, có cuống dài; gốc lá hình mũi tên; gân lá hình chân vịt có lông nhỏ. Hoa nhỏ, màu lục vàng, mọc thành chùm ở nách lá. Quả thuôn; hạt tròn dẹt.
Mùa hoa tháng 3-5.
Bộ phận dùng:
Rễ củ - Radix Tinosporae Capillipis; ở Trung Quốc, có tên là Kim quả lãm.
Nơi sống và thu hái:
Cây mọc hoang ở vùng núi cao, chỗ ẩm, râm mát, nhất là ở các núi đá vôi ở Lạng Sơn. Thu hoạch rễ quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu, đông, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô hoặc sấy khô.
Thành phần hoá học:
Rễ cây chứa tinosporin, columbin.
Vị thuốc Củ gió
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị
Cây có vị đắng, the, tính lạnh.
Qui kinh
Vào 3 kinh tâm, phế vị
Công dụng
Thanh nhiệt giải độc, lợi yết, chỉ thống.
Liều dùng
6-12g, dạng thuốc sắc, ngâm rượu hoặc tán bột uống. Dùng ngoài giã nát đắp chữa ung nhọt, viêm tấy.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Củ gió
GỐI HẠC
Tên khác Còn gọi là kim lê, bí dại, phi tử, mũn, mạy chia (Thổ)
Tên khoa họcLeea rubraBlume.
Thuộc họ Gối hạcLeeaceae.
Cây Gối hạc
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả cây
Cây mọc thành bụi dày, cao tới 1-1.5m. Thân có rãnh dọc và mọc phình lên ở những mấu giồng như gối của con chim hạc, Rễ củ màu hồng, trằng và vàng. Lá kép lông chim 3 lần, phía trên hai lần, phiến lá chét có răng cưa thô to, dài 5-11cm, rộng 25-60mm, gần như không cuống. Hoa nhỏ màu hồng, mọc thành ngù ở đầu cành. Quả có đường kính 6-7mm, hạt 4-6, dài 4mm. Quả khi chín có màu đen, mùa hoa quả tháng 5-10.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang dại ở nhiều vùng đồi núi. Thường người ta đào lấy rễ vào mùa thu đông. Đào rễ về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô.
Thành phần hoá học
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
Vị thuốc Gối hạc
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị :
Rễ gối hạc có vị đắng ngọt, tính mát.
Công dụng:
Tiêu sưng, thông huyết.
Chỉ định:
Gối hạc là vị thuốc được nhân dân dùng chứa bệnh đau nhức khớp xương, tê thấp, đau bụng, Rong kinh.
Liều dùng:
Ngày dùng 10-16g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay ngâm rượu.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Gối hạc
Thấp khớp tính:
Sắc thuốc gồm rễ gối hạc,ké đầu ngựa mỗi loại 16g, lá bạc thau(sao vàng), lá cây đơn đỏ(đơn mặt trời), lá cây đơn tướng quân mỗi loại 12g, dây kim ngân(10g) và lá thông(8g).Nếu tính phong nhiều thì thêm vòi voi (16g), kinh giới (12g).Nếu hàn nhiều thì thêm tỳ giải(16g), thổ phục linh(16g). Sử dụng 600ml nước và đun cạn còn khoảng 200ml để uống trong ngày. Uống trước bữa ăn.
Thấp khớp mạn tính:
Sắc thuốc gồm rễ gối hạc,rễ bươm bướm, tầm gửi câu ruối, găng bầu, nam đằng (sao vàng) mỗi loại 12g, rễ rung rúc và tơ mành mỗi loại 8g, cử thiên tuế 16(g).Nếu kém ăn thì thêm ý dị (20g). Nếu huyết kém thêm vương tôn( rễ gấm) 16g.Sắc thuốc với 600ml nước và đun cạn còn khoảng 200ml để uống trong ngày. Uống trước bữa ăn.
Bài 1: Lấy rễ gối hạc 40-50g sắc uống mỗi ngày.
Bài 2: Rễ gối hạc 30g, cỏ xước hay ngưu tất, rễ gấc, tỳ giải, mỗi vị 15g, cũng sắc uống ngày 1 thang, chia 3.
Chữa đau bụng, rong kinh ở phụ nữ:
Liều thông thường 15-20g rễ, dùng riêng tán bột hay sắc uống hoặc ngâm rượu uống. Phụ nữ khi sinh đẻ thường lấy rễ gối hạc sắc uống cho khoẻ người, ăn uống ngon miệng, đỡ đau mình mẩy.
Chữa sưng tấy, đau bắp chuối hay phong thấp sưng đầu gối:
Lấy rễ gối hạc 40-50g sắc uống mỗi ngày. Hoặc phối hợp với các vị thuốc khác: rễ gối hạc 30g, cỏ xước hay ngưu tất, rễ gấc, tỳ giải, mỗi vị 15g, cũng sắc uống ngày 1 thang, chia 3.
Chú thích:
Loài câyLeea rubra,người ta còn dùng câyLeea sambucinavới cùng tên gối hạc, kim lê, cây này cũng giống cây trên nhưng lá kép xẻ lông chim hai lần, cụm hoa lớn hình ngù, hoa trắng vàng, nhỏ bé, quả đen, lá khô đen ở mặt trên. Cùng một công dụng.
CẨU TÍCH (CU LY)
Tên khác
Còn gọi làKim mao Cẩu tích, rễ lông Cu lilà thân rễ phơi hay sấy khô của câyLông Cu li
Tên khoa học:Cibotium barometz J. Sm. = Dicksonia barometz L.), họ Kim mao (Dicksoniaceae).
Tiếng Trung: 狗脊
Cây Cẩu tích
( Mô tả, hình ảnh cây Cẩu tích, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây có thân thường yếu, nhưng cüng có thể cao 2,5-3m. Lá lớn có cuống dài 1-2m, màu nâu nâu, ở phía gốc có vẩy hình dải rất dài màu vàng và bóng phủ dày đặc. Phiến dài tới 3m, rộng 60-80cm. Các lá lông chim ở phía dưới hình trái xoanngọn giáo dài 30-60cm. Lá lông chim bậc hai hình dải – ngọn giáo, nhọn lại chia thành nhiều đoạn thuôn, hẹp; mặt trên lá màu lục sẫm, mặt dưới màu lục lơ; trục lá không lông; các gân của các lá chét bậc hai có lông len. Ổ túi bào tử 1 hay 2, có khi 3 hay 4 ở về mỗi bên của gân giữa bậc 3; các túi màu nâu nâu, có 2 môi không đều nhau; cái ở ngoài hình cầu, cái ở trong hẹp hơn, thuôn. Dược liệu: Đoạn thân rễ đã loại bỏ lớp lông màu vàng nâu bên ngoài, mặt ngoài rất gồ ghề, khúc khuỷu, có những chỗ lồi lên thành mấu, màu nâu hoặc nâu hơi hồng, đường kính 2 – 5 cm, dài 4 – 10 cm, rất cứng, khó cắt, khó bẻ gẫy; đôi khi còn sót lại ít lông màu vàng nâu. Dược liệu khi dùng thường đã thái thành phiến mỏng hình dạng thay đổi, mặt cắt ngang nhẵn, màu nâu hồng hay nâu nhạt, có vân.
Bộ phận dùng:
Thân rễ đã cạo sạch lông, phơi hay sấy khô của cây Lông culi (Cibotium barometz J. Sm. = Dicksonia barometz L.), họ Kim mao (Dicksoniaceae).
Phân bố:
Cây phân bố rất rộng rãi ở ven rừng phục hồi sau nương rẫy và trên các tràng cây bụi hoặc nơi đất ẩm gần bờ khe suối, rừng núi ở khắp các tỉnh từ Lào Cai. Hà Giang, qua Quảng Nam-Đà Nẵng đến Lâm Đồng.
Thu hái:
Thân rễ quanh năm, tốt nhất vào mùa thu- đông, cắt bỏ rễ con và cuống lá, cạo hết lông vàng để riêng. Rễ củ đã cạo hết lông, rửa sạch, thái phiến hay cắt từng đoạn dài 4-10mm, phơi hay sấy khô. Cần bảo quản nơi khô ráo. Khi dùng tẩm dược liệu với rượu để một đêm rồi sao vàng.
Thành phần hóa học:
Có alkaloid Tục đoạn, ít tinh dầu, chất màu, vitamin E (sách của Đỗ tất Lợi gọi chất alkaloit trong Đỗ trọng là Lamin). Cũng theo sách này viết sơ bộ nghiên cứu Tục đoạn Việt nam thấy dịch chiết Tục đoạn có vị hơi ngọt, sau hơi tê lưỡi, có phản ứng acid với giấy quì, có phản ứng dương với các thuốc thử chung với alkaloit, phản ứng tanin cũng rõ rệt, có đường và có thể có saponin (Lê Anh 1961, Bộ môn Dược liệu).
Vị thuốc Cẩu tích
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị qui kinh:
Vị đắng, ngọt, ôn . Qui kinh Can thận.
Theo các sách thuốc cổ:
Sách Bản kinh: vị đắng bình.
Sách Dược tính bản thảo: vị đắng cay, hơi nhiệt.
Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập Can, Bàng quang.
Sách Bản thảo cầu chân: nhập Can thận.
Sách bản thảo tái tân: nhập Tâm can thận.
Công dụng:
Bổ can thận, mạnh gân xương lưng gối, trừ phong thấp. Trị chứng thận hư, đau lưng, cứng cột sống, tiểu tiện khó cầm, khí hư, bạch đới.
Theo các sách thuốc cổ:
Sách Danh y biệt lục: " Liệu thất niệu bất tiết, nam tử cước nhược yêu thống, phong tà lâm lộ, thiểu khí mục ám (khí kém, mắt mờ), khiến cong ưỡn sống lưng dễ dàng, nữ tử khớp xương co duỗi khó khăn".
Sách Bản thảo cương mục: " cường can thận, kiện cốt trị phong hư".
Liều dùng:
10 - 15g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Cẩu tích
Đau nhức sống ngang lưng, tiểu nhiều khó cầm, thuốc có tác dụng bổ can thận:
Cẩu tích ẩm: Cẩu tích 16g, Ngưu tất, Thổ ti tử, Sơn thù du, Lộc giao (chưng), Đỗ trọng mỗi thứ 12g, Thục địa 16g, sắc uống.
Trị chứng phong thấp hoặc hàn thấp chân tay tê đau:
Huyết bảo đơn: Cẩu tích 16g, Chế Ô đầu, Tỳ giải mỗi thứ 12g, Tô mộc 8g, tán bột làm hoàn, mỗi lần uống 6 - 8g, ngày 2 lần, có thể sắc uống.
Cẩu tích ẩm: Kim mao cẩu tích, Xuyên Ngưu tất, Hải phong đằng, Mộc qua, Tang chi, Tùng tiết, Tục đoạn, Tần giao, Quế chi, Đương qui, Hổ cốt mỗi thứ 12g, Thục địa 20g, sắc uống. Có thể thêm rượu càng tốt, dùng tốt đối với bệnh nhân phong thấp có khí huyết hư.
Trị đau lưng, gân mạch khớp chân khó cử động:
Cẩu tích, đỗ trọng, khương hoạt, nhục quế mỗi thứ 30 g; tỳ giải, chế phụ tử, ngưu tất mỗi thứ 50 g; tang ký sinh 40 g. Rượu trắng 1.500 ml ngâm một tuần, lọc phần trong để uống. Hoặc ngâm 3 lần nhập lại để uống thì kinh tế hơn
Trị can thận hư suy, phong thấp lưng chân đau:
Cẩu tích, đan sâm, hoàng kỳ mỗi thứ 30 g, đương quy 25 g, phòng phong 15 g; rượu trắng 1.000 ml.
Trị lưng đau, gối mỏi thuộc thận âm hư:
Cẩu tích, thỏ ty tử, đương quy, phục linh, lượng bằng nhau. Nghiền thành bột, luyện mật ong thành viên 9 g. Ngày uống 3 lần. Mỗi lần 1-2 viên uống với nước sôi.
Đau mỏi thắt lưng tiểu tiện luôn, phụ nữ đới hạ.
Cẩu tích 16 g, ngưu tất, thỏ ty tử, sơn thù du, lộc giao (chưng), đỗ trọng mỗi thứ 12 g, thục địa 16 g. Sắc uống.
Lưng gối mỏi do thận can hư:
Cẩu tích 10 g, sa uyển tử 12-15 g, đỗ trọng 10-12 g. Sắc uống ngày một thang.
Viêm cột sống tăng sinh có gai do can thận bất túc:
Cẩu tích, bạch thược, thục địa, nhục thung dung, ngưu tất, cốt toái bổ mỗi thứ 15 g; sơn thù du, câu kỷ tử, nữ trinh tử, đương quy mỗi thứ 10 g; kê huyết đằng 30 g; mộc hương 6 g. Sắc uống ngày một thang.
Đau nhức tất cả các khớp to nhỏ
Cẩu tích 30 g; cốt toái, huyết giác, độc hoạt, ngưu tất mỗi thứ 20 g; sinh địa, mạch môn, mộc qua, đan bì, cốt khí củ mỗi thứ 15 g. Nếu đau lưng, nhức mỏi, gia thêm ba kích, tục đoạn, hà thủ ô mỗi thứ 12 g. Chân tê bì hay hơi nề, gia mộc thông, tz giải, thiên niên kiện mỗi thứ 12 g. Sưng khớp có sốt, gia hoàng đằng 12 g, bạch chỉ 6 g. Đau đầu, khó ngủ, táo bón, huyết áp cao thêm quyết minh tử (hạt muồng sao) 24 g.
Các khớp tê buốt, sưng phát cước, sợ nước, sợ lạnh ăn, đại tiện lỏng:
Cẩu tích, bạch chỉ, cốt toái, thiên niên kiện, độc hoạt, thương truật đều 15 g; bạch truật 20 g; xuyên khung, tô mộc, tùng hương hay nhü hương, quế chi đều 10 g; phụ tử chế, cam thảo đều 8 g. Sắc uống hai ngày một thang.
Tham khảo
Kiêng kỵ:
Thận hư nhiệt, nước tiểu vàng không nên dùng.
THẠCH HỘC
1. Tên dược: Herba Dendrobii.
2. Tên thực vật: Dendrobium nobile Lindl; Dendrobium candidum wall.
3. Tên thường gọi: thạch hộc.
4. Bộ phận dùng và phương pháp chế biến: thân cây thu vào giữa hè và thu, phơi nắng và cắt thành đoạn.
5. Tính vị: ngọt và hơi hàn.
6. Qui kinh: phế và thận.
7. Công năng: bổ âm và thanh nhiệt tăng sinh dịch cơ thể, bổ vị.
8. Chỉ định và phối hợp:
- Mất âm do các bệnh do sốt, hoặc thiếu âm ở vị biểu hiện như lưỡi khô, khát và lưỡi đỏ, màng lưỡi mỏng: Dùng phối hợp thạch hộc với mạch đông, sa sâm và sinh địa hoàng.
- Sốt về chiều do thiếu âm và nhiệt nội: Dùng phối hợp thạch hộc với sinh địa hoàng, bạch vi và thiên môn đông.
9. Liều dùng: 6-15g.
10. Thận trọng và chống chỉ định: Thạch hộc cần nấu trước khi phối hợp các dược liệu khác vào dạng thuốc sắc. Không dùng thạch hộc cho những người mới bị bệnh do sốt gây
THẠCH VI
Còn gọi là Thạch vĩ, thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo Ráng hỏa mạc lưỡi, Cỏ lưỡi mèo -Pyrrhosia lingua(Thunb.) Farw. (Acrostichum linguaThunb.), thuộc họ Ráng -Polypodiaceae.
Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm cao 10-30cm, có thân rễ bò dài mang vẩy thon, bìa gợn sóng. Cuống 2-10cm, mảnh, có đốt ở gốc; phiến hơi đa dạng, tròn dài, nhỏ hay hẹp thon dài 8-18cm, rộng 2-5cm, dai, gân phụ rõ, mặt trên gần như không lông, mặt dưới có lông hình sao vàng hoe. ổ túi bào tử phủ trọn mặt dưới, màu đỏ đậm; bào tử xoan, nâu nhạt.
Bộ phận dùng: Toàn cây và lá -Herba et Folium Pyrrosiae Linguae, thường gọi là Thạch vi.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc bám trên đá trong rừng núi, gặp nhiều nơi ở các tỉnh miền núi Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Vĩnh Phú, Hà Tây đến Thừa Thiên- Huế vào tận Ðà Lạt (Lâm Ðồng); có nơi cây mọc thành những đám rất lớn. Người ta dùng lá (toàn cây hay thân rễ) tươi, rửa sạch, cắt đoạn, phơi khô. Có thể thu hái quanh năm.
Thành phần hóa học: Trong lá có phytosterol, tanin thuộc loại pyrocatechic, những đường khử oxy, các chất béo và các chất vô cơ; còn có diploptene, b-sitosterol.
Tính vị, tác dụng: Vị hơi đắng, tính bình; có tác dụng lợi niệu bài thạch; thanh phế tả nhiệt, lương huyết chỉ huyết; còn có tác dụng chống ho, làm long đờm.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ðược dùng chữa: 1. Viêm thận thuỷ thũng; 2. Viêm nhiễm niệu đạo, sỏi niệu đạo; 3. Bế kinh; 4. viêm phế quản, viêm bàng quang; 5. Suyễn khan (háo suyễn), phổi có mủ; 6. Khạc ra máu, nôn ra máu, đái ra máu, đại tiện ra máu, băng lậu. Liều dùng 10-30g, dạng thuốc sắc. Còn dùng chữa ngoại thương xuất huyết.
Dân gian vẫn dùng làm thuốc lợi tiểu chữa bệnh đái buốt, đái dắt, viêm niệu đạo, đái ra máu, đái ra sỏi, ... nhưng khi dùng phải bỏ những lông trên lá.
Thân rễ còn được dùng chữa bệnh than, ung nhọt, lở loét, ngộ độc do lưu huỳnh hoặc dùng phơi khô tán bột rồi trộn với dầu vừng bôi lên đầu cho tóc đen và làm cho tóc mọc nhanh.
Đơn thuốc:
1. Rong huyết bạch đới: Thạch vi tán nhỏ uống mỗi lần 12g.
2. Ðại tiểu tiện ra máu: Thạch vi tán nhỏ, uống mỗi lần 8g với nước sắc cành cây Cà làm thang.
3. Phế nhiệt sinh ho: Thạch vi và Hạt cau lượng bằng nhau tán bột, uống mỗi lần 8g.4. Sỏi đường tiết niệu: Thạch vi, Mã đề 30-60g mỗi thứ, Dành dành quả 30g, Cam thảo 9-15g, sắc uống
NA
Na, Mãng cầu, Mãng cầu ta, Màng cầu dai
Tên khoa học: Annona squamosa L.
Họ khoa học: Thuộc họ Na - Annonaceae.
Cây na
(Mô tả, hình ảnh cây na thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây cao 2-8m, vỏ có nhiều lỗ bì nhỏ, tròn, trắng. Lá hình mũi mác, tù hay nhọn, hơi mốc mốc ở phần dưới, hoàn toàn nhẵn, thường là mềm, dài 10cm, rộng 4cm, có 6-7 cặp gân phụ. Hoa nhỏ, màu xanh lục, mọc đối với lá, có cuống dài 2-3cm. Hoa thường rũ xuống, có 3 lá đài màu lục, 3 cánh hoa ngoài hẹp và dày, các cánh hoa ở trong rất hẹp hoặc thiếu hẳn, nhiều nhị và nhiều lá noãn. Quả mọng kép, màu xanh mốc, gần như hình cầu, đường kính 7-10cm, có từng múi, mỗi múi ứng với một lá noãn. Thịt quả trắng. Hạt đen có vỏ cứng.
Bộ phận dùng:
Rễ, lá, quả, hạt - Radix, Folium, Fructus et Semen Annonae Squamosae.
Nơi sống và thu hái:
Gốc ở quần đảo Angti, được đem vào trồng ở nước ta lấy quả ăn. Thịt quả mềm và thơm, ngọt, ngon nhất là Na dai. Các bộ phận của cây có thể thu hái quanh năm, thường dùng tươi.
Thành phần hoá học:
Trong quả có 72% glucose, 14,52% saccharose, 1,73% tinh bột, 2,7% protid và vitamin C. Trong lá có một alcaloid vô định hình, không có glucosid, lá xanh chứa 0,08% dầu. Hạt chứa 38,5-42% dầu, trong đó các acid béo (acid myristic, palmitic, stearic, arachidic, hexadecanoic và oleic) chiếm tỷ lệ lớn. Trong hạt có một alcaloid vô định hình gọi là anonain. Chất độc trong hạt và rễ là các glycerid và các acid có phân tử lớn. Lá, vỏ và rễ chứa acid hydrocyanic. Vỏ chứa anonain.
Tác dụng dược lý
Theo YHCT: Quả na uả xanh làm săn da, tiêu sưng. Hạt Na có vị đắng, hơi hôi, tính lạnh, có tác dụng thanh can, giải nhiệt, tiêu độc, sát trùng. Lá cũng có tác dụng kháng sinh tiêu viêm, sát trùng. Rễ cầm ỉa chảy.
