SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. CÂY NHÀ LÁ VƯỜN
CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC
HOÀNG KỲ
( Radix Astragali)
Hoàng kỳ là rễ phơi hay sấy khô của cây Hoàng kỳ ( Astragalus membranaceus ( Fish) Bunge) hay cây Hoàng kỳ Mông cổ ( Astragalus mongolicus Bunge) thuộc họ Cánh bướm ( Fabaceae). Vị thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh với tên Hoàng kỳ, còn có tên khác như Miên Hoàng kỳ, Tiễn kỳ, Khẩu kỳ, Bắc kỳ.
Tính vị qui kinh:
Vị ngọt hơi ôn.
Theo các sách thuốc cổ:
*.Sách Bản kinh: cam hơi ôn.
*.Sách Danh y biệt lục: vô độc, sinh bạch thủy giả, lãnh.
*.Sách Thang dịch bản thảo: nhập thủ thiếu dưong, túc thái âm, túc thiếu âm, mệnh môn.
*.Sách Bản thảo mông toàn: nhập thủ thiếu dương, thủ túc thái âm kinh.
*.Sách Bản thảo kinh sơ: thủ dương minh, thái âm kinh.
Thành phần chủ yếu:
Theo sách Trung dược học trong Hoàng kỳ có saccaroza, nhiều loại acid amin, protid (6,16 -9,9%), cholin, betatain, acid folic, vitamin P, amylase.
Trong Hoàng kỳ Mông cổ có polysaccharide, alkaloit, một số vi lượng nguyên tố như selennium, sắt, calci, phospho, magnesium.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Hoàng kỳ có tác dụng bổ khí, thăng dương, ích vệ khí, cố biểu, thác sang, sinh cơ, lợi thủy tiêu thũng. Dùng trị các chứng Tỳ khí hư nhược, các chứng khí bất nhiếp huyết, trung khí huyết hạ hãm, tỳ phế khí hư, khí huyết lưỡng suy, khí hư phát nhiệt, cơ thể hư nhiều mồ hôi, ung thư lỡ loét miệng khó lành, khí hư thủy thũng, huyết tý tê dại chân tay, di chứng trúng phong, chứng tiêu khát.
Theo các sách thuốc cổ:
*.Sách Bản kinh:" chủ trị ung nhọt, lở loét lâu ngày, bài nùng chỉ thống, bệnh phong hủi, ngũ trĩ, bổ hư, tiểu nhi bách bệnh".
*.Sách Danh y biệt lục:" chủ phụ nhân tử tạng phong tà khí, trục ngũ tạng gian ác huyết, bổ trượng phu hư tổn, ngũ lao ( 5 tạng hư tổn), gầy ốm, chỉ khát, phúc thống tả lî, ích khí, lợi âm khí".
*.Sách Dược tính bản thảo:" chủ hư suyễn, thận suy, nhĩ lung ( tai điếc), trị hàn nhiệt".
*.Sách Nhật hoa tử bản thảo:" Hoàng kỳ trợ khí, tráng gân cốt, trưởng nhục, khỏe cơ bắp, bổ huyết, phá trung tích ( báng kết), trị loa lịch, anh lựu, trường phong, huyết băng, đái hạ. các bệnh trước và sau đẻ, tiêu khát, ho có đàm".
*.Sách Y học khởi nguyên quyển hạ:"trị hư lao tự hãn, bổ phế khí làm mạnh da lông, tả phế nhiệt, mạch huyền tự hãn, trị tỳ vị hư nhược, nội thác âm chứng, sang thương tất dụng chi dược".
*.Sách Bản thảo cương mục ( quyển 12) dẫn lời Lý Cao viết:" Hoàng kỳ bổ tam tiêu, làm mạnh vệ khí, cùng dùng với Quế, tính ngọt bình làm bớt cay nóng mà Quế, tính ngọt bình làm bớt cay nóng mà Quế thì làm thông mạch phá huyết, làm mạnh vệ khí còn Hoàng kỳ thì ích khí . Hoàng kỳ dùng chung với Nhân sâm, Cam thảo là thần dược trừ táo nhiệt và nóng tại cơ nhục".
*.Sách Bản thảo hội ngôn:"Hoàng kỳ là vị thuốc bổ phế kiện tỳ, thực vệ liễm hãn khu phong vận độc".
*.Sách Cảnh nhạc toàn thư ( phần bản thảo) viết:" Hoàng kỳ sống tính mát, trị ung thư, chích mật tính ôn có tác dụng bổ hư tổn".
*.Sách Bản thảo phùng nguyên:" Hoàng kỳ tính tuy ôn bổ mà có thể thông điều huyết mạch, lưu hành kinh lạc, dùng nó không trở ngại đối với các chứng ũng trệ. Hoàng kỳ cùng dùng với Nhân sâm có tác dụng ích khí, dùng với Đương qui bổ huyết, với Bạch truật, Phòng phong có tác dụng vận tỳ thấp, cùng dùng với Phòng kỷ, Phòng phong thì tác dụng trừ phong thấp, dùng với Quế chi, Phụ tử thì trị chứng vệ khí hư, vong dương, ra mồ hôi nhiều".
*.Sách Bản thảo bị yếu: " Hoàng kỳ dùng sống thì cố biểu, không mồ hôi thì phát tán, có mồ hôi thì cầm, làm ấm phần nhục, làm mạnh tấu lý, tả âm hỏa, giải cơ nhiệt. Chích Hoàng kỳ có tác dụng bổ trung, ích nguyên khí, ôn tam tiêu, tráng tỳ vị, sinh huyết sinh cơ, bài nùng nội thác".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
1.Tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể: Hoàng kỳ làm tăng chức năng thực bào của hệ thống tế bào lưới, nếu cùng dùng với Linh chi, Đảng sâm thì tác dụng càng rõ. Người sau khi cho uống nước sắc Hoàng kỳ, IgE và cAMP trong máu tăng lên rõ, SiaA trong nước miếng giảm rõ. Hoàng kỳ và Polysaccharide của nó có khả năng làm cho tế bào tương của lách súc vật tăng sinh, thúc đẩy sự hình thành kháng thể và nâng cao tính miễn dịch của thể dịch. Hoàng kỳ không những làm tăng làm tăng cường chức năng miễn dịch mà còn có tác dụng điều tiết miễn dịch. Theo Y học cổ truyền, tác dụng bổ khí phò chính của Hoàng kỳ là có liên quan mật thiết với khả năng nâng cao và điều tiết tính miễn dịch của cơ thể và tác dụng duy trì sự cân bằng nội môi của thuốc. Có tác giả cho rằng tác dụng bổ khí, cường tráng cơ thể của Hoàng kỳ còn do thuốc có tác dụng như nội tiết tố tình dục và tác dụng hưng phấn hệ thần kinh trung ương.
2.Tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển hóa trong cơ thể: làm thí nghiệm mỗi ngày, thụt vào dạ dày chuột nhắt nước sắc Hoàng kỳ trong 3 tuần, chuột khỏe lên. Hoàng kỳ dùng trong nuôi dưỡng tế bào làm cho tế bào sinh trưởng nhanh, số lượng tế bào họat động tăng lên nhiều, tuổi thọ kéo dài. Nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy thuốc làm tăng cường chuyển hóa sinh lý của tế bào, tác dụng này có thể do thuốc có tác dụng điều chỉnh cAMP và cGMP trong tế bào. Hoàng kỳ có thể thúc đẩy sự chuyển hóa protid của huyết thanh và gan, đây cũng là 1 mặt quan trọng của tác dụng dược lý " phò chính" của thuốc.
3.Tác dụng lợi tiểu: nước sắc và cao lỏng Hoàng kỳ đối với súc vật thực nghiệm ( chuột cống, thỏ, chó) và người thường đều có tác dụng lợi tiểu rõ rệt. Súc vật sau khi uống thuốc, lượng nước tiểu tăng 64% ( Tạp chí Y học Trung quốc 47:7-11,1961), nhưng phạm vi liều lượng có hiệu quả hẹp, liều thấp không có tác dụng, ngược lại liều quá cao lại làm cho nước tiểu giảm ( tác dụng hạ áp và lợi tiểu của Hoàng kỳ, Dược học học báo12(5),319-324, 1965).
4.Thuốc có tác dụng làm tăng lực co bóp của tim bình thường, đối với trạng thái suy tim do mệt mỏi hoặc do nhiễm độc, tác dụng cường tim của thuốc càng rõ. Dịch tiêm Hoàng kỳ có tác dụng 100% làm mạch co bóp và làm nhanh nhịp tim cô lập của thỏ.
5.Tác dụng hạ áp: nước sắc, cao lỏng, cồn Hoàng kỳ tiêm dưới da hay tĩnh mạch cho súc vật đã gây mê ( chó, mèo, thỏ) đều có tác dụng hạ áp nhanh, nhưng thời gian ngắn, tác dụng hạ áp có thể do thuốc làm giãn mạch ngoại vi. Thí nghiệm trên chuột bạch, chuột lang còn chứng minh thuốc có tác dụng tăng sức đề kháng của mao mạch, do đó có thể đề phòng hiện tượng thẩm thấu của mao mạch tăng mạnh do clorofoc, histamin tạo nên.
6.Trên lâm sàng đã chứng minh Hoàng kỳ cùng dùng với Đảng sâm trị đạm niệu do viêm thận có kết quả. Trong điều trị thận hư nhiễm mỡ, nên dùng liều cao thuốc có tác dụng làm giảm đạm niệu. Có báo cáo dùng thuốc bột Hoàng kỳ tốt hơn ( trích luận văn Hội nghị khoa học sinh lý toàn quốc Trung quốc lần thứ 2, trang13,1963).
7.Tác dụng kháng khuẩn: Trong ống nghiệm, thuốc có tác dụng kháng khuẩn đối với trực khuẩn lî Shigella, liên cầu khuẩn dung huyết, phế cầu, tụ cầu vàng ( in vitro antibacterial activety of some common Chinese herba on Gram-positive aerobic bacteria, Chin.Med J.67:648-656,1949).
8.Dịch tiêm Hoàng kỳ có tác dụng hưng phấn co bóp tử cung cô lập của chuột cống 100%. Nước sắc Hoàng kỳ có tác dụng ức chế ruột cô lập của thỏ Polysaccharide Hoàng kỳ có tác dụng kháng tế bào ung thư. Dịch tiêm Hoàng kỳ trong ống nghiệm có tác dụng tăng trưởng xương đùi của phôi thai gà.
Ngoài ra, theo báo cáo của Trương Trạch và Cao Kiều (1940), Hoàng kỳ có tác dụng làm cho kỳ động tinh của chuột bạch thông thường là 1 ngày kéo dài thành 10 ngày.
Thuốc còn có tác dụng bảo vệ gan, chống giảm sút glycogen ở gan ( trích luận văn báo cáo tại Hội nghị học thuật của Hội Dược học Trung quốc năm 1962, trang 332-333, 1963).
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị chứng suy nhược mạn tính do tỳ khí hư nhược, mệt mỏi, kém ăn hoặc chứng tiêu chảy kéo dài, rong kinh, sa tử cung, sa trực tràng, dùng bài:
*.Bổ trung ích khí thang: Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Đương qui mỗi thứ 12g, Thăng ma 4g, Sài hồ, Trần bì mỗi thứ 6g, Cam thảo 4g, sắc nước uống, thuốc có tác dụng bổ khí thăng dương.
2.Trị các chứng sa tạng phủ:
*.Dùng Sinh Hoàng kỳ, Thăng ma, Sài hồ, Ngũ vị tử chế thành dịch tiêm Thăng tạng linh, mỗi lần tiêm bắp 4ml, ngày 2 lần hoặc tiêm huyệt Trung quản, Túc tam lý, mỗi huyệt 0,5ml cách nhật, 1 tháng là một liệu trình, có kết hợp thuốc trị các bệnh khác, sau khi ăn, bệnh nhân nằm nghỉ. Trị 33 ca sa dạ dày, kết quả khỏi 9 ca, tốt 9 ca, có kết quả 10 ca, tỷ lệ kết quả 84,9% ( Tổ tiêu hóa nội khoa thuộc sở nghiên cứu Trung y thị Thái nguyên- Tiểu kết 42 ca sa dạ dày điều trị bằng Thăng tạng linh, Tạp chí Y dược Sơn tây 1978,2:31).
*.Dùng Sinh Hoàng kỳ 30 - 50g, phối hợp Đơn sâm 15g, Sơn tra nhục 10g, Phòng phong, Thăng ma mỗi thứ 3g, sắc uống mỗi ngày 1 thang, dưới 3 tuổi giảm liều, nếu có lòi ra ngoài, gia thêm Thuyền thoái, Kinh giới than, Băng phiến tán bột trộn với Hương dầu bôi trị sa trực tràng, kết quả tốt ( Vương chí Thanh, Trị sa trực tràng bằng thuốc, Tạp chí Trung y Sơn đông 1983,2:43).
3.Làm thuốc phòng cảm mạo:
*.Tổ nghiên cứu chữa cảm mạo, viêm phế quản đã cho uống mỗi ngày 5 viên Hoàng kỳ (mỗi viên có 1g thuốc sống, ngày 3 lần hoặc cách nhật, sắc 15g Hoàng kỳ uống trong 10 ngày là 1 liệu trình, nghỉ thuốc 5 ngày, uống liệu trình 2. Đã dùng cho 540 người dễ cảm mạo, số lần người cảm giảm bình quân 2,7 lần và rút ngắn được thời gian mắc bệnh ( Tạp chí Trung y 1980,1:71).
*.Dương vĩnh Phương và cộng sự dùng Hoàng kỳ 15g, Đại táo 10g chế thành bột chia làm 2 bao hòa nước uống, người lớn mỗi lần 1 bao, ngày 2 lần. Đã theo dõi 160 ca chứng minh thuốc có tác dụng phòng chống cảm mạo nhẹ phát sinh, hạ thấp tỷ lệ bệnh viêm phế quản, hen phế quản, viêm mũi dị ứng ( Học báo Trung y Học viện Hồ nam 1987,4:13).
*.Phòng bệnh viêm đường hô hấp trên trẻ em: chiết xuất nước Hoàng kỳ cho vào ống 2ml ( tương đương thuốc sống 2g), ngày uống 1 lần Thẩm vỹ Bình đã theo dõi 100 ca, kết quả 4% (Tạp chí Trung y Giang tô 1988,9:32).
*.Dùng trị viêm mũi dị ứng: Bồ chí Thành dùng dịch tiêm Hoàng kỳ chích vào mũi mỗi bên 2ml 3 ngày 1 lần, 10 lần là một liệu trình, theo dõi 47 ca có kết quả 93,26% ( Học báo Y học viện Nam kinh 1988,3:246). 4.Phòng trị ho:Tổ Hô hấp bệnh viện Nhi khoa thuộc Y học viện số 1 Thượng hải dùng ống thuốc Hoàng kỳ 2ml ( 1ml có 1g thuốc sống) chia thủy châm 2 huyệt Túc tam lý, mỗi tuần 2 lần, 3 tháng là một liệu trình, dùng liền 3 - 4 liệu trình, mỗi liệu trình cách nhau 2 tuần. Theo dõi 41 ca, kết quả 85,4%, kết quả tốt 56,1%, bệnh nhân ăn ngon, ngủ tốt, tinh thần tốt, ít bị cảm, một số bệnh nhân tăng trọng, chàm ngoài da tiến bộ rõ, hết hoặc giảm mồ hôi trộm (Tạp chí Nhi khoa Trung hoa 1978,2:87). Nhóm nghiên cứu viêm phế quản mạn tính Quân y viện số 5 thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung quốc dùng bài thuốc: Hoàng kỳ 24g, Tuyên phục hoa 10g, Bách bộ 10g, Địa long 6g, chế thành 54 viên thuốc nặng 0,31g, mỗi lần uống 6 viên, ngày 3 lần, 10 ngày là 1 liệu trình, uống 3 liệu trình đã trị viêm phế quản mạn tính 254 ca, đạt kết quả 98%, khỏi lâm sàng (ổn định) 35,4%, tốt nhất đối với các thể bệnh hư hàn, tỳ hư đàm thấp và thận hư ( Tân trung y 1982,2:12).
5.Trị viêm loét dạ dày tá tràng:
*.Tổ tiêu hóa nội khoa Bệnh viện số 2 Tân y học viện Giang tô dùng tiêm bắp dịch Hoàng kỳ mỗi lần 2ml ( 1ml tương đương 1g thuốc sống), ngày 2 lần, đã trị 18 ca loét dạ dày, 51 ca loét hành tá tràng, 4 ca loét hổn hợp, kết quả sau 1 tuần dùng thuốc, các triệu chứng chủ yếu dều giảm với mức độ khác nhau, kiểm tra X quang sau 1 tháng 36 ca, có 13 ca hết ổ loét, có tiến bộ 15 ca, không kết quả 10 ca ( Tạp chí Giang tô Y dược 1977,1:20).
*.Hệ Quang Hỷ dùng bài Hoàng kỳ kiến trung thang gia giảm trị viêm loét dạ dày tá tràng 43 ca như sau: Hoàng kỳ 12g, Bạch thược 12g, Cam thảo 5g, Quế chi 10g, Sinh khương 3g, Đại táo 5 quả, đường phèn 30g, sắc nước, chia 3 lần uống, tùy chứng gia giảm, tất cả bệnh nhân đều được chụp X quang trước và sau uống thuốc. Kết quả sau thời gian dùng thuốc từ 25 đến 53 ngày, 22 ca khỏi, 17 ca tiến bộ, 4 ca không kết quả, tỷ lệ có kết quả 90,7% ( Tạp chí Y dược Hồ nam 1977,2:35).
6.Điều trị bệnh gan mạn tính:
*.Ngô khai Chi dùng dịch tiêm Hoàng kỳ 4ml ( 1ml có 1g thuốc sống) tiêm bắp ngày 1 lần, có cho thêm một số vitamin bảo vệ gan. Trị viêm gan mạn 29 ca, liệu trình từ 1 đến 3 tháng, có kết quả cải thiện triệu chứng lâm sàng và gan nhỏ trở lại ( Tạp chí Trung y Triết giang 1983,3:103).
*.Hậu thế Vinh và cộng sự dùng dịch tiêm Sâm kỳ mỗi lần tiêm bắp 4ml ( mỗi ml có 2g thuốc sống) Hoàng kỳ, Đơn sâm 1g, ngày 1 lần, mỗi tuần tiêm 6 lần, 1 liệu trình 3 tháng. Đã trị 112 ca trong đó có 58 ca chỉ dùng thuốc này và phối hợp vitamin, kết quả trước mắt 83%, thuốc có tác dụng tốt hơn đối với viêm gan kéo dài, tỷ lệ kết quả 89,5% có triệu chứng cải thiện và chức năng gan hồi phục tốt ( trung thảo dược 1980,12:551).
*.Mạch Tiễn đã dùng 100% dịch tiêm Hoàng kỳ tiêm huyệt Túc tam lý ( 2 bên), Thận du ( 2 bên), mỗi 3 ngày thay nhau tiêm một lần, mỗi lần 1ml, 2 tháng là một liệu trình, một số bệnh nhân được tiêm thêm 1ml dịch Đảng sâm và cho thuốc bảo vệ gan. Đã trị 174 ca HbsAg dương tính, số bệnh nhân chuyển âm tính và tiến bộ 131 ca, tỷ lệ 75,3% ( Tạp chí Trung y dược Cát lâm 1985,5:24).
7.Trị nhũn não:Trương học Văn và cộng sự dùng Thông mạch sơ lạc dịch ( Hoàng kỳ, Đơn sâm, Xuyên khung, Xích thược) 250ml truyền tĩnh mạch mỗi ngày, 10 ngày là 1 liệu trình, nghỉ 4 ngày tiến hành liệu trình tiếp, đồng thời mỗi ngày sắc uống bài Thông mạch ( Hoàng kỳ, Hồng hoa, Xuyên khung, Đơn sâm, Sơn tra, Ngưu tất, Địa long, Quế chi). Trị 110 ca nhũn não, khỏi 52 ca, kết quả tốt 36 ca, tiến bộ 20 ca, tỷ lệ kết quả 98,2% ( Tân trung y 1982,3:37).
8.Trị bệnh tim mạch:Tổ nghiên cứu bệnh mạch vành Bệnh viện Phụ ngoại thuộc viện Khoa học Y học Trung quốc dùng bài thuốc: Hoàng kỳ 30g, Xích thược, Đơn sâm mỗi thứ 15g, Đương qui 12g, Xuyên khung 10g, mỗi ngày 1 thang sắc uống, một liệu trình 4 - 6 tuần, kết hợp thuốc tây y điều trị triệu chứng. Trị 98 ca nhồi máu cơ tim cấp thể khí hư huyết ứ, kết quả 90 ca hồi phục, 8 ca tử vong, so với tổ chỉ dùng tây y 151 ca, hồi phục 101 ca, tử vong 44 ca ( Tạp chí Nội khoa Trung hoa 1976,4:216).
9.Trị chứng bạch cầu giảm:Phùng văn Trung dùng bài: Sinh Hoàng kỳ 30g, Điều sâm 15g, Tiểu hồng táo 20 quả, sắc uống. Trị chứng bạch cầu giảm do Dibazol 14 ca có kết quả tốt ( Tạp chí Trung y Vân nam 180,2:28).
10.Trị bệnh thận:Tổ nghiên cứu viêm thận thuộc Sở nghiên cứu Y dược dân tộc tỉnh Hắc long giang dùng độc vị Hoàng kỳ chế thành cao lỏng, mỗi ngày uống tương đương lượng 100g thuốc sống, chia 2 lần. Thời gian điều trị từ 15 ngày đến 3 tháng, không dùng các loại thuốc tây. Đã trị viêm thận mạn 20 ca, kết quả tốt 7 ca, tiến bộ 9 ca, không kết quả 4 ca. Phần lớn bệnh nhân triệu chứng lâm sàng được cải thiện, đạm niệu hết hoặc giảm ( Báo Trung Y dược Hắc long giang 1982,1:39).
*.Đồng đức Trường dùng dịch tiêm Hoàng kỳ 2ml ( hàm lượng tương đương 3g Sinh Hoàng kỳ), một liệu trình 30 ngày không dùng các loại thuốc khác. Trị 56 ca viêm cầu thận mạn, sau một liệu trình nhận xét thấy thuốc có tác dụng điều tiết tế bào miễn dịch và dịch thể miễn dịch, giảm đạm niệu, tỷ lệ kết quả 61,7%, chức năng thận được cải thiện ( Tạp chí Trung y kết hợp 1987,7:403).
11.Trị sốt xuất huyết:Phan cốc Vân dùng dịch tiêm Hoàng kỳ ( 1ml có Hoàng kỳ sống 1g) cho vào dịch truyền 20ml, nếu không cần truyền dịch thì tiêm bắp mỗi lần 5ml, ngày 2 lần, 7 ngày là một liệu trình. Đã trị 23 ca, sau 3 ngày tiến triển tốt 17 ca, 2 ca nặng lên ( Báo Tân Y học 1983,5:240).
12.Trị thị lực giảm sau phẫu thuật bóc võng mạc mắt:Nhiếp Aùi quang dùng dịch tiêm Hoàng kỳ 2 ml ( 1ml có 2g thuốc sống) tiêm bắp, 30 lần là một liệu trình. Sau phẫu thuật lần 1: 5 - 6 tháng bắt đầu điều trị tất cả 32 ca, 23 ca viễn thị, thị lực tiến bộ và tiếp tục được cũng cố ( Báo Trung thảo dược 1981,3:23).
13.Trị tuyến tiền liệt phì đại:Hoàng chí Cường và cộng sự dùng bài Bảo nguyên thông bế thang ( Sinh Hoàng kỳ 100g, Hoạt thạch 30g), sắc nước 2 lần trộn đều, ngoài ra dùng Hổ phách 3g tán bột cho vào thuốc chia uống lúc bụng đói. Kết quả theo dõi 52 ca không còn triệu chứng lâm sàng, tiểu tiện bình thường, kiểm tra trực tràng tuyến tiền liệt bình thường 38 ca, triệu chứng có bớt, tiểu thông hơn, tuyến tiền liệt có nhỏ 13 ca, 1 ca không kết quả ( Tân trung y 1987,10:54).
14.Trị bệnh vẩy nến:Lưu minh Huệ cho uống viên cao Hoàng kỳ ( 1 viên có hàm lượng thuốc sống 1,33g), mỗi lần 4 viên, ngày 2 lần hoặc mỗi ngày tiêm dịch tiêm Hoàng kỳ 2ml ( hàm lượng 1ml có 4g thuốc sống) tiêm bắp hoặc uống bài thuốc sắc có Hoàng kỳ, ngoài bôi thêm thuốc mỡ acid boric 10% hoặc thuốc mỡ lưu huỳnh 10%. Đã trị 204 ca, khỏi 42 ca, cơ bản khỏi 62 ca, đỡ nhiều 91 ca, 9 ca không khỏi, tỷ lệ kết quả 95,6% ( Tạp chí Trung y 1985,7:52).
15.Trị luput ban đỏ:Phan phúc sơ dùng Hoàng kỳ 30-60-90g, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, liệu trình từ 1 - 12 tháng, một số ít phối hợp dùng liều nhỏ và trung bình cocticoit. Đã trị 17 ca, kết quả tốt 6 ca, 11 ca khác đều tiến bộ, tỷ lệ kết quả 100% ( Tạp chí Y học lâm sàng 1985,2:24).
Ngoài những kết quả phòng và chữa bệnh của các tài liệu đã nêu, Hoàng kỳ thường được phối hợp trong các bài cổ phương để trị nhiều chứng bệnh sau:
16.Trị cơ thể suy nhược ra mồ hôi, dùng bài:
*.Ngọc bình phong tán: Hoàng kỳ 24g, Bạch truật, Phòng phong mỗi thứ 8g, tán bột mịn trộn đều, mỗi lần uống 6 - 8g, ngày uống 2 lần, pha rượu hoặc sắc nước uống.
17.Trị chứng huyết hư có sốt hoặc sau khi mất nhiều máu, dùng bài:
*.Đương qui bổ huyết thang ( Nội ngoại thương biện hoặc luận): Hoàng kỳ 40g, Đương qui 8g sắc uống.
18.Trị chứng sốt kéo dài lâu ngày không khỏi, thường gặp trong các bệnh mạn tính cơ thể hư nhược, dùng bài Bổ trung ích khí thang để chữa gọi là phép " Cam ôn trừ đại nhiệt".
*.Bổ trung ích khí thang ( Tỳ vị luận): Hoàng kỳ 16g, Bạch truật, Đảng sâm, Đương qui mỗi thứ 12g, Sài hồ, Trần bì mỗi thứ 6g, Thăng ma, Chích thảo mỗi thứ 4g, có thể thêm một số thuốc tư âm thanh nhiệt như Huyền sâm 10g, Tri mẫu 8g.
19.Trị ung nhọt sang thương lâu ngày không làm mủ hoặc nhọt lở loét khó liền miệng, thường dùng bài:
*.Hoàng kỳ nội thác tán: Hoàng kỳ 16g, Đương qui 12g, Xuyên khung 6g, Bạch truật 12g, Kim ngân hoa 16g, Tạo giác thích, Thiên hoa phấn, Trạch tả mỗi thứ 12g, Cam thảo 4g, sắc uống.
*.Tứ diệu thang: Hoàng kỳ, Kim ngân hoa, mỗi thứ 20g, Đương qui 16g, Cam thảo 6g, sắc uống. Trị nhọt lở do cơ thể hư mà lâu lành. 20.Trị chứng phù toàn thân do tâm thận dương hư: dùng các bài:
*.Phòng kỷ Hoàng kỳ thang: Hoàng kỳ 12g, Phòng kỷ 12g, Bạch truật 8g, Cam thảo 4g, Gừng tươi 12g, Đại táo 3 quả, sắc nước uống. Trị viêm thận mạn, phù, ra mồ hôi, sợ gió.
*.Hoàng kỳ 20 - 40g, sắc nước uống, cũng trị viêm thận mạn, đạm niệu, phù toàn thân.
21.Trị đau nhức các khớp do cơ thể suy nhược, khí huyết hư, dùng bài:
*.Hoàng kỳ quế chi ngũ vật thang: Hoàng kỳ 16g, Bạch thược 12g, Quế chi 6 - 8g, Sinh khương 12g, Đại táo 3 quả, sắc nước uống ( Kim quỷ yếu lược).
Những trường hợp viêm khớp mạn tính, viêm quanh khớp, đau trong chứng liệt 1/2 người do tai biến mạch máu não do khí huyết hư, khí huyết ứ trệ, có thể dùng bài:
*.Bổ dương hoàn ngữ thang ( Y lâm cải thác): Sinh Hoàng kỳ 40 - 60g, Đương qui vỹ 8g, Xích thược 6g, Địa long 4g, Xuyên khung 4g, Đào nhân 4g, Hồng hoa 4g, sắc nước uống.
22.Trị tiểu đường thường phối hợp với Hoài sơn, Sinh địa, Thiên hoa phấn.
Liều lượng thường dùng và chú ý lúc dùng:
*.Liều lượng: thường dùng 10 - 20g, dùng liều cao có thể từ 30 đến 160g.
*.Chú ý:
1.Theo sách Dược phẩm hóa nghĩa: thuốc mật sao có tác dụng ôn trung, chủ kiện tỳ, nên chích Hoàng kỳ dùng bổ khí thăng dương, Sinh Hoàng kỳ có tác dụng thoái hư nhiệt, thác sang thương.
2.Tuy trên thực nghiệm súc vật, thuốc có tác dụng cường tim, nhưng trên lâm, không dùng trị suyễn do suy tim vì dùng sẽ tăng cơn khó thở có thể do hưng phấn trung khu thần kinh của thuốc, kích thích cơ trơn co thắt, cần chú ý.
3.Tuy thuốc trên thực nghiệm có tác dụng hạ áp nhưng không nên dùng trong trường hợp huyết áp cao vì thuốc có tác dụng thăng dương.
4.Đối với trường hợp rối loạn tiêu hóa nếu bụng trên đầy thuộc thực chứng, dương chứng, không nên dùng.
5.So với Nhân sâm và Đảng sâm, Hoàng kỳ thiên về bổ khí ở cơ biểu, dùng tốt đối với chứng biểu hư còn Nhân sâm ( Đảng sâm) bổ khí của ngũ tạng chủ yếu bổ lý hư nên kết hợp dùng càng tốt.
6.Dùng Hoàng kỳ lâu ngày để bớt nóng nên gia Tri mẫu, Huyền sâm. HUYỀN SÂM Tên khác
Tên Hán Việt khác: Vị thuốc huyền sâm còn gọi Trọng đài(Bản Kinh), Chính mã, Huyền đài, Lộc trường, Qủi tàng, Đoan(Ngô Phổ Bản Thảo), Hàm(Biệt Lục),Trục mã(Dược Tính Luận), Phức thảo(Khai Bảo Bản Thảo), Dã chi ma(Bản Thảo Cương Mục), Hắc sâm(Ngự Dược Viện), Nguyên sâm(Bản Thảo Thông Huyền), Sơn ma, Dã chi ma, Năng tiêu thảo, Lăng tiêu thảo, Huyền vũ tinh, Lộc dương sinh(Hòa Hán Dược Khảo), Đại nguyên sâm, Hắc nguyên sâm, Ô nguyên sâm, Khuê giác sâm, Trần nguyên sâm(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Sơn đương quy(Hồ Nam Dược Vật Chí), Thủy la bặc(Triết Giang Trung Dược Chí).
Tên khoa học: Scrophularia kakudensis Franch
Họ khoa học: Họ Hoa Mõm Chó (Scrophulariaceae).
Cây huyền sâm
(Mô tả, hình ảnh cây huyền sâm, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Huyền sâm là cây thuốc quý, loài cây thân thảo, sống nhiều năm, thân cây vuông cao độ 1,7-2,3m, lá màu tím xanh. Lá mọc đối có cuống hình trứng dài, đầu nhọn vát, rìa lá có răng cưa, màu xanh nhạt. Cây ra hoa mùa hè. Hoa tự xếp thành hình chùy tròn, ống tràng hoa hình chén, cánh hình môi, chia làm 5 thùy, màu tím xám dài ngắn, 5 thùy. Quả bế đôi hình trứng. Hạt nhỏ bé, nhiều hạt màu đen, rễ to mập nhưng hơi cong, dài độ 10-20cm, giữa rễ củ phình lớn, hai đầu củ hơi thon, nói chung mỗi gốc có 4-5 củ mọc thành chùm, lúc tươi vỏ màu trắng hoặc vàng nhạt, sau khi chế biến vỏ ngoài màu nâu nhạt bên trong màu đen, mềm dẻo.
Huyền sâm sản xuất ở tỉnh Tứ Xuyên gọi là “Xuyên huyền sâm” hay “Thổ Huyền sâm” thường trồng vào đầu mùa hạ, đến mùa thu sang năm thì thu hoặch. Chủ yếu phân bố ở Đạt Huyện, Ôn Giang, Vạn Huyện, Bồi Lăng. Huyền sâm xản xuất ở tỉnh Triết Giang thuộc loại Quảng huyền sâm, trồng vào đầu năm thu hoạch vào cuối năm, phân bố ở các huyện Đông Dương, Tiêu cư. Loại này sản xuất ở các tỉnh Sơn Đông, Hồ Bắc, Giang Tây, Thiểm Tây, Quý Châu, Cát Lâm, Liêu Ninh. Ở các tỉnh trên ngoài việc trồng trọt ra, còn có khai thác cây mọc hoang dại. Huyền sâm mới di thực vào nước ta, trồng ở đồng bằng hay miền núi đều cho năng xuất cao, chất lượng tốt. Ở đồng bằng gieo trồng tháng 10-11, ở miền núi tháng 2-3. Cây ưa đất pha cát nhiều chất mùn, màu mỡ, thoát nước tốt. Có thể gieo thẳng hoặc trồng bằng mầm non sau khi thu hoạch nhưng thông thường là gieo thẳng. Ngâm hạt với nước ấm, trong 4 giờ, vớt ra để ráo, trộn với đất bột để gieo. Gieo xong tưới nước phủ rơm rạ.
Thu hái, sơ chế:
Vào vụ, ở đồng bằng thu hoạch vào tháng 7-8, miền núi tháng 10-11, năm thứ 2 sau khi trồng, lúc cây đã tàn lụi thì thu hoạch, lúc thu hoạchthì dùng cuốc đào, nắm lấy gốc cây rũ lấy củ, ngắt bẻ lấy củ để chế biến. Nếu cần lấy đầu chồi hoặc đầu củ để làm giống, cũng cần kết hợp chọn lúc này.
a) Phương pháp sơ chế Thổ huyền sâm:
Sau khi thu hoạch đem đi rửa ngay đưa lên gìan sấy, sấy cho tới lúc khô được một nửa thì đem ra chất đống 2-3 ngày, bên trên có phủ kín cỏ rạ làm cho ruột củ biến thành màu đen, nước bên trong thấm thấu ra ngoài, lại đem ra sấy, sấy cho tới lúc khô 9 phần, bỏ vào trong xảo, lắc đi lắc lại cho củ rễ và đất cát rơi xuống hết, sau đó phân loại đem bán.
b) Phương pháp chế biến Huyền sâm Triết Giang. Sau khi thu hoạch về, đem phơi nắng ngay, lúc phơi khô được một nửa, đem chất đống 2-3 ngày, sau đó lại đem phơi, qua độ 40 ngày thì khô kiệt, nếu trường hợp bị mưa thì cũng có thể dùng lửa sấy. Dù là sấy hay phơi khô, điền cần phải chú ý không được làm cho rỗng ruột. Nếu phải dùng lửa sấy thì cần phải chú ý đặc biệt đến lửa sấy, nhất thiết không được quá to lửa, để tránh khô giòn rỗng ruột.
Phần dùng làm thuốc: Rễ.
Mô tả dược liệu:
Rễ vẫn gọi là củ khô, hình trụ, chính giữa phình lớn, phía dưới thuôn nhỏ lần, ở phía trước gốc có cổ hẹp lại, phía trên có nuốm phình lớn, rễ dài từ 12-15cm, rộng chừng 21mm, 25mm, mặt ngoài biểu hiện màu nâu đất, có nếp nhăn sâu rõ ràng và các bì khổng dài ngang màu đất sét, nếp nhăn nằm ngang tương đối ít, có khi cũng có thể thấy sẹo của nhánh rễ bị đứt ngang, chất cứng dẻo, khó bẻ gãy, mặt cắt ngang mềm màu đen nhiều thịt, đầu ướt như keo khói đèn hoặc Thục địa, ở chính giữa hơi biểu hiện dạng xơ, phía ngoài cùng có lớp bần mỏng, phía trong có nhiều vân tỏa ra (bó libe gỗ). Bột màu đen, nhạt, vị hơi ngọt mặn.