Theo YHHĐ: Quả na có tác dụng như sau:
– Cải thiện chức năng tim: Sự cân bằng giữa natri và kali trong quả na đóng góp rất nhiều trong việc điều chỉnh mức huyết áp và nhịp tim. hàm lượng chất chống oxy hóa tự nhiên và vitamin C phong phú có thể giúp ngăn ngừa các gốc tự do tấn công các chất béo và do đó ngăn chặn được các cholesterol của cơ thể trở thành có hại. Vitamin C còn giúp cơ thể tăng sức đề kháng, chống lại tác nhân gây bệnh. Tất cả những yếu tố này đều tác động tích cực đến tim và cải thiện chức năng tim.
– Giảm táo bón: Một quả na ngon và lành mạnh sẽ chứa nhiều chất xơ và chất xơ đã được chứng minh là rất có lợi cho việc tiêu hóa và bài tiết thức ăn trong cơ thể. Đồng và chất xơ của na hỗ trợ hệ tiêu hóa khỏe mạnh, tăng cường chức năng hoạt động. Sự có mặt của chất xơ giúp việc bài tiết thức ăn nhanh hơn, ngăn ngừa chứng khó tiêu và giảm táo bón hiệu quả. Hàm lượng chất xơ cao trong loại quả này giúp làm giảm cholesterol trong máu. Nó ngăn chặn sự hấp thu cholesterol trong ruột, từ đó, cản trở sự hình thành của các tế bào gây ung thư trong ruột kết và bảo vệ niêm mạc ruột tránh phải tiếp xúc với các chất độc hại.
– Tốt cho não bộ: Trong quả na có khá nhiều lượng vitamin B6. Loại vitamin này rất có lợi cho hoạt động của não bộ vì nó kiểm soát mức độ hóa học thần kinh GABA. Mức độ hóa học thần kinh GABA có tác dụng loại bỏ sự căng thẳng, làm dịu thần kinh dễ bị kích thích và thậm chí điều trị trầm cảm. Chính vì vậy, nếu muốn tốt cho não bộ, hãy ăn na nhiều hơn. Ngoài ra, vitamin B6 thậm chí còn được coi là để giảm bớt nguy cơ mắc bệnh parkinson, do đó, quả na còn có thêm tác dụng phòng bệnh parkinson.
– Phòng bệnh ung thư: Các chất chống oxy hóa trong quả na như một số poly-phenol, asimicin và bullatacinare… được coi là có thể giúp phòng chống các bệnh ung thư, sốt rét và bệnh giun rất hiệu quả.
– Tốt cho mắt: Na là nguồn cung cấp vitamin C, A, riboflavin, vitamin B2 khi đi vào cơ thể sẽ giúp ngăn ngừa sự hình thành các gốc tự do dẫn đến các bệnh về mắt, giúp bạn có một đôi mắt sáng, khỏe mạnh.
Vị thuốc na
(Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị, tác dụng:
Quả Na vị ngọt, chua, tính ấm; có tác dụng hạ khí tiêu đờm.
Quy kinh
Vào kinh tỳ vị
Công dụng:
Quả Na dùng chữa đi lỵ, tiết tinh, đái tháo, bệnh tiêu khát. Quả xanh dùng chữa lỵ và ỉa chảy. Quả Na điếc dùng trị mụn nhọt, đắp lên vú bị sưng.
Hạt thường được dùng diệt côn trùng, trừ chấy rận.
Lá Na dùng trị sốt rét cơn lâu ngày, mụn nhọt sưng tấy, ghẻ.
Rễ và vỏ cây dùng trị ỉa chảy và trục giun.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), lá dùng trị xích lỵ cấp tính; lá dùng trị trẻ em lòi dom; quả dùng trị phù thũng ác tính.
Ở Thái Lan, lá tươi và rễ dùng trị chấy, mụn nhọt, nấm tóc và lang ben.
Ở Ấn Độ, rễ được dùng gây xổ; hạt, quả và lá dùng diệt côn trùng, duốc cá, diệt chấy; hạt kích thích và gây sảy thai.
Liều dùng:
Liều lượng không cố định đối với lá, quả, thân, rễ...
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc na
Đi lỵ ra nước không dứt:
10 quả Na ương (chín nửa chừng) lấy thịt ra, còn vỏ và hạt cho vào 2 bát nước, sắc còn một bát, ăn thịt quả và uống nước sắc.
Nhọt ở vú:
Quả Na điếc mài với dấm bôi nhiều lần.
Sốt rét cơn lâu ngày.
Vò một nắm lá (20-30g) giã nhỏ, chế thêm nước sôi vào vắt lấy một bát nước cốt, lọc qua vải, phơi sương, sáng hôm sau thêm tí rượu quấy uống trước lúc lên cơn hai giờ. Mỗi ngày uống một lần, uống liền 5-7 ngày.
Mụn nhọt sưng tấy:
Lá Na, lá Bồ công anh, cũng giã đắp.
Giun đũa chòi lên ợ ra nước trong:
Dùng một nắm rễ Na mọc về hướng Đông, rửa sạch, sao qua, sắc uống thì giun ra.
Trừ chấy, rận:
Giã nhỏ hạt lấy nước gội đầu hay ngâm quần áo. Để trừ chấy, giã nhỏ hạt Na trộn với rượu hoặc giấm mà vò vào đầu, xát vào chân tóc, bịt khăn lại, giữ 15 phút rồi gội đầu. Tránh không cho va vào mắt vì có độc.
Chữa răng bị đau nhức:
Lấy hạt na giã nhỏ ngâm rượu, rồi lấy rượu đã ngâm hạt na ngậm vào chỗ răng sưng đau, sau ngậm chừng 10 - 15 phút thì nhổ nước này đi. Ngày cần ngậm vài ba lần.
Trị viêm họng:
Quả na điếc 50g, sinh địa 50g, rễ xạ can 30g, nhân hạt gấc 20g, lá bạc hà 50g, cam thảo dây 25g, lá chanh 25g, lá táo 25g. Tất cả phơi khô (riêng quả na điếc đốt tồn tính), và cùng giã nhỏ tán bột mịn, rồi trộn với 150g đường kính đã nấu thành xi rô làm thành hoàn mỗi viên nặng 0,5g. Người lớn ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 3 - 4 viên. Trẻ em tùy tuổi mà ngày uống từ 3 - 6 viên chia 2 lần. Cần uống 3 - 5 ngày.
Chữa sốt rét:
Quả na điếc 40g, giun đất (loại khoang cổ) 80g, phèn phi 20g, quả na điếc đập vỡ vụn, tẩm rượu sao vàng, giun đất lộn ruột ra ngoài, rửa sạch và tẩy rượu, phơi khô, sao vàng. Hai thứ lại trộn với phèn phi, tán bột mịn và luyện với nước tỏi làm hoàn bằng hạt đậu xanh, ngày uống 2 lần, mỗi lần 10 viên.
Hoặc lấy lá na 20 - 30g, giã nhỏ, chế thêm nước vắt lấy 1 bát nước cốt, lọc qua vải, phơi sương, sang ngày sau cho chút rượu khuấy và uống trước khi lên cơn sốt rét khoảng 2 giờ. Mỗi ngày uống 1 lần, cần uống liền từ 5 - 7 ngày.
Tham khảo
So sánh
Na có loại na dại, na rừng và na vườn. Do đó cần phân biệt, lựa chọn đúng loại trong sử dụng.
Kiêng kị
- Chỉ nên ăn những quả na đã chín. Na chưa chín ăn sẽ có vị chát và có thể gây ra các vấn đề về tiêu hóa
- Hạt na có độc, không được uống. Nhưng nếu khi ăn quả na, sơ ý nuốt phải hạt thì không sao, vì hạt na có vỏ dày và rất cứng bao bọc, ngăn không cho nhân hạt tác dụng với môi trường nên không gây độc.
- Đối với những người mắc bệnh tiểu đường thì cũng không nên ăn nhiều na bởi trong na có hàm lượng đường tương đối nhiều.
Tham khảo thêm cách chọn na ngon:
– Lựa quả gai to, màu trắng ngà không thâm đen và nứt nẻ.
– Bạn nên chọn quả tròn, mắt to, kẽ mắt trắng, da xanh non, cuống nhỏ, chín mềm không nứt.
– Lựa quả có vỏ mỏng, mắt nở và phẳng, hơi nứt nhưng vẫn còn cuống, đó là mảng cầu chin cây, ăn ngọt và thơm
Na không chỉ là một loại cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, tốt cho người già, người mới ốm dậy, phụ nữ sau khi sinh mà Na cũng là một vị thuốc quý. Ở Việt Nam cây na được trồng chủ yếu với mục đích lấy quả. Na được trồng ở nhiều nơi trên khắp đất nước. Khách hàng có thể tìm mua các bộ phận của cây na tại địa phương mình sinh sống.
GỪNG GÓ
Tên thường gọi: Cây Gừng gió còn có tên gọi là riềng, ngãi xanh, ngãi mặt trời, riềng dại, khuhet, phtu, prateal, vong atit(Campuchia)gingembre fou(Pháp), phong khương, khinh kèng(Tày)gừng dại, gừng rừng, Khương, Can khương, Sinh khương.
Tên khoa học: Zingber zerumbert sm.
Họ khoa học:Thuộc họ gừng Zinbiberaceae.
Cây gừng gió
( Mô tả, hình ảnh cây gừng gió, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả
Gừng gió là một cây thuốc quý. Cây cao từ 1 mét đến 1,3 mét. Thân rễ dạng củ phân nhiều nhánh, lúc non màu vàng và thơm sau chuyển thành màu trắngvà đắng. Lá mọc so le không cuống mặt trên nhặt, mặt dưới có lông rải rác mép lá uốn lượn. Cụm hoa hình trứng mọc thẳng từ thân rễ (sau khi lá mọc) thường có màu lục, khi già màu hồng đỏ, đài và tràng màu trắng, cánh môi màu vàng nhạt. Quả mang hình bầu dục, hạt màu đen, có áo hạt mềm, màu trắng. Mùa hoa và quả vào tháng 5,6.
Phân bố
Cây mọc hoang nơi có độ ẩm mát trong rừng và miền núi, được trồng làm cây cảnh và làm thuốc.
Thu hái, chế biến
Đến mùa gừng gió được lấy về, có thể dùng tươi ngâm với rượu, hoặc có thể thái, sau đó phơi khô để dùng dần.
Bảo quản:
Bảo quản khô ráo, tránh ẩm mốc.
Thành phần hóa học của gừng gió
Trong gừng gió có nhiều tinh dầu, dầu béo và nhựa. Tinh dầu có 13% các monoterpen và nhiều sesquiterpen, trong đó humulen chiếm 27%, monocylic sesquiterpen xeton, zerumbon 37,5%. Các monoterpen gồm pinen, camphen, limonen, cineol và campho.
Tác dụng dược lý của gừng gió
Zerumbon, thành phần chính của tinh dầu gừng gió, ức chế sự phát triển của Micrococcus Pyorgenes var, auereus và Mycobacterium tuberculosis.
YHHĐ cho rằng gừng gió có tác dụng kháng viêm, trị xơ gan cổ trướng , ức chế có hiệu quả một số loại ung thư, u nang như: ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư vú, ung thư máu, ung thư xương, ung thư gan, ung thư phổi, ung thư đại tràng, ung thư tũy, ung thư da...
Vị thuốc gừng gió
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị
Gừng gió là vị thuốc quý - có vị đắng, cay, tính ấm.
Quy kinh
Vào kinh tỳ vị, và kinh phế
Công dụng
Gừng gió có tác dụng tán phong hàn, giảm đau, trị ứ huyết chữa trúng gió, đau bụng, đau nhức sưng tấy.
Liều dùng:
Thường thái mỏng thân và rễ củ gừng gió rửa sạch ngâm trong rượu 40 - 50 độ, liều lượng 40-50 gam tươi hay sấy khô cho vào chai 650ml ngâm với thời gian 15-20 ngày, gạn lấy rượu uống. Mỗi ngày uống 3 ly mỗi ly 15-20ml.
Cách dùng
- Cách 1: sao vàng từ 20-50g gừng gió, sau đó sắc thuốc để uống mỗi ngày.
- Cách 2: thái mỏng thân và rễ củ gừng gió, rửa sạch ngâm trong rượu 40 – 50o trong thời gian 15-20 ngày (40-50g/650ml). Gạn lấy rượu uống mỗi ngày 3 ly (mỗi ly 15 -20ml
- Cách 3: lấy một khúc gừng cỡ 2 đốt ngón tay đem rửa sạch, để nguyên vỏ, sắt lát mỏng rồi bỏ vào chén đem chưng cách thủy cho lâu hơn 1 giờ. Ngày uống 3 lần.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc gừng gió
Trị chứng cảm lạnh do mưa:
Lá gừng gió tươi 50g, lá khuynh diệp 50g, vỏ quýt phơi khô 10g, sắc trong 1.000ml nước. Sau khi sôi 10 phút, xông đổ mồ hôi, lấy xác chà xát khắp ngực và lưng, sau đó lau khô, đắp chăn ấm. Nghỉ dưỡng 20 phút.
Phụ nữ bị rong kinh bất thường sau sinh:
Củ gừng 10g, lá khoai mỡ 5g, hoa khoai mỡ 10g, sắc 3 bát nước còn nửa bát. Uống 2 lần/ngày, liên tục 3 ngày.
Phụ nữ sau sinh ăn không ngon miệng:
Ngọn bí đỏ 50g, cà chua chín (bỏ hột) 50g, củ gừng gió 5g, thịt cá hồng (bỏ xương) 50g, 1/3 thìa bột nêm, 1/4 muỗng đường cát. Tất cả nấu với 500ml nước còn 300ml, chia làm 2 phần ăn trưa và chiều. Cách ngày ăn 1 lần.
Nam giới trung niên bị mỡ trong máu:
20g củ gừng gió, xắt sợi, 10g lá gừng gió xắt nhuyễn, táo tàu khô 10 quả, 30g mộc nhĩ đen, 30g nấm bào ngư, nấu tất cả trong 1 lít nước còn 500ml. Chia làm 5 phần, ăn trong ngày. Cách 3 ngày ăn 1 lần, liên tục 10 lần.
Trị đau nhức khớp chậu:
50g củ gừng gió, 20g lá ngải cứu, cả hai xắt nhuyễn thành sợi, 50g gạo lứt rang vừa vàng sẫm, 2 củ hành 20g, 15g hành lá xắt nhỏ, 200 - 350g lươn (bỏ vào dấm cho tiết nhớt, mổ bỏ ruột, chỉ máu, không bỏ đuôi) nêm gia vị, nấu trong 800ml nước còn 300ml. Chia làm 2 phần (ăn trưa, chiều), cách 2 ngày/lần, liên tục 15 lần. Có thể dùng cho phụ nữ tiền mãn kinh hay bị đau bụng, nhức mỏi tứ chi và nửa đầu.
Trị chứng ăn khó tiêu:
30 - 50g gừng gió giã nhuyễn, 30g bầu non và 1 quả chanh muối, cho vào 200ml nước, đun sôi 15 phút, vớt bỏ bã, uống nước cách nhau 5 phút sẽ tiêu hóa tốt, ợ, trung tiện, thông tiểu tốt. Nằm nghỉ 10 phút.
Giúp cầm máu vết thương
10g gừng gió, 10g lá chàm mèo, giã nhuyễn, đắp lên vết thương
Tham khảo
Kiêng kị khi dùng gừng gió
- Người nhiệt tích, nóng trong không dùng gừng gió
- Khi dùng gừng gió cần chú ý sử dụng đúng liều lượng tùy thuộc vào cơ địa của mỗi người.
- Đối với những bệnh nhân mắc chứng xơ gan cổ trướng đơn thuần, trong thời gian dùng thuốc phải ăn nhạt và hạn chế thực phẩm giàu kali, không uống rượu bia, kiêng đồ tanh.
NGHỆ ( KHƯƠNG HOÀNG )
Tên khác
Nghệ, khương hoàng
Tên khoa học:Curcuma longa L. (Curcuma domestica Lour.).
Họ: Gừng Zingiberaceae.
Cây Nghệ
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả cây
Nghệ là một loại cỏ cao 0,60m đên s1m. Thân rễ thành củ hình trụ hoặc hơi dẹt, khi bẻ hoặc cắt ngang có màu vàng cam sẫm. Lá hình trái xoan thon nhọn ở hai đầu, hai mặt đều nhẵn dài tới 45cm, rộng tới 18 cm. Cuống lá có bẹ. Cụm hoa mọc từ giữa các lá lên, thành hình nón thưa, lá bắc hữu thụ khum hình máng rộng, đầu tròn màu xanh lục nhạt, lá bắc bất thụ hẹp hơn, màu hơi tím nhạt. Tràng có phiến, cánh hoa ngoài màu xanh lục vàng nhạt, chia thành ba thùy, thùy trên to hơn, phiến cánh hoa trong cũng chia ba thùy, 2 thùy hai bên đứng và phẳng, thùy dưới hõm thành máng sâu. Quả nang 3 ngăn, mở bằng 3 van.
Hạt có áo hạt.
Phân bố, thu hái và chế biến
Được trồng ở khắp nơi trong nước ta để làm gia vị và làm thuốc.
Còn mọc và được trồng ở các nước Ấn Độ, Indonesia, Campuchia, Lào, Trung Quốc và các nước nhiệt đới.
Thu hoạch vào mùa thu. Cắt bỏ hết rễ để riêng, thân rễ để riêng.
Muốn để được lâu phải đồ hoặc hấp trong 6-12giờ, sau đó đợi ráo nước, đêm phơi nắng hoặc sấy khô. Thân rễ gọi là khương hoàng, rễ gọi là Nghệ.
Thành phần hóa học
Trong nghệ người ta đã phân tích được:
1. Chất màu Curcumin 0,3%, tinh thể nâu đỏ, ánh tím, không tan trong nước, tan trong rượu, ete, clorofoc, dung dịch có huỳnh quang màu xanh lục.
Tan trong axid (màu đỏ tưới), trong kiềm (màu đỏ máu rồi ngả tím), trong chất béo (dùng để nhuộm các chất béo). Công thức Curcumin đã được xác định như sau:
2. Tinh dầu 1-5% màu vàng nhạt, thơm. Trong tinh dầu có curcumen C15H24 một cacbon không no, 5% paratolylmetyl cacbinol và 1% long não hữu tuyến. Hai chất sau chỉ thấy có trong tinh dầu Curcuma xanthorriza Roxb.
3. Ngoài ra còn có tinh bột, canxi oxalat, chất béo.
Theo R.R. Paris và H. Moyse (1967, 11, 78) củ nghệ chứa 8-10% nước, 6-8% chất vô cơ, 40-50% tinh bột nhựa.
Hoạt chất của nghệ gồm:
1. Tinh dầu 3-5% gồm 25% cacbua tecpenic, chủ yếu là zingiberen và 65% xeton sespuitecpenic, các chất turmeron (do Tiếng Anh của củ nghệ là turmeric).
2. Các chất màu vàng gọi chung là Curcumin. Vào thế kỷ XIX người ta đã chiết được curcumin tinh thể không tan trong nước, tan trong cồn, ete, dầu béo. Nhưng năm 1953 – Srinivasan K.R. (J. Pharm. Pharmacol. 1953, 5, 448-457) đã chứng minh bằng sắc ký trên cột silic rằng đó là một hỗn hợp:
Curcumin chính thức (còn gọi là curcumin I) chiếm 60% đây là một dixeton đối xứng không no có thể coi như là diferuloyl-metan (axit feru-lic là axit hydroxyl-4-metoxy-3-xinamic)
Curcumin II hay monodesmetoxy-curcumin chiếm 24% và curcumin III hay didesmetoxy-curcumin chiếm 14% trong đó 1 hay 2 axit hydroxycinamic thay cho axit ferulic.
Nếu dùng sắc ký trên giấy sẽ thấy các chất curcumin khác nữa nhưng với lượng nhỏ.
Theo E. Gildmeister và F. R. Hoffman trong tinh dầu nghệ có 53,1 % xeton α- β etylenic ở từ mạch nhánh gắn vào nhân (bao gồm 29,5% turmeron và 23,6% arylturrmeron).
Năm 1977, Nguyễn Khang (Đại học dược khoa Hà Nội) đã chiết từ bột củ nghệ sau khi đã cất lấy hết tinh dầu bằng benzen, sau đó thu hồi dung môi trong áp lực giảm và kết tinh lại bằng cồn etylic cho tới khi có độ chảy không thay đổi và một vết trên sắc ký lớp mỏng đã thu được 0,76 đến 1,1% curcumin I tinh khiết, độ chảy 182-183ºC. Nếu chọn củ nghệ thu vào tháng 1, tháng 2 có thể đạt tới 1,5% curcumin.
Từ vỏ củ nghệ (vẫn cạo bỏ đi) đã cất được từ 1,5 đến 2,1% tinh dầu có thành phần tương tự như tinh dầu cất từ củ nghệ, do thành phần vỏ dày từ 0,5-1mm trong đó trọng lượng lớp vỏ mỏng không đáng kể, còn phần củ dính vào chiếm chủ yếu.
Tác dụng dược lý
1. Guy Laroche (1933), H. Leclerc (1935) đã chứng minh tính chất kích thích sự bài tiết mật của tế bào gan (cholérétique) là do chất paratolyl metylcacbinol, còn chất curcumin có tính chất thông mật. Chất curcumen có tác dụng phá cholesterol trong máu (cholesterolitique).
Toàn tinh dầu dù pha loãng cũng có tác dụng diệt nấm và sát trùng đối với bệnh nấm, với Staphylcoc và vi trùng khác.
2. Robbers (1936) nói đã dùng chất lấy ra ở nghệ bằng ête etylic thấy có tác dụng tăng sự bài tiết mật và chất curcumin có tính chất co bóp túi mật.
3. Trương Ngôn Chí (1955 Trung Hoa y dược tạp chí, 5) đã báo cáo: Ông đã chế nghệ dưới hai hình thức dung dịch 50% và dùng 2% HCl để chiết xuất và chế thành dung dịch 50% (sau khi đã trung tính hóa mới dùng thí nghiệm).
Thí nghiệm trên tử cung cô lập của chuột bạch và chuột nhắt thấy có tác dụng hưng phấn, thí nghiệm trên tử cung của thỏ (theo phương pháp Reynolds) thì khi tiêm dung dịch clohydrat cao nghệ vào tĩnh mạch hoặc thụt dung dịch nghệ, đều thấy tử cung co bóp đều đặn, mỗi lần cho thuốc, thời gian tác dụng kéo dài 5-7 giờ.
Khi tiêm 5ml dung dịch clohydrat cao nghệ vào chó đã gây mê thì thấy tác dụng xúc tiến sự bài tiết nước mật, nếu tiêm tới 15-20ml, có thể đưa tới đình chỉ hô hấp và huyết áp hạ.
Thí nghiêm trên tim cô lập (phương pháp Straub) thấy có hiện tượng ức chế.
4. Theo Vũ Điền tân dược tập, bản thứ 4 một số tác dụng dược lý của nghệ đã được nghiên cứu như sau:
– Tác dụng đối với cơ năng giải độc của gan đã được thí nghiệm bằng cách cho uống thuốc có nghệ, sau đó theo dõi khả năng giải độc của gan đối với santonin thì thấy tăng cơ năng giải độc. Nếu uống liên tục, thấy tác dụng rõ hơn là uống một lần.
– Đối với bệnh nhân bị galactoza niệu sau khi uống thuốc có nghệ 10 ngày, kiểm nghiệm lượng galactoza bằng phương pháp Banev thì thấy lượng galactoza giảm xuống.
– Đối với lượng urobilin tăng trong nước tiểu, uống thuốc có nghệ vài ngày sẽ thấy lượng urobilin trong nước tiểu giảm xuống.
– Đối với sự tiết nước mật: Cho nước nghệ vào tá tràng sẽ thấy lượng nước mật trong tá tràng được tăng cao, nhưng lượng bilirubin không tăng, nhưng khi lượng nước mật tăng nhiều, độ sánh của nước mật cũng tăng lên.
Nếu như đang cho nước nghệ vào tá tràng làm cho lượng nước mật tăng lên, thôi không cho nước nghệ nữa mà cho dung dịch magiê sunfat đặc vào, thì lượng nước mật vẫn tăng và đặc.
– Dùng nghệ trong những bệnh về gan và đường mật thì thấy chóng hết đau. Nhưng trong những trường hợp sỏi mật cấp tính thì kết quả chậm, chỉ có tác dụng từ từ.
5. Tác dụng kháng sinh M.M. semiakin và cộng sự (Khimia antibiotikop, xuất bản lần 3, 1, 278, Nga văn) đã chứng minh curcumin I có tác dụng ngăn cản sự phát triển của vi trùng lao Mycobacterium tuberculosis ở nồng độ 25 γ/ ml, ngoài ra curcumin I còn có hiệu lực với Salmonella paratyphi ở nồng độ 200 γ/ ml, với Staphyllococcus aureus ở nồng độ 50 γ/ ml , nấm Trychophyton gypcum ở nồng độ 25 γ/ ml.
Theo Taniyama H. và cộng sự (J. Pharm. Soc. Japan 1956, 76, 154-157) các xeton α- β etylenic trong hệ thống vòng có khả năng khóa nhóm –SH của men, làm rối loạn chuyển hóa của men trong cơ thể vi trùng nói chung và vi trùng lao Mycobacterium tuberculosis nói riêng, các xeton loại này có nhiều trong nghệ.
Năm 1977, phòng vi trùng Viện chống lao và Viện đông y Hà Nội đã thí nghiệm thấy tinh dầu nghệ ức chế được sự phát triển của vi trùng lao Mycobacterium tuberculosis H37RV ở nồng độ 1 γ/ ml, nồng độ tối thiểu ức chế đối với Bacillus subtilis là 1/ 250, đối với Candida albicans là 1/ 160. Tinh dầu nghệ không có tác dụng đối với Bacterium pyocyaneum và Streptococcus hemolyticus.
6. Độc tính của tinh dầu nghệ DL50 của tinh dầu nghệ trên chuột nhắt trắng là 9,2ml/ kg thể trọng (Bộ môn dược lý-Đại học quân y Hà Nội, 1977)
7. Tác dụng khác: Võ Văn Lan đã phát hiện tiêm tinh nghệ có khả năng thấm qua các màng tế bào đặc biệt là vỏ sáp vi khuẩn lao và hủi, nó giúp cho chất màu xâm nhập vào trong các tế bào này (Bộ môn sinh lý-Đại học y khoa thành phố Hồ Chí Minh- Các hội nghị y dược học quốc tế và quốc gia quý I-1977-Thư viện y học trung ương, 3).
Vị thuốc Nghệ
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Công dụng:
Phá ác huyết, huyết tích, kim sang và sinh cơ (lên da) chỉ huyết. Nhưng nếu âm hư mà không ứ trệ cấm dùng; các bệnh sản hậu (sau khi đẻ) mà không phải nhiệt kế ứ cũng không nên dùng; đàn bà có thai không nên dùng. Nghệ thường được dùng trong bệnh đau dạ dày, vàng da, phụ nữ sinh nở xong đau bụng.
Ngoài công dụng trên, nhân dân còn dùng nghệ bôi lên các mụn mới khỏi để đỡ sẹo, nhuộm vàng bột cary, nhuộm len, nhuộm tơ, nhuộm da.
Tính vị - Qui kinh:
Nghệ vị cay, đắng, tính ôn vào 2 kinh can và tỳ.
Liều dùng:
Hàng ngày 1-6g dưới hình thức bột hoặc thuốc sắc chia làm 2-3 lần uống trong ngày.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Nghệ
Chữa thổ huyết máu cam:
Nghệ tán nhỏ, ngày uống 4-6g chiêu bằng nước.
Bài thuốc kinh nghiệm chữa điên cuồng:
Nghệ 250g, phèn chua 100g, tán nhỏ, hòa nước cháo viên thành viên hạt ngô. Ngày uống 50 viên. Uống hết hai đơn như trên thì khỏi. Đã chữa khỏi một người phụ nữ do lo sợ quá độ phát điên đã 10 năm.
Đơn thuốc cao dán trị nhọt:
Củ ráy 80g (một củ), Nghệ 60g (một củ), Nhựa thông 40g, Sáp ong 40g, Dầu vừng 80g. Củ ráy gọt sạch vỏ cùng giã với nghệ cho thật nhỏ, cho vào nấu nhừ với nhựa thông dầu vừng và sáp ong. Lọc để nguội, phết lên giấy bản dán vào mụn nhọt.
Trị viêm gan virut cấp tính:
Nghệ 12g; nhân trần, bồ công anh, bạch mao căn mỗi vị 40g; chi tử 16g; đại hoàng, hoàng liên mỗi vị 9g. Sắc uống, ngày một thang, chia 3 lần, trước bữa ăn. Uống liền 3 - 4 tuần lễ.
Trị viêm gan mạn tính:
Nghệ 4g; côn bố, đình lịch tử mỗi vị 12g; hạt bìm bìm, hải tảo mỗi vị 10g; quế tâm 6g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần uống trước bữa ăn. Trị sỏi gan, sỏi mật: Nghệ, phèn chua đồng lượng 10g. Hai vị tán bột uống ngày một thang, trước bữa ăn. Nếu có mật gấu gia thêm thì càng tăng công hiệu.
Trị kinh nguyệt không đều:
Nghệ vàng, xuyên khung, đào nhân, mỗi vị 8g; ích mẫu, kê huyết đằng, mỗi vị 16g; sinh địa 12g. Sắc uống ngày một thang. Uống liền 2 - 3 tuần, trước khi có kinh. Uống vài ba liệu trình cho đến khi các triệu chứng ổn định.
Trị bế kinh đau bụng:
Nghệ 15g, huyền hồ 10g. Cả hai đều chích giấm. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần, uống trước bữa ăn. Uống 2 - 3 tuần.
Trị trướng bụng, đau bụng:
Khương hoàng hoặc Nghệ, hương phụ, sài hồ, đồng lượng 9 - 12g. Sắc uống hoặc làm thuốc bột, ngày một thang, uống trước bữa ăn 1 - 1,5 giờ.
Trị mụn nhọt, đinh độc:
Nghệ vàng 100g, củ ráy dại 150g, dầu vừng 150g, nhựa thông, sáp ong 70g. Nghệ và củ ráy gọt vỏ, thái mỏng, giã nát. Cho hỗn hợp này vào dầu vừng nấu nhừ. Lọc bỏ bã, thêm nhựa thông, sáp ong vào đun nóng cho tan, quấy đều để nguội, phết lên giấy bản, dán vào mụn nhọt.
KHƯƠNG HOẠT
Tên Khác:
Vị thuốc Khương hoạt còn gọiHồ Vương Sứ Giả, Khương Thanh(Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển),Tây Khương Hoạt, Xuyên Khương Hoạt(Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tên Khoa Học:
Notopterygium incisium Ting.
Họ Hoa Tán (Apiaceae).
Tiếng Trung: 羌活
Cây Khương hoạt
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô Tả:
Cây sống lâu năm, cao khoảng 0,5-1m, toàn cây có mùi thơm, không phân nhánh, phái dưới thân hơi có mầu tím. Lá mọc so le kép lông chim, phiến lá chia thùy, mép có răng cưa. Mặt trên mầu tím nhạt, mặt dưới mầu xanh nhạt, phía dưới cuống lá phát triển thành bẹ ôm lấy thân. Hoa rất nhỏ, mầu trắng, họp thành hình tán kép. Quả bế đôi, hình thoi dẹt, màu nâu đen, hai mép và lưng phát triển thành rìa. Thân rễ to, thô, có đốt. Chủ yếu có ở Tứ Xuyên, Cam Túc, Thanh Hải (Trung Quốc). Có di thực vào Việt Nam nhưng chưa phát triển nhiều.
Thu Hái, Sơ Chế:
Về mùa Thu, đào, cắt bỏ rễ tơ, phơi hoặc sấy.
Bộ Phận Dùng:
Thân rễ và rễ (Rhizoma Notoptergyii). Rễ có đầu mấu cứng như đầu con tằm, to, khô, thịt nâu đậm, xốp nhẹ.
Mô tả dược liệu:
Tằm Khương: Là thân rễ ở dưới đất của cây Khương hoạt, giống hình con Tằm, hình trụ tròn hoặc hơi cong, dài 3,3-10cm, đường kính 0,6-2cm. Phần đỉnh có gốc của thân cây, mặt ngoài mầu nâu, có nhiều đốt vòng chi chít lồi lên, trên đốt có nhiều vết nổi lên như cái bướu. Chất nhẹ, xốp, dễ bẻ gẫy, mặt gẫy không phẳng, có văn hoa, rỗng, lớp ngoài da mầu đỏ nâu, ở giữa mầu trắng vàng nhạt, có điểm chấm đỏ. Có mùi thơm đặc biệt, vị hơi đắng, tê.
Điều Khương: là rễ Khương hoạt, hình trụ tròn hoặc phân nhánh, dài 3,3-16,6cm, đường kính 0,3-1,6cm. Mặt ngoài mầu nâu, có vân dẹt và vết cắt của rễ tơ nổi lên như cục bướu. Đoạn trên hơi to, có đốt tròn thưa lồi lên. Chất xốp, dòn, dễ bẻ gẫy, mặt gẫy không thấy rõ điểm chấm đỏ. Mùi vị hơi nhẹ, thoang thoảng (Dược Tài Học).
Bào Chế:
Thấm nước cho mềm đều, thái phiến mỏng, phơi khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Bảo Quản:
Tránh nóng, để nơi khô mát.
Thành Phần Hóa Học:
Angelical (Trung Dược Học).
Isoimperatorin 0,38%, Cnidilin 0,34%, Notoperol 1,2%, Bergapten 0,009%, Demethylfuropinnarin 0,012%, 5-Hydroxy-8 (3’, 3’-Dimethylallyl)-Psoralen, Bergaptol 0,088%, Nodakenetin 0,04%, Bergaptol-O-b-D-Glucopyranoside0,075%, 6’-O-Trans-Feruloylnodakenin 0,022% (Zhe-ming G và cộng sự, Chem Pharm Bull, 1990, 38 (9): 2498).
Columbiananine, Imperatorin, Marmesin (Tôn Hữu Phú, Trung Dược thông Báo, 1985, 10 (3): 127).
Phenethylferulate (Su J D và cộng sự, C A 1994, 120: 53150b).
Tác Dụng Dược Lý:
Tác Dụng Kháng Khuẩn: Dùng rượu chiết xuất Khương hoạt với nồng độ 1/50.000 cótác dụng ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn lao (TrungDược Ứng Dụng Lâm Sàng).
Vị thuốc Khương hoạt
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính Vị:
Vị cay, đắng, tính ôn, mùi thơm hắc, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Vị cay, đắng, the, tính ôn (Trung Dược Học).
Vị cay, đắng, tính ôn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy Kinh:
Vào kinh Bàng quang, Thận (Trung Dược Học).
Vào kinh Bàng quang, Can, Thận (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Công Dụng:
Giải biểu, khứ hàn, dẫn khí đi vào kinh Thái dương và mạch Đốc, thông kinh hoạt lạc ở chi trên và lưng (Trung Dược Học).
Phát hãn, giải biểu, trừ phong, thắng thấp (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ Trị:
Trị phong thấp đau nhức, cảm phong hàn.
Liều Dùng:
4-12g /ngày.
Kiêng Kỵ:
Người đầu đau, cơ thể đau do huyết hư: không dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Khương hoạt
Trị phong đau nhức các khớp:
Khương hoạt, Độc hoạt, Tùng tiết, 3 vị lượng bằng nhau, cho vào rượu, nấu sơ qua rồi ngâm luôn trong đó. Mỗi ngày, lúc đói,uống 1 chén hoặc nhiều ít tùy ý (Ngoại Đài Bí Yếu).
Trị trúng phong cấm khẩu, cổ đau không ăn uống được:
Khương hoạt 120g, Ngưu bồn tử 80g, sắc nước cho kỹ việc 1 chén, thêm 1 ít phèn chua rồi đổ vào họng (Thánh Tế Tổng Lục).
Trị sản hậu bị trúng phong, nói khó, chân tay co quắp:
Khương hoạt 120g, tans bột. Mỗi lần dùng 20g, nước 1 chén, rượu 1 chén, sắc còn 1 chén, uống (Tiểu Phẩm Phương).
Trị sản hậu bị đau bụng do phong:
Khương hoạt 80g, thêm rượu và nước sắc uống (Tất Hiệu Phương).
Trị sản hậu mà tử cung lòi ra:
Khương hoạt 80g, thêm rượu và nước sắc uống (Tử Mẫu Bí Lục).
Trị có thai bị phù thũng:
Khương hoạt, La bặc tử, trộn chung, sao thơm rồi bỏ La bặc đi, chỉ lấy Khương hoạt. Tán bột. Mỗi lần uống 8g với rượu hâm nóng. Ngày thứ 1 uống 1 lần, ngày thứ 2 uống 2 lần, ngày thứ 3 uống 3 lần. Bài này của Trương Xương Minh, làm việc ở Gia Hưng truyền cho, có thể trị được chứng phong thủy phù thũng (Bản Sự Phương).
Trị con ngươi mắt tự nhiên lòi ra sa xuống đến mũi giống như là cái sừng đen lấp ló:
Khương hoạt sắc lấy nước uống liên tục được chừng vài 3 chén là khỏi, tuyệt diệu! (Hạ Tử Ích Kỳ Tật Phương).
Trị thương hàn thái dương đầu đau:
Khương hoạt, Phòng phong, Hồng đậu, 3 thứ lượng bằng nhau, tán nhuyễn, thổi vào mũi là khỏi (Ngọc Cơ Vi Nghĩa).
Trị có thai bị phù thũng:
Khương hoạt, La bặc tử, 2 vị lượng bằng nhau, sao thơm, tán bột. Mỗi lần uống 68g. Ngày đầu uống 1 lần, ngày thứ 2 uống 2 lần, ngày thứ 3 uống 3 lần. Uống với rượu (Dược Liệu Việt Nam).
Trị câm, nói ngọng, chân tay co quắp:
Khương hoạt, tán nhỏ. Mỗi lần uống 8-12g với rượu (Dược Liệu Việt Nam).
Tham Khảo:
Tác dụng của Khương hoạt trong các tài liệu khác
Khương hoạt là vị thuốc dẫn vào cả trong lẫn ngoài kinh mạch thủ túc Thái dương để trị chứng du phong chạy vào phần khí của túc Thiếu âm, Quyết âm. Không phải chủ về mềm yếu, nhút nhát mà thật là rất có tác dụng lớn để dẹp loạn cho quay về chính. Nhưng trị đau khớp chân tay do phong thì nên dùng, nếu như đau do huyết khí hư mà dùng lầm thì trái lại sẽ đau nặng hơn(Dược Phẩm Vậng Yếu).
Khương hoạt cùng với Xuyên khung trị được chứng thương hàn Thái dương kinh (đầu đau, cơ thể đau, lưng đau, sốt) rất hay (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Khương hoạt giỏi về trừ phong thấp, có thể đi thẳng lên đỉnh đầu, đi ngang ra cánh tay. Độc hoạt cũng thiên về trị phong thấp, có thể sơ thông ngang lưng, đầu gối đi xuống đùi, chân (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Khương hoạt trị phần trên, Độc hoạt trị phần dưới, vì vậy, người xưa trị phong phần nhiều dùng Độc hoạt, trị thủy thũng thì dùng Khương hoạt (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Độc hoạt sinh ở Tây khương nên gọi là Khương hoạt. Có tài liệu nói rễ cái là Độc hoạt, rễ con là Khương hoạt (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
THƯƠNG TRUẬT
Tên khác:
Sơn tinh (Bảo Phác Tử),Địa quỳ, Mã kế, Mao quân bảo khiếp, Bảo kế, Thiên tinh Sơn kế, Thiên kế, Sơn giới(Hòa Hán Dược Khảo), Xích truật (Biệt Lục), Mao truật, Chế mao truật, Kiềm chế thương truật (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học: Atractylodes chinensis (DS) Loidz (Bắc Thương truật) thuộc họ Cúc (Compositae).
Cây thương truật
( Mô tả, hình ảnh cây thương truật, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ....)
Mô Tả:
Cây sống lâu năm, cao chừng 0,6m, có rễ phát triển thành củ to, thân mọc thẳng đứng. Lá mọc so le, dai, gần như không cuống. Lá ở phía gốc chia 3 thùy, nhưng cắt không sâu, hai thùy 2 bên không lớn lắm, thùy giữa rất lớn. Lá phía trên thân hình mác, không chia thùy. Mép lá đều, có răng cưa nhỏ, nhọn. Hoa tự hình đầu, tổng bao do 5-7 lớp như ngói lợp, dưới cùng có một lớp chia rất nhỏ, hình lông chim. Hoa hình ống, đơn tính hoặc lưỡng tính, tràng hoa màu trắng hay tím nhạt, phiến chia 5 thùy xẻ sâu, 5 nhị (có khi bị thoái hóa) nhụy có đầu vòi chia hai, bầu có lông mềm, nhỏ. Hoa tự Thương truật nhỏ và gầy hơn hoa tự Bạch truật. Quả khô.
Cây này mọc ở Trung Quốc, đã được di thực vào Việt Nam nhưng chưa phát triển.
Thu hái:
Mùa xuân, Thu đào về, phơi khô.
Bộ phận dùng:
Thân rễ khô (Rhizoma Atractylodis). Lựa củ to, cứng, chắc, không râu, chỗ gẫy nhiều đốm Chu sa, mùi thơm nồng, chỗ gẫy để lâu có thể có tủa tinh thể như lông trắng là loại tôtw (Dược Tài Học).
Mô tả dược liệu:
Thương truật giống như chuỗi hạt không đều hoặc hình trụ tròn nối đốt nhau. Thường có dạng cong, nhăn, lớn nhỏ không đều, dài 3-9cm, đường kính khoảng 2cm. Mặt ngaòi mầu nâu tro hoặc nâu đen, có vân nhăn và cong chạy ngang, có vết thân cây còn lại. Thuốc cứng, dễ bẻ gẫy, chỗ gẫy mầu trắng vàng hoặc trắng tro, có nhiều đốm dầu thường gọi là ‘Chu Sa Diêm’. Mùi thơm, đặc biệt nồng đặc, vị hơi ngọt, đắng (Dược Tài Học).
Bào chế:
Ngâm nước gạo cho mềm, thái phiến, sao khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chích Thương truật: Lấy Thương truật phiến, rẩy nước vo gạo vào cho ướt đều, cho vào nồi sao nhỏ lửa cho hơi vàng. Hoặc lấy Thương truật tẩm nước vo gạo rồi vớt ra, cho vào nồi hấp (đồ) cho chín, lấy ra phơi khô là được (Dược Tài Học).
Bảo quản:
Để chỗ khô ráo, râm mát.