Bào chế:
1- Đào củ về rửa sạch, lót cỏ lác, xếp củ vào chỗ đồ lên cho chín, phơi khô dùng (Lôi Công).
2- Rửa sạch, ủ mềm, xắt lát phơi khô (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Phân biệt:
Hiện nay Huyền sâm được chia ra 2 loại: loại Thổ Huyền sâm, và loại Quảng Huyền sâm, ngoài ra còn có một loại Huyền sâm mọc hoang (Dã Huyền sâm).
1- Quảng huyền sâm (Scrophularia ningpoensis Hemsl) là cây thân cỏ sống lâu năm. Mặt sau lá và trên cây non có lông ngắn mọc chi chít, thân cây hình vuông, cao độ 1-1,7m. Lá mọc đối, có cuống, hình trứng hẹp, đầu nhọn, có cuống rộng hơn cuống lá Thổ huyền sâm mép lá có răng cưa đều đặn, lá cũng dầy hơn lá Thổ huyền sâm. Về mùa hè cây ra hoa, tụ họp thành chùy trìn, phần ống tràng giống như chiếc tách, rìa cánh hình môi, màu tím đỏ, 4 nhị đực, 1 nhị cái. Quả bế đôi nhỏ, hình trứng. Rễ củ tương đối to mập, hình búa, vỏ màu nâu xám ruột trắng sau khi chế biến khô thì tự trở thành màu nâu đen.
2- Dã huyền sâm (Scrophularia oilhami Oliv) về hình thái thì rất giống cây Quảng huyền sâm, chỉ khác là đuôi lá của loài này nhọn nhỏ, mặt phẳng nhẵn, thân không có lông, hoa tự dạng bông dài nhỏ, tràng màu vàng xanh nhạt, củ gầy gò, mọc hoang dại ở vùng Đông Bắc tỉnh Sơn Đông- Trung Quốc (Danh Từ Dược Vị Đông Y
Bảo quản:
Dễ mốc trắng, để nơi khô ráo, đậy kín, dưới có lót vôi sống. Hay đem phơi nắng.
Thành phần hóa học:
+ L-Asparagine, Oleic acid, Linoleic acid, Stearic acid (Trung Dược Học).
+ Harpagide, Harpagoside, Ningpoenin (Kitagawa I và cộng sự, Chem Pharm Bull 1967, 15: 1254).
+ Aucubin, 6-O-Methylcatalpol (Qian Jing Fang và cộng sự, Phytochemistry 1992, 31 (3): 905).
+ Asparagine (Lâm Khải Thọ, Trung Thảo Dược thành Phần Hóa Học, Bắc Kinh Khoa Học Xuất Bản 1977: 25).
Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng kháng khuẩn: In vitro, nướcsắc Huyền sâm có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với Pseudomonas aeruginosa (Chinese Herbal Medicine).
+ Tác dụng đối với hệ tim mạch: Nướcsắc Huyền sâm có tác dụng tăng huyết áp, đặc biệt trong huyết áp cao do thận. Hiệu quả này có lẽ do tác dụng co mạch (Chinese Herbal Medicine).
+ Nước sắc Huyền sâm có tác dụng an thần, chống co giật, giải nhiệt (Trung Dược Học).
+ Nước sắc Huyền sâm có tác dụng cường tim nhẹ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Nước sắc Huyền sâm có tác dụng gĩan mạch, hạ áp (Hồng Duy Quế, Triết Giang Y Học 1981 (1): 11).
+ Cồn chiết xuất Huyền sâm có tác dụng làm tăng lưu lượng máu của mạch vành, làm cho sức chịu đựng trạng thái thiếu Oxy của tim được tốt hơn (Kinh Lợi Bân (Quốc Lập Bắc Bình Nghiên Cứu Viện Sinh Lý Sở trung Văn Báo Cáo 1936, 3 (1): 1).
+ Nước sắc Huyền sâm có tác dụng hạ hiệt tốt (Won S W, C A 1965, 62: 9631).
Vị thuốc huyền sâm
(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)
Tính vị:
+ Vị đắng, tính hơi hàn (Bản Kinh).
+ Vị hơi đắng, hơi mặn lẫn ngọt, tính mát (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
+ Vị đắng, mặn, tính hàn (Trung Dược Học).
+ Vị đắng, mặn, tính hơi hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
+ Vào kinh túc Thiếu âm Thận (Dược Loại Pháp Tượng).
+ Vào kinh Tâm, Phế, Thận (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
+ Vào kinh Tỳ, Vị, Thận (Bản Thảo Tân Biên).
+ Vào kinh Phế, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vào kinh Phế, Thận (Trung Dược Học).
+ Vào kinh Phế, thận (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác dụng:
+ Tư âm, giáng hỏa, trừ phiền, chỉ khát, giải độc, lợi yết hầu, nhuận táo, hoạt trường (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).+ Tư âm, giáng hỏa, trừ phiền, giải độc. Trị nhiệt bệnh, phiềnkhát, phát ban, nóng trong xương, đêm nằm không yên, mồ hôi tự ra, mồ hôi trộm, táo bón, thổ huyết, chảy máu cam, họng sưng đau, phù thũng, lao hạch (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Thanh Thận hỏa, tư âm, tăng dịch. Trị âm hư, bạch hầu, họng sưng đau, ôn dịch độc, ban sởi, giải ôn tà thời khí, trừ phiền nhiệt, bứt rứt (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Kiêng kỵ:
+ Tỳ vị có thấp, tỳ hư, tiêu chảy: không dùng (Trung Dược Học).
+ Huyết thiếu, mắt mờ, đình ẩm, hàn nhiệt, chi mãn, huyết hư, bụng đau, tỳ hư, tiêu chảy: không dùng (Trung Dược Học).
+ Kỵ Hoàng kỳ, Can khương, Đại táo, Sơn thù. Phản Lê lô (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Âm hư mà không có nhiệt, hoặc âm hư kèm tiêu chảy: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Tỳ Vị có thấp, Tỳ hư kèm tiêu chảy: không dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Liều dùng: 12 – 20g
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc huyền sâm
Trị các loại độc do rò:
Huyền sâm ngâm rượu uống hàng ngày (Khai Bảo Bản Thảo).
Trị loa lịch lâu năm:
Huyền sâm sống, gĩa nát, đắp, 2 ngày thay một lần (Quảng Lợi Phương).
Trị gân máu đỏ lan đến đồng tử mắt:
Huyền sâm tán bột, lấy nước cơm nấu gan Heo chấm ăn hàng ngày (Tế Cấp Phương).
Trị họng sưng, phát ban:
Huyền sâm, Thăng ma, Cam thảo, mỗi thứ 20g, sắc với 3 chén nước còn 1 chén rưỡi, uống nóng (Huyền Sâm Thăng Ma Thang - Nam Dương Hoạt Nhân Thư Phương).
Trị họng sưng, họng nghẹn:
Huyền sâm, Thử niêm tử, nửa sao, nửa để sống, mỗi thứ 40g, tán bột uống (Thánh Huệ Phương).
Trị trong mũi lở:
Dùng bột Huyền sâm bôi vào hoặc lấy nước tẩm với thuốc cho mềm, nhét vào mũi (Vệ Sinh Dị Giản Phương).
Trị nhiệt tích ở tam tiêu:
Huyền sâm, Hoàng liên, Đại hoàng mỗi thứ 40g, tán bột, Luyện mật làm viên, to bằng hạt ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30-40 viên với nước, trẻ con viên lớn bằng hạt gạo (Đan Khê Tâm Pháp).
Trị tiểu trường sán khí (thoái vị):
Hắc sâm, tướt nhỏ, sao, tán bột làm viên. Mỗi lần uống 6g với rượu lúc bụng đói, mồ hôi ra là đạt hiệu quả (Tập Hiệu Phương).
Trị thương hàn mà đã dùng phép phát hãn, phép thổ mà độc khí không giảm, biểu hư, lý thực, nhiệt phát ra bên ngoài làm cho toàn cơ thể phát ban, phiền táo, nói sảng, họng sưng đau:
Chích thảo20g, Huyền sâm 20g, Thăng ma 20g, Chặt nhỏ thuốc ra. Mỗi lần dùng 20g, sắc với 1 chén nước còn 7 phân, bỏ bã, uống (Huyền Sâm Thăng Ma Thang – Loại Chứng Hoạt Nhân Thư).
Trị sốt cao, mất nước, táo bón:
Huyền sâm 12g, Mạch môn 12g, Sinh địa 12g. Sắc uống (Huyền Sâm Thang – Sổ Tay 540 Bài Thuốc Đông Y). Phòng chứng đậu:
Huyền sâm 200g, Dùng chầy gỗ, gĩa nhỏ, phơi khô, tán bột. Thỏ ty tử 400g, rửa sạch, phơi khô, tán nhỏ trộn với đường làm hoàn. Ngày uống 6 - 8g với nước đường (Huyền Thỏ Đơn – Mộng Trung Giác Đậu).
Trị họng sưng đau sau khi đậu mọc:
Bạch thược 4g, Bồ hoàng 2g, Cam thảo 2g, Chi tử 2g, Đơn bì 2g, Huyền sâm 2g, Sinh địa 2g, Thăng ma 2g, Sắc uống (Huyền Sâm Địa Hoàng Thang – Mộng Trung Giác Đậu).
Trị lao:
Huyền sâm 480g, Cam tùng 180g, tán bột. Luyện với 480g mật ong, trộn đều, bỏ vào hũ, bịt kín, chôn dưới đất 10 ngày xong lấy ra. Lại dùng tro luyện với mật, cho vào cả trong bình, đậy lại, ủ kín thêm 5 ngày nữa, lấy ra đốt cháy, cho người bệnh ngửi (Kinh Nghiệm Phương).
Trị động mạch viêm tắc:
Huyền sâm, Đương quy, Kim ngân hoa, Cam thảo (Tứ Diệu Dũng An Thang – Nghiệm Phương Tân Biên).
+Sáng mắt:
Huyền sâm cùng với Địa hoàng, Cam cúc hoa, Bạch tật lê, Câu kỷ tử, Sài hồ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Trị loa lịch:
Huyền sâm cùng với Bối mẫu, Liên kiều, Cam thảo, Qua lâu căn, Bạc hà, Hạ khô thảo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Trị thương hàn dương độc, sau khi sốt ra mồ hôi, độc uất kết không tan ra, ngột dưới tim, buồn bực không ngủ, tâm thần điên đảo muốn chết:
Huyền sâm, Tri mẫu, Mạch môn đông các vị bằng nhau sắc uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Trị họng sưng, thanh quản viêm:
Huyền sâm: Ngưu bàng tử, mỗi thứ 20g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị bạch hầu:
Huyền sâm 20g, Sinh địa 16g, Mạch môn 12g, Cam thảo 4g, Bối mẫu 8g, Đơn bì 12g, Bạch thược 16g, Bạc hà 2g, sắc uống (Dưỡng Âm Thanh Phế Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị sốt cao tổn thương âm dịch, nóng nảy bứt rứt, khát, cũng có thể dùng trong chứng bại huyết, tinh hồng nhiệt, viêm quầng phát tán, phát sởi, hoặc nóng nảy trong ngực, hôn mê:
Huyền sâm 20g, Tê giác 4g, Sinh địa 24g, Trúc diệp tâm 12g, Đan sâm 16g, Mạch môn đông 12g, Kim ngân hoa 16g, Liên kiều 16g, Hoàng liên 4g. Sắc uống (Thanh Dinh Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị cơ thể suy nhước ăn ít do lao phổi, ho sốt:
Huyền sâm 20g, Sơn dược 40g, Bạch truật 12g, Ngưu bàng tử 12g, Kê nội kim 8g. Sắc uống (Tư Sinh Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị ban sởi:
Hóa Ban Thang thêm Huyền sâm 12g, Tê giác 4g (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị phát ban, họng sưng
Huyền sâm 16g, Thăng ma 12g, Cam thảo 8g. Sắc uống (Huyền Sâm Thăng Ma Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị lao hạch lâm ba (chưa vỡ mủ), hạch lâm ba viêm:
Huyền sâm 16g, Mẫu lệ 12g, Bối mẫu 8g, Liên kiều 16g, Hạ khô thảo 12g, sắc uống (Tiêu Lịch Hoàn Gia Vị - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị da tay tróc:
Huyền sâm 30g, Sinh địa 30g. ngâm uống như uống nước trà, có kết quả tốt (Khang Đức Lương, ‘Dùng Huyền Sâm Trị 50 ca Tróc Da Ngón Tay’ (Bắc Kinh Y Học Viện Học Báo 1959, (1): 52).
Tham khảo:
+ Huyền sâm chủ về các bệnh sản nhũ với sản hậu thoát huyết, thì âm suy mà hỏa vô sở chế, chữa bằng hàn lương, đã e rằng tổn thương bên trong, mà cộng thêm bổ mạnh, lại e không thu nhận được, chỉ có Nguyên sâm thanh (mát) mà hơi ghé bổ, vì vậy Huyền sâm là thuốc chính trong sản hậu (Bản Thảo Kinh Độc).
+Huyền sâm, Huyền (đen) là màu sắc thủy của thiên (trời), Sâm là nghĩa là tham gia. Rễ đặc, tất cả đều màu đen, vị đắng khí hàn, bẩm tinh của Thiếu âm hàn thủy, trên thông với Phế nên hơi có mùi tanh. Chủ trị hàn nhiệt tích tụ trong bụng. Trên giao với Phế thì thủy thiên nhất khí luân chuyển trên dưới, mà khối tích tụ hàn nhiệt trong bụng tự tan. Các bệnh ở vú, sản hậu ở phụ nữ, do sanh đẻ mà nội tạng hư yếu, bệnh về vú là trung tiêu bất túc. Tuy có bệnh tật ắt phải bổ thận hòa trung, Huyền sâm là tinh tư thận, trợ trấp (nước) của trung tiêu nên có thể chữa được. Hơn nữa, bổ Thận khí, làm cho người ra sáng mắt vậy. Là trung phẩm trong chữa bệnh thì không nên dùng lâu (Bản Thảo Sùng Nguyên).
+Huyền sâm thanh kim bổ thủy, phàm chứng nhọt lở nóng đau, ngực đầy, phiền khát, nước tiểu đỏ, tiểu khó, các chứng tiểu bí dùng Huyền sâm đều rất hay. Thanh phế nhiệt thì dùng với Trần bì, Hạnh nhân. Lợi tiểu thì dùng chung với Phục linh, Trạch tả, trong nhẹ phơi phới, là thuốc tốt nhất không làm hàn lạnh trúng khí (Ngọc Thu Dược Giải).
+Huyền sâm sắc đen, thuộc thủy có tính nhuận hạ, vốn vị mặn, đắng, khí hàn, là thuốc của kinh Túc thiếu âm, giống như Địa hoàng công hiệu cũng là bổ thận, mà Huyền sâm chủ về âm khí, còn Địa hoàng tráng thủy để chế hỏa; Huyền sâm thì quản lĩnh các khí, tất cả hỏa phù du, hoặc viêm hoặc tụ, có khả năng làm cho thanh (mát) và tan đi. Công năng bổ thận của nó là bổ hiện tượng cơ thể lúc thận khí mới hình thành, không phải bổ hình chất tàng (chứa) trong tạng Thận. Phàm bệnh vốn từ nhiệt mà khí hóa, có thể dẫn đến phần chí âm của nó vào nơi phần khí, nên khí bởi nhiệt kết, bất kể thượng hạ, không chia hư thực, tùy chủ hay phụ, đều có thể dùng phép thanh. Phàm đúng là tà khí, trừ tà khí không thể trị cậy vào đấy, mà với khí âm của Huyền sâm, cùng khí hóa nơi tà khí. Hư là chiùnh khí hư, bổ chiùnh khí cũng không thể chỉ nhờ vậy mà với âm khí của Huyền sâm kiêm trợ khí nơi chiùnh khí vậy. Khả năng của Huyền sâm là như thế, người dùng nên liệu sở trường của nó mà sử dụng (Bản Thảo Thuật Câu Nguyên).
+ Huyền sâm mầu đen, vị mặn, cho nên hay chạy vàokinh Thận, người xưa thường dùng để trị chứng hỏa ở thượng tiêu, chính vì cho là thủy không thắng được hỏa, hỏa bốc lên. Làm mạnh thủy để chế bớt hư hỏa bốc lên nhưng vì tính của Huyền sâm vốn hàn, hoạt, tạm thời trị hỏa hữu dư thì dùng được. Còn muốn giữ vững căn bản tư bổ thận thủy thì phải trọng dụng Thục địa mà không cần dùng đến Huyền sâm (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Địa hoàng và Huyền sâm đều có tác dụng bổ thận nhưng Địa hoàngvị ngọt còn Huyền sâm vị đắng. Huyền sâm thiên về trừ hỏa bốc lên thượng tiêu, làm cho hỏa tạm thời ổn định, Địa hoàngthiên về tư bổ thận (Đông Dược Học Thiết Yếu). ĐAN SÂM
Tên khác
Tên thông thường: Ðan sâm, Viểu đan sâm, Vử đan sâm, Vân nam thử vỹ, Huyết sâm, Xích sâm, Huyết căn, Tử đan sâm.
Tên dược:Radix Salviae militiorrhizae
Tên khoa học:Salvia miltiorrhiza Bge.
Họ khoa học: thuộc họ Hoa môi ( Lamiaceae)
Cây đan sâm
(Mô tả, hình ảnh cây đan sâm, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Cây đan sâm là một cây thuốc quý, dạng cây cỏ, sống lâu năm, cây cao khoảng 30-80cm, thân màu đỏ nâu, đường kính 0.5- 1.5cm. Thân vuông, trên có các gân dọc. Lá kép mọc đối, thường gồm 3-7 lá chét; lá chét giữa thường lớn hơn, m p lá ch t có răng cưa tù; mặt trên lá chét màu xanh tro, có lông. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành, dài 10-15cm, với 6 vòng hoa; mỗi vòng 3-10 hoa, thông thường là 5 hoa, màu đỏ tím nhạt. Tràng hoa 2 môi, môi trên cong hình lưỡi liềm, môi dưới xẻ ba thuz; 2 nhị ở môi dưới; bầu có vòi dài. Quả nhỏ, dài 3mm, rộng 1,5mm.
Mùa ra hoa từ tháng 5 đến tháng 8. Mùa quả từ tháng 6-9 hàng năm.
Phân bố:
Cây được trồng nhiều ở Trung quốc như: An huy, Sơn tây, Hà bắc, Tứ xuyên, Giang tô mới được di thực vào nước ta trồng ở Tam đảo.