Thành phần hóa học:
2-Carene, 1, 3, 4, 5, 6, 7-Hexahydro-2, 5, 5-Trimethyl-2H-2, 4a-Ethanopaphthalene, b-Maaliene, Guaiene, Chamigrene, Caryophyllene, Elemene, Humulene, Seliene, Patchoulene, 1,9-Aristolodiene, Elemol, a-Tractylone, Selina-4 (14), 7 (11)-Diene-8-One, Atractylodin, Hinesol, b-Eudesmol (Hoàng Trì, Trung Quốc Dược Khoa Đại Học Học Báo, 1989, 20 (5): 289).
Furaldehyde (Cao Kiều Chân Thái Lang, Dược Học Tạp Chí (Nhật Bản) 1959, 79 (4): 544).
3 b-Acetoxyatractylone, 3 b-Hydroxyatractylone (Tây Xuyên Dương Nhất, Dược Học Tạp Chí (Nhật Bản) 1976, 96 (9): 1089).
Atractyol, Atractylone, Hinesol, b-Eudesmol (Trung Dược Học).
Tác dụng dược lý:
. Tác dụng đối với đường huyết: Cho uống nước sắc Thương truật hoặc chích dưới da dịch chiết Thương truật với liều 8g/kg đối với thỏ nhà, thấy lượng đường trong máu tăng lên, 1 giờ sau lại hạ xuống, và trong vòng 6 giờ lại lên (Đường Nhữ Ngu, Trung Hoa Y Học Tạp Chí 1958, 44 (2): 150). Nếu cho uống liên tục8-10 ngày sau thì mức đường lại trở lại bình thường (Kin Yung Hi và cộng sự, Quốc Ngoại Y Học, Trung Y Trung Dược Phân Sách 1989, 11 (1): 57).
. Tác dụng đối với hệ niệu sinh dục: Cho chuột nhắt uống nước sắc Thương truật không thấy có tác dụng lợi niệu nhưng thấy lượng muối tăng lên (Trung Dược Học).
. Tác dụng vận động tiêu hóa: Cho dùng dịch chiết Thương truật với liều 75mg/kg thấy có tác dụng, chủ yếu là do chất b-Eudesmol (Lý Dục Hạo, Trung Dược tân Dược lâm Sàng Dữ Lâm Sàng Dược Lý Thông Tấn1991, (1): 27).
. Đối với tá tràng thỏ, nước sắc Thương truật hơi có tác dụng co rút (Lô Chấn Sơ, Giang Tô Trung Y Tạp Chí 1986 (8): 25).
Công dụng:
Trừ ác khí (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
Minh mục, noãn thủy tạng (Tuyên Minh Luận).
Kiện Vị, an Tỳ (Trân Châu Nang).
Tán phong, ích khí, tổng giải chư uất (Đan Khê Tâm Pháp).
Kiện Tỳ, táo thấp, giải uất, tịch uế (Trung Dược Đại Từ Điển).
Táo thấp, kiện tỳ, phát hãn, giải uất (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Kiêng kỵ:
Kỵ trái Đào, trái Lý, thịt chim Sẻ, Tùng thái, Thanh ngư (Dược Tính Luận).
Kỵ Hồ tuy, Tỏi (Phẩm Nghĩa Tinh Yếu).
Phòng phong, Địa du làm sứ cho Thương truật (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
Người nhiều mồ hôi, táo bón: không dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Dùng thuốc có Thương truật phải kiêng ăn quả Đào, Mận, thịt chim Bù cắt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Liều dùng:
4 – 12g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc thương truật
Trị Tỳ kinh có thấp khí, ăn ít, chứng hư lao:
Thương truật thật tốt 20 cân, tẩm nước gạo, bỏ vỏ ngoài, tẩm nước gạo 1 ngày đêm. Hôm sau lấy ra, thái mỏng, phơi khô, sao vàng. Cho vào nồi, đổ đầy nước, nấu 1 ngày 1 đêm, bỏ bã. Lại cho thêm Thạch nam diệp 3 cân (lau sạch màng đỏ), Chử thực tử 1 cân, Xuyên quy ½ cân, Cam thảo 120g, nấu 1 ngày 1 đêm, lọc bỏ bã. thêm Mật ong 3 cân, nấu thành cao. Mỗi lần uống 20g, lúc đói, uống với rượu thì tốt hơn (Sơn Tinh Cao – Ngô Cầu Hoạt Nhân Tâm Thống phương).
Trị mắt có màng mộng, làm thanh vùng đầu mặt, giữ vững hạ tiêu:
Thương truật 1 cân, rửa sạch, chia làm 4 phần. Mỗi phần tẩm với Rượu, Giấm, nước Gạo nếp, Đồng tiện, ngâm 3 ngày, mỗi ngày phải thay nước. Rồi thái mỏng, bồi khô. Thêm Hắc chi ma vào, sao cho thơm, tán bột. dùng rượu nấu với miến làm hồ, trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên (Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm phương).
Trị lưng đau, chân yếu vì thấp khí làm cho tê, chân tay mỏi:
Thương truật 1 cân, thái ra, trộn đều, chia làm 4 phần. Mỗi phần tẩm với nước Gạo, nước Muối, Giấm và Rượu, tẩm 3 ngày đêm, mỗi ngày thay nước 1 lần, rồi phơi khô, trộn đều. Lại chia làm 4 phần, mỗi phần sao chung với Xuyên tiêu, Hồi hương, Bổ cốt chỉ, Hắc khiên ngưu đều 40g. sao cho đến khi bốc mùi thơm thì bỏ các vị kia đi, chỉ lấy Thương tậttt, tán bột. Dùng Giấm nấu làm hồ, trộn thuốc bột Thương truật làm thành viên,to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên, lúc đói, uống với rượu hoặc nước muối. Người trên 50 tuổi thì thêm Trầm oơng 40g vào (Vĩnh Loại Kiềm phương).
Trị tóc bạc, làm cho da mặt xinh tươi, trẻ đẹp:
Thương truật 1 cân, dùng nước gạo tẩm ½ ngày, tán bột. Địa cốt bì, rửa với nước ấm cho sạch, bỏ lõi, phơi khô, tán bột, 1 cân. Quả dâu (Tang thầm) chín 20 cân, cho vào chậu sành vò nát, dùng vải hoặc lụa vắt lấy nước cốt, trộn với thuốc bột của 2 vị trên, quấy đều như hồ, đổ vào mâm (bằng nhôm thì tốt). Ban ngày phơi nắng mặt trời, ban đêm phơi sương cho nó hút lấy những khí tinh hoa tinh túy của mặt trời, mặt trăng, đợi đến khi khô, tán bột. Dùng Mật ong luyện hồ, trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 20 viên với rượu ngon, mỗi ngày 3 lần. Uống được 1 năm, tóc đã bạc rồi cũng có thể biến thành đen. Uống liên tục 3 năm thì nhan sắc xinh tươi, trẻ đẹp như thiếu niên (Bảo Thọ Đường phương).
Bổ tỳ, tư thận, sinh tinh, mạnh gân xương:
Thương truật 5 cân, cạo bỏ vỏ thô, bồi khô, tán bột. Lấy nước gạo trộn với bột Thương truật, quấy đều cho đến đáy, gạn bỏ sạn. Hắc chi ma gĩa, bỏ vỏ, nghiền nát,lấy vải lọc lấy nước cốt, bỏ bã. lấy nước đó hòa với thuốc bột Thương truật, phơi khô. Mỗi lần uống 12g với nước cơm hoặc rượu nóng, lúc đói (Tập Hiệu phương).
Trị da mặt vàng, không còn sắc máu, biếng ăn, thích nằm, khí lực và tinh thần đều sút kém:
Thương truật 1 cân, Địa hoàng ½ câ. Về mùa đông thêm Can khương 40g, mùa xuân, thu 28g, mùa hè 20g. tán bột, dùng hồ làm viên to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 30 viên (Tế Sinh Bạt Tụy).
Trị trẻ nhỏ bị báng tích:
Thương truật 160g, tán bột. Gan dê 1 bộ, dùng dao tre mổ gan ra, rắc thuốc bột vào rồi dùng chỉ buộc lại, cho vào nồi đất, nấu thật nhừ. Gĩa nát, làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 20 viên với nước nóng (Sinh Sinh Biên phương).
Trị trong bụng hư lạnh gây nên không thích ăn uống, ăn không tiêu, dần dần gầy ốm:
Thương truật 3 cân, men rượu 1 cân, sao vàng, tán bột. Dùng mật luyện hồ trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên, ngày 3 lần. Nếu lạnh quá thêm Can khương 30g, nếu bụng đau âm ỉ, thêm Xuyên quy 90g. Gầy ốm quá thêm Cam thảo 60g (Trửu Hậu phương).
Trị chứng Tỳ thấp, tiêu chảy, kiệt sức, không ăn uống được, tiêu sống phân:
Thương truật 80g, Bạch thược 40g, Hoàng cầm 20g, Quế 8g. tán bột. Mỗi lần uống 12g với nước cơm (Hòa Tễ Cục phương).
Trị về mùa hè bị tiêu chảy do ăn uống không điều độ:
Thần khúc, Thương truật, tẩm nước gạo 1 đêm, sấy khô, tán bột. Dùng hồ trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên với nước cơm (Hòa Tễ Cục phương).
Trị ăn vào là đi tiêu ngay, kiết lỵ lâu ngày không khỏi: Thương truật 60g, Xuyên tiêu 30g, tán bột. Dùng giấm làm hồ trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 20 viên trước bữa ăn (Bảo Mệnh Tập).
Trị quáng gà:
Thương truật 60g, lấy nước gạo tẩm 1 đêm, bồi khô, tán bột. Gan dê 1 cân, dùng dao tre mổ ra, rắc thuốc bột vào, lấy dây gai buộc chặt. Lấy nước vo gạo và 1 ít gạo nấu nhừ, để nguội, ăn cho đến khi khỏi thì thôi (Thánh Huệ phương).
Trị mắt đau, quáng gà, mắt híp không mở ra được:
Thương truật ½ cân, tẩm nước vo gạo 7 ngày, bỏ vỏ, thái mỏng, bồi khô. Thêm Mộc tặc 60g, đều tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước trà hoặc rượu (Thánh Huệ phương).
Trị răng đau (nha phong):
Thương truật, hòa nước muối, tẩm qua, đốt tồn tính. Tán bột, sát vào răng (Phổ Tế phương).
Trị viêm khớp đau do phong hàn thấp hoặc do thấp nhiệt:
Thương truật, Tần giao, Tỳ giải, Mộc qua, Ý dĩ nhân, Tang ký sinh, Thạch hộc, Hoàng kỳ, Thục địa, Thạch xương bồ đều 10g, Quế chi 6g, Tàm sa 10g, Cam thảo 3g, sắc uống.
Trị viêm khớp mạn thể phong hàn thấp.
Nhị diệu hoàn (Đơn khê tâm pháp): Thương truật, Hoàng bá sao (sao) lượng bằng nhau, tán bột mịn làm hoàn, mỗi lần uống 6 - 10g, ngày 3 lần với nước ấm. Trị viêm khớp thể thấp nhiệt gia Ngưu tất là bài Tam diệu hoàn, gia thêm Ý dĩ nhân là bài Tứ diệu hoàn đều trị chứng thấp khớp sưng đau.
Trị rối loạn tiêu hóa , bụng đầy, tiêu chảy, nôn, buồn nôn:
Bình vị tán (Hòa tể cục phương): Thương truật, Cao bản, Xuyên khung, Khương hoạt, Bạch chỉ đều 6g, Cam thảo 3g, Tế tân 3g, tán bột mịn gia Sinh khương, Thông bạch sắc uống ấm. Ngoài ra, Thương truật còn dùng trị chứng quáng gà, nấu với gan lợn ăn.
Tìm hiểu thêm về thương truật
Tính vị:
Vị cay nhiều (Bản Thảo Diễn Nghĩa).
Vị ngọt cay, là vị thuốc dương mà có hơi âm (Trân Châu Nang).
Vị ngọt, tính hơi ôn (Y Học Khải Nguyên).
Vị đắng, ngọt, tính ôn, vị đậm, khí nhạt, âm trong dương, có mùi hôi, không độc (Phẩm Nghĩa Tinh Yếu).
Vị ngọt mà cay nhiều, tính ôn mà táo, âm trong dương (Bản Thảo Cương Mục).
Vị đắng, tính ôn, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Vị cay, đắng, tính ôn (Trung Dược Đại Từ Điển).
Quy Kinh:
. Vào kinh túc Dương minh Vị, túc Thái âm Tỳ (Y Học Khải Nguyên).
. Vào kinh túc Thái âm Tỳ, thủ Thái âm Phế, thủ Dương minh Đại trường, thủ Thái dương Tiểu trường (Bản Thảo Cương Mục).
. Vào kinh túc Dương minh Vị, túc Thái âm Tỳ (Bản Thảo Tân Biên).
. Vào kinh túc Dương minh Vị, túc Thái âm Tỳ (Bản Thảo Tái Tân).
Vào kinh Tỳ, Vị (Trung Dược Đại Từ Điển).
Tham khảo:
Thương truật là thuốc chủ yếu trị thấp, đờm. vị cay mà ấm nên trừ được tà. nó đượ chính khí của trời đất. Sách ‘Thần Nông Bản Thảo’ chưa chia ra Thương truật và Bạch truật, đến Đào Hoằng Cảnh mới phân biệt rồi đời sau trọng dụng Bạch truật mà xem thường Thương truật. Lý Đông Viên nói rất dúng là: khả năng bổ trung, trừ thấp thì dược lực của Thương truật không bằng Bạch truật nhưng côngdụng khoan trung, phát hãn thì lại hơn. Nói như vậy là đúng (Dược Phẩm Vậng Yếu).
Thương truật cùng dùng với Hoàng bá, Ngưu tất, Thạch cao thì đi xuống, trị bệnh thấp ở hạ tiêu; Cho vào bài Bình Vị Tán thì trừ được thấp ở Vị; Cho vào thuốc như Thông bạch, Ma hoàng thì tán được tà ở tấu lý đến bì phu (Dược Phẩm Vậng Yếu).
Thương truật vị cay, tính ôn, có tác dụng trừ thấp, phát hãn nhiều nhưng tán nhiều hơn bổ. Bạch truật vị ngọt, tính ôn, hoãn, có tác dụng kiện tỳ, khứ thấp, sức bổ Tỳ thổ mạnh hơn, bổ nhiều hơn tán (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Thương truật dùng chung với gan Dê đực trị quáng gà có hiệu quả tốt (Đông Dược Học Thiết Yếu).
BẠCH HẠC
Tên dân gian: Còn gọi làcây lác(miền trung),thuốc lá nhỏ, cây kiên cò, nam uy linh tiên,cánh cò, chòm phòn(dân tộc Nùng)
Tên Hán việt khác: Bạch hạc linh chi, Tiên thảo.
Tên khoa học: Rhinacanthus nasuta
Họ khoa học: Thuộc họ Ô rô acanthaceae.
Cây bạch hạc
(Mô tả, hình ảnh cây bạch hạc, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Cây bạch hạc là một cây thuốc quý, cây nhỡ cao 1.5m, thân mọc thẳng đứng, có nhiều cành, là mọc đối có cuống, phiến lá hình trứng thuôn dài, phía cuống tù, đầu nhọn, dài 2-9cm, rộng 1-3cm, mặt trên nhẵn, mặt dưới hơi có lông mịn. Hoa nhỏ, màu trắng hơi điểm hồng mọc thành xim nhiều hoa có cuống, ở đầu cành hay đầu thân. Quả nang phía dưới dẹt không chứa hạt, phía trên chứa 4 hạt, có khi chỉ có hai hạt. Hạt hình trứng 2 mặt lồi.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây bạch hạc mọc hoang ở nhiều tỉnh miền bắc nước ta. Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Malaixia, đông Châu Phi. Có khi được trồng làm cảnh.
Người ta thường dùng rễ cây, dùng tươi hay khô làm thuốc. Rễ tươi mới đào bẻ đôi đẻ một lúc lâu sẽ có màu đỏ. Lớp vỏ ngoài dễ bong ra. Mùi hắc nhẹ, vị ngọt tựa mùi sắn rừng.
Mùa hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa đông. Đôi khi người ta chỉ dùng vỏ rễ, có khi dùng cả lá.
Thành phần hoá học
Trong rễ có 1.87% chất gần giống axit cryzophanic và axit frangulic
Vị thuốc bạch hạc
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị:
Cây vị ngọt nhạt, tính bình.
Rễ có mùi hắc nhẹ, vị ngọt tựa như mùi sắn rừng.
Quy kinh:
Vào kinh phế
Công dụng:
Nhuận phế, giáng hỏa.
Chống ho, sát trùng, chống ngứa, trừ phong thấp.
Chủ trị:
Chủ trị lao thấu (ho do cơ thể suy nhược), giới tiên (lở ngứa) thấp chẩn (eczema)
Liều dùng:
Liều dùng 9-15g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài trị bệnh ecpet mảng tròn, eczema, hắc lào, lở ngứa, viêm khớp. Lấy cây lá tươi giã đắp hoặc nấu nước rửa.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc bạch hạc
Dùng ngoài trị bệnh ecpet mảng tròn, eczema, hắc lào, lở ngứa, viêm khớp.
Lấy cây lá tươi giã đắp hoặc nấu nước rửa.Chữa eczema, hắc lào, lang ben: Rễ cây kiến cò 50g, thái nhỏ, giã nát; cồn etylic 70 độ 100ml. Ngâm rễ cây kiến cò đã được giã nát trong vòng 1-2 tuần, sau đó lọc qua vải xô, lấy dịch thuốc bôi vào vùng da bị hắc lào, lang ben ngày 2 lần đến khi khỏi.
Đau thần kinh tọa do lạnh:
Rễ cây kiến cò 8g, rễ lá lốt 12g, ráy sơn thục 12g, cẩu tích 16g, quế chi 8g, ngải cứu 8g, vỏ quýt 8g, rễ cỏ xước 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Bài này giúp khu phong tán hàn, hành khí hoạt huyết, giảm đau. Uống 10 - 15 thang.
Trị đau nhức khớp do phong hàn thấp (với biểu hiện đau mỏi các khớp; đau tăng khi thời tiết lạnh, mưa, ẩm thấp):
Rễ cây kiến cò 12g, thổ phục linh (củ khúc khắc) 16g, ké đầu ngựa 16g, hy thiêm 16g, kim ngân hoa 16g, quế chi 8g, bạch chỉ 8g, tỳ giải (củ cây kim cang) 12g, ý dĩ 12g, cam thảo nam 12g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Uống 10-20 thang.
Trị lao phổi thời kỳ đầu
Dùng tươi 40g, khô 12-20g, thêm đường phèn sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Tham khảo
Kinh nghiệm dùng trong dân gian
Theo kinh nghiệm dân gian cây bạch hạc (kiến cò) còn được dùng trong một số trường hợp:
- Lao phổi khởi phát, ho
- Viêm phế quản cấp và mạn
- Phong thấp, tê bại, nhức gân, đau xương, viêm khớp
- Huyết áp cao.
KIẾN KỲ NAM
Tên khác Còn gọi là bí kỳ nam, kỳ nam kiến, ổ kiến, kỳ nam gai.
Tên khoa học Hydnophytum formicarum Jack.
Thuộc họ Cà phê - Rubiaceae.
Cây Kiến kỳ nam
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây phụ sinh, cộng sinh với kiến. Thân phình thành củ lớn, mặt ngoài sần sùi. Lá mọc đối, gốc thuôn, đầu tù; phiến lá dày, nhẵn bóng. Lá kèm sớm rụng. Hoa không cuống, mọc tụ họp 4-5 cái ở nách lá, màu trắng. Quả nhỏ, hình trụ hơi dài, khi chín màu da cam.
Mùa hoa quả:
Tháng 12-1.
Bộ phận dùng:
Thân phình thành củ do kiến đục làm tổ, tạo thành hốc, lỗ - Caulis Hydnophyti.
Nơi sống và thu hái:
Cây mọc hoang, bám vào các cây gỗ trong rừng thứ sinh ở miền Nam nước ta. Thu hái thân, thái mỏng, phơi đến gần khô thì phơi tiếp trong râm. Khi dùng đem thuốc tẩm qua nước đang sôi, rồi sao vàng.
Vị thuốc Kiến kỳ nam
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị - Qui kinh:
Đang cập nhật.
Công dụng:
Lợi tiểu, tiêu viêm kháng sinh, sát trùng.
Liều dùng:
6-12g, sắc uống hoặc nấu cao uống.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Kiến kỳ nam
Viêm gan, đau gan, vàng da:
Bí kỳ nam 80g, Hạ khô thảo, Chó đẻ, Hậu phác nam, mỗi vị 20g sắc uống. Hoặc Bí kỳ nam 40g, Thảo quyết minh 10g, áctisô 20g, Nhân trần 15g, cho 500ml nước vào sắc còn 100ml, chia 2 lần uống trước 2 bữa ăn khoảng 1 giờ. Uống liên tục 10-15 ngày.
Ðau nhức gân xương, bong gân, Thấp khớp:
Bí kỳ nam 40g, phối hợp với Bổ cốt toái 30g, rễ Trứng cuốc, rễ Trinh nữ, mỗi vị 20g, hoặc Ngũ gia bì 30g, rễ Vú bò, Xuyên tiêu, mỗi vị 20g, sắc uống hoặc ngâm rượu 30-40 độ (350g thuốc trong 1 lít rượu), ngày dùng 2 lần trước bữa ăn.