Bộ phận dùng làm thuốc:
Dược liệu là rễ đã phơi hoặc sấy khô của cây Đan sâm (Salvia mitiorrhiza).
Mô tả dược liệu:
Vị thuốc đan sâm là rễ của cây đan sâm - là một vị thuốc quý. Rễ ngắn, thô, đôi khi ở đầu rễ còn sót lại gốc của thân cây. Rễ hình trụ dài, hơi cong queo, có khi phân nhánh và có rễ con dạng tua nhỏ; dài 10-20 cm, đường kính 0,3-1 cm. Mặt ngoài màu đỏ nâu hoặc đỏ nâu tối, thô, có vân nhăn dọc. Vỏ rễ già bong ra, thường có màu nâu tía. Chất cứng và giòn, mặt bẻ gẫy không chắc có vết nứt, hoặc hơi phẳng và đặc, phần vỏ màu đỏ nâu và phần gỗ màu vàng xám hoặc màu nâu tía với bó mạch màu trắng vàng, xếp theo hình xuyên tâm.
Bào chế:
Đan sâm khô, loại bỏ tạp chất và thân sót lại, rửa sạch, ủ mềm, thái lát dày, phơi khô để dùng. Tửu đan sâm (Chế rượu): Lấy đan sâm đã thái phiến, thêm rượu, trộn đều dược liệu với rượu, đậy kín, để 1 giờ cho ngấm hết rượu, đem sao nhỏ lửa đến khô, lấy ra, để nguội. Cứ 10 kg đan sâm cần 1 lít rượu.
Thành phần hóa học:
Các dẫn chất có nhóm ceton (tansinon I, tansinon II, tansinon III ) và chất tinh thể màu vàng cryptotanshinon, isocryptotanshinon, methyl-tanshinon. Ngoài ra còn có acid lactic, phenol, vitamin E. Công năng: Khứ ứ chỉ thống, hoạt huyết thông kinh, thanh tâm trừ phiền. Công dụng: Chữa hồi hộp mất ngủ, kinh nguyệt không đều, bế kinh, hạ tiêu kết hòn cục, khớp sưng đau, mụn nhọt sưng tấy.
Tác dụng dược lý:
Đan sâm có tác dụng làm giãn động mạch vành, khiến lưu lượng máu của động mạch vành tăng rõ, cải thiện chức năng tim, hạn chế nhồi máu cơ tim. Trên thực nghiệm chuột nhắt hay chuột lớn thuốc đều có tác dụng tăng hoặc kéo dài tỷ lệ sống trong điều kiện thiếu oxy.
Thuốc có tác dụng cải thiện tuần hoàn ngoại vi, chống đông máu.
Có tác dụng hạ huyết áp.
Trên thực nghiệm thỏ gây xơ mỡ mạch, thuốc có tác dụng làm giảm triglicerit của gan và máu.
Thuốc có tác dụng kháng khuẩn, an thần, ức chế sự phát triển của tế bào ung thư trên chuột thực nghiệm.
Vị thuốc đan sâm
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị:
Ðắng và hơi lạnh, không độc.
Quy kinh:
Tâm, tâm bào và can
Tác dụng:
Hoạt huyết hóa ứ, lương huyết tiêu ung, dưỡng huyết an thần, thanh nhiệt trừ phiền.
Sách Bản kinh: " Chủ tâm phúc tà khí, trường minh ( sôi bụng), hàn nhiệt tích tụ, phá trưng trừ hà, chỉ phiền mạn, ích khí".
Sách Danh y biệt lục: " Dưỡng huyết, khử tâm, phúc kết khí, yêu tích cường ( cứng cột sống), cước tý, trừ phong tà lưu nhiệt, uống lâu có lợi".
Sách Nhật hoa tử bản thảo: Dưỡng thần định chí, thông lợi quan mạch. Trị lãnh nhiệt lao, đau nhức khớp, chân tay cử động khó, bài nùng chỉ thống, sinh cơ trưởng nhục, phá ứ huyết, bổ tân sinh huyết an thai, tống tử thai, chỉ huyết băng đới hạ, điều phụ nhân kinh mạch không đều, huyết tà tâm phiền, ác sang giới tiễn, nhọt độc, đơn độc, đau đầu mắt đỏ, ôn nhiệt sinh cuồng".
Sách Bản thảo cương mục: " hoạt huyết, thông tâm bào lạc, trị sán thống".
Sách Phụ nhân minh lý luận viết: " tứ vật thang trị bệnh phụ nhân, bất kể trước hay sau sinh, kinh thủy nhiều hay ít vị Đan sâm đều dùng được. Độc vị Đan sâm tán chủ trị như Tứ vật thang. Đan sâm có tác dụng phá súc huyết, bổ tân huyết, an sinh thai, tống tử thai, chỉ băng trung đới hạ, điều kinh mạch, tác dụng như Đương qui, Địa hoàng, Khung thược".
Sách Bản thảo cầu chân: " Đan sâm sinh tân an thai, điều kinh trừ phiền, dưỡng thần định chí và tất cả các chứng phong tý, băng đới, trưng hà, mục xích, sán thống, sang giới sưng đau, do thuốc có tác dụng khu ứ mà bệnh khỏi".
Cách dùng, liều lượng:
Ngày 6 – 12g, dạng thuốc sắc.
Chỉ định và phối hợp:
-Huyết ứ bên trong biểu hiện kinh nguyệt không đều, mất kinh, đau bụng hoặc đau bụng sau đẻ. Ðan sâm phối hợp với ích mẫu, Ðào nhân, Hồng hoa và Ðương qui.
- Khí huyết ứ trệ biểu hiện đau vùng tim, đau bụng hoặc đau vùng thượng vị. Ðan sâm phối hợp với Sa nhân và Ðàn hương trong bài Ðan sâm ẩm.
- Huyết ứ biểu hiện đau mỏi toàn thân hoặc đau khớp. Ðan sâm phối hợp với Ðương qui, Xuyên khung và Hồng hoa.
- Mụn nhọt và sưng nề. Ðan sâm phối hợp với Kim ngân hoa, Liên kiều và Nhũ hương.
- Bệnh có sốt do phong tà xâm nhập dinh phận biểu hiện sốt cao, bứt rứt, dát sần, chất lưỡi đỏ hoặc đỏ thẫm, rêu lưỡi ít. Ðan sâm phối hợp với Sinh địa hoàng, Huyền sâm và Trúc diệp.
- Dinh huyết bất túc kèm theo nội nhiệt biểu hiện hồi hộp đánh trống ngực, bứt rứt và Mất ngủ. Ðan sâm phối hợp với Toan táo nhân và Dạ giao đằng.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc đan sâm
Đan sâm được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả trong điều kiện trị chứng huyết ứ ( máu cục, bầm tím, ban ứ huyết, huyết tụ, máu lưu thông chậm.)
Trị bệnh phụ khoa, điều hòa kinh nguyệt:
Đan sâm tán: Đan sâm 20 - 40g, tán bột mịn mỗi lần 6 - 8g, chia 2 lần uống trong ngày có tác dụng điều kinh hoặc sau sanh sản dịch không ra hết. Uống với rượu nóng hoặc hòa với đường mía uống càng tốt.
Đan sâm 15g, Trạch lan 12g, Hương phụ 8g, sắc uống. Hoặc dùng Đan sâm, Đương qui đều 15g, Tiểu hồi 8g, sắc uống tác dụng như bài Đan sâm tán.
Đan sâm phối hợp với Hồng hoa, Đào nhân, Ích mẫu thảo trị đau bụng kinh
Trị đau bụng do nguyên nhân khác nhau:
Đan sâm ẩm( Thời phương ca quát): Đan sâm 40g, Đàn hương, Sa nhân đều 6g, sắc uống trị đau vùng thượng vị do huyết ứ khí trệ.
Đan sâm 12 - 20g, Xích thược 8 -12g, Nhũ hương, Một dược, Sa nhân đều 6 -10g, trị cơn đau nhiều gia thêm Diên hồ sách, huyết áp không ổn gia thêm Nhân sâm
Trị viêm gan cấp:
Dùng dịch chiết Đan sâm nhỏ giọt tĩnh mạch trị 104 ca viêm gan cấp, tỷ lệ khỏi 81,7%, tổng số có kết qua đạt 98%. Trên lâm sàng và thực nghiệm, các tác giả đều phát hiện Đan sâm có tác dụng làm gan nhỏ lại, cải thiện tuần hoàn, điều tiết tổ chức hồi phục, giải độc kháng virut ( Báo cáo của Kiều Phúc Lương, Thiểm tây Trung y 1980, 6:15).
Trị suy thận mạn:
Dùng dịch chế Đan sâm( thuốc sống 3g/2ml) mỗi lần 16 - 20ml gia vào dịch gluco 5% - 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, mỗi ngày 1 lần 14 ngày liền. Trị 48 ca, đối với suy thận nhẹ kết quả 80% suy thận vừa 62,5%, suy thận nặng 65,5% ( Trương kinh Nhân, Báo cáo 48 ca suy thận trị bằng Đan sâm, Thượng hải Trung y dược tạp chí 1981,1:17).
Trị viêm gan mạn hoạt động:
Dùng dịch chiết xuất Đan sâm 4ml/chích bắp, theo dõi 3 tháng ( có tổ đối chiếu dùng thuốc tây gia biện chứng đông y). Kết quả tổ dùng Đan sâm 11 ca trong 2 tháng chức năng gan hồi phục trong 3 tháng có 6 ca ( Bạch ngọc Lương, chích dịch Đan sâm trị viêm gan mạn hoạt động. Tạp chí Trung tây y kết hợp 1984, 2:86).
Trị sốt xuất huyết:
Dịch Đan sâm uống mỗi lần 2ml ngày 2 lần ( tương đương thuốc sống 80g).
Dịch Đan sâm chích tĩnh mạch 10 - 15 ml cho vào dịch clorua natri đẳng trương, hoặc 10% dịch gluco 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch ngày 2 lần, trị 63 ca sốt xuất huyết không có tử vong. ( Diêm hiểu Bình, truyền dịch Đan sâm trị sốt xuất huyết, Tạp chí Trung y Thiểm tây 1984,2:13).
Trị ho gà biến chứng não:
Chích tĩnh mạch dịch Đan sâm, mỗi ống 2ml có 2g Đan sâm, ngày chích 1 - 2 ống. Dùng trị 28 ca hết co giật ngay trong ngày đầu, 10 ca cơn ho giảm nửa, 5 ca ho giảm, có 7 ca không kết quả ( Tiết nguyên Khôi, báo cáo trị 28 ca ho gà biến chứng não bằng dịch Đan sâm, báo Y dược Giang tây 1978,1:30).
Trị bệnh mạch vành:
Dùng Đan sâm thư tâm phiến ( ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 viên tương đương thuốc sống 60g) trị bệnh mạch vành 323 ca, tỷ lệ triệu chứng lâm sàng cải thiện 80,9%, điện tâm đồ cải thiện 57,3%, trong đó thiếu máu mạch vành được cải thiện tốt hơn nhồi máu cơ tim, đối với một số bệnh nhân thuốc có tác dụng hạ cholesterol ( theo sách Bệnh tim mạch, xuất bản 1974)
Dùng dịch Đan sâm truyền tĩnh mạch ( tương đương thuốc sống 16 - 32g gia vào dịch gluco 5% - 500ml, ngày một lần, truyền xong trong 3 - 4 giờ) trị 56 ca bệnh mạch vành, số bệnh nhân hết cơn đau thắt ngực, nặng ngực có tỷ lệ 88,6%, điện tâm đồ được cải thiện có tỷ lệ 66,6% ( Bộ môn sinh lý Viện Y học số 1 Thượng hải, Tạp chí Nội khoa Trung hoa 1977,2(4):203).
Trị viêm phổi kéo dài:
Thôi thúc Dân truyền tĩnh mạch dịch Đan sâm trị 13 ca viêm phổi kéo dài đều hết triệu chứng lâm sàng, phổi hết ran ẩm, X quang phổi hết viêm 7 ca, tiến bộ 6 ca ( Tạp chí Trung y 1982, 23(12):27).
Trị xơ cứng bì:
Tần vạn Chương dùng dịch Đan sâm nhỏ giọt tĩnh mạch trị 16 ca xơ cứng bì, kết quả tốt 37,6%, khá 31,2%, tỷ lệ có kết quả là 68,8% thời gian điều trị trung bình là 43,3 ngày ( Tạp chí Tân y dược học).
Trị ung thư:
Trương Ngọc Ngũ dùng Đan sâm nhỏ giọt tĩnh mạch trị 7 ca lymphosarcom. Kết quả hoàn toàn hết 1 ca, hết một phần 3 ca, ổn định 1 ca, tiến bộ 1 ca ( Học báo Trường Đại học Y khoa Tây an 1986,7(4):403).
Trị nhũn não:
Dùng nhỏ giọt tĩnh mạch dịch Đan sâm 8ml ( tương đương 12g thuốc sống) trị nhũn não 43 ca. Tỷ lệ có kết quả 83,72% ( khoa thần kinh Bệnh viện Hoa sơn, Báo y học Thượng hải 91978,1(2):64).
Trị huyết khối ở não:
Diệp Hựu Thái dùng dịch Đan sâm nhỏ giọt tĩnh mạch trị 46 ca huyết khối não, có kết quả 93,5% ( Học viện Trung y An huy học báo 1986,5(4):45). Tham khảo
Kiêng kị
Không dùng chung với Lê Lô CÂY HUYẾT DỤ
Tên khoa học: Cordyline terminalis Kunth ( Dracaena terminalis Jack)
Mô tả cây
Có hai loại huyết dụ: Lá đỏ cả hai mặt và Lá một mặt đỏ một mặt xanh. Cả hai thứ đều dùng được, nhưng loại toàn đỏ tốt hơn.
Cây thuộc thảo, thân to bằng ngón tay, sống dai, cao độ 1-2m. Toàn thân mang nhiều vết sẹo của lá đã rụng chỉ có lá ở ngọn. Lá không cuống, hẹp 1,2-4cm, dài 20-35cm. Hoa mọc thành chùy dài. Bầu 3 ô, mỗi ô chứa một tiểu noãn, một vòi. Quả mọng 1-2 hạt.
Công dụng:
Còn trong phạm vi nhân dân. Nhân dân dùng làm thuốc cầm máu, chữa lỵ, lậu, xích bạch đới. Mới đây bệnh viện Bắc Giang (1961 HUYẾT GIÁC Tên khác
Tên thường gọi: Trầm dứa, Xó nhà(Trung), Huyết giáng ông(Nam Dược Thần Hiệu), Giác máu(Lĩnh Nam Bản Thảo), Dứa dại, Cau rừng(Dược Liệu Việt Nam),huyết giác Nam Bộ, bồng bồng, ỏi càng(Tày), co ỏi khang(Thái), Dragon tree(Anh), dragonnier de Loureiro(Pháp).
Tên khoa học:Pleomele cochinchinensisMerr.(Dracaena loureiriGagnep).
Tên tiếng trung: 血 角
Họ khoa học:Thuộc họ HànhAlliaceae.
Cây huyết giác
(Mô tả, hình ảnh cây huyết giác, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả
Cây huyết giác là một cây thuốc quý, Huyết giác là một loại cây là loại cây nhỡ, cao tới 10m, to 30cm, ở gốc thân thẳng, một số thân già hoá gỗ, rỗng giữa màu đỏ nâu, nhánh có thẹo lá to, ngang. Thân phân nhiều nhánh, cây nhỏ có đường kính chừng 1.6-2cm, cây to có đường kính 20-25cm. Lá hình lưỡi kiếm, trung bình dài 25-80cm, rộng 3-4cm tới 6-7cm, cứng, màu xanh tươi mọc cách, không có cuống. Lá rụng để lại trên thân một sẹo, thường chỉ còn một bó lá tụ tập trên ngọn. Cụm hoa mọc thành chùm dài tới 30cm. Hoa tụ từng 2-4 hoa gần nhau. Hoa nhỏ đường kính dài 7-8 mm, màu lục vàng nhạt. Quả mọng hình cầu, đường kính chừng 1cm. Khi khô có màu đen, hình cầu đường kính 6-7cm.
Phân bố, thu hái và chế biến
Huyết giác phân bố ở Nam Trung quốc (Quảng Tây), Việt Nam, Campuchia.
Ở Việt Nam cây huyết giác thường mọc hoang tại các vùng núi đá xanh vùng Quảng ninh, Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hoà Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh. Núi đất không thấy có huyết giác. Phải những cây già, đã chết và đổ nát mới có gỗ. Những cây đã thành huyết giác có màu đỏ hoặc có nhiều đám màu đỏ, mùi vị không có gì đặc biệt. Trong những chỗ màu đỏ có cảm tưởng như do một loài sâu nào đục khoét gây ra. Hiện nay chưa rõ nguyên nhân do sâu hay do loài nấm nào gây ra huyết giác và từ cây chết đến khi có huyết giác là bao nhiêu năm.
Khả năng thu mua huyết giác hằng năm của ta có thể lên tới 20-30 tấn. Việc thu hái có thể tiến hành quanh năm. Chặt về phơi khô là được. Huyết giác hiện nay được thu mua để dùng trong nước và suất sang Trung Quốc, nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm hiểu được đông y Trung Quốc dùng để làm gì. Tên huyết giác chỉ là tên các nhà đông y Việt Nam thường dùng mà thôi.
Mô tả Dược liệu:
Vị thuốc Huyết giác là chất gỗ màu đỏ, do một loại sâu hay nấm gây ra trên gỗ cây huyết giác già cỗi mục nát.Lõi gỗ hình trụ rỗng ở giữa hoặc đôi khi là những mảnh gỗ có hình dạng và kích thước khác nhau, màu đỏ nâu. Chất cứng chắc không mùi, vị hơi chát.
Thành phần hoá học:
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu. Năm 1961 nghiên cứu sơ bộ Đặng Thị Mai thì không thấy antoxyan, không thấy có cacmin và cũng không thấy chất nhựa.
Nhựa trong gỗ Huyết giác gồm hỗn hợp C6H5-CO-CH2-CO- OC8H9O và dracoresinotanol chiếm 57-82%, dracoalben khoảng 2,5%, dracoresen 14%, nhựa không tan 3%, phlobaphen 0,03%, tro 8,3%, tạp thực vật 10,4%.