Ðau bụng:
Sắc 60g thuốc Bí kỳ nam cho thật đặc, lấy 1/2 chén nước thuốc, chia 2 lần uống cách nhau 1 giờ.
THẦN KHÚC
Tên khác
Thần khúc còn gọi là Lục thần khúc, Tiêu thần khúc, Lục đình khúc, Kiến thần khúc.
Tên tiếng Trung:神曲
Tên khoa học:Massa Fermentata Medicinalis
Vị thuốc thần khúc
(Mô tả, hình ảnh thần khúc, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Thần khúc là một hỗn hợp của bột mì, và phần trên mặt đất còn tươi của Armented annua, xanthium sibixicum, polygonum hydropiper và các dược liệu khác. Hỗn hợp các vị thuố lên men trong môi trường đặc biệt rồi phơi khô.
Thành phần hóa học
Chất men (yeast), amylase, vitamin B, protid, lipid, tinh dầu, glucosid, men lipase
Tác dụng dược lý
Thần khúc có tác dụng tiêu thực hòa vị. Chủ trị các chứng thực tích, bụng đầy ăn ít hoặc sôi bụng (tràng minh), tiết tả.
Tính vị
Vị ngọt, cay và tính ấm.
Quy kinh:
Tỳ và vị.
Tác dụng của thần khúc:
Chữa khó tiêu và điều hòa vị.
Chỉ định và phối hợp:
Khó tiêu biểu hiện như đầy và chướng bụng và thượng vị, không tiêu, và ỉa chảy. Dùng phối hợp thần khúc với sơn tra và mạch nha.
Liều dùng:
Ngày dùng 6-15g
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc thần khúc
Trị các chứng cam:
Bạch linh 10g, Cam thảo 20g, Cát cánh 10g, Chỉ xác 10g, Đại hoang 2,8g, Hậu phác10g, Nhân sâm 6g, Thần khúc 4,8g, Thược dược 4,8g, Trần bì 4,8g, Xuyên khung 10g. Tán bột. Ngày uống 6-8g với nước sắc gừng. (Thần Khúc Tán – Chứng Trị Chuẩn Thằng).
Trị thận âm bất túc, tâm dương hư, mắt nhìn không rõ, tai ù, điếc, đầu đau, chóng mặt, tim hồi hộp:
Thần khúc 160g, Quang Minh Sa 40g, Từ thạch 40g. Tán nhỏ luyện mật làm hoàn, mỗi ngày uống 8g với nước. Lúc đói có thể lấy bao vải bọc thuốc sắc thành thang mà uống. Tác dụng: Trọng trấn, an thần, tiềm dương, minh mục. (Thần Khúc Hoàn – Bị Cấp Thiền Kim Yếu Phương).
Chữa các loại uất, bụng ngực đầy nuốt chua, nôn ăn uống không tiêu:
Thương truật 12g, Hương phụ 12g, Xuyên khung12g, Thần khúc12g, Chi tử (sao)12g, Các vị lượng bằng nhau tán bột làm hoàn hoặc sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: Hành khí giải uất (Việt Cúc Hoàn)
Chữa thực tích, đình trệ, ngực bụng, ăn không tiêu ợ chua:
Sơn tra 240g, Thần khúc 80g, La bặc tử 40g, Bán hạ 120g, Trần bì 120g, Phục linh 120g, Liên kiều 40g. Các vị làm hoàn ngày dùng 20-30g, hoặc sắc uống liều vừa đủ. Công dụng: Thực tích, hòa vị, thanh nhiệt, lợi thấp (Bảo Hoà Hoàn)
Trị rối loạn tiêu hóa, bụng đầy ăn kém:
Thần khúc, Thương truật, Trần bì, Hậu phác, Mạch nha đều 14g, tán bột mịn, chia 2 - 3 lần uống ( Diệp Quất Tuyền).
Trị tiêu chảy do tỳ hư (tiêu chảy kéo dài):
Thần khúc 10g, Bạch truật 12g, Mạch nha 12g, Chỉ thực 6g, sắc uống.
MẠCH BA GÓC
Còn có tên tam giác mạch, lúa mạch đen, kiều mạch, sèo.
Tên khoa học Fagopyrum esculentum moench.
Thuộc ho rau răm Polygonaceae.
Ta có thể dùng toàn cây nhưng chủ yếu là lá và hoa của mạch ba góc để làm nguyên liệu chiết rutin.
Mô tả: mạch ba góc là một cây thảo, có nhiều cành, cao từ 0.4-1.7m, trung bình 0.7m, thân hình trụ, màu xanh hay đỏ. Lá nguyên đơn, mọc cách, mép nguyên, có bẹ chìa, lá phía dưới hình tim, đầu hơi nhọn, có cuống, lá phía trên giống hình mũi tên, không có cuống, gân lá hình chân vịt. Hoa mọc thành chùm ở ngọn và nách lá. Hoa lưỡng tính chỉ có một vòng bao hoa, màu trắng, đỏ hoặc trắng hồng. Bao hoa có 5 bản tồn tại trên quả, nhị 8, nhuỵ có 3 vòi rời nhau. Bâug thượng có tuyến mật ở xung quanh. Quả khô có 3 góc gồm 2 lần vỏ, lớp vỏ ngoài đen xám khi già, lớp vỏ hạt trong mọng, màu trắng vàng, bao hoa tồn tại. Hạt có nội nhũ bột lớn, phôi thẳng, hình lá xếp nếp.
Phân bố: Cây được trồng ở nhiều tỉnh miền bắc nước ta, mạch ba góc được trồng lấy hạt có bột ăn thay lúa ngô cho người và cho gia súc, tuy nhiên ăn mạch 3 góc không sẽ gây mệt, nên thường trộn thêm với ngô và gạo.
Công dụng: hiện nay nhân dân ta tại một số vùng chỉ mới trồng cây mạch ba góc để làm thức ăn cho gia súc và người. Một số nơi dùng lá nấu canh ăn cho sáng mắt, thính tai.
KIM ANH TỬ
Tên khác: Kim anh tử còn gọi là Thích Lê tử, Đường quân tử là quả gỉa hoặc đế hoa chín phơi hay sấy khô của cây Kim anh
Tên Khoa Học: Rosa Laevigata Michx
Thuộc họ Hoa Hồng ( Rosaceae)
Tên tiếng trung: 金樱子
Cây Kim anh tử
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ....)
Cây nhỏ, mọc dựa, thành bụi. Thân cành có gai. Lá kép gồm 3 lá chét, mép khía răng nhọn, có lá kèm nhỏ. Hoa to, màu trắng, mọc riêng lẻ ở đầu cành. Quả giả (đế hoa), hình trứng, có gai và đài còn lại, khi chín màu vàng nâu. Hạt (quả thật) nhiều, dẹt. Mùa hoa quả: Hoa: Tháng 3 - 6; Quả: Tháng 7 - 9.
Quả của cây kim anh tử: Quả già (đế hoa lõm biến thành) bổ dọc, hình bầu dục, dài 2 - 4 cm, rộng 0,3 - 1,2 cm. Mép cắt thường quăn gập lại. Mặt ngoài màu da cam, nâu đỏ hoặc nâu sẫm bóng, hơi nhăn nheo, có vết của gai đã rụng. Đầu trên mang vết tích của lá đài, nhị và nhụy. Đầu dưới còn sót lại một đoạn cuống ngắn. Phần lớn đã được nạo sạch hạt (quả đóng) và lông. Quả đóng có góc, màu vàng nâu nhạt, rất cứng, có nhiều lông tơ. Vị hơi ngọt, chát.
Phân bố:
Ở Trung quốc cây mọc ở các tỉnh Quảng đông, Quảng tây, Phúc kiến, Hà nam, Giang tô, Triết giang , Hồ nam , Hồ bắc, Tứ xuyên, Ở nước ta cây mọc hoang ở đồi núi và là đặc sản của các tỉnh Cao bằng, Lạng sơn.
Thu hái chế biến:
hái quả vào mùa thu, tháng 10 - 11, khi ‘quả’ chín tới biến thành màu đỏ, phơi khô, loại bỏ gai cứng. nạo hết hạt bên trong là dùng được
Thành phần hoá học:
Quả có saponin, citric acid, malic acid, frutose, sucrose, tanin, resin, vitamin C, glucosid
Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng giảm xơ mỡ động mạch:
trên thực nghiệm gây xơ mỡ mạch thỏ bằng chế độ ăn nhiều cholesterol được điều trị bằng Kim anh tử trong 2 - 3 tuần. Trong tất cả các ca đều có gỉam cholesterol máu và beta-lipoprotein có ý nghĩa so với lô chứng. Mỡ ở tim và gan cũng như xơ mỡ mạch ở nhóm điều trị là ít hơn.
+ Tác dụng kháng khuẩn:
nước sắc Kim anh tử có tác dụng ức chế mạnh in vitro đối với tụ cầu vàng ( Staphylococcus aureus) và E.Coli. Nước của thuốc cũng có tác dụng ức chế virus cúm.
Vị thuốc Kim anh tử
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
chua sáp, tính bình.
Qui kinh:
Thận, Bàng quang, Đại tràng
Công dụng:
Cố tinh sáp niệu, Sáp trường chỉ tả
Liều dùng:
8-16 gam
Kiêng kỵ:
+Nhiệt thái quá: không dùng (Trung Dược Học).
+Bệnh mới phát sốt, táo kết: không dùng (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
+Có thực hỏa tà nhiệt: cấm dùng. Tiểu không thông, tiêu chảy cấp: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Kim anh tử
Chủ trị các chứng: hoạt tinh, tiểu nhiều lần , bạch đới quá nhiều, Tả lỵ mãn tính
+Liệu Tỳ, tả hạ lỵ, chỉ niệu, sáp tinh (Thực Bản Thảo).
+Chỉ thổ huyết, nục huyết, sinh tân dịch, thu hư hãn
+Sáp tinh, cố trường (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Các bài thuốc có kim anh tử
Trị tiêu chảy, lỵ, hoạt tinh, di tinh, tiểu nhiều:
Kim anh tử, nấu thành cao. Mỗi lần dùng 1 thìa canh lớn, hòa với nước sôi uống (Kim Anh Tử Cao- Nghiệm Phương).
Trị chứng tả lî lâu ngày:
Kim anh tử 30g sắc nước uống, hoặc phối hợp với thuốc bổ khí như Đảng sâm, Bạch linh, Bạch truật, Hoài sơn làm thuốc thang sắc uống. Hoa Kim anh, Quả Kim anh (bỏ hạt), lá Kim anh và Anh túc xác, lượng bằng nhau tán nhỏ viên với nước sắc vỏ quýt.
Chữa suy nhược thần kinh:
Kim anh 500g, ba kích 250g, tua sen 50g. Hai vị kim anh và ba kích thái mỏng, sao vàng, tán nhỏ, cho vào một túi nhỏ cùng với tua sen. Tất cả cho vào nồi thêm 2000ml nước đun nhỏ lửa còn 1000ml. Lọc lấy nước cốt bỏ riêng. Sau đó thêm 1000ml nước đun nhỏ lửa còn 500ml. Lọc lấy nước, trộn đều 2 loại nước với nhau thêm đường đun nhỏ lửa còn 1000ml. Để nguội, thêm vài giọt tinh dầu cam cho thơm. Mỗi ngày chia 2 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê.
Mỗi liệu trình 7-10 ngày.
+Trị Di tinh, hoạt tinh, bạch đới:
Kim anh tử + Khiếm thực, lượng bằng nhau. Tán bột, mỗi lần uống 6-8g với nước cơm (Thủy Lục Nhị Tiên Đơn - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị tử cung sa, trực tràng sa:
Kim anh tử 30g, Ngũ vị tử 6g, sắc uống (Trung Dược Học).
Kim Anh Tử Đường Tương( Viện Trung Y Thượng Hải) . Tác dụng Cố tinh, bổ thận. Trị thận hư, di tinh, hoạt tinh
Kim Anh Cao (Cổ Kim Y Thống Đại Toàn, Q.46. Từ Xuân Phủ) Bổ thận, cố tinh. Trị hư lao, di tinh, bạch trọc
Cửu Tử Hồi Xuân Thang(Thiên Gia Diệu Phương, Q. Thượng. Lý Văn Lượng) Bổ thận, cố tinh. Trị thận hư, tinh thiếu, mệnh môn hỏa suy, liệt dương (suy sinh dục), hoạt tinh, xuất tinh sớm.
Tham khảo
Tính vị:
Sách Khai bảo bản thảo: vị chua, bình ôn, không độc.
Sách Cảnh nhạc toàn thư, Bản thảo chính: vị sáp tính bình, sống thì chua sáp, chín thì ngọt sáp.
Sách Trấn nam bản thảo: nhập 2 kinh tỳ thận.
Sách Bản thảo kinh sơ: nhập túc thái dương, thủ dương minh kiêm nhập túc thiếu âm kinh.
CHÌA VÔI
Đau xương, Chìa vôi, Bạch phấn đằng, Rau chua,- Cissus moleccoiles Planch, thuộc họ Nho - Vitaceae.
Mô tả: Cây nhỏ, mọc leo, dài 2-4m, thân tròn nhẵn, gốc có củ, toàn thân phủ phấn trắng (nên có tên là Bạch phấn đằng). Tua cuốn hình sợi đơn. Lá đơn, hình dạng thay đổi, thường xẻ thuỳ chân vịt, phía cuống hình tim, dài và rộng đến 6-8cm; những lá phía gốc hình mác gần như nguyên, các lá phía trên chia 5-7 thuỳ dài gần bằng nhau, mép hơi có răng cưa. Hoa màu vàng nhạt, mọc thành ngù đối diện với lá, nhưng ngắn hơn lá và có cuống. Quả nang tròn, 5-6mm, khi chín màu đen. Ở var. modeccoides, thuỳ lá rất sâu; ở var. subintegra Gagnep, thuỳ lá rất cạn.
Mùa hoa tháng 4-6, có quả tháng 5-10.
Bộ phận dùng: Rễ củ và dây lá - Radix et Ramulus Cissi.
Nơi sống và thu hái: Cây của miền Đông Dương, mọc hoang ở rừng thưa, ven suối, rừng ẩm có ánh sáng. Cũng mọc ở bờ bụi, hàng rào và được trồng ở nhiều nơi vùng đồng bằng. Củ và dây thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa khô. Củ tròn, to bằng quả trứng gà, mấy củ dính liền với gốc cây, hai đầu củ hơi nhọn, ngoài đen, trong trắng. Đào về, rửa sạch ngâm một đêm cho mềm, thái mỏng, phơi khô. Khi dùng đem củ ngâm nước vo gạo, còn dây thì cắt ngắn, tẩm rượu sao. Cũng thường tán bột.
Thành phần hoá học: Ngọn lá non có tỷ lệ %; nước 91,3; protid 1,4; glucid 5,4; xơ 1,1; tro 0,8; trong tro có caroten 15mg%, vitamin C 42,5mg%.
Tính vị, tác dụng: Củ chìa vôi có vị đắng, chua, hơi the, tính mát, có tác dụng thông kinh, phá huyết, trừ tê thấp, lợi tiểu tiêu độc, sát trùng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Nhân dân thường dùng ngọn non và lá nấu canh chua. Củ thường dùng chữa đau nhức xương, đau Nhức đầu, tê thấp, gân xương co quắp, sưng tấy, mụn nhọt và chữa rắn cắn. Cũng dùng làm thuốc xổ và nhuận tràng. Ngày dùng 10-30g, sắc uống; có thể ngâm rượu uống. Dùng ngoài không kể liều lượng.
Để chữa mụn nhọt sưng tấy, vừa uống trong, vừa giã dây lá với muối đắp ngoài. Để chữa rắn cắn, giã lá với muối, nhai nuốt nước, bã đắp. Có thể phối hợp với Chua me đất hoa vàng. Quế chi, Gừng, lá Trầu không, vôi, giã nát, thêm nước gạn uống, lấy bã đắp.
Ở Lạng Sơn, người ta dùng thân cây Đau xương rửa sạch, sát trùng rồi dùng nong cổ tử cung sau đó cho uống thuốc kích thích sự co bóp tử cung để gây sẩy thai. Có kết quả nhưng có khi vẫn phải nạo lại, tuy vẫn nhanh hơn.
Đơn thuốc:
1. Phong thấp đau nhức xương: Đau xương 20g, Dây đau xương 15g, rễ Lá lốt 15g, nước 500ml, sắc còn 250ml, chia 3 lần uống trong ngày (Theo lương y Lê Minh).2. Bong gân, chấn thương, sưng nề, tụ máu: Lá Đau xương, lá đau xương, lá Thầu dầu tía, ba vị bằng nhau, giã nát, trộn với giấm hoặc rượu (một miếng đắp cần khoảng 20ml giấm hoặc rượu) sao nóng, đắp và bó vào chỗ bị chấn thương, khi khô lại thay miếng khác, làm 1-2 lần trong ngày (Lê Minh
CÂU KỶ TỬ
Tên khác
Tên thường gọi: Kỷ tử, Câu khởi, Khởi tử, Địa cốt tử, Khủ khởi.
Tên khoa học:Fructus Lycii.
Họ khoa học: Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cây câu kỷ tử( Mô tả, hình ảnh cây, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ....)
Mô tả cây câu kỷ tử
Câu kỷ tử là một cây thuốc quý, dạng cây bụi mọc đứng, phân cành nhiều, cao 0,5-1,5m. Cành mảnh, thỉnh thoảng có gai ngắn mọc ở kẽ lá. Lá nguyên nhẵn, mọc cách, một số mọc vòng, cuống lá ngắn, phiến lá hình mũi mác, hẹp đầu ở gốc. Hoa nhỏ mọc đơn độc ở kẽ lá hoặc có một số hoa mọc chụm lại. Đài nhẵn, hình chuông, có 3-4 thùy hình trái xoan nhọn, xẻ đến tận giữa ống. Tràng màu tím đỏ, hình phễu, chia 5 thùy hình trái xoan tù, có lông ở mép. Nhị 5, chỉ nhị hình chỉ đính ở đỉnh của ống tràng, dài hơn tràng. Bầu có 2 ô, vòi nhụy nhẵn dài bằng nhụy, đầu nhụy chẻ đôi. Quả mọng hình trứng, khi chín màu đỏ sầm, hoặc vàng đỏ. Hạt nhiều hình thân dẹp. Ra hoa từ tháng 6-9, có quả từ tháng 7-10.
Phân bố
Có nhiều ở Trung Quốc nước ta còn phải nhập, có ở các tỉnh biên giới Việt Nam như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam.
Phần dùng làm thuốc: Dùng quả khô rụng (Fructus Lycii).
Mô tả dược liệu:
Quả khô Câu kỷ tử hình bầu dục dài khoảng 0,5-1cm, đường kính khoảng hơn 0,2cm. Vỏ quả màu tím đỏ hoặc đỏ tươi, mặt ngoài nhăn teo bên trong có nhiều hạt hình tạng thận màu vàng, có một đầu có vết của cuống quả, không mùi, vị ngọt hơi chua, sau khi nếm nước bọt có màu vàng hồng. Loại sản xuất ở Cam túc có quả tròn dài, hạt ít, vị ngọt là loại tốt nhất nên gọi là Cam kỷ tử hay Cam câu kỷ (Dược Tài Học).
Thu hái, sơ chế:
Hái quả hàng năm vào tháng 8-9, phơi khô. Khi quả chín đỏ hái vào sáng sớm hoặc chiều mát, trải mỏng, phơi trong râm mát cho đến khi bắt đầu nhăn mới phơi chỗ nắng nhiều cho đến khi thật khô.
Bào chế:
+ Lựa thứ quả đỏ tươi, tẩm rượu vừa đều để một hôm, gĩa dập dùng.
+ Thường dùng sống, có khi tẩm rượu sấy khô, hoặc tẩm mật rồi sắc lấy nước đặc, sấy nhẹ cho khô, đem tán bột mịn.
Bảo quản:
Đựng vào lọ kín để nơi khô ráo, nếu bị thâm đen đem xông diêm sinh hoặc phun rượu, xóc lên sẽ trở lại màu đỏ đẹp
Thành phần hóa học:
+ Thành phần chủ yếu có Betain, nhiều loại axit amin, polysaccharid, vltamin B1, B2, C, acid nicotinic, Ca, P, Fe.. . (Trung Dược Học).
+Trong Kỷ tử có chừng 0,09% chất Betain (C5H11O2N) (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trong 100g quả có 3,96mg Caroten, 150mg Canxi, 6,7mg P, 3,4mg sắt, 3mg Vit C, 1, 7mg axit nicotic, 0,23mg Amon sunfat (Từ Quốc Quân và Triệu Thủ Huấn)
+ Trong Khởi tử có Lysin, Cholin, Betain, 2,2% chất béo và 4,6% chất Protein, Acid cyanhydric và có thể có Atropin (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Carotene, Thiameme, Riboflavin, Vitamin C, b-Sitosterol, Linoleic acid (Chinese Herbal Medicine).
+ Betain(Nishiyama R, C A 1965, 63 (4): 4660).
+ Valine, Glutamine, Asparagine (Nishiyama R, C A 1963, 59 (11): 13113b).
+ Trong 100g Câu kỷ tử có Carotene 3,39mg, Thiamine 0,23g, Riboflavine 0,33mg, Nicotinic acid 1,7mg, Vitamin C 3mg(Từ Quốc Quân, Dược Tài Học, Bắc Kinh 1960: 513).
Tác dụng dược lý:
1. Thuốc có tác dụng tăng cường miễn dịch không đặc hiệu. Trên súc vật thực nghiệm có tác dụng tàng cường khả năng thực bào của hệ lưới nội mô, kết quả nghiên cứu gần đây cho biết Kỷ tử có tác dụng nâng cao khả năng thực bào của tế bào đại thực bào, tăng hoạt lực của enzym dung khuẩn của huyết thanh, tăng số lượng và hiệu giá kháng thể, chứng tỏ Kỷ tử có tác dụng tăng cường tính miễn dịch của cơ thể, thành phần có tác dụng là Polysaccharide Kỷ tử (Trung Dược Học).
+ Thuốc có tác dụng tăng cường chức năng tạo máu của chuột nhắt (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Chất Betain là chất kích thích sinh vật, cho vào thức ăn cho gà ăn có tác dụng tăng trọng và đẻ trứng nhiều hơn, cũng làm cho chuột nhắt tăng trọng rõ (Trung Dược Học).
+ Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol của chuột cống, chất Betain của thuốc có tác dụng bảo vệ gan chống thoái hóa mỡ, hạ đường huyết (Trung Dược Học).
+ Chất chiết xuất nước của thuốc có tác dụng hạ huyết áp ức chế tim, hưng phấn ruột (tác dụng như Cholin). Chất Betain không có tác dụng này (Trung Dược Học).
+ Nước sắc Kỷ tử có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập của thỏ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Thuốc có tác dụng ức chế ung thư đối với chuột nhắt S180. Các học giả Nhật Bản có báo cáo năm 1979 là lá và quả Kỷ tử có tác dụng ức chế tế bào ung thư trong ống nghiệm (Trung Dược Học).
+ Các tác giả Trung Quốc trên thực nghiệm cũng phát hiện thuốc (lá, quả và cuống quả của Kỷ tử (vùng Ninh Hạ) có tác dụng ức chế ở mức độ khác nhau hai loại tế bào ung thư ở người (Trung Dược Học).
Vị thuốc câu kỷ tử( Công dụng,Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tác dụng:
+ Bổ ích tinh huyết, cường thịnh âm đạo (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Bổ ích tinh bất túc,minh mục, an thần (Dược Tính Bản Thảo).
+ Trừ phong, bổ ích gân cốt, khử hư lao (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Tư thận,nhuậnphế (Bản Thảo Cương Mục).
+ Chuyên bổ thận, nhuận phế, sinh tân, ích khí, là thuốc chủ yếu bổ can thận chân âm bất túc, là thuốc tốt để ích tinh, minh mục... (Bản Thảo Kinh Sơ)
+ Kỷ tử có tác dụng tư bổ can thận, sinh tinhhuyết, minh mục, nhuận phế (Trung Dược Học).
+ Tư dưỡng Can Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chủ trị:
+ Trị xoayxẫm, chóng mặtdo huyết hư, thắt lưng đau, Di tinh, tiểu đường (Trung Dược Học).
+ Trị các chứng can thận âm hư, âm huyết hư tổn, chứng tiêu khát, hư lao, khái thấu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Liều dùng:8 – 20g.
Công dụng chữa bệnh của câu kỷ tử
Trị mắt đỏ, mắt sinh mộc thịt:
Câu kỷ gĩa nát lấy nước, điểm 3-4 lần vào khóe mắt,rất hiệu nghiệm (Trửu Hậu Phương).
Trị mặt nám, da mặt sần sùi:
Câu kỷ 10 cân, Sinh địa 3 cân, tán bột, uống 1 muỗng với rượu nóng, ngày uống 3 lần, uống lâu da đẹp như con nít (Thánh Huệ Phương).
Trị chảy nước mắt do Can hư:
Câu kỷ tử 960g bọc trong túi lụa ngâm trong rượu, đậy thật kín, 21 ngày sau uống (Long Mộc Luận).
Trị Can Thận âm hư, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, mắt mờ, hoa mắt, hoặc đau rít sáp trong mắt:
Câu kỷ tử, Cúc hoa mỗi thứ 12g, Thục địa 16g, Sơn dược mỗi thứ 8g, Phục linh, Đơn bì, Câu kỷ tử mỗi thứ 6g. Tán bột trộn làm viên. Mỗi lần uống 12g ngày 2 lần, với nước muối nhạt (Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn – Cảnh Nhạc Toàn Thư).
Trị suy nhược vào mùa hè, không chịu nổi với thời tiết:
Câu kỷ tử, Ngũ vị tử, tán bột pha nước sôi uống thay trà (Nhiếp Sinh Chúng Diệu Phương).
Trị suy nhược, thận hư, hoa mắt, mắt mộng thịt:
Cam câu kỷ tử 1 cân, ngâm cho thấm với rượu ngon rồi chia làm 4 phần, 1 phần sao với 40g Thục tiêu, 1 phần sao với 40g Tiểu hồi hương, 1 phần sao với 40g Chi ma (mè), 1 phần sao với Câu kỷ không thôi. Thêm Thục địa, Bạch truật, Bạch phục linh mỗi thứ 40g, tán bột, luyện mật làm viên uống hằng ngày (Tứ Thần Hoàn - Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương).
Trị gan viêm mạn tính,gan xơ do âm hư:
Bắc sa sâm 12g, Mạch môn 12g, Đưung qui 12g, Kỷ tử 12-24g, Sinh địa 24-40g, Xuyên luyện tử 6g, sắc nước uống (Nhất Quán Tiễn - Liễu Châu Y Thoại)
Trị suy nhược, thận hư, lưng đau, gối mỏi, di tinh huyết trắng nhiều:
Thục địa 320g, Sơn dược (sao) 160g, Câu kỷ tử 160g, Sơn thù nhục 160g, Ngưu tất 120g, Thỏ ty tử 160g, Lộc giao (sao) 160g, Quy bản (sao) 160g, tán bột, trộn mật làm hoàn. Mỗi lần uống 12-16g, ngày 2-3 lần (Tả Quy Hoàn – Cảnh Nhạc Toàn Thư).
Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinhthể dục:
Thục địa 320g, Sơn thù 1690, Sơn dược 160g, Đơn bì 80g, Câu kỷ tử 80g, Phục linh 80g, Cúc hoa 120g, Câu kỷ tử 120g. Tán bột, trộn với mật làm hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10-12g (Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn - Y Cấp) .
+ Câu kỷ tử, Thục địa, Ngũ vị tử, Mạch môn đông, Địa cốt bì, Thanh hoa, Miết giáp, Ngưu tất trị âm hư lao nhiệt nóng bứcrứtâm ỉ trong xương, hoặc muốn dùng làm thuốc chính để trị phát sốt, lạnh thì thêm Thiên môn đông, Bách bộ, Tỳ bà diệp, có thể trị được cả chứng ho do âm hư, phế nhiệt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Câu kỷ tử, hái những quả chín đỏ hằng ngày, tẩm giấm, rượu,rồi lấy giấy sáp phong niêm kín lại đừng làm cho bay hơi đủ hai tháng đổ vào chậu khuấy nhừ nát lọc lấy nước rồi ngâm với rượu. Sau đó cho vào nồi bạc nấu lửa liu riu nhỏ, đồng thời quấy luôn để khỏi dính và đều cho tới khi thành cao như Mạch nha, cuối cùng bỏ vào bình sạch đậy kỹ, mỗi buổi sáng uống mỗi lần 2 muỗng canh lớn, trước khi đi ngủ, liên tục trong 100 ngày mới thấy mạnh khỏe (Kim Tủy Tiễn - Kinh Nghiệm Phương).
+ Câu kỷ tử 2 thăng, vào ngày Nhâm quý tháng 10 giờ Dần, đứng quay về hướng đông mà hái rồi lấy rượu tốt 2 thăng ngâm trong bình sứ 21 ngày xong cho vào 3 thăng nước cốt Sinh địa trộn đều, niêm lại cho thật kín, Đến ngày 30 trước tiết Lập xuân mở bình, uống một chén hâm nóng lúc bụng đói, đến sau tiết lập xuân râu tóc bạc thì cũng biến thành đen. Cấm ăn hành, tỏi, su hào (Câu Kỷ Tử - Kinh nghiệm phương).
Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinhthể dục:
Cúc hoa 8g,Kỷ tử 20g, Nhục thung dung 12g, Ba kích thiên 8g, sắc nước uống (Cúc Thanh Thang - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị nam giới sinhdục suy yếu vô sinh:
Mỗi tối nhai 15g Câu kỷ tử, liên tục 1 tháng, thường sau khi tinhdịchtrở lại bình thường, uống thêm 1 tháng. Trong thời gian uống thuốc, kiêng phòng dục. Đã trị 42 ca, sau 1 liệu trình: hồi phục bình thường 23 ca, sau 2 tháng bình thường 10 ca, có 6 ca không có kết quả vì không có tinh trùng, 3 ca không kết quả, theo dõi sau 2 năm, tinh dịch trở lại bình thường, 3 ca đã có con (Đông Đức Vệ và cộng sự, ‘Kỷ Tử Trị vô sinhNam Giới’, Tân Trung Tạp Chí 1987, 2: 92)
Trị dạ dầy viêm teo mạn tính:
Dùng Kỷ tử rửa sạch, sao khô, giă nát, đóng gói. Mỗi ngày uống 20g, chia làm 2 lần lúc bụng đói và nhai uống, 2 tháng là một liệu trình. Trong thời gian uống thuốc, ngưng tất cả các loại thuốc khác. Đã trị 20 ca, theo dõi 2- 4 tháng, có kết quả tốt 15 ca, có kết quả 5 ca (Trần Thiệu Dung và cộng sự, ‘Báo Cáo 20 Ca Dạ Dầy Viêm Teo Mạn Tính Điều Trị Bằng Câu Kỷ Tử,’ Trung Y Tạp Chí 1987, 2: 92).
Trị thận hư, tinh thiếu, lưng đau, vùng thắt lưng đau mỏi:
Câu kỷ tử, Hoàng tinh, 2 vị bằng nhau, tán bột, luyện mật làm viên, mỗi lần 12g, ngày uống 2 lần với nước nóng (Câu Kỷ Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)..
Trị Can hư sinh ra bệnh ở mắt, ra gió chảy nước mắt:
Câu kỷ tử, dùng rượu ngâm sau 3-7 ngày, mỗi lần uống 1-2 muỗng canh, ngày 2 lần (Câu Kỷ Tửu - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo thêm về Kỷ tử
+ Câu kỷ tử có tác dụng bổ tinh khí, bổ suy nhược làm cho người xinh tươi hồng hào, sáng rõ tai mắt, yên thần định chí sống lâu (Bản Thảo Dược Tính).
+ Câu kỷ tử làm cứng mạnh gân xương, sống dai lâu gìa, trừ phòng phong bệnh bổ hư lao, ích tinh khí (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Câu kỷ tử chữa được những bệnh ở tim, ọe khan đau tim, đau họng khát nước vì thận có bệnh cho nên hay làm nên chứng tiêu khát (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Câu kỷ tử có tính giúp cho thận, nhuận được phế, dùng nó ép lấy dầu thắp sáng đèn làm sáng mắt (Bản Thảo Cương Mục).
+ Câu kỷ tử có vị cay vừa, khí ấm vừa và mát, tính có thể lên xuống được, vị nặng nên hay bổ âm nhưng tính của nó là âm trong có dương nên cổ được khí. Xét cho đúng thì nó chỉ xét cho dương một phần nào thôi, chứ không có tính cách kích động nên những người biết dùng thì dùng để tiếp thêm sức cho Thục địa là đúng. Còn vấn đề công dụng của nó thì có thể làm cho thông minh tai mắt, yên ổn tâm thần tăng thêm tinh tủy, cứng mạnh gân xương, bù đắp vào những chỗ bất túc nhất là lao thương quá độ. Vì vậy khi mà thận khí đã đầy đủ thì chứng tiêu khát không còn nữa, còn những người bị chân âm suy tổn mà đau ở sau lưng dưới rốn, mê man dùng nó thì công hiệu (Cảnh Nhạc Toàn Thư).
+ Câu kỷ tử có vị ngọt tính bình là vị thuốc chính của Thận, vì vậy mà bổ Thận ích tinh, khi Thận thủy đã mạnh thì gân xương rắn chắc vững vàng nên chứng tiêu khát lui cả, còn những chứng mắt mờ, tai điếc, lưng đau, chân yếu cũng theo đó mà biến mất (Bản Thảo Thông Nguyên).
+ Đi xa ngàn dặm thì không nên dùng Câu kỷ tử vì nó bổ thận quá cho nên kích thích đến tình dục, nó có khí bình không nóng, nó có tác dụng bổ thận chế hỏa, công hiệu như Thục địa nhưng chỉ tiếc khí nóng bứt rứt trong xương muốn trừ nó mà chưa từng dùng được (Danh Y Biệt Lục).
+ Câu kỷ tử vị ngọt mát tính nhuận, các sách ghi rằng có tác dụng khu phong, minh mục, mạnh gân xương, bổ tinh, tráng dương. Xét đúng ra thì Thận thủy suy thiếu uống vào có tính cam nhuận thì âm phải theo dương mà sinh trưởng. Khi Thận thủy đã đầy đủ thì tự nhiên phongsẽ bịtán ngay, vì thế nó có tác dụng làm sáng được tai mắt, cứng xương, mạnh gân. Đó lại càng chứng minh rằng Câu kỷ tử là một vị thuốc tư thủy, do đó mà các sách đều cho rằng nó có tác dụng chữa được tiêu khát. Ngày nay thấy nó sắc đỏ mà tưởng lầm là thuốc bổ dương thì quá sai lầm. Tại sao không biết rằng những thứ đã gọi là khí hàn thì có bao giờ mà bổ dương được? Nếu cứ cho sắc đỏ đó là bổ dương thì Hồng hoa, Tử thảo thì sắc nó cũng đỏ mà có ai quả quyết là thuốc bổ dương đâu, có kẻ lại cho rằng tính nó hoạt huyết. Than ôi! đạo làm thầy thuốc mà không rành, chỉ hạn hẹp trong mấy cuốn sách, nghĩ quẩn quanh, cái gì còn hồ nghi phải gắng sức nghiên cứu cho tới đầu tới đuôi. Nói chung quy chỉ vì xem sách không tinh, định câu không rõ nghĩa không thể nhận xét mà lý hội cho đến cùng, chỉ biết một đoạn nào đó thì biết làm sao được! Chẳng hạn những bệnh thuộc hư hàn mà dám dùng nó thì chuyện xảy ra chẳng những không thể bổ được phần dương mà hư lại càng hư thêm rồi sinh ra những chứng tiêu chảy không cầm được, có khi tới chết. Đó chính là sai một ly đi một dặm nó biến chuyển nhanh như thế, sao lại cho rằng dùng thuốc không cần cẩn thận lắm cũng được vậy mà? (Bản Thảo Cầu Chân).
+ Câu tử có vị ngọt đắng tính lạnh, nhập vào kinh Can và Thận, có tác dụng bổ âm tráng thủy, tưới nhuần được cho Can, thanh trừ được phong độc. Nhờ được tính đắng mát cho nên Tỳ dễ tiết, với những dạng người có bệnh Tỳ thổ khô táo, táo bónmới nên dùng nó; Với nhưng người có thủy hàn khô thấp, trường vị hoạt tiết, tiêu lỏng, tiêu sệt luôn thì không nên dùng nó vì có thể sinh ra tiêu chảy. Nếu ai gọi nó là thuốc trợ dương khí là sai hoàn toàn (Trường Sa Dược Giải).
+ Dùng với Thục địa là rất hay, thuốc làm sáng mắt,thính tai, ích tinh, cố tủy, kiện cốt, cường cân, chuyên bổ lao thương, chỉ tiêu khát, chân âm hư mà bụng rốn đau không khỏi, dùng nhiều rất hay (Cảnh Nhạc Toàn Thư').
+ Câu kỷ tử chuyên bổ huyết, không thuốc nào hơn (Trùng Khánh Đường Tùy Bút).
+ Câu kỷ tử cảm khí xuân hàn của trời, lại được cả khí xung hòa của đất để sinh ra, vị nó ngọt, tính bình cho nên là vị thuốc chính có công năng chuyên bổ cho chân âm của Can và Thận. Họ Đào nói: Xa nhà ngàn dặm chớ ăn Câu kỷ tử, ý nói sức cường dương của nó đó thôi (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Chu Nhụ Tử trông thấy bên chỗ khe suối có hai bụi rậm hoa xanh tươi trông rất đẹp, bỗng thấy một chó lớn đuổi một con chó nhỏ phóng vào bụi hoa gần ngay gốc cây Kỷ tử. Họ trông thấy vậy nhưng không biết nó biến đi đâu, liền cùng nhau đào ở gốc cây Kỷ tử thì thấy ở gốc có hai cái rễ lớn nhỏ như hai con chó nằm gọn ở đó, họ bèn đem về nấu ăn, tự nhiên thấy khỏe, khoan khoái trong người. Ông nói đó là cây Kỷ tử của tiên trồng có hơn cả ngàn năm nên mới hóa hình con chó (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+Tục truyền ngày xưa cây này mùa xuân gọi là Thiên tinh tử, mùa hè gọi là Câu kỷ diệp, mùa thu gọi là Khước lão, mùa đông gọi là Địa cốt bì (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Câu kỷ tử còn cho lá và ngọn gọi là Câu kỷ hành diệp, có vị đắng, tính lạnh, không độc, thường nấu với thịt dê ăn bổ, có tác dụng trừ phong, sáng mắt. Có thể thay trà để uống, công dụng chỉ khát, hết bứtrứt, nóng nảy, bổ sinh dục, giải độc của miến. Nó rất ghét sữa tô. Lấy nước cốt của nó nhỏ vào mắt có tác dụng trừ mộng thịt ở mắt, màng đỏ ở mắt, choáng váng, hoa mắt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Cây còn cho mầm gọi là Câu kỷ miêu có vị đắng tính lạnh, có tác dụng trừ phiền, ích chí, khu phong, minh mục, tiêu nhiệt độc, tán sang thủy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Dùng hạt Câu kỷ tử loại ở Cam châu nấu chín, gĩa nát, trộn với men gạo hoặc lấy hạt Câu kỷ cùng với Sinh địa hoàng chế thành rượu uống gọi là rượu Câu kỷ (Câu Kỷ Tửu). Dùng hạt Câu kỷ trộn gạo nấu cháo có tác dụng bổ tinh huyết, ích thận khí, thiếu huyết, thận suy dùng rất tốt gọi là Câu kỷ tử chúc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Loại Câu kỷ ở Cam châu, Trung Quốc có màu đỏ thịt dẻo, ít hột là thứ tốt nhất (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Câu kỷ, hột của nó gọi là Câu kỷ tử, rễ gọi là Địa cốt bì. Rễ có vị đắng hơn, tính hàn hơn, còn hột thì ngọt nhiều, đắng ít. Công dụng của hai thứ này có khác nhau. Câu kỷ tử là thuốc tư bổ Thận âm, Địa cốt bì là thuốc trị chứng nóng âm ỉ trong xương (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Kiêng kỵ:
+ Câu kỷ tử có tính chất nê trệ, vì vậy,thận trọng đối với những bênh nhân tỳ vị hư yếu, tiêu chảy kéo dài (Trung Dược Học).
+ Tỳ vị suy nhược, tỳ hư thấp trệ tiêu chảy cấm dùng, có ngoại tà thực nhiệt cấm dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sá
Phân biệt
(1) Ở Việt Nam không có loại Lycium chinensis Miller, mà có cây Câu kỷ (Lycium ruthanicum Murray) cùng họ trên đó là cây cỏ, cành có gai. Lá nguyên mọc so le. Hoa tím nhạt mọc ở kẽ lá. Quả hình trứng thuôn, khi chín màu đỏ, có nhiều hạt. Cây được trồng nhiều nơi làm rau ăn và làm thuốc. Trồng bằng cành hoặc hạt vào mùa xuân, chỉ dùng lá nấu canh và chữa ho. Có khi quả chín đỏ được dùng thay thế Khởi tử, Vỏ rễ làm Địa cốt bì, không đúng với cây trên, cần phải nghiên cứu lại.
(2) Vị này cho vỏ rễ của cây (Cortex lycii Chinensis) gọi là Địa cốt bì (Danh Từ Dược Học Đông Y).
KHỔ SÂM
Tên Khác:
Khổ Cốt(Bản Thảo Cương Mục), Bạch Hành, Bạt Ma, Cầm Hành, Dã Hòe, Địa Cốt, Địa Hòe, Đồ Hòe, Hổ Ma, Khổ Quyển Biển Phủ, Khổ Tân, Khổ Thức, Kiêu Hòe, Lăng Lang, Lộc Bạch, Lục Bạch, Thỏ Hòe, Thủy Hòe(Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển), Xuyên sâm (Quán Châu Dân Gian Phương Dược Tập), Phượng tinh trảo(Quảng Tây Trung Đơn Y Dược Thực), Ngưu sâm(Hồ Nam Dược Vật Chí), Địa sâm(Tân Hoa Bản Thảo Cương Yếu).
Tên Khoa Học:Croton tonikensis Gagnep. Họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae).