Tác dụng dược lý:
– Chống đông máu: Theo y học hiện đại, dịch lấy từ nước cây huyết giác có tác dụng tốt trong việc phòng ngừa sự hình thành của các khối huyết. Theo thì nghiệm trên ống kính, dịch chiết ra từ huyết giác có tác dụng ức chế việc kết tập các tiểu cầu. Vì thế, dịch chiết huyết giác này có công dụng chống đông máu hiệu quả.
– Huyết giác với công dụng kháng khuẩn: Dịch chiết từ huyết giác có tác dụng ức chế sự phát triển của Staphylococcusaureus, vì vậy, có công dụng kháng khuẩn tốt. Ngoài ra, khi thí nghiệm trên ống kính, huyết giác còn có tác dụng ức chế một số loại nấm gây ra bệnh.
Sơ bộ nghiên cứu tác dụng giãn mạch trên tai thỏ, thấy chất tan trong rượu với nồng độ 1/270 có tác dụng giãn mạch (báo cáo tốt nghiệp của Đặng thị Mai An, Hà nội, 1961)
Vị thuốc huyết giác
(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)
Tính vị:
Vị đắng chát, tính bình.
Quy kinh:
Can, thận
Chủ trị:
+ Dùng uống: Chấn thương máu tụ sưng đau, sau đẻ huyết hôi ứ trệ, bế kinh.
+ Dùng ngoài: Vết thương chảy máu, vết thương mụn nhọt lâu lành không liền khẩu.
Công dụng
Chỉ huyết, hoạt huyết, sinh cơ hành khí.
Hoa ăn được, Huyết giác được dùng chữa bị thương máu tụ sưng bầm, đòn ngã tổn thương, bế kinh, tê môi, đau lưng nhức xương và đơn sưng, u hạch, mụn nhọt. Dùng ngoài đắp bó gãy xương. Ngày dùng 8-12g sắc uống Hoặc dùng thuốc ngâm rượu uống hoặc xoa.
Liều dùng
Ngày dùng 8- 12 g, phối ngẫu trong các bài thuốc hoặc ngâm rượu xoa bóp hoặc uống.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc huyết giác
Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, khi dùng huyết giác kết hợp với các vị thuốc khác có tác dụng hoạt huyết, chỉ huyết, giảm đau, làm giãn mao mạch, giúp máu lưu thông như ô đầu, gừng, một dược, nhũ hương, băng phiến… sẽ có tác dụng rất tốt cho những trường hợp bị thoái hóa khớp.
Trị đau nhức, vết thương do ngã, do đòn roi, tụ máu...
Bài thuốc ngâm rượu: Huyết giác 20g, Quế chi 20g, Thiên niên kiện 20g, Đai hồi 20g, Địa liền 20g, Gỗ vang Các vị tán nhỏ, cho vào chai với 500ml rượu 30 độ, ngâm một tuần lễ, lấy ra vắt kiệt, bỏ bã. Khi bị thương do đánh đập, ngã, đau tức, bầm ứ huyết, dùng bông tẩm rượu thuốc xoa bóp. Nhân dân thường ngâm rượu Huyết giác 2/10 uống chữa đau mỗi khi lao động nặng hoặc đi đường xa sưng chân, đặc biệt chữa bị thương tụ máu (uống và xoa bóp).
Vùng tim đau nhói, ngực căng tức, vai đau ê ẩm, sống lưng bị trật do gánh vác nặng và leo chạy nhiều lao lực:
Dùng Huyết giác, Đương quy, Ngưu tất, Mạch môn, Sinh địa, mỗi vị 12g sắc uố Nếu có sốt, ho, tim to thì gia Dành dành, Thiên môn, Địa cốt bì, Huyền sâm, mỗi vị 12g sắc uống.
Thuốc bổ máu:
Huyết giác 100g, Hoài sơn 100g, Hà thủ ô 100g, quả Tơ hồng 100g, Đỗ đen sao cháy 100g, Vừng đen 30g, Ngải cứu 20g, Gạo nếp rang Tất cả tán bột trộn với mật làm thành viên, ngày dùng 10-20g.
Chữa chảy máu do vết thương hở:
Dùng bột và nhựa cây huyết giác bôi vào vết thương sẽ có tác dụng cầm máu tốt.
Chữa chảy máu cam:
Dùng nhựa cây huyết giác, bạc hà (các loại bằng nhau) tán thành bột rồi thổi vào mũi sẽ hết.
Thông huyết ứ, giảm đau khi bị bong gân:
Huyết giác, quế chi, đại hồi, địa liền, thiên niên kiện, mỗi vị 20g. Tất cả tán nhỏ, ngâm trong 500ml rượu trắng trong 1 tuần. Khi bị bong gân rót ra chén nhỏ, lấy một miếng bông thấm rượu thuốc bôi vào chỗ đau, xoa bóp trong 15 phút. Ngày làm 3 lần.
Tham khảo
Kiêng kỵ:
Phụ nữ có thai không nên dùng.
Phân biệt cây dứa núi và cây huyết giác (có nơi gọi là dứa dại hay trầm dứa)
Một số người thường nhầm lẫn cây huyết giác và cây dứa dại vì có hình dáng tương đối giống nhau. Tuy nhiên cần phân biệt cây Dứa lẵng la (còn gọi Dứa núi) tên khoa học là Pandanus utilis, thuộc họ Dứa dại – Pandanaceae. Còn cây dứa dại - xác máu mọc nhiều ở danh thắng Ngũ Hành Sơn chính là cây Huyết giác, có tên khác là Giác máu, Trầm giác, Dứa ông…, tên khoa học Dracaena cambodiana, thuộc chi (Huyết dụ) – Dracaenaceae, họ hành tỏi. HUYẾT KIỆT
1. Tên dược: Sanguis Draconis.
2. Tên thực vật: Daemonorops, draco Bl.
3. Tên thường gọi: calamus gum, dragonỊs blood (huyết kiệt).
4. Bộ phận dùng và phương pháp chế biến: dịch bài tiết đỏ từ quả và thân, thu hái vào mùa hè. Sấy hoặc hầm cho đến khi thành nhựa rắn, sau đó nghiền thành bột.
5. Tính vị: vị ngọt, mặn và tính ôn.
6. Qui kinh: tâm và can.
Công năng: cầm máuchữa lành vết thương. Hoạt huyết và trừ ứ bế, giảm đau.
8. Chỉ định và phối hợp:
- Xuất huyết do chấn thương ngoài: Dùng phối hợp huyết kiệt một mình (dùng ngoài) hoặc có thể phối hợp với bồ hoàng.
- Loét mạn tính: Dùng phối hợp huyết kiệt với nhũ hương và một dược để dùng ngoài.
- Sưng và đau do ứ máu do chấn thương ngoài. Dùng phối hợp huyết kiệt với nhũ hương và một dược dưới dạng thất li tán.
9. Liều dùng: 1-1,5g dưới dạng thuốc viên.
10. Thận trọng và chống chỉ định: không dùng huyết kiệt khi không có dấu hiệu ứ huyết. HẠT CỦ CẢI
(Semen Raphani Sativi)
Hạt củ cải có tên thuốc là La bạc tử hay Lai phục tử, dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Nhật hoa tử bản thảo, là hạt của cây Cải củ tên thực vật là Raphanus sativus L. thuộc họ Cải (Brassicaceae) phơi hay sấy khô.
Khắp đất nước ta đều trồng được cải củ lấy củ và lá làm thức ăn, hạt già phơi hay sấy khô làm thuốc (dùng sống hoặc sao lên có mùi thơm).
Tính vị qui kinh:
Hạt củ cải vị cay ngọt, tính bình, qui kinh Tỳ Vị Phế.
Theo các sách thuốc cổ:
*.Sách Trấn nam bản thảo: tính ôn, vị cay, nhập 2 kinh Tỳ Phế.
*.Sách Ngọc thư dược giải: cay, nhiệt.
*.Sách Dược phẩm hóa nghĩa: nhập 2 kinh Tỳ Vị.
Thành phần chủ yếu:
Erucid acid, oleic acid, linolenic acid, linoleic acid, glycerol sinapate, raphanin, alkaloid, hợp chất phenol.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
La bạc tử có tác dụng: tiêu thực trừ trướng đầy, giáng khí hóa đàm. Chủ trị các chứng: thực tích, khí trệ ở trung tiêu, đàm suyễn khái thấu (ho suyễn có đờm).
Trích đoạn Y văn cổ:
*.Sách Nhật hoa tử bản thảo:" thổ phong đàm, tiêu thũng độc".
*.Sách Nhật dụng bản thảo:" trị hoàng đản và da mắt vàng, nước tiểu nóng đỏ".
*.Sách Bản thảo cương mục:" hạ khí đình suyễn, trừ đàm tiêu thực, trừ trướng đầy, lợi đại tiểu tiện, chỉ khí thống, hạ lợi hậu trọng (trị chứng lî mót rặn), phát sang chẩn (trị chứng lỡ phát ban)".
*.Sách Y lâm soạn yếu thám nguyên: "sanh dung, thổ phong đàm, khoan hung cách, thác sang chẩn. Thục dung hạ khí tiêu đàm, công kiện tích, liệu hậu trọng (trị mót rặn)".
*.Sách Y học trung trung tham tây lục:" La bạc tử vô luận sống hay sao đều có thể thuận khí khai uất, tiêu trướng trừ mãn, là loại thuốc hóa khí chứ không phải phá khí. Phàm thuốc lý khí, uống độc vị uống lâu thì tổn thương khí, còn La bạc tử sao chín tán thành bột, mỗi sau bữa ăn uống một ít để tiêu thực thuận khí thì không tổn thương khí vì thuốc giúp ăn nhiều hơn, phần khí được bổ dưỡng".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
1.Thuốc nước chiết xuất có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn, trực khuẩn lî, thương hàn và trực khuẩn đại tràng. Nước ngâm kiệt thuốc có tác dụng ức chế nhiều loại nấm gây bệnh ngoài da. Thành phần có tác dụng kháng khuẩn là Bạc tử tố (raphanin, in vitro thuốc trộn lẫn với ngoại độc tố vi khuẩn, thuốc có tác dụng giải độc vi khuẩn rõ rệt, nếu raphanin hòa loãng 1:200 có thể trung hòa 5 liều chí tử của độc tố tetanos (uốn ván), nếu pha loãng 1:500, thuốc có thể trung hòa 4 liều chí tử của độc tố bạch hầu.
2.Nước chiết xuất của thuốc có tác dụng hạ áp từ từ mà rõ rệt và kéo dài.
3.Bài thuốc " Cốt chất tăng sinh hoàn" (Thục địa, Kê huyết đằng, Nhục thung dung, Dâm dương hoắc, Cốt toái bổ, La bạc tử) có tác dụng kháng viêm rõ, trong bài thuốc thành phần kháng viêm là: Thục địa, Nhục thung dung, La bạc tử. Bài thuốc có tác dụng hưng phấn hệ tuyến yên, vỏ thượng thận; đó là cơ sở của tác dụng kháng viêm.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị chứng táo bón người cao tuổi:
La bạc tử cho lửa nhỏ sao vàng, 30 - 40g uống với nước ấm, ngày 2 - 3 lần. Dương Kiện đã dùng trị 32 ca trên 60 tuổi, kết quả sau khi uống thuốc dưới 12 giờ: đi ngoài 20 ca; từ 12 giờ - 24 giờ: đi ngoài 9 ca; trên 24 giờ vẫn chưa đi tiêu được 3 ca. Tỷ lệ kết quả 90,6% (Báo cáo Trùng khánh y dược 1986,6:46).
2.Trị bệnh cao huyết áp:
*.Dùng liều thông thường ( 6 - 10g/mỗi ngày) cho bệnh nhân uống, theo dõi 467 ca cao huyết áp, tỷ lệ có kết quả 86,94%, kết quả rõ rệt 49,8%, tỷ lệ có cải thiện triệu chứng lâm sàng 92% (Lai Minh - Thông tin nghiên cứu Y học 1986,6:185).
*.Lấy La bạc tử sắc nước cô đặc nấu cao chế thành viên, mỗi lần uống 5 viên (tương đương 30g thuốc sống) ngày uống 3 lần trị trong 1 tháng, đã dùng cho cao huyết áp giai đoạn 1: 179 ca, tỷ lệ có kết quả 90% (Lưu kế Tăng, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1986,2:110).
3.Trị viêm phế quản mạn tính, ho khó thở nhiều đờm:
*.La bạc tử (sao), Tô tử (sao) đều 10g sắc uống.
*.La bạc tử (sao), Hạnh nhân đều 10g, Sinh Cam thảo 6g, sắc nước uống. Trị viêm phế quản mạn tính ho nhiều đờm.
*.Bài Tam tử dưỡng thân thang (Hàn thị y thông): La bạc tử (sao) 10g, Tô tử (sao) 10g, Bạch giới tử (sao) 3g, Tất cả tán nhỏ cho vào túi vải thêm 500ml nước sắc còn 200ml, chia làm 3 lần uống trong ngày (đơn thuốc của Diệp Quất Tuyền).
4.Trị rối loạn tiêu hóa, thực tích, bụng đầy, mồm hôi, tiêu bón, mót rặn:
*.La bạc tử (bột) 10g, Tỏi 1 củ (giã lấy nước) hãm nước sôi uống nóng. Trị đi tiêu mót rặn.
*.La bạc tử (sao) 10g, Chỉ xác 6g, Tiêu thần khúc 12g, sắc nước uống bụng đầy táo bón.
Ngoài ra còn dùng La bạc tử phối hợp với Tiểu hồi hương, Đại hoàng sắc uống. Trị tắt ruột đơn thuần. Củ cải phơi hay sấy khô 10 - 15g mỗi ngày, lá củ cải khô 10 - 15g/ ngày sắc uống, trị phù, thông tiểu tiện.
Liều lượng thường dùng và chú ý:
*.Liều thường dùng: 6 - 10g sắc nước hoặc sao tán bột uống, hoặc cho vào thuốc hoàn tán.
*.Thuốc nên sao lên để cho vào thuốc thang vì dùng sống dễ gây buồn nôn. Đối với người khí huyết suy nhược, nên thận trọng lúc dùng. CỦ SẢ
Tên khác: Vị thuốc Củ sả còn gọi Sả, Hương mao, chạ phiếc (Tày), phắc châu (Thái), mờ b`lạng (K`ho).
Tác dụng:
Chữa cảm cúm, sốt : 10 - 20g rễ, lá sắc uống hoặc nấu nước xông cùng những lá thơm khác. Giúp tiêu hóa, chữa đầy bụng, nôn mửa, trung tiện kém : III - VI giọt tinh dầu uống với nước. Chữa chàm mặt : Rễ giã, xát. Tinh dầu sả còn tác dụng trừ muỗi, tẩy mùi hôi.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
Chữa cảm sốt, Ngày dùng 15 đến 30g củ sả hay lá sả dạng thuốc sắc hay nấu để xông
Tên khoa học:
Cymbopogon nardus Rendl- Cymbopogon flexuosus
Mô tả:
Cây cỏ, sống lâu năm, mọc thành bụi dày. Thân rễ màu trắng hoặc hơi tím. Lá dài, hẹp, có bẹ, mép hơi ráp. Cụm hoa gồm nhiều bông nhỏ không cuống. Toàn cây có mùi thơm như chanh.
Phân bố :
Cây được trồng làm gia vị và làm thuốc.
Bộ phận dùng:
Cả cây. Thu hái quanh năm. Dùng tươi hoặc phơi trong râm mát cho khô. Có thể cất lấy tinh dầu.
Thành phần hóa học :
Cả cây chứa tinh dầu gồm citral, limonen, isopulegol, acid citronellic, acid cuea geranium và (-camphoren.
B. Chữa U Sơ, Ung Thư: Cây Củ Sả 200g Lá Đu Đực 800g Sắc đun cùng 2 lít Nước còn 1 lít. Uống hàng ngày.. HƯƠNG NHU
Tên khác
Tên dân gian:Hương nhu trắng, Hương nhu tía, É tía(Dược Liệu Việt Nam).
Tên Hán Việt:Vị thuốcHương nhucòn gọiNhu(Thổ Thiên)Hương nhung(Thực Liệu Bản Thảo),Bạch hương nhu(Bản Thảo Đồ Kinh),Hương thái(Thiên Kim Phương),Mật phong thảo(Bản Thảo Cương Mục)Hương nhu, Hương đu, Mậu dược, Thạch giải, Sơn ông,Nhưỡng nhu, Cận như, Nô dã chỉ, Thanh lương chủng(Hòa Hán Dược Khảo)Trần hương nhụ, Hương nhự(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học:Ocimum gratissmum Linn
Họ khoa học:Họ Hoa Môi (Lamiaceae).
Cây hương nhu
(Mô tả, hình ảnh cây hương nhu, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Cây hương nhu là một cây thuốc nam quý, dạng cây thảo cao 1-2m, sống nhiều năm, thân vuông, hóa gỗ ở gốc, có lông, khi cây non 4 cạnh thân có màu nâu tía, còn 4 mặt thân có màu xanh nhạt, khi gìa thân trở thành nâu. Lá mọc đối chéo hình chữ thập, có cuống dài, phiến thuôn hình mũi mác, khía răng cưa, có nhiều lông ở hai mặt, mặt trên xanh thẫm hơn mặt dưới. Cụm hoa hình xim ở nách lá, co lại thành xim đơn. Hoa không đều, có tràng hoa màu trắng chia 2 môi. Nhị 4 rồi ra ngoài bao hoa. Quả bế tư, bao bởi đài hoa tồn tại. Toàn cây có mùi thơm. Mùa hoa quả vào tháng 5-7.
Thu hái, sơ chế:
Thu hái vào lúc cây đang ra hoa, hay một số hoa đã kết quả. Dùng khô hoặc tươi.
Phần dùng làm thuốc:
Toàn cây trừ rễ (Herbal Elsholtziae).
Mô tả dược liệu:
1- Hương nhu trắng: Thân và cành hình vuông có lông. Lá mọc đối chéo chữ thập, hình trứng nhọn, mặt trên màu lục xám mặt dưới màu lục nhạt, hai mặt đều có lông ngắn và mịn, mép khía răng, gân hình lông chim, có cuống dài. Hoa nhỏ màu nâu, mọc thành xim co, thường rụng nhiều chỉ còn lại đài. Toàn cây có mùi thơm.
2- Hương nhu tía: Thân hình vuông, chặt thành từng đoạn dài chừng 40cm, mặt ngoài màu nâu nhạt đến nâu tím có nhiều nếp nhăn dọc và lông mịn. Lá mọc đối, khô giòn, nhăn nheo, hình trứng nhọn, có cuống dài, mép khía răng, gân hình lông chim, mặt trên màu nâu, mặt dưới màu nâu nhạt, có các tuyến nhỏ lõm xuống, hai mặt đều có lông ngắn. Hoa màu nâu nhạt hình môi mọc thành xim co, đôi khi một số hoa, lá đã rụng chỉ còn cành. Đài hoa tồn tại đựng quả bế tư nhỏ (Danh Từ Dược Vị Đông Y).
Bào chế: Hương nhu
+ Bỏ rễ, để cành lá, chặt đoạn, phơi khô, kỵ lửa (Lôi Công Bào Chích Luận).
+ Khi cây nở hoa thu hái phơi âm can dùng (Bản Thảo Cương Mục).
+ Dùng tươi: rửa sạch, vắt lấy nước, uống.
Dùng khô: rửa sạch, thái khúc 2-3cm, phơi trong râm cho khô (Phương Pháp Bào ChếĐông Dược).
Bảo quản: Hương nhu
Để nơi khô ráo, thoáng mát.
Phân biệt hương nhu
1- Cần phân biệt với cây Húng giổi (Ocimum basilicum Linn) thuộc họ (Lamiaceae) (Xem: Cửu Tằng Tháp).
2- Ở Trung Quốc, người ta còn dùng cây Elshotzia patrini Garcke để làm vị Hương nhu.
3- Ngoài cây Hương nhu trắng (Ocimum gratissimum Linn) vừa mô tả ở trên ra, người ta cũng còn dùng cây Hương nhu tía hay É tía, É rừng, đó là cây Ocimum sanctum Linn. Thuộc cây nhỏ, sống hàng năm, có thể cao tới 0,5-1m. Thân vuông màu xanh nâu hoặc tím nhạt, lá mọc đối, có cuống dài, phiến là hình trứng hay hình mác, dài 1-5cm, mép có răng cưa. hai mặt đều có lông. Hoa màu tím, mọc thành chùm đơn, xếp thành vòng 6-8 chiếc, ít phân nhánh. Lá hoa khi vò có mùi thơm của Đinh hương. Mùa quả vào tháng 5-7. Cây được trồng làm thuốc khắp nơi. Thường thường Hương nhu tía và Hương nhu trắng dùng cùng chung một công dụng, trong tây y thường dùng nó để kết tinh dầu dùng trong Nha khoa (Danh Từ Dược Vị Đông Y).
Thành phần hóa học của hương nhu
+ Cavacrol 10,15%, Transbergamotene 10,90%, b-Caryophyllene 10,93%, Thymol 9,82%, Humulene 11,83%, b-Bisabolene 12,64%, Terpinene-4-Ol 7,19%,g-Terpinene 4,35%, p-Cynmene 4,06%, Camphene 2,62%, a-Pinene 1,23%, b-Farnesene 0,25%, Limonene 0,15% (Trương Cấn Ôn, Trung Thảo Dược 1990, 21 (3): 138).
+ Elshotzidol (Chinese Herbal Medicine).
Tác dụng dược lý của hương nhu
- Tác dụng giải nhiệt: Hương nhu (dùng sống) 30g/kg, sắc, rót vào dạ dầy chuột, uống lần thứ nhất, thấy nhiệt giảm, uống 3 lần liên tục thấy có tác dụng giải nhiệt (Vi Lực, Thành Đô Trung Y Học Viện Học Báo 1992, 15 (2): 95).
- Tác dụng trấn thống, giảm đau: Dầu Thạch Hương nhu 0,3ml/kg và 0,15ml/kg rót vào dạ dầy chuột nhắt thấy có tác dụng ức chế, giảm chất chua (Ngô Đình Giai, Trung Dược Tài 1992, 15 (8): 36).
- Nước sắc Thạch hương nhu có tác dụng trấn tỉnh chua (Ngô Đình Giai, Trung Dược Tài 1992, 15 (8): 36).
- Dầu Thạch Hương nhu liều 190mg/kg cho uống liên tục 7-8 ngày, thấy có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch (Trạm Vệ Sinh Phòng Dịch tỉnh Hành Dương, Trung Thảo Dược thông Báo 1973,(1): 44).
- Tác dụng kháng khuẩn: Dầu Thạch hương nhu có tác dụng kháng khuẩn đối với trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn bạch hầu, trực khuẩn phế viêm, các loại trực khuẩn (Chen Chi Pien và cộng sự, Sinh Dược học tạp Chí [Nhật Bản], 1987, 41 (3): 215).
Vị thuốc hương nhu
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị
+ Vị cay, tính hơi ôn (Biệt Lục).
+ Vị đắng, cay, khí hàn, khí nhẹ (Bản Thảo Chính).
+ Vị cay, ngọt, tính ôn (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Vị cay, tính hơi ấm (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Vị cay, tính hơi ấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Quy kinh:
+ Vào kinh Phế, Vị (Lôi Công Bào Chích Luận).
+ Vào kinh túc Dương minh Vị,túc Thái âm Tỳ, thủ Thiếu âm Tâm (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Vào kinh túc Thiếu dương Đởm, thủ Thái âm Phế, thủ Dương minh Đại trường (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào kinh Tâm, Tỳ, Vị, Phế, Bàng quang (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ VàoPhế và Vị (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tác dụng, Chủ trị của hương nhu
+ Tán thủy thủy, chủ hoắc loạn, bụng đau, nôn mửa (Biệt Lục).
+ Chủ cước khí hàn thấp (Bản Thảo Cương Mục).
+ Phát hãn, thanh thử, lợi thấp, hành thủy (Trung Dược Học).
+ Phát hãn, thanh thử, lợi thấp, tán thủy. Trị mùa hè bị sốt, sợ lạnh, không mồ hôi, đầu đau, ngực đầy, thử thấp, phù thũng, phong thủy, bì thủy (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Tán hàn, giải biểu, kiện Vị, lợi niệu (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Liều dùng: 8 – 20g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc hương nhu
Trị tâm phiền, hông sườn đau:
Hương nhu gĩa nát, ép lấy 2 chén nước cốt uống (Trủu Hậu phương).
Trị lưỡi chảy máu như bị đâm:
Hương nhu ép lấy một chén nước cốt uống (Trửu Hậu phương).
Trị miệng hôi:
Hương nhu 1 nắm, sắc đặc để súc miệng (Thiên Kim Phương).
Trị vào mùa hè nằm chỗ hóng gió, hoặc ăn thứ sống lạnh, rồi sinh chứng nôn mửa, tiêu chảy, sốt, đầu đau, cơ thể đau, bụng đau, chuyển gân, nôn khan, tay chân lạnh, bứt rứt:
Hương nhu 480g, Hậu phác (sao nước gừng), Bạch biển đậu (sao), mỗi vị 280g. Tán bột. Mỗi lần dùng 20g, thêm 2 chén nước, nửa chén rượu, sắc lấy 1 chén,để nguội, uống liên tục 2 lần là kiến hiệu (Hương Nhu Ẩm-Hòa Tễ Cục phương).
Trị chảy máu cam không dứt:
Hương nhu tán bột. Mỗi lần uống 4g (Thánh Tế Tổng Lục).
Trị phù thủng:
Dùng bài ‘Hương Nhu Tiễn’ của Hồ Hạp cư sĩ:Hương nhu khô 10 cân, gĩa nát, bỏ vào nồi, đổ nước ngập quá 3 tấc, nấu cho ra hết khí vị, rồi gạn cho trong, lại đốt lửa nhỏ cô lại cho tới khi viên được. Làm viên to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 5 viên, ngày 3 lần,tăng dần thêm cho tới khi lợi tiểu là được (Bản Thảo Đồ Kinh).
Trị bệnh phong thủy, khí thủy, cả người sưng phù:
Hương nhu 1 cân, đổ nước nấu cho thật nát, bỏ bã lọc trong, rồi cô thành cao, thêm 40g Bạch truật (tán bột) trộn vào làm viên, to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 10 viên với nước cơm, ngày 5 lần, đêm một lần. Uống cho đến khi lợi tiểu là được (Nhu Truật Hoàn - Ngoại Đài Bí Yếu).
Trị quanh năm bị thương hàn cảm mạo:
Hương nhu tán bột. Mỗi lần uống lần 8g với Rượu nóng (Vệ Sinh Giản Dị Phương).
Trị trẻ nhỏ chậm mọc tóc:
Hương nhu cũ 80g, sắc với một chén nước cho đặc, hòa thêm nửa lạng mỡ Heo, bôi hàng ngày vào đầu (Vĩnh Loại Kiềm Phương).
Trị da đầu lở:
Hương nhu cũ 80g, sắc với một chén nước cho đặc, hòa thêm nửa lạng mỡ Heo và Hồ phấn, bôi (Tử Mẫu Bí Lục).
Trị thủy thủng:
Hương nhu làm quân, hợp với Nhân sâm, Truật, Mộc qua, Phục linh, Quất bì, Bạch thược, Xa tiền tử, rất tốt (Bản Thảo Kinh Sơ).
Trị vào mùa hè bị thương thử, cảm, sợ lạnh, phát sốt, đầu nặng, tâm phiền, không có mồ hôi:
Hương nhu 8g, Hậu phác 8g, Biển đậu 12g. sắc uống (Hương Nhu Ẩm - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đầu đau do thương thử, sốt, sợ lạnh, nôn mửa, tiêu chảy, phiền muộn, khát nước, tiểu vàng, tiểu đỏ:
Hương nhu, Cát căn, Ngư tinh thảo, Điền cơ hoàng, Thập đại công lao, mỗi thứ 12g, Thạch xương bồ 8g, Mộc hương 4g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị phù thủng, không ra mồ hôi, rêu lưỡi dày, ăn ít:
Hương nhu, Bạch truật, mỗi thứ 12g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị phù thủng không có mồ hôi, tiểu đỏ, tiểu ít:
Hương nhu 12g, Bạch mao căn 40g, Ích mẫu thảo 16g, Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị nôn mửa, tiêu chảy:
Hương nhu, Tử tô, Mộc qua đều 12g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị trường vị viêm cấp tính, kiết lỵ:
Hương nhu, Hồng lạt liệu, Thanh hao, đều 12g sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo
Kiêng kỵ khi dùng hương nhu
+ Uống nhiều bị hao khí (Y Lâm Toản Yếu).
+ Không có biểu tà không nên dùng (Bản Thảo Tùng Tân).
+ Vì tính của Hương nhu ôn vì vậy, không nên uống nóng vì có thể bị nôn mửa (Bản Thảo Cương Mục).
+ Người trúng nhiệt: kiêng dùng. Người chân khí hư yếu: không nên uống nhiều (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Mồ hôi nhiều, biểu hư: cấm dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Lưu ý khi dùng hương nhu
+ Hương nhu thuộc Kim và Thủy nó có công dụng đíều hòa suốt từ trên xuống dưới, ở trên thì thanh được phế khí, trị được chứng trúng nắng, trừ được phiền nhiệt, trị Phế uất làm cho trọc khí bốc lên gây nên chứng miệng hôí. Trị khỏi chứng chảy máu cam, lưỡâi chảy máu, ngoài ra lại còn có tác dụng lợi tiểu tiện, tiêu được phù thủng, khoan khoái trường vị, tiêu thức ăn, hạ được khí xuống, những chứng bụng đau, thổ tả, vọp bẻ thì Hương nhu là một vị thuốc cốt yếu vậy. Người bị đứt tay,đứt chân, dùng Hương nhu nhai đắp vào rất chóng khỏi (Đan Khê Tâm Pháp). + Hương nhu tán phong nhiệt, bệnh đột nhiên, vọp bẻ, sắc đặc.Mỗi lần uống nửa chén, hoặc tán nhỏ, trộn nước uống trị chứng chảy máu cam (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Hương nhu có tác dụng hạ khí, trừ phiền nhiệt, chữa nôn nghịch do khí lạnh (Đại Minh Chư Gia Bản Thảo).
+ Mùa hè sắc uống thay nước chè thì không bị bệnh thử, có tác dụng điều trung, hòa vị, súc miệng trị miệng hôi thối (Vương ĐìnhMinh).
+ Chữa cước khí, sốt rét (Bản Thảo Cương Mục).
+ Hương nhu có vị cay, tính tán, ôn thông cho nên giải được bệnh thử, hàn, uất nhiệt, hoắc loạn, phúc thống, thổ tả vọp bẻù, do mùa nắng ăn nhiều thức ăn sống lạnh mà gây bệnh. Vị của Hương nhu cay ấm, có tác dụng thông khí, hòa trung, giải biểu. Nhờ công dụng trừ thấp, lợi thủy, nên tán được thủy thủng (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Các thầy chữa thương thử đều dùng Hương nhu, không biết rằng Hương nhu là một vi tân ôn phát tán, nếu ăn uống thức ăn lạnh, dương khí bị âm tà uất át, rồi phát nóng, sợ rét, đau đớn, phiền khát hoặc hoắc loạn, thổ tả, uống Hương nhuthì rất hay. Nếu do khó nhọc quá mà bị thương thử, mồ hôi ra nhiều, suyễn, khát, nên dùng bài ‘Thanh Thử Ích Khí Thang’, hoặc nóng lắm, khál lắm, nên dùng bài ‘Nhân Sâm Bạch Hổ Thang’.Nếu dùng lầm Hương nhu làm chủ, biểu khí hư thêm, lại nóng thêm nữa. Hương nhu là vị thuốc giải biểu về mùa hè, không có biểu tà, thì không nên dùng, tính nó lại ấm nóng, bệnh thuộc về ‘dương thử’ cũng cấm dùng, nó kỵ cả lửa và cả nắng (Bản Thảo Đồ Giải).
+ Hương nhu được Biển đậu thì có tác dụng tiêu thử (Xích Thủy Huyền Châu).
+ Được Hậu phác trị thương thử, hàn chứng. Được Bạch truật trị thử thấp, thủy thủng (Đắc Chân Bản Thảo).
+Dùng Hương nhu để làm thuốc giải biểu về mùa nắng, cũng như mùa đông dùng vị Ma hoàng, người khí hưkhông nên dùng nhiều. Hương nhu lại có công chữa bệnh thủy thủng rất hiệu quả. Có một phụ nữ mặt và từ lưng trở xuống đều bị thủng trướng, khó thở muốn chết, không nằm sấp được, tiêu chảy, tiểu ít, uống nhiều thuốc không khỏi. Lý Thời Trân xem mạch thấy mạch Trầm mà Đại, mạch Trầm chủ về bệnh thủy, mạch Đại chủ về bệnh hư (bệnh ‘đậu mạo phong'), do vừa khỏi bệnh lại cảm phong, liền cbo uống bài ‘Thiên Kim Thần Bí Thang’, chứng suyễn bớt được một nửa. Lại dùng bài Vị Linh làm thang uống với bài ‘Nhu Truật Hoàn’, trong 2 ngày, đi tiểu được nhiều, xọp bớt 7 - 8 phần, cứ thế mà uống thêm mấy ngày thì xọp hẳn. Vị Hương nhu cay ấm, phát tán, tiết được nước đọng ở trong mình ra. Trịmùa hè khí bế, không mồ hôi, khát, dùng Hương nhu phải kèm Hạnh nhân, vì Hạnh nhân có vị đắng, tính giáng xuống và tiết được khí. Vì Hương nhu có vị cay ấm, khí thăng, uống nóng dễ nôn mửa nên phải thêm các vị đắng mà giáng như Hạnh nhân, Hoàng liên, Hoàng cầm thì không mửa (Lâm Chứng Y Án).
+ Ma hoàng là thuốc giải biểu, cần phải phối hợp với Quế chi mới có tác dụng phát hãn. Hương nhu là thuốc giải biểu, bản thân vị thuốc này đã có tác dụng phát hãn, thường dùng vào mùa hè (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Thạch hương nhu và Hương nhu cùng là 1 vị. Hương nhu mọc ở vùng đất bằng, lá to. Thạch hương nhu mọc ở khe đá trên núi nên lá nhỏ, công dụng mạnh hơn Hương nhu (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Hương nhu dạng thuốc sắc, nên uống nguội, uống nóng dễ gây nôn mửa (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). HƯƠNG PHỤ
Tên khác
Hương phụ còn gọi là câyCỏ cú, củ gấulà thân rễ phơi hay sấy khô của cây Củ gấuCyperus rotundus L. thuộc họ Cói ( Cyperaceae ) dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Danh y biệt lục. Cây Củ gấu mọc khắp nơi trên đất nước ta và nhiều nước khác châu Á như Trung quốc, Triều tiên, Nhật bản, Indonesia.
Tên dược:Rhizoma cyperi.
Tên thực vật:Cyperus rotundus L
Tên thường gọi:cyperus tuber (hương phụ).
Tiếng Trung: 香附
Cây Hương phụ
( Mô tả, hình ảnh cây Hương phụ, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả
Cây Hương phụ là một loại cỏ sống lảu năm, cao 20- 60cm, thân rễ phát triển thành củ, tùy theo đất rắn hay xốp củ phát triển to hay nhỏ, ờ vùng bờ biển củ to dài còn gọi là hải hương phụ (hương phụ vùng biển). Lá nhỏ hẹp, ở giữa lưng có gân nổi lên, cứng và bóng, phần dưới lá ôm lây thân cây. Vào tháng 6, trên ngọn cây có 3 đến 8 cụm hoa hình tán màu xám nâu, hoa lưỡng tính, 3 nhị dài chừng 2mm, nhụy có đầu núm chia thành 2 nhánh như lông tơ. Quả 3 cạnh màu xám.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cỏ gấu mọc hoang ờ khắp nơi trên đồng ruộng, ven đường. Tại ven biển, đất cát xốp củ to hơn, dễ đào hơn. Đối với nhà nông, đây là một loại cỏ rất khó tiêu diệt. Chỉ cần sót lại một mẩu thân rễ nhỏ cũng đủ phát triển. Còn thấy mọc những ở nước khác vùng châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Inđônêxia. Thu hoạch củ gấu hiện nay chỉ mới dựa vào nguồn mọc hoang thiên nhiên; không ai trồng. Có thể kết hợp với việc làm cỏ vườn, ruộng để thu hoạch hay có thể tổ chức thu hái riêng. Sau khi đào toàn cây, người ta phơi cho khô, vun thành đống để đốt, lá và rễ con cháy hết, còn lại củ lấy riêng rửa sạch, phơi hay sấy khô. Khi dùng có thể dùng sống (nghĩa là củ chế biến như trên, dùng ngay), sắc hay ngâm rượu tán bột. Có thể chế biến thêm nữa. Các cụ lương y thường chế biến phức tạp rồi mới dùng. Theo kinh nghiệm của thì không cần chế biến gì thêm vẫn tốt. Các lương y thường dùng thất chế hoặc tứ chế hương phụ, phổ biến nhất là tứ chế. Thất chế hay tứ chế cũng lại có nhiều cách làm. Dưới đây chúng tôi giới thiệu phương pháp hay dùng nhất: Cân 1 kilôgam hương phụ, chia làm 4 phần: một phần (250g) ngâm với 200ml giấm (có độ axit axetic 5%), một phần ngâm rượu 40%, một phần ngâm nước tiểu trẻ em (nước tiểu của trẻ em khỏe mạnh, bỏ phần đầu và phần cuối, chỉ lấy phần giữa), một phần ngâm nước muối 15%. Thời gian ngâm thay đổi tùy theo mùa: 1 ngày 1 đêm nếu là mùa hè, 3 ngày 3 đêm nếu là mùa thu, 7 ngày 7 đêm nếu là mùa đông. Cuổi cùng lấy ra sao hay phơi khô rồi trộn đều 4 phần với nhau.
Theo lý luận đồng y, ngâm giấm vị chua là để thuốc vào gan, muối vị mặn sẽ dẫn thuốc vào thận, rượu bốc lên cho nên dẫn thuốc đi lên trên, nước tiểu thêm tác dụng bổ. Đáng lẽ chia 4 phần, có người dùng giấm và rượu mỗi thứ 160g, muối 20g, nước tiểu trẻ con mạnh khỏe vừa đủ để ngập hương phụ, cho vào đó 600g hương phụ rồi ngâm theo thời gian nói trên, cuối cùng sấy hay phơi khô mà dùng. Thất chế là làm như trên nhưng thêm 3 lần tẩm nữa như tẩm với nước gừng, tẩm nước cam thảo, tẩm nước vo gạo. Nghĩa là tẩm với 7 thứ. Trên thực tế còn nhiều cách chế biến rất phức tạp và thay đổi tùy theo sáng kiến của thầy thuốc. Cho nên khi dùng cũng như khi nghiên cứu cần biết dùng loại hương phụ nào. Qua kinh nghiêm hơn 20 năm, chúng tôi không chế biến gì cả. Kết quả vẫn rắt tốt.
Thành phần hóa học
Hoạt chất của hương phụ hiện chưa rõ. Chỉ mới biết trong hương phụ có từ 0,3 đến 2,8% tinh dầu màu vàng, mùi thơm nhẹ đậc biệt của hương phụ. Thành phần tình dầu gồm 32% cyperen C^H^, 49% rượu cyperola. Ngoài ra còn có các axit béo, phenol. Trong tinh dầu hương phụ Ẳn Độ còn chứa cyperon. Ngoài ra trong hương phụ còn chứa rất nhiều tinh bột. Do nguồn gốc hương phụ khác nhau, thành phần tinh dầu của hương phụ cũng không hoàn toàn giống nhau. Trong tinh dầu hương phụ Trung quốc có thành phần chủ yếu là cyperen (độ sôi 104nC/5mm thủy ngân) và izocyperotundone, còn trong tinh dầu hương phụ Nhật bản có thành phẩn chủ yếu là cyperol, cyperenol (độ chảy 94°C) chiếm 49%, cyperen 32% và Ct-cyperon (độ sôi 177°c/20mm thủy ngân), cyperotundon và cyperolon (độ chày 41- 42°C).
Tác dụng dược lý
Đã được nghiên cứu Theo Trương Phát Sơ, Trương Diệu Đức và Lưu Thiệu Quang (1935, Trung Hoa y học tạp chí tập 1, kỳ 2: 148-156) đã dùng vị hương phụ nguổn gốc ở tỉnh Quảng Đông, nhưng bán ở Nam Kinh chế thành cao lỏng 5%, tiến hành thí nghiệm 102 lần trên tử cung cô lập của thỏ, mèo, chó và chuột bạch đã chứng minh hương phụ có khả năng ức chế sự co bóp của tử cung, làm dịu sự căng thẳng của tử cung dù con vật có thai hay không có thai đểu như nhau, gần như có tác dụng trực tiếp làm cho cơ tử cung dịu lại. So sánh tác dụng của cao lỏng hương phụ và cao lỏng đương quy (một vị thuốc bắc hiện nay còn phải nhập có tác dụng chữa bệnh phụ khoa) thì tác dụng giống nhau, nhưng tác dụng của đương quy mạnh hơn. Năm 1959, một số tác giả ở Quí Dương y học viện (Trung Quốc) báo cáo nghiên cứu và chứng minh tác dụng giảm đau trên chuột nhắt trắng.
+ Thuốc có tác dụng ức chế tử cung, gần như Đương qui tố nhưng yếu hơn. Tinh dầu có hoạt tính nhẹ của kích thích tố nữ. Vì thế mà Hương phụ thường dùng làm thuốc điều kinh.
+ Cồn chiết xuất Hương phụ có tác dụng kháng viêm, giảm đau và giải nhiệt nhẹ. Có tác dụng an thần đối với trung khu thần kinh.
+ Thuốc có tác dụng cường tim và hạ áp. Cồn chiết xuất Hương phụ có tác dụng ức chế trực tiếp cơ trơn của hồi tràng.
+ Tinh dầu Hương phụ có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lî Sonner. Chất chiết xuất thuốc có tác dụng đối với một số nấm.
Vị thuốc Hương phụ
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị qui kinh:
Vị cay hơi đắng, hơi ngọt, tính bình. Qui kinh Can, Tam tiêu.
Theo các sách cổ:
Sách Danh y biệt lục: vị ngọt hơi hàn không độc.
Sách Trần Nam bản thảo: tính hơi ấm, vị cay.
Sách Bản thảo cương mục: khí bình, vị cay hơi đắng, hơi ngọt. Qui kinh Thủ túc Quyết âm, thủ thiếu dương, kiêm hành 12 kinh nhập mạch phần khí.
Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập 4 kinh: Phế, can, tỳ, vị.
Sách Bản thảo cầu chân: chuyên nhập can đởm kiêm nhập phế.
Công dụng:
Hương phụ có tác dụng sơ can lý khí, điều kinh chỉ thống.
Trích đoạn Y văn cổ:
Sách Danh y biệt lục: "Chủ hưng trung nhiệt, sung bì mao, cứu phục lợi nhân, trưởng tu mi".
Sách Thang dịch bản thảo: " Hương phụ huyết trung chi khí dược dã. Dùng trong bài thuốc băng lậu, là thuốc ích khí mà chỉ huyết cũng có thể khử huyết ngưng. Cùng Ba đậu dùng trị tiết tả không cầm cũng trị đại tiện không thông là cùng một ý."
Sách Bản thảo cương mục: " lợi tam tiêu giải lục uất, tiêu ẩm thực tích tụ, đàm ẩm bí mãn, phù thũng phúc trướng ( mu bàn chân phù, bụng trướng), cước khí, các chứng đau tim, dau bụng,đau lợi răng,đau chân tay, đầu mặt, tai..., phụ nhân băng lậu đới hạ, kinh nguyệt không đều, bách bệnh của phụ nữ trước và sau sinh."
Sách Bản thảo cầu chân: "Hương phụ chuyên khai uất tán khí cùng Mộc hương hành khí, mao đồng thực dị ( bên ngoài giống mà thực chất khác). Mộc hương đắng nhiều nên thông khí mạch, Hương phụ đắng không nhiều nên giải uất tốt."
Liều dùng:
Liều uống 6 -12g sắc hoặc cho vào thuốc cao, hoàn, tán. Dùng ngoài đắp tùy yêu cầu.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Hương phụ
Trị đau sườn ngực và đau bao tử cơ năng:
Tiểu ô trầm thang: Hương phụ 8g, Ô dược 10g, Cam thảo 4g sắc uống.
Trị vị hàn khí thống.
Lương phụ hoàn: Hương phụ, Lương khương đều 10g, sắc uống,
Trị đau ngực sườn.
Dùng Hương phụ 10g, Diên hồ sách 8g, sắc uống
Trị dau bụng kinh, rối loạn kinh nguyệt:
Tứ chế Hương phụ hoàn: Hương phụ 4 phần bằng nhau chế 4 cách khác nhau: ngâm muối, giấm, rượu, đồng tiện, sao tán bột làm hoàn.
Hương phụ, Ngải diệp, Trần bì đều 15g, Nguyệt qúi hoa 2 đóa sắc uống hoặc Hương phụ 20g, Ích mẫu thảo 10g, sắc uống trị đau bụng kinh.
Trị rối loạn tiêu hóa, ăn không biết ngon:
Hương sa dưỡng vị hoàn, thang: Hương phụ 6g, Sa nhân 3g, Mộc hương 5g, Chỉ thực 6g, Đậu khấu nhân 5g, Hậu phác 10g, Hoắc hương 5g, Bạch truật 10g, Trần bì 10g, Phục linh 10g, Bán hạ 10g, Cam thảo 3g, Sinh khương 10g, Táo 5 quả sắc uống trị tỳ vị hư nhược, ăn kém ngon, nôn, tiêu chảy, bụng đầy.
Trị bụng đầy trướng:
Hương phụ 8g, hải tảo 4g, nấu với rượu, rồi lấy nước mà uống và ăn luôn cả hải tảo.
Trị phụ nữ có thai nôn khan, nôn ra nước chua, thai động, ăn uống không ngon và nằm ngồi không được:
Hương phụ 80g, hoắc hương 8g, cam thảo 8g. Tán bột, mỗi lần uống 8g với nước sôi và ít muối.
Trị sa trực trường:
Hương phụ, kinh giới tuệ, hai vị bằng nhau, tán bột. Mỗi lần uống 8g, bên ngoài nấu hương phụ và kinh giới để ngâm rửa.
Trị mộng tinh lâu ngày không khỏi:
Hương phụ 500g, phục thần (hoặc phục linh) 180g. Hương phụ ngâm với nước vo gạo 1 đêm, vớt ra, bỏ rễ. Lại ngâm với rượu, đồng tiện, nước muối, sữa bò, nước đậu đen 1 đêm. Lấy ra sấy khô, cho phục thần vào, tất cả tán thành bột, trộn với mật ong làm thành hoàn 10g. mỗi ngày, vào buổi tối uống 1 hoàn với nước muối pha loãng.
Khai uất, điều kinh:
Hương phụ chia làm 4 phần, ngâm riêng mỗi phần với muối, dấm, rượu, nước tiểu trẻ em. Sao khô, nghiền thành bột mịn làm hoàn. Dùng khi tinh thần uất ức gây nên kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, vú trướng đau, đây cũng là tác dụng “đặc biệt” của hương phụ, đến nỗi người xưa đã có câu: “Nam bất thiểu trần bì, nữ bất ly hương phụ”, người phụ nữ do tâm tính riêng biệt, dễ bị uất ức dẫn đến rối loạn kinh nguyệt, vú trướng đau… rất cần vị hương phụ (tẩm dấm - để đi vào can khí) để giải các uất ức. Đây có lẽ do hương phụ có tác dụng an thần đối với trung khu thần kinh (YHHĐ) và sơ can giải uất (YHCT).
Trị kinh nguyệt không đều:
Hương phụ (sao) 9g, ích mẫu thảo 20g, đường đỏ (hồng đường) 20g. Hương phụ và ích mẫu nấu trước, khi sôi đều, lọc bỏ bã, thêm đường vào uống. Liên tục 3 - 5 ngày. Trị rong kinh, trĩ bị chảy máu rỉ rả: hương phụ sao qua tán mịn, mỗi lần uống 6g với nước cháo hoặc nước hồ nếp.
Trị đau bụng kinh:
- Hương phụ, ngải diệp, trần bì đều 15g, nguyệt qùy hoa 2 đóa, sắc uống.
- Hương phụ 20g, ích mẫu thảo 10g, sắc uống. Trị kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng, viêm tử cung mãn tính, các bệnh phụ nữ trước và sau khi sinh nở:
- Hương phụ 20g, ích mẫu 15g, ngải diệp 10g, nhân trần 15g, đỗ 500ml nước sắc còn 150ml nước, uống ngày một thang.
- Hương phụ 20g, ích mẫu 15g, ngải cứu 6g, bạch đồng nữ 8g, thêm 300ml nước, đun sôi và giữ sôi trong nửa giờ. Thêm đường vào cho ngọt mà uống trong ngày. Muốn cho kinh nguyệt đều, uống đón kinh 10 ngày trước ngày dự đoán có kinh. Đây là bài thuốc cao hương ngải đã được tin dùng từ nhiều năm qua.
Tham khảo
Chú ý: Không dùng cho bệnh nhân âm hư huyết nhiệt, khí hư . Không có khí trệ không dùng. RAU MÙI
Toàn cây dùng làm thuốc. Cây rau mùi ( Coriandrum sativum L.) thuộc họ Hoa tán ( Umbelliferae) . Vị cay tính ấm mùi thơm qui kinh phế vị.
Thành phần chủ yếu:
Quả mùi có tinh dầu (0,3 - 1,0% ), chất béo (13 - 20%), protein (16 - 18%), chất xơ ( 38%). Thành phần chủ yếu của tinh dầu là Linalola quay phải ( 70 -90), còn gọi là Coriandrola. 5% d.pinen, limonex, tecpinen, mycxen, phelandren, một ít geranioa và bocneola. Trong lá thân cũng chứa trên dưới 1% tinh dầu.
Tác dụng dược lý:
Theo Y học cổ truyền thuốc có tác dụng phát tán thấu chẩn ( giúp sởi đâïu chóng mọc), giảm độc làm nhẹ trạng thái nhiễm độc toàn thân ( nhất là đối với bệnh sởi trẻ em), kiện vị tiêu thực.
Tây y chưa có báo cáo về nghiên cứu rau mùi.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Chữa bệnh sởi trẻ em: Chủ yếu lúc sởi mới mọc, sởi mọc không đều, hoặc sốt kéo dài mà sởi chưa mọc hoặc mọc quá ít, dùng cây rau mùi có tác dụng thúc sởi mọc nhanh và đều, tăng tuần hoàn ngoại vi làm cho độc sởi được phát ra ngoài, trạng thái nhiễm độc được giảm nhẹ.
Dùng ngoài: Hạt rau mùi tươi ( hoặc cả thân lá) 100 - 150g sắc nước sôi độ 5 phút, giã nát để sắc (không sắc lâu) đem xoa ấn vào tay chân và thân mình trẻ ( theo thứ tự lưng trước bụng sau, trên trước dưới sau) không để trẻ bị lạnh. Hoặc dùng Hạt mùi 80g tán nhỏ trộn với rượu 100ml và nước 100ml đun sôi lọc bỏ bã phun vào người bệnh nhi trừ mặt ( để nước thuốc hơi ấm mà dùng).
Uống trong: Hạt mùi 12g sắc nuớc uống ấm trong ngày 1 - 2 lần.
2.Trị rối loạn tiêu hóa bụng đầy đau do thực tích: Dùng bài: Hồ tuy 8g, Đinh hương 4g, Quất bì 4g, Hoàng liên 4g, sắc nước uống.
3.Kinh nghiệm trị những chứng khác:
Phụ nữ sau đẻ cạn sữa:Quả mùi 6g, nước 100ml, đun sôi 15 phút chia 2 lần uống trong ngày.
Trị da mặt có những nốt đen: Quả mùi sắc nước rửa luôn, nốt đen sẽ mất dần.
Trị lòi dom: Quả mùi đốt hun khói xông hâïu môn.
Trị lãi kim: Hạt mùi tán mịn trộn với bột trứng gà luộc chín và dầu mè liên tục 3 ngày, mỗi ngày một lần trước lúc ngủ.
Trị buồn nôn ợ hơi: dùng hạt Hồ tuy, hạt củ cải, mỗi thứ 40g, tán bột mịn trộn lẫn, mỗi lần uống 4 - 8g, ngày 2 lần.
Phòng bệnh sởi: sắc nước rau mùi cho trẻ uống trong thời gian có tiếp xúc với trẻ mắc bệnh sởi trong 7 - 10 ngày.
Liều lượng thường dùng:
Uống trong 4 - 8g.
Dùng ngoài không hạn chế.
Chú ý lúc dùng thuốc: Không dùng thuốc lúc sởi đã mọc đều, thời kỳ toàn phát và hồi phục của bệnh sởi. Không dùng đối với bệnh nhiễm mồ hôi ra nhiều, cơ thể suy nhược, bệnh nhân có lóet dạ dày không dùng uống trong. XẠ HƯƠNG
Tên khác
Tên thuốc: Moschus
Tên khoa học:Moschus moschiferus L.
Tiếng trung: 射 香
Lưu ý: Cần phân biệt xạ hương và cỏ xạ hương (có tên tiếng Anh là Thyme hay Common thyme, Garden thyme, danh pháp hai phần: Thymus vulgaris) là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi, được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực, dược liệu và trang trí. Chúng thuộc Chi Cỏ xạ hương (Bách lí hương) và là loài phổ biến nhất trong chi này.
Mô tả dược liệu xạ hương
Xạ hương là gì?
Xạ hương là một dược liệu quý. Xạ hương là một chất đặc lổn nhổn do hạch ở sát dương vật của một thứ cầy hương đực (có người còn gọi là hươu xạ) từ 3 tuổi trở lên (Moschus moschi-ferus L ) họ hươu xạ (Moschida). Con cầy hương giống con cầy cao chừng 50 cm,dài 80 - 90cm, toàn thân màu vàng gio. Nó sống bằng những cây cỏ thơm, vì vậy người ta cho rằng nguồn gốc xạ là ở các cỏ thơm đó. Đi đến đâu nó tiết xạ để nhớ đường về.
Túi xạ ở phía bụng, khoảng 2cm trước chỗ bìu dái và trước dương vật. Hình dạng túi xạ thay đổi, khi thì hình tròn, khi thì dẹt trên phủ lông như những lông khác ở bụng con cầy hương; túi xạ có một điểm sâu, đường kính chừng 5mm, tất cả lông trông như đều hướng về điểm này.
Ngoài ra ở Việt Nam ta còn có loài cầy hương khác (Vicerricula malaccensi Gmelin) và cầy giông (Viverrazibetha, họ Viverridae), cũng có túi thơm nhỏ, người ta cũng lấy chế biến và gọi là xạ. Thứ xạ này không thơm và không tốt bằng xạ hương nói trên.
Phân biệt thứ xạ thật giả theo hình nghiệm nhân dân:
- Xạ thật có mùi thơm xộc ngay vào mũi, thơm lâu.