Tiếng Trung: 苦 參
Cây Khổ sâm
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô Tả:
Cây nhỏ, cao 0,72m. Lá mọc so le nhưng gần như đối nhau, có khi mọc thành từng vòng giả 3-4 lá. Phiến dài hình mũi mác, mép nguyên, cả 2 mặt lá đều có nhiều lông tỏa tròn óng ánh. Khi phơi khô, mặt dưới lá có mầu trắng bạc, mặt trên lá có mầu đen. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành, hoa lưỡng tính hoặc đơn tính. Hoa đực có 5 lá đài, 1-2 nhị, hoa cái cũng có 5 lá đài, 3 vòi nhụy. Quả gồm 3 mảnh vỏ, mầu hung đỏ, có lông trắng. Hạt hình trứng, có mỏ, màu nâu hung. Mùa hoa quả: tháng 5-8.
Khổ sâm là rễ khô của cây Khổ sâm. Được trồng khắp nơi ở Trung Quốc, tại Việt Nam hiện nay còn phải nhập.
Thu Hái, Sơ Chế:
Mùa xuân, thu đào hái về, cắt bỏ đầu rễ và rễ to, rửa sạch đất, phơi khô hoặc cắt thành từng miếng dày độ 0,3 – 1cm, phơi khô là được.
Bộ Phận Dùng:
Lá thu hái khi cây đang có hoa, phơi khô.
Mô Tả Dược Liệu:
Khổ Sâm hình trụ tròn dài, trên to, dưới nhỏ, thường chia thành trục, dài 10-33cm, đường kính 1-2cm. Bên ngoài là lớp vỏ mỏng, mầu vàng nâu, thường bị nứt cuộn ra phía ngoài, dễ bóc, chỗ bị bóc vỏ mầu vàng bóng, hơi sáng, nhìn rõ vân dọc. Khổ sâm bán trên thương trường là miếng dầy hình tròn hoặc bầu dục, dầy 0,3-1cm, phần vỏ chỗ mặt cắt ngang và phần gỗ trung tâm phân từng tầng rất rõ, phần gỗ có vòng tròn rất rõ, đa số hình thành 2-4 lớp vân vòng, vân nhỏ hình hoa cúc. Loại rễ to khá gìa, thường có kẽ nứt. Chất cứng, khó bẻ gẫy, mặt gẫy mầu trắng vàng, ở giữa nhạt hơn, không mùi, vị đắng rất lâu. Loại củ dài, vỏ nhỏ, mịn, không còn đầu rễ, không có rễ tơ là loại tốt. Miếng Khổ sâm mầu trắng vàng, nguyên vẹn là loại tốt (Dược Tài Học).
Bào Chế:
Dùng nước vo gạo đặc của gạo nếp ngâm 1 đêm, mùi tanh hôi nổi trên mặt nước, phải đãi lại rồi hấp 1/2 ngày, lấy ra phơi khô, thái để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Cắt bỏ đầu rễ, rửa sạch, ngâm nước, vớt ra, sau khi thấm ẩm đều, cắt thành từng miếng, phơi khô là được (Dược Tài Học).
Bảo Quản:
Dễ mốc, mọt. Cần để nơi khô ráo, kín.
Thành phần hóa học:
Trong Khổ sâm có d-Matrine, d-Oxymatrine, d-Sophoranol, 5-Hydroxymatrine, I-Anagyrine, l-Methylcystisine, Ibaptifoline, I-Sophocarpine, Xanthohumol, Isoxanthohumol, 3, 4, 5-Trihydroxy, 7-Methoxy, 8-IsopenKHỔ SÂMylflavone, 8-IsopenKHỔ SÂMyl Kaemferol (Trung Dược Học).
d-Matrine, d-Oxy, d-Sphoranol, Matrine, 5-Hydroxymatrine, l-Anagyrine, l-Methyleycarpine, Xanthohumol (Chinese Hebral Medicine).
Rễ và lá có Luteolin-7-Glucoside (Chinese Hebral Medicine).
Trong lá có các nhóm chất Flavonoid, Alcaloid và Tanin. Hàm lượng Alcaloid toàn phần là 0,310,33% (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Matrine, Oxymatrine, N-Oxysophocarpine, Sophoridine (Bạch Tiết Giáng, Trung Thảo Dược Thông Báo, 1982, 13 (4): 8).
Kushenin (W L J và cộng sự, Chem Pharm Bull 1985, 33 (8): 3231).
Kuraridinol, Kurarinol, Neokurarinol, Norkurarinol, Isokurarinone, formononetin (Kyogoku K và cộng sự, Chem Pharm Bull, 1973, 21 (12): 2733).
Tác Dụng Dược Lý:
Tác Dụng Chống Nấm: nước sắc Khổ sâm trong thực nghiệm có tác dụng kháng 1 số nấm ngoài da (Trung Dược Học).
Tác Dụng Kháng Sinh: Khổ sâm có tác dụng kháng sinh đối với trực khuẩn lỵ đồng thời có tác dụng kháng lỵ amip, làm cho đơn bào co thành kén (Trung Dược Học).
Tác Dụng Đối Với Ký Sinh Trùng Sốt Rét: nước sắc của bài thuốc gồm Khổ sâm và vỏ Bưởi có tác dụng ức chế ký sinh trùng sốt rét mạnh trên động vật thí nghiệm được gây nhiễm sốt rét, nhưngtái phát trong thời gian 10 ngày theo dõi. Trên mô hình thực nghiệm chuột nhắt nhiễm Plasmodium Berghei và gà nhiễm Plasmodium Gallinaceum, Alcaloid chiết xuất từKhổ sâm không thể hiện rõ tác dụng.
1 bài thuốc khác gồm lá Khổ sâm và vỏ Bưởi đào dưới dạng nước sắc và xi rô đã được thử nghiệm trên 59 bệnh nhân sốt rét và thấy thuốc có tác dụng hạ sốt, làm giảm mật độ ký sinh trùng ở bệnh nhân nhưng tác dụng yếu, không rõ rệt, đồng thời không có tác dụng phụ (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Tác dụng lợi niệu: Cho thỏ uống hoặcchích dịch Khổ sâm thấy có tác dụnglợi niệu (Trung Dược Đại Từ Điển).
Tác dụng kháng khuẩn: Nướcsắc Khổ sâm có tác dụng ức chế đối với Staphylococus aureus, lỵ trực khuẩn, trùng Amip (Trung Dược Học).
Tác dụng kháng ung thư: Khổ sâm có tác dụng ức chế S180 nơi chuột nhắt. Lâm sàng cho thấy Khổ sâm có hiệu quả nhất định đối với ung thư ở cổ, dạ dày, gan (Trung Dược Học).
Chích dịch Khổ sâm vào thỏ nhà thấy có tác dụng tê liệt trung khu thần kinh, gây nên co giật, ngưng hô hấp và tử vong (Trung Dược Học).
Bài thuốc gồm Khổ sâm và 3 vị thuốc khác dưới dạng nước sắc để rửa âm đạo trong điều trị sa sinh dục, phối hợp với bài thuốc uống và bài thuốc đặt ở âm đạo, đạt kết quả khá tốt (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Vị thuốc Khổ sâm
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính Vị:
Vị đắng, tính hàn (Bản Kinh).
Không độc (Danh Y Biệt Lục).
Vị rất đắng, tính rất hàn (Bản Thảo Tùng Tân).
Vị đắng, tính hàn (Trung Dược Đại Từ Điển).
Vị đắng, tính hàn, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Vị đắng, tính lạnh (Trung Dược Học).
Vị đắng, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy Kinh:
Vào Thiếu âm Thận(Trân Châu Nang).
Vào kinh Vị, Đại trường, Can, Thận (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
Vào kinh Tâm, Phế, Thận, Đại trường (Bản Thảo Tân Biên).
Vào kinh Can, Thận, Đại trường, Tiểu trường (Trung Dược Đại Từ Điển).
Vào kinh Can, Thận, Đại trường, Tiểu trường (Trung Dược Học).
Vào kinh Tâm, Thận, Tỳ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Công Dụng
Trục thủy, trừ ung thủng, bổ trung, minh mục, chỉ lệ (Bản Kinh).
Dưỡng Can Đởm khí, an ngũ tạng, định chí, ích tinh, lợi cửu khiếu, trừphục nhiệt trường tích, chỉ khát, tỉnh rượu (Danh Y Biệt Lục).
Thanh nhiệt, táo thấp, sát trùng (Trung Dược Đại Từ Điển).
Trừ thấp nhiệt, khứ phong, chỉ dưỡng (Trung Dược Học).
Thanh hỏa, giải độc, sát trùng, khử thấp (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều Dùng:
6 - 30g.
Kiêng Kỵ:
Tỳ vị hư hàn: không dùng (Trung Dược Đại Từ Điển).
Huyền sâm làm sứ cho nó, kỵ Bối mẫu, Thỏ ty tử; Phản Lê lô (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
Uống lâu ngày sẽ làm tổn thường Thận khí, tạng Can (Bản Thảo Kinh Sơ).
Thận hư mà không sốt cao: không nên dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
Người Can Thận hư yếu mà không có chứng nóng: không nên dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Tỳ Vị hư hàn: không dùng (Trung Dược Học).
Thận hư mà không có thấp nhiệt: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Khổ sâm
Trị Tâm và Phế tích nhiệt, Thận có phong độc tấn công làm cho ngoài da, khủy tay bị ngứa, lở loét, chảy nước vàng:
Khổ sâm 32 lạng, Kinh giới (bỏ cành) 16 lạng. Tán bột. Trộn với nước hồ làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên với nước trà hoặc nước sắc Kinh giới, sau bữa ăn (Khổ Sâm Hoàn – Hòa Tễ Cục phương).
Trị mặt ngứa như kim đâm:
Khổ sâm 640g, Xích thược, Đông qua tử đều 160g, Huyền sâm 80g. Tán bột. Mỗi lần dùng 4g xoa vào mặt (Phổ Tế phương).
Trị bạch điến phong:
Khổ sâm 2,8kg, Lộ phòng phong [ tổ ong] 150g, Thích vị bì 1 cái. Thái thuốc ra thành phiến, nấu với 3 đấu nước còn 1 đấu, bỏ bă, chỉ lấy nước cốt. Cho thêm 5 cân rượu vào, 3 đấu nếp. Nấu thành rượu, mỗi lần uống 1 – 2 ly nhỏ, trước bữa ăn, uống ấm (Bạch Điến Phong Tửu – Thế Y Đắc Hiệu phương).
Trị mộng tinh, Di tinh, hoạt tinh, đới hạ có màu đỏ, đục:
Khổ sâm Mẫu lệ phấn. Tán bột. Lấy 1 dạ dày heo đực, cho 3 chén nước vào hầm thật nhừ, gĩa nát, trộn với thuốc bột làm viên như hạt bắp, uống với rượu ấm(Trư Đỗ Hoàn-Lưu Tùng Thạch Phương).
Trị âm đạo lở ngứa:
Khổ sâm, Phòng phong, Lộ phong phòng, Chích thảo. Lượng bằng nhau, sắc lấy nước rửa (Tẩy Độc Thang – Chứng Trị Chuẩn Thằng).
Trị lỵ ra máu không cầm:
Khổ sâm, sao với Tiêu, tán nhuyễn. Tẩm với nước làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. mỗi lần uống 15 viên với nước cơm (Nhân Tồn Đường Kinh Nghiệm phương).
Trị dạ dầy đau:
Lá khổ sâm 12g, Lá khôi 50g, Lá bồ công anh 20g. Nước 600ml. Sắc đặc còn chừng 200ml, chia làm 2-3 lần uống trong ngày. Uống liên tục 10 ngày, nghỉ 3 ngày. Rồi lại uống tiếp cho đến khi khỏi (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Trị khắp mình nổi mẩn ngứa:
Lá Khổ sâm, lá Trầu không, lá Đắng cay nấu lấy nước xông và tắm rửa (Trồng Hái Và Dùng Cây Thuốc).
Trị bụng đau không rõ nguyên nhân:
Nhai mấy lá Khổ sâm tươi với muối (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Trị lỵ cấp tính, tiêu chảy:
Lá Khổ sâm lá Phèn Đen, mỗi thứ 1 nắm (20g), sắc uống (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Trị lỵ cấp tính, tiêu chảy:
Khổ sâm, Rau sam, Cỏ sữa, Cỏ nhọ nồi, Lá mơ lông, mỗi vị 10g, sắc uống (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Trị lỵ cấp tính, tiêu chảy:
Khổ sâm 16g, Hương phụ 10g, Củ sả 6g, Vỏ quít 6g, Gừng 3 lát, sắc uống (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Trị vẩy nến:
Khổ Sâm 15g, Huyền sâm 15g, Kim ngân 15g, Sinh địa 15g, Thương nhĩ tử 15g. Tán bột, làm viên. Ngày uống 20-25g (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Trị tử cung sa:
Khổ sâm 10g, Phèn phi 25g, Bồ công anh 10g, Thổ phục linh 10g. Sắc lấy nước rửa âm đạo, cách ngày làm 1 lần (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam )
Tham Khảo:
Công dụng của Huyền sâm trong các tài liệu khác
Huyền sâm làm sứ cho Khổ sâm. Khổ sâm ghét Bối mẫu, Thỏ ty tử, Lậu lô. Khổ sâm rất kỵ Lê lô, uống lẫn 2 thứ có thể gây chết” (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Khổ sâm tuy đặt tên có chữ sâm nhưng không có tính bổ. Nha đảm tử là Khổ trân tử nhưng người ta đa số cứ lầm là hạt Khổ sâm.Khổ sâm với Hoàng liên đều là thuốc có vị đắng, tính hàn, có tác dụng tả hỏa. Khí vị của Hoàng liên thanh, trừ Tâm hỏa là chính. Khí của Khổ sâm trọc, trừ hỏa ở Tiểu trường là chính” (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Khổ sâm và Tần bì đều lànhữngvị thuốc thanh nhiệt, táo thấp, trị Kiết lỵ. Nhưng Khổ sâm khí vị đều trọc, thanh nhiệt và táo thấp mạnh hơn, lại có công dụng thông khí kết ở ngực và bụng, lợi huyết mạch, khứ phong, sát trùng. Trong điều trị thường được dùng trị bệnh ở tạng Tâm, Can, Vị, Đại trường, Bàng quang. Còn Tần bì có tác dụng Thanh nhiệt, táo thấp, yếu hơn Khổ sâm. Tần bì có tác dụng thanh Can, minh mục, tính của nó thu sáp, chỉ băng, giỏi về chỉ tả, bình suyễn, chỉ khái (Trung Dược Lâm Sàng Giám Dụng Chỉ Mê)
CÔNG CỘNG
Còn gọi là là nguyễn cộng, lam khái liên, khổ đảm thảo, xuyên tâm liên, roi des amers.
Tên khoa học Andrographis paniculata Nees.
Thuộc họ Ô rô Acanthaceae.
Mô tả: cây nhỏ cao, thuộc thảo, mọc thẳng đứng, cao từ 0.3-0.8m, nhiều đốt, rất nhiều cành. Lá mọc đối, cuống ngắn, phiến lá hình trứng thuôn dài hay hơi hình mác, hai đầu nhọn, mặt nhẵn, dài 3-12cm, rộng 1-3cm, nguyên, mềm. Hoa màu trắng, điểm hồng, mọc thành chùm ở nách lá hay đầu cành, thành chuỳ. Quả dài, 15mm, rộng 3,5mm, hơi nhẵn. Hạt hìnhtrụ, thuôn dài, mùa hoa tháng 9-10.
Phân bố: Mọc hoang dại và được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc để làm thuốc. Người ta dùng rễ hay toàn cây phơi hoặc sấy khô, có nơi chỉ dùng lá và cành mang lá. Thu hái gần như quanh năm, nhưng thường mùa hè dùng lá và phần trên mặt đất của cây, mùa thu đông dùng rễ và toàn cây.
Công dụng: cây được dùng từ lâu trong nhân dân, theo tính vị ghi trong tài liệu cổ thì cây này có vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, chỉ thống. Dùng trong những trường hợp lỵ cấp tính, viêm ruột và dạ dày, cảm mạo, phát sốt, viêm họng, Viêm phổi, dùng ngoài chữa rắn độc cắn, xương khớp đau nhức.
CHỈ THIÊN
Tên khác Còn gọi là cỏ lưỡi mèo, địa đảm đầu, địa đảm thảo, bồ công anh, khổ địa đảm.
Tên khoa họcElephantopus scaber L.
Thuộc họ Cúc Asteraceae
Tên thông thường của cây này là chỉ thiên, tuy nhiên tịa một số vùng Nam Bộ và Trung Bộ người ta gọi là cây lưỡi mèo, một số người miền nam dùng với tên bồ công anh.
Cây Chỉ thiên
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Chỉ thiên là loài cỏ mọc hoang, sống dai, thân cao chừng 20-50cm, nhiều cành, gần như không có lá, cả cây có lông. Lá gốc mọc thành hình hoa thị, sát đất. Phiến lá dài chừng 6-12cm, rộng 3-5cm, hình thìa, có lông trắng ở cả hai mặt, mép có răng cưa lượn sóng, phía dưới hẹp lại thành cuống rộng ôm vào thân. Lá ở thân nhỏ và hẹp hơn lá ở gốc. Hoa màu tím, mọc thành xim, có đầu giả. Quả hình thoi, có 10 cạnh lồi. Mùa hoa quả: tháng 1-8. Có thể thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.
Khi dùng cần chú ý vì do trùng tên, cây Chỉ thiên (thổi lửa) nói ở đây dễ bị lẫn với cây “Chỉ thiên giả”, cũng gọi là “Tiền hồ nam”, tên khoa học là Clerodendrom inducum (L.) O Ktze, họ Cỏ roi ngựa, thường dùng làm thuốc bổ, đắng, tiêu đờm, Chữa hovà trừ giun.
Mùa hoa quả:
Tháng 1 - 8. Có thể thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây chỉ thiên rất phổ biến ở Việt Nam , từ Nam đến Bắc. Thường mọc hoang ở ven đường cái hay ở những bãi cỏ khô. Còn mọc ở nhiều nước châu Á-miền Nam Trung Quốc, Malaixia, Philipin, Ằn Độ, Inđônêxya, Miến Điện, Thái Lan v.v..
Thành phần hóa học
Ít thấy tài liệu nghiên cứu. Từ rễ chỉ thiên, người ta đã chiết được một tinh thể không màu có tính chất glucozit. Không có ancaloit. Hoạt chất chưa rõ.
Vị thuốc Chỉ thiên
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị
Cây Chỉ thiên có vị đắng, tính mát
Qui kinh
Vào 3 kinh phế, tỳ và can.
Tác dụng:
Thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, khoan trung hạ khí, lợi tiểu, tiêu thũng.
Chủ trị:
Cảm sốt, ho, họng sưng đau, đau mắtđỏ, chảy máu mũi, ỉa chảy, vàng da, viêm thận phù thũng, ung nhọt, rắn cắn.
Liều dùng:
9 – 16g khô (hoặc 30 – 60g tươi) sắc lấy nước hoặc giã vắt lấy nước cốt uống. Dùng ngoài giã đắp hoặc nấu nước xông rửa.
Kiêng kỵ:
Người cơ thể suy nhược,phụ nữ có thai cần thận trọng khi sử dụng. Không dùng đối với bệnh thuộc “chứng hàn”.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Chỉ thiên
Chữa đái buốt, đái ra máu, sỏi, đái đục, nước tiểu lẫn chất nhầy:
Dùng cây chỉ thiên, rễ bấn đỏ, rễ vậy trắng, rễ cỏ tranh, cỏ bấc, thịt ốc nhồi - mỗi thứ một nắm; sắc nước uống (Tuệ Tĩnh - Nam dược thần hiệu). Chú thích: Bấn đỏ còn gọi là "mò đỏ", "vậy đỏ", "xích đồng nam"; vậy trắng còn gọi là "bấn trắng", "mò trắng", "bạch đồng nữ".
Chữa vàng da (thể dương hoàng):
Dùng cây chỉ thiên tươi, nhổ liền cả rễ 100-150g, nấu với thịt lợn ăn, dùng liên tục 4-5 ngày (Lĩnh Nam thảo dược chí).
Chữa bí đái:
Dùng cây chỉ thiên tươi 20-30g, sắc nước uống (Phúc Kiến trung thảo dược).
Chữa cước khí:
Dùng toàn bộ cây chỉ thiên tươi 30-60g, đậu phụ 60-120g; hầm lên ăn (Phúc Kiến dân gian thảo dược).
Chữa nhiệt lâm (đái nhỏ giọt, niệu đạo nóng buốt, ...):
Dùng toàn bộ cây chỉ thiên tươi 120g, thịt lợn nạc 150-200g, muối một chút; tất cả cho vào nồi, sắc lấy nước, bỏ bã, chia thành 4 lần uống trong ngày (Giang Tây dân gian thảo dược nghiệm phương).
Chữa viêm họng, viêm amiđan:
Dùng chỉ thiên 10g khô, hãm với 300ml nước sôi trong nửa tiếng, chia ra uống trong ngày. Cũng có thể dùng lá tươi, nhai lẫn với chút muối, nuốt dần (Trung thảo dược tân y liệu pháp xử phương tập).
Chữa miệng, lưỡi viêm loét:
Dùng chỉ thiên 30g khô, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang. Thử nghiệm điều trị 22 ca, 18 ca khỏi; trung bình sau 3 ngày khỏi bệnh, sau 3 tháng khám lại không thấy tái phát. Tác dụng phụ: Trong bụng có cảm giác hơi khó chịu; người già và trẻ nhỏ dùng phải thận trọng (Trung dược đại từ điển).