- Dùng móc lấy ráy tai cho vào trong túi xạ lấy ít xạ cho vào ngay mà vê, xạ thật thì nhiều đàn tính, mềm nhũn, viên lại thành tròn, bóp bẹp thành bột; thứ giả thì viên lại thành dài, không có đàn tính.
- Lấy chút ít xạ hương cho vào nước sôi một chốc lấy ra, xạ thật thì bã nó thơm mãi, thứ giả không thơm mà lại hôi.
- Phân biệt nguyên cả miếng xạ hương còn cả da, có thể dùng kim xăm vào thử xem có khối chắt cứng hoặc khối thịt. Nếu có vật cứng tức là họ cho chì vào để thêm nặng cân..
- Dùng sợi chỉ tơ tẩm vào nước hành tanh, lấy sợi chỉ đỏ xâu vào trôn kim, lấy kim xuyên qua túi xạ, xạ thật thì sợi chỉ không còn mùi tanh, thứ giả thì mùi tanh của hành mất đi rất ít.
- Lấy chút ít xạ hương để trên miếng sắt mà đốt, thì thấy cháy xèo xèo như đốt tóc toả mùi thơm mà không có mùi khét, toàn bộ cháy gần hoá ra tro, hoặc còn lại cũng rất ít, xạ giả chất than còn lại rất nhiều.
- Những thứ trộn lẫn vào xạ hương, phần nhiều hay lẫn thứ huyết khô, miếng thịt khô thái vụn hoặc bột chì hoặc đất cát trộn vào, nếu cho Xạ hương ấy vào than đỏ mà đốt thì khối thịt, huyết khô mà cháy thì khét, chất chì thì không cháy, đất cát còn lại.
Lấy xạ hương và cách chế biến:
- Bắt được Cầy hương để nó nằm im nửa giờ cho xạ hồi về. Xẻo lấy túi xạ: có người treo trong nhà âm Canđến khi khô, có người lấy lá trầu bọc lại (hoặc là long não) cho đến khô, vì cho là da túi hay bị thối. Cũng có người đem tẩm rượu phơi râm cho khô, rồi lại tẩm, âm Can(3 lần). Khi túi xạ khô rồi thì bỏ vào lọ đậy kín.
- Lại có người chế xạ hương theo cách sau đây: lấy một dùi sắt nung đỏ lăn cho cháy hết lông túi xạ, để làm khô túi. Sau đó thái mỏng, đặt vào một cái bát, lấy cái bát khác nhỏ hơn úp vào, trét kín bằng lá khoai và cám đã làm nhuyễn rồi đun nóng nhẹ. Muốn biết thế nào là vừa, đặt lên bát úp một lá trầu. Khi nào lá trầu khô là được, mở bát ra, cạo lấy phấn xạ bám lên lòng bát úp, cho vào lọ nút kín.
- Người ta không cạo lông túi xạ vì sợ làm mỏng túi, xạ bay đi.
Cách bào chế xạ hương
Theo Trung Y: Dùng nước nóng, nhúng ướt cạo sạch lông da, mở túi xạ ra, thái mỏng nhỏ và nghiền bột dùng.
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Khi dùng xạ khô thì lấy dao sắc chích túi ra, lấy hạt xạ, thường chỉ to bằng nửa hạt gạo, vàng xám, bỏ lọ đậy kín. Khi dùng lấy một tý, rồi lại cất đi. Còn túi xạ khi dùng đến đâu thì mài với ít nước, gạn lấy nước mà dùng, còn thì lại phơi khô cất đi.
- Nhưng có người khi lấy hạt xạ ra rồi, còn túi thì đem sao đen rồi tánthành bột mịn; sau đó cho hạt xạ cùng tán cho đều, đựng lọ kín.
- Cũng có người sau khi lấy hạt xạ cất riêng rồi còn túi thì đem ngâm rượu, lọc đi để uống.
- Còn có người cho vào lọ đựng hạt Xạ một số cốm chuồi đã rang (miền Bắc gọi là bỏng rang) đậy kín. Khi dùng lấy cốm chuồi ra dùng, hết lại cho cốm chuồi khác vào.
Hòn dái con cầy hương đem sao với cát nóng cho khô tán bột để dùng.
Bảo quản: cần để vào lọ thật kín, để nơi khô ráo, tránh nóng ẩm làm mất mùi thơm. cũng cần để xa các chất có mùi thơm khác như băng phiến, bạc hà dễ bị bắt mùi.
Thành phần hoá học của xạ hương
Trong xạ hương có cholesteron, chất béo, chất nhựa đắng, muối calci, amon và một tinh dầu 34% (chủ yếu là muscon tỷ lệ muscone trong Xạ hương là khoảng1% và 1,58 - 1,84%. Ngoài ra Xạ hương còn có normuscone và các thành phần khác như protid, các hợp chất nitrogen (acid amine, urê), muối vô cơ (Ca, K,Na, Mg, Phosphor.). Do có mùi thơm đặc trưng nên thường sử dụng trong công nghiệp làm nước hoa. Hiện nay người ta có thể chế Xạ hương nhân tạo.
Xạ hương được biết đến từ thời cổ đại - là 1 loại dược liệu quý hiếm.
Tác dụng dược lý của xạ hương
Đối với hệ thần kinh trung ương :Nếu dùng liều nhỏ Xạ hương và chất muscone ceton Xạ hương có tác dung làm hưng phấn hệ thần kinh trung ương, nhưng ngược lại, nếu liều cao thì lại bị ức chế. Thuốc sử dụng xạ hương làm giảm rõ phù não, tăng sư thích nghi của hệ thần kinh trung ương đối với trang thái thiếu oxy, cải thiện tuần hoàn não. Nhờ các tác dung trên mà thuốc có tác dụng khai khiếu (tỉnh não) (Trung Dược Học).
Đối với hệ tuần hoàn:thuốc có tác dụng hưng phấn tim cô lập làm cho lưu lượng máu của động mach vành tăng gấp đôi
Tác dung kháng khuẩn và kháng viêm:2% ceton Xạ hương dịch pha 1% loãng 1 : 400. in vitro có tác dụng ức chế tụ cầu vàng, trực khuẩn đai tràng (E coli), khuẩn thổ tả heo, thuốc còn có tác dụng kháng viêm trên mô hình gây viêm khớp cho chuột đồng (Trung Dược Học).
Tác dụng đối với tử cung:Thuốc có tác dụng hưng phấn rõ rệt đối với tử cung cô lập của thỏ nhà, chuột đồng và chuột Hà lan, tác dụng hưng phấn đối với tử cung có thai càng mạnh hơn (Trung Dược Học).
Tác dụng chống ung thư:thuốc có tác dụng ức chế tế bào ung thư, đối với các loại ung thư thực quản, ung thư tuyến bao tử, ung thư đại trường. ung thư bàng quang. Nồng độ cao tác dụng mạnh nhưng đối với ung thư tâm vị lại không có tác dung rõ rệt (Hiện Đại Trung Dược Học).
Vị thuốc xạ hương
Tính vị:
Vị cay, tính ôn,
Quy kinh:
Thông khắp 12 kinh.
Tác dụng:
Thông khiếu, thông kinh lạc.
Chủ trị:
Các chứng: nhiệt nhập tâm bào lúc mắc bệnh ôn nhiệt, sang thương thũng độc, trung tích kinh bế, kinh phong, kinh giản trúng phong (chứng bế), tâm phúc bạo thống, diệt dã tổn thương, bào y bất hạ (rau thai không ra)
Liều dùng
Liều dùng: Đông y thường dùng 0,06 - 0,1g nhiều đến 1g. Dùng ngoài lượng vừa đủ. Chỉ cho vào thuốc hoàn tán, không cho vào thuốc thang vì khi sắc sẽ bay hết mùi
Xưa kia Tây y hay dùng xạ hương làm chất trấn kinh, cường dương, điều kinh v.v... dưới dạng cồn xạ hương với liều 6 - 10g một ngày, cồn này pha thành thuốc uống, nay ít dùng.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc xạ hương
Xạ hương có tác dụng: khai khiếu tỉnh thần, hoạt huyết tán kết, chỉ thống thôi sản.
Trị bệnh mach vành, tai biến, huyết khối, đau thắt ngực:
Muscone chế thành thuốc ngậm, dùng trị cho các ca đau thắt ngực.Đặc biệt có thể nói tới các viên ngậm cấp cứu của Trung Quốc hay Hàn Quốc sản xuất có tên làAn Cunghay An Cung Ngưu Hoàng Hoàn, v.v... được dùng để cấp cứu và điều trị cho các bệnh nhân trong khi và sau tai biến rất hiệu quả.
Dùng để giảm đau tim:
Xạ hương, Nha tạo, Bạch chỉ, chế thành cao dán, mỗi lần dán 2 miếng ở vùng đau trước tim và huyệt Tâm du, cứ 24 giờ thay 1 lần.
Trị bênh viêm gan mạn và xơ gan thời kỳ đầu:
Dùng dịch chích Xạ hương 5%, luân lưu chích vào 2 huyệt Chương môn, Kỳ môn 2 bên, mỗi lần 2ml, 1 tuần 1 lần, 4 tuần là một liệu trình.
Trị bong gân vùng eo lưng.
Dùng dịch chích Xạ hương 0,2% chích vào A thị huyệt, điểm đau nhất. Mỗi lần 2-4ml, mỗi tuần 1 lần. 2 tuần là một liệu trình, theo dõi 21 ca kết quả tốt (Bảo cáo của Triệu Hương Cương, báo Tân Trung Y 1985, 4 : 26).
Trị bạch điến phong:
Dùng dịch chích Xạ hương 0,4% chích dưới da vùng bệnh nhiều điểm, lượng tùy theo vùng bệnh to nhỏ. Một tuần 2 lần, 3 tháng là một liều trình, thường là 2-3 liệu trình Theo dõi 78 ca, tỉ lệ kết quả 83:33% (Liêu Tuy Lâm và cộng sự, Hồ Nam Y Học Viện Hoc Báo 1980, 2 : 157).
Trị nhau thai không ra, thai chết lưu:
Hương Quế Tán: Xạ hưong 0,15g, Nhục quế 1,5g, tán bột, chia làm 2 lần, uống với nước nóng (Hiện Đại Trung Dược Học).
Tham khảo
Kiêng kị
Cần hết sức lưu ý đến việc sử dụng các sản phẩm chứa xạ hương, như nước hoa, xà phòng thơm... hoặc các thuốc Đông y trong thành phần có xạ hương đối với phụ nữ có thai, hiếm muộn, hay bị lưu thai hoặc khó thụ thai.
Người bị suy nhược, sức khỏe yếu cẩn trọng khi dùng
Một số bài thuốc cổ phương đặc biệt của Ðông y có xạ hương:
Phương “Lục thần hoàn” gồm 6 vị: xạ hương 1g, trân châu 1,5g, ngưu hoàng 1,5g, hùng hoàng 1g, băng phiến 1g, thiềm tô 1g. Thiềm tô tẩm rượu để riêng. Các vị khác tán bột hòa với thiềm tô làm viên bằng hạt cải. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 5 - 10 viên. Tác dụng: thanh nhiệt giải độc, giảm đau. Chữa chứng hầu họng sưng đau, trẻ em sốt cao, co giật, đinh độc, tuyến vú sưng đau.
An cung ngưu hoàng hoàn: xạ hương 25g, băng phiến (d.borneol) 25g, ngưu hoàng 10g, bột sừng trâu 200g, trân châu 50g, chu sa 100g, hùng hoàng 100g, hoàng liên 100g, hoàng cầm 100g, chi tử 100g, mật ong vừa đủ. Tất cả làm hoàn, mỗi hoàn 3g. Ngày uống 1 hoàn, uống liền 5 - 7 ngày. Tác dụng: thanh nhiệt giải độc, chỉ kinh, khai khiếu. Dùng cho những người tà nhiệt nhập vào phần tâm bào, nhập phần dinh, phần khí, phần huyết, gây sốt cao, phát cuồng, co giật, mê sảng; hoặc sau các tai biến mạch máu não (nhồi máu não) dẫn đến hôn mê, bất tỉnh. Xạ hương trong y văn cổ:
Bản kinh: " chủ trị ác khí (trừ khí độc), ôn ngược, cồ độc (con sâu độc), khử độc, trị động kinh, uống lâu trừ tà.".
Danh y biệt lục: " chủ trị các chứng hung tà quỉ khí, trúng ác, tâm phúc bạo thống trướng cấp, bĩ mãn phong độc, đàn bà đẻ khó trụy thai, khử nốt ruồi ở mặt, mộng thịt ở mắt, uống lâu tinh thần minh mẫn (cửu phục thông thần tiên).".
Bản thảo kinh tập chú: " xạ thơm nên trừ được độc .".
Nhật hoa tử bản thảo: " tịch tà khí, sát quỉ độc, ngược tật, thôi sinh trụy thai, sát trùng ở tạng phủ, ngăn ngừa rắn và trùng thú cắn, thổ phong đàm, nạp tử cung, làm ấm tạng thủy, chỉ lãnh đới, trị tất cả các bệnh nguy hiểm hư tổn".
Thang dịch bản thảo: " trị lỗ mũi không phân biệt được thơm thối".
Y học nhập môn: " Xạ hương thông quan lợi khiếu, thương đạt cơ phu, nội nhập cốt tủy. Các chứng thương hàn âm độc, nội thương tích tụ và phụ nhân tử cung, bạch đới đều dùng tốt, khớp thông lạnh tan thì dương khí tự hồi vậy".
Bản thảo cương mục: " thông các khiếu, khai kinh lạc, thấu cơ cốt, giải độc rượu, tiêu thực tích. Trị trúng phong, trúng khí, trúng ác (độc), đàm quyết tích tụ trưng hà . Xạ hương đi xuyên có thể thông các khiếu bị tắt, khai ủng tắc kinh lạc. Nếu các chứng phong, chứng khí, chứng huyết, chứng đau, kinh quyết trưng hà, kinh lạc ủng bế, thông khiếu bất thông mà không dùng Xạ hương để khai thì không làm sao được chứ?".
Cảnh nhạc toàn thư: " trừ các chứng ác sang, trĩ lậu, sưng đau, nước mủ thịt thối, mặt sạm ban chẩn". DIÊN HỒ SÁCH Tên khác:
Diên hồ sách, Huyền hồ sách, Nguyên hồ sách, Khuê nguyên hồ, Sanh diên hồ, Sao diên hồ, Vũ hồ sách, Trích kim noãn ...
Tên khoa học: Corydalis ambigua Champ et Schlecht.,
Họ: Papaveraceae.
Tên tiếng trung: 延 瑚 索 (Diên hồ sách)
Cây Diên hồ sách
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ....)
Mô tả:
Cây thảo sống nhiều năm, tự sinh ở nơi sơn dã, dưới đất có rễ củ hình cầu, thân nhỏ yếu, cao chừng 0,5m, lá mọc đối có mép nguyên, hoa nở vào mùa xuân ở cuối thân cây, màu hồng nhạt hoặc hoa đỏ màu tím, hoa hình môi gồm 1 mặt há ra, sắp xếp thành chùm.
Phân bố:
Mọc ở Triết Giang, Phúc Kiến, Nhiệt Hà, loại sản xuất ở Ninh Ba, Kim Hoa, Hàng Châu thuộc Triết Giang là loại tốt. Cây này chưa thấy ở Việt Nam
Thu hái, sơ chế:
Diên hồ sáchSau tiết lập xuân đào củ rửa sạch phơi nắng cất dùng.
Phần dùng làm thuốc: Củ rễ (Corydalistuber).
Thành phần hoá học:
Alcaloid như: corydalin, dehydrocorydalin, protin, corybolbin…
Tác dụng dược lý:
Thuốc có tác dụng giảm đau, trấn kinh an thần, gíup ngủ tốt.
Thuốc làm tăng lưu lượng máu động mạch vành của tim thỏ cô lập.
Thuốc có tác dụng làm hạ mỡ nhẹ đối với mô hình gây xơ mỡ động mạch chuột trắng lớn.
Trên thực nghiệm còn cho thấy thuốc có tác dụng ức chế gây loét lúc thắt môn vị của chuột, ức chế loét do acid acetic hoặc loét do histamin.
Thuốc còn có tác dụng tăng tiết nội tiết tố vỏ tuyến thượng thận.
Vị thuốc Diên hồ sách
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Mô tả dược liệu:
Củ rễ khô thể hiện hình cầu dẹt không nhất định, đường kính dài từ 1-1,5cm mặt ngoài màu vàng đất hoặc vàng tươi, mặt trên có sẹo dính với thân cây biểu hiện của một hõm cạn, cuối cùng của mặt dưới thường có 2-3 nhánh rãnh hay chia ra làm 3 phần. Toàn thể phân bố đầy những lằn nhăn ngang cong queo, đồng thời ở giữa có những vết lằn ngang tương đối sâu hoặc lõm xuống, củ cứng chắc màu vàng ánh, vỏ nhăn nheo không mốc mọt là loại tốt.
Bào chế: Bỏ hết tạp chất, cho vào nồi đổ giấm vào (Cứ 10 kg Diên hồ sách thì dùng 2kg giấm) đun nhỏ lửa cho giấm cạn hết. Phơi khô lúc dùng tán bột, tẩm rượu hay muối tùy theo từng trường hợp.
Tính vị:
Vị cay hơi đắng, khí ấm.
Qui kinh:
Vào kinh Phế, Can, Tỳ
Liều dùng:
4,5-9g
Công dụng:
Diên hồ sách Hoạt huyết, tán ứ, lợi khí chỉ thống.
Tẩm với rượu có tác dụng hành huyết. Tẩm giấm có tác dụng giảm đau. Dùng sống có tác dụng phá huyết, muốn điều huyết thì sao vàng.
Kiêng kỵ:
Có kinh trước kỳ, người hư huyết. Có chứng băng huyết, Rong kinh, sản hậu, huyết hư, chóng mặt thì không nên dùng. Kỵ thai.
Phân biệt:
Có nơi dùng Diên hồ sách bằng củ của rễ cây Corydalis ternata Nakai.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Diên hồ sách
Trị ho bất luận gìa hay trẻ:
Diên hồ sách 1 lượng, 2,5 chỉ khô phàn tán bột, mỗi lần uống 6g với 1 cục kẹo mạch nha ngậm nuốt từ từ (Nhân Tồn Đường Phương).
Trị chảy máu cam:
bột Diên hồ sách gói trong bông sạch nhét trong lỗ tai, hễ máu chảy bên phải thì nhét bên trái và ngược lại (Phổ Tế Phương).
Trị tiểu ra máu:
1 lượng Diên hồ sách, 7,5 chỉ Phác tiêu, tán bột