Chữa môi lở sưng đau:
Dùng lá chỉ thiên tươi, rửa sạch, thêm chút muối, giã nhỏ, vắt lấy nước bôi hoặc đắp vào chỗ đau (Lãn Ông - Bách gia trân tàng).
Chữa mũi chảy máu:
Dùng cây chỉ thiên tươi 20-30g, nấu với một lượng thích hợp gan lợn, ăn gan và uống nước thuốc, dùng liên tục 3-4 ngày (Lĩnh Nam thảo dược chí).
Chữa ung nhọt độc mọc ở dưới nách:
Dùng toàn bộ cây chỉ thiên tươi, thêm chút muối và giấm, cùng giã nát đắp vào chỗ bị bệnh; nhọt đã mưng mủ vẫn chữa được (Y lâm tập yếu).
Chữa mụn nhọt, đinh râu:
Dùng lá tươi giã với giấm hoặc mẻ đắp (Sổ tay cây thuốc Việt Nam).
LONG ĐỞM THẢO
Tên khác:
Long đởm thảo, Lăng Du(Bản Kinh), Thảo Long Đởm, Sơn Lương Đởm(Tục Danh), Đởm Thảo, Khổ Đởm, Quan Âm Thảo, Tà Chi Đại Phu, Tà Chi Đại Sĩ(Hòa Hán Dược Khảo), Trì Long Đởm(Nhật Bản).
Tên khoa học:Gentiana scabra Bunge.Họ Long Đởm (Gentianaceae).
Tiếng Trung: 龙胆草
Cây Long đởm thảo
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô Tả:
Loại cỏ sống lâu năm, cao 35-60cm. Thân rễ ngắn, rễ nhiều, có thể dài đến 25cm, đường kính 1-3mm, vỏ ngoài màu vàng nhạt. Thân mọc đứng, đơn độc hoặc 2-3 cành, đốt thường ngắn so với chiều dài của lá. Lá mọc đối, không cuống, lá phía dưới thân nhỏ, phía trên to, rộng hơn, dài 3-8cm, rộng 0,4-4cm. Hoa mọc thành chùm, không cuống, ở đầu cành hoặcở kẽ những lá phía trên. Hoa hình chuông màu lam nhạt hoặc sẫm.
Địa lý:
Đa số phải nhập.
Thu hái, Sơ chế:
Thu hoạch mỗi năm vào tháng 8-12. Thứ đào vào cuối tháng 8 thì tốt hơn.
Bộ phận dùng:
Rễ. Rễ chùm, có nhiều tua nhỏ bằng chiếc tăm, mềm, sắc vàng đậm, thật đắng là tốt.
Mô tả dược liệu:
Long đởm đầu rễ nhỏ, bên dưới có chùm, chừng vài chục rễ nhỏ, mọc thành cụm nhỏ dài thẳng hoặc hơi cong, dài 10-20cm, đường kính 0,1-0,3cm, mặt ngoài mầu vàng hoặc nâu vàng, phần trên có vân vòng tròn nổi lên rất dầy, tòn bộ có đường nhăn dọc. Chất dòn, dễ bẻ gẫy. Mặt cắt ngang chỗ gẫy hình tròn hoặc giống hình tam giác, mép cong, mầu trắng vàng hoặc nâu vàng, giữa ruột có mấy đường gan lốm đốm hoa. Không mùi, vị rất đắng.
Bào chế:
Đào rễ đem về phơi râm. Khi dùng lấy dao bằng đồng cắt bỏ hết lông, thái nhỏ, tẩm nướcCam thảo 1 đêm, phơi khô (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
Dùng dao bằng đồng cắt bỏ cuống, rửa rượu, phơi khô hoặc ngâm nước Cam thảo 1 đêm, phơi khô, để dành dùng dần (Dược Phẩm Vậng Yếu).
Bỏ cuống, dùng rễ, thái nhỏ, sao với rượu hoặcngâm nướcCam thảo 1 đêm, gạn nướcđi, phơi khô, để dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Rửa sạch, phơi khô. Thái từng khúc ngắn 2-3cm (dùng sống). Tẩm rượu dùngcó thể sao qua hoặckhông sao] (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Bảo quản:
Để nơi khô ráo.
Thành phần hóa học:
Có Gentianine, Gentiopicrin, Gentianose (Trung Dược Học).
Có Glycozid đắng gọi là Gentiopicrin và chất đường gọi là Gentianoza (Dược Liệu Việt Nam).
Trong Long đởm có một Glucozit đắng chừng 25 gọi là Gentiapicrin C16H20O9 và một chất đường gọi là Gentianoza C18H32O16 chừng 4%. Thủy phân Gentiapicrin ta sẽ được gentiagenin C10H10O4 và Glucoza. Gentianoza gồm hai phân tử Glucoza và một phân tử Fructoza (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tác dụng dược lý:
Tác dụng đối với Vị Trường: Liều thấp, Long đởm thảo uống trước bữa ăn 1/2 giờ làm tăng dịch vị, nhưng nếu dùng sau bữa ăn, ngược lại, làm giảm dịch vị. Chất Gentiopicrin có tác dụng làm tăng dịch vị khi bơm trực tiếp vào dạ dày chó nhưng uống hoặctiêm tĩnh mạch thì không có tác dụng, điều này cho thấy nó có tác dụng trực tiếp. Long đởm thảo làm giảm thời gian chuyển vận đường ruột của thỏ. Cho chuột dùng Long đởm thảo thấy không có sự thay đổi khẩu vị hoặctrọng lượng gì cả (Trung Dược Học).
Tác dụng kháng khuẩn: Trong thí nghiệm, dịch tiêm Long đởm thảo có tác dụng ức chế nhiều loại vi khuẩn gây bệnh thông thường. Gentiopicrin có tác dụng mạnh đối với ký sinh trùng sốt rét (Trung Dược Học).
Dùng nướcsắc Long đởm thảo hợp với thuốc Tây thông thường Điều trị 23 cas viêm não B (11 cas nặng, 6 trung bình, 6 nhẹ) bằng nướcsắc Long đởm thảo, thay cho thuốc Tây thông thường. Trong số này, có 15 cas nhiệt độ bình thường vào ngày thứ 3, và chỉ có 1 cas có di chứng (Trung Dược Học).
Theo Ebeling, Long đởm thảo có tác dụng phòng sự lên men, uống ít (nửa giờ trước bữa ăn) có tác dụng kích thích sự bài tiết dịch tiêu hóa, làm khỏa dạ dày, ngược lại, uống sau khi ăn cơm hay uống quá nhiều, lại làm cho tiêu hóa kém sút, Nhức đầu, hoa mắt, mặt đỏ (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Theo Nội Điên Trang Thái Lang (Nhật Bản -1938), nghiên cứu tác dụng chất đắng của Long đởm thảo trên dạ dày nhỏ của chó thì thấy cho chó uống Long đởm thảo sự bài tiết dịch vị tăng tiến và lượng acid tự do cũng tăng hơn (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Vị thuốc Long đởm thảo
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
Vị đắng, tính sáp, hàn, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Vị đắng, tính hàn (Trung Dược Học).
Vị đắng, tính rất hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
Vào kinh Can, Đởm, Bàng quang (Trung Dược Học).
Vào kinh Can, Đởm (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Công dụng:
Tả Can hỏa, thanh thấp nhiệt (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Thấm thấp nhiệt ở kinh Can, Đởm, tả thực hỏa ở Can (Trung Dược Học).
Tả thực hỏa ở Can, Đởm, thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ trị:
Trị các chứng thực hỏa ở Can như mắt sưng đỏ đau, họng đau, sườn đau, miệng đắng, kinh giản do nhiệt tà ở Can Đởm bốc lên, trẻ nhỏ bị cam tích phát nhiệt, thấp nhiệt ở hạ tiêu làm cho bộ phận sinh dục nóng, ngứa.
Kiêng kỵ:
Tỳ Vị hư, tiêu chảy: không dùng (Trung Dược Học).
Tỳ Vị hư hàn, tiêu chảy, không có thực hỏa: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều dùng:
4-12g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Long đởm thảo
Trị trẻ nhỏ bị kinh giản nhập tâm, sốt cao, nóng trong xương, sốt theo mùa, miệmg lở:
Long đởm thảo, Bạch thược, Cam thảo, Phục thần, Mạch môn, Mộc thông, sắc uống (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Trị chứng cốc đản:
Long đởm thảo, Khổ sâm, Ngưu đởm, sắc uống (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Trị thấp nhiệt làm tổn thương phần huyết, vào đại trường gây ra đi tiêu ra máu:
Uống nhiều Long đởm thảo sẽ khỏi (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Trị dạ dày đau, ăn uống khó tiêu, bụng đầy:
Long đởm thảo 0,5g, Hoàng bá 0,5g, Sinh khương 0,3g, Quế chi 0,3g, Hồi hương 0,3g, Kê nội kim 0,5g, Sơn tra (sao cháy) 1g. Tán bột, trộn đều, chia làm 3 lần uống trong ngày (Dược Liệu Việt Nam).
Trị Can Đởm có thực hỏa, mắt đỏ, mắt sưng đau, miệng đắng, tai ù,hông sường đau, gân yếu, sốt cao co giật, thận viêm cấp:
Long đởm thảo, Hoàng cầm, Chi tử, Trạch tả, Mộc hương, Xa tiền tử, Đương quy đều 12g, Sài hồ 8g, Cam thảo 4g, Sinh địa 16g. Sắc uống (Long Đởm Tả Can Thang- Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị sốt cao co giật:
Long đởm thảo, Phòng phong, Thanh đại đều 12g, Câu đằng 8g, Hoàng liên 20g, Ngưu bàng tử, Băng phiến, Xạ hương đều 4g. Tán bột, làm hoàn, to bằng hạt lúa. Mỗi lần uống 5-10 viên với nước sắc Kim ngân hoa (Lương Kinh Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị gan viêm cấp thể vàng da:
Long đởm thảo 16g, Uất kim 8g, Hoàng bá 8g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
Công dụng của Long đởm thảo trong các tài liệu khác
“Long đởm thảo vị đắng, tính hàn, khí vị đều hậu, trầm mà giáng. Thuộc âm. Là thuốc của kinh túc quyết âm (Can) và thiếu dương (Đởm). Dùng Long đởm thảo có 4 tác dụng:1 là trừ phong thấp ở hạ bộ;2 là trừ thấp nhiệt;3 là trị từ rốn đến chân nặng, đau; 4 là trị hàn nhiệt cước khí. Thuốc đi xuống, dùng Phòng kỷ tẩm rượu thìthuốc đi lên và đi ra ngoài. Dùng Sài hồ làm chủ, Long đởm làm sứ là thuốc trị bệnh về mắt (Trân Châu Nang).
“Tướng hỏa ở tại Can Đởm, chỉ tả chứ không bổ. Dùng Long đởm để ích khí cho Can Đởm, tả tà nhiệt ở Can Đởm. Vì Long đởm rất đắng và rất hàn, nếu uống quá nhiều sẽ làm tổn thương Vị, làm cho khí thoát. Sách ‘Biệt Lục’ cho rằng uống Long đởm thảo lâu ngày làm cho cơ thể nhẹ nhàng thì e rằng không thể tin được (Bản Thảo Cương Mục).
“Vị khí hư mà uống Long đởm thảo sẽ nôn, Tỳ khí hư mà uống Long đởm thảo thì sẽ tiêu chảy (Bản Kinh Phùng Nguyên).
“Long đởm thảo vị rất đắng, tính rất lạnh, lạnh lắm, giống như mùa Đông giá rét, ảm đạm, điêu tàn. Người xưa cho rằng vị đắng lạnh – tính khắc phạt, vì vậy dùng tạm thời mà không dùng lâu, giống như nhà vua không bỏ hình phạt cho nên mượn lấy đức, ý thật vô cùng. Nếu không phải là người khỏe mạnh, có bệnh thực nhiệt mà cho uống bừa bãi thì nhất định sẽ bị tổn hại…. Long đởm thảo, nếu tẩm rượu, dùng Sài hồ làm tá thì đi lên, chữa được tất cả các bệnh mắt đỏ đau, mắt có mộng, có màng, mây” (Dược Phẩm Vậng Yếu).
“Long đởm thảo, uống nhiều thì hại dạ dày. Đừng nên uống lúc bụng đói vì sẽ làm cho tiểu tiện không cầm được” (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
“NướcLong đởm đắng như nướcmật, vị lại rất đắng, tính rất hàn, dùng nhiều thì hại dạ dày, hơn nữa lại khó uống, phải cho thêm ít Cam thảo để làm dịu vị đắng. Long đởm thảo tẩm với rượu thì đi lên, đi ra ngoài phần biểu. Dùng Sài hồ làm chủ, Long đởm thảo làmsứ là thuốc cần dùng chữa bệnh về mắt (Đông Dược Học Thiết Yếu).
“Long đởm thảo và Hoàng bá đều là vị thuốc đắng, tính hàn, dùng để thanh nhiệt, táo thấp, thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu. Nhưng Hoàng bá hay thanh hỏa ỏa Thận, có khả năng làm mạnh và chắc cho chân âm mà trừ hư nhiệt, thiên về dùng cho hạ tiêu, bệnh ở Thân, Bàng quang, Đại trường. Long đởm thảo tả thực hỏa ở Can, Đởm, hay khứ hỏa để ổn định máu, trong điều trị, thiên về dùng cho Can Đởm, Bàng quang (Trung Dược Lâm Sàng Giám Dụng Chỉ Mê).
Phân biệt:
Thường nhầm với rễ Bạch vi: rễ này cứng, đen, không đắng. Người ta cũng dùng cả cây Thanh ngâm (Curanga amara, họ Hoa mõm chó) làm nam Long đởm thảo, cây này rễ trắng ngà, không có tua, chỉ giống Long đởm thảo ở chất đắng mà thôi (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Chú thích:
Ngoài vị Long đởm kể trên, trong đông y còn dùng nhiều loại Long đởm khác, những vị thuốc gần giống và gồm những rễ nhỏ. Nhưng trong tâyY lại dùng một loài khác (Gentiana lutca L) có hoa màu vàng, rễ to hơn, thái thành từng miếng mỏng, có người dịch nhầm là Khổ sâm vì là thuốc bổ mà lại đắng.
Tất cả những cây này đều chưa thấy ở nước ta.
KHOẢN ĐÔNG HOA
Tên khác:
Đồ Hề, Đông Hoa, Đông Hoa Nhị, Hổ Tu, Khỏa Đống, Khoản Đống, Khoản Hoa, Mật Chích Khoản Đông, Thác Ngô, Thị Đông, Toản Đông, Xá Phế Hậu(Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Tên Khoa Học:Flos Tssilagi Farfarae.Họ Cúc (Compositae).
Cây Khoản đông hoa
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Thu Hái, Sơ Chế:
Vào tháng 12 mỗi năm, hái hoa về rửa sạch, phơi trong râm. Để sống hoặc chích mật dùng.
Bộ Phận Dùng:
Búp hoa. Khi khô thì vàng sẫm ở phía dưới , không lẫn lộn tạp chất, không nát là tốt.
Bào Chế:
+Lựa các hoa chưa mở hết, rửa sạch, dùng nước Cam thảo ngâm 1 đêm, sao qua hoặc phơi khô để dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+Nhặt bỏ tạp chất, phơi âm can cho khô, tẩm mật, sao qua (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Bảo Quản:
Để nơi khô ráo, kín, trong lọ có lót vôi sống, đề phòng mốc mọt.
Thành Phần Hóa Học:
Trong Khoản đông hoa có Faradiol, Rutin, Hyperin, Triterpenoid, Saponins, Tanin, Taraxanthin (Trung Dược Học).
Tác Dụng Dược Lý:
Tác Dụng Lên Hệ Hô Hấp: Thuốc sắc Khoản đông hoa làm tăng tiết đường hô hấp, giảm ho, long đờm, chống suyễn trên súc vật thí nghiệm. Nơi mèo thí nghiệm được gây hoa bằng cách tiêm iod cho thấy: liều nhỏ thuốc truyền dịch gây gĩan phế quản nhưng liều cao thì có tác dụng ngược lại. Điều trị bằng nước sắc Khoản đông hoa cho 21 cas hen phế quản và 15 cas hen phế quản kèm phế khí thủng. 8 cas cho thấy có tiến triển (trong vòng 2 ngày: không còn rít và có dấu hiệu tiến triển trong chức năng phổi); 19 cas có vài tiến triển (tiến triển chậm hoặc tái phát). Có thể thấy rằng tác dụng hạ suyễn của Khoản đông hoa tương đối yếu, đa số bệnh nhân thấy muốn nôn, một ít bệnh nhân thấy bực dọc, Mất ngủ.
Tác Dụng Lên Tim Mạch: Tiêm tĩnh mạch dịch Khoản đông hoa cho mèo được gây tê, đầu tiên thấy áp huyết hạ rồi nâng lên (Trung Dược Học).
+Nước sắc Khoản đông hoa làm tăng tiết đường hô hấp, làm giảm ho rõ. Còn có tác dụng hưng phấn trung khu thần kinh, hưng phấn hô hấp. Thuốc có tác dụng hạ cơn suyễn trên súc vật thí nghiệm (Chinese Herbal Medicine).
+Trên mô hình cô lập súc vật thí nghiệm, liều nhỏ thuốc truyền dịch thấy có tác dụng gĩan Phế quản, liều lớn thì ngược lại gây co thắt Phế quản (Chinese Herbal Medicine).
+Khoản đông hoa gây co thắt mạch, làm tăng huyết áp, gây tăng áp do hưng phấn trung khu vận mạch (Trung Dược Học).
Độc Tính:
Liều cao Khoản đông hoa có thể gây hôn mê, ngưng thở. Ở chuột, liều độc LD50 là 112g/Kg hoa tươi và nếu trích ly bằng alcol để chích tĩnh mạchlà 43g/kg hoa tươi (Trung Dược Học).
Vị thuốc Khoản đông hoa
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Công Dụng:
Nhuận Phế, tiêu đờm, chỉ thấu, định suyễn (Bản Kinh Phùng Nguyên).
Giáng khí, chỉ khái (Trung Dược Học).
Ôn Phế, định suyễn, tiêu đờm (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tính Vị:
Vị cay, tính ấm (Bản Kinh).
Vị ngọt, không độc (Danh Y Biệt Lục).
Vị cay, đắng (Y Học Khởi Nguyên).
Vị cay, tính ôn, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
Vị cay, tính ôn (Trung Dược Học).
Vị cay, tính ôn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy Kinh:
Vào kinh Phế, Tâm (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
Vào kinh Phế (Trung Dược Học).
Vào kinh Phế (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ Trị:
Trị ho, khí nghịch lên, ho ra máu mủ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều Dùng:
6-18g.
Kiêng Kỵ:
Phế âm bất túc hóa nhiệt nung nấu Phế và Phế có thấp nhiệt: cấm dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Khoản đông hoa
Trị hen suyễn:
Dùng rượu thuốc Khoản đông hoa, mỗi lần uống 5ml (tương đương 6g thuốc sống), ngày 3 lần. Theo dõi 36 cas, thấy có kết quả nhưng cơn nặng không có kết quả (Đặng Trường Vinh, Thượng Hải Trung Y Dược 1964, 10:12).
Trị phế quản viêm,phế quản gĩan, lao phổi, ho khan do âm hư:
Dùng Khoản đông hoa, lượng thuốc vừa đủ, cho vào điếu thuốc hút (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị phế quản viêm, phế quản gĩan, lao phổi, ho khan do âm hư
Dùng Khoản đông hoa, Bách hợp đều 120g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10g.(Bách Hoa Hoàn Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Tham Khảo:
Các tài liệu khác về khoản đông hoa
+“Khoản đông hoa là vị thuốc thuần dương, thanh tâm, tả nhiệt, nhuận phổi, tiêu đờm, trừ được những sự buồn bực, yên được kinh giản, chữa được ho, khó thở, phế nuy, phế ung... Khoản đông hoa là vị thuốc chủ yếu trong bệnh ho. Bất cứ người hàn hoặc nhiệt hoặc hư hoặc thực đều dùng được cả” (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+“Hạnh nhân làm sứ cho Khoản đông hoa, thêm Tử uyển càng tốt. Khoản đông hoa ghét Tạo giáp, Tiêu thạch, Huyền sâm. Khoản đông hoa sợ Bối mẫu, Hoàng kỳ, Hoàng cầm, Liên kiều, Ma hoàng, Tân di” (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+“Khoản đông hoa nở vào mùa đông, tuy tuyết băng dầy cứng mà hoa vẫn cứ tươi, do đó, biết rằng Khoản đông hoa tính ôn, vị cay nhẹ nhàng đi lên, dùng trị ho do phong hàn đờm ẩm rất thích hợp (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+“Khoản đông hoa và Tử uyển tính vị và công dụng không khác nhau mấy. Trên lâm sàng người bị phong hàn nhẹ mà kiêm nhiệt thì phần nhiều dùng Tử uyển; người bị phong nhiệt nhẹ mà kiêm hàn phần nhiều dùng Khoản đông hoa” (Đông Dược Học Thiết Yếu).
“Phàm trị chứng ho (khái nghịch) ho lâu ngày thì trong 10 bài đã có 9 bài dùngchung Khoản đông hoa và Tử uyển. Chứng ho ra mủ máu, mất tiếng và chứng phong hàn thuỷ khí thịnh thường không dùng Khoản đông hoa mà dùng Tử uyển. Khoản đông hoa dùng nhiều trong các bài thuốc ôn, thuốc bổ Phế” (Đông Dược Học Thiết Yếu
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:181.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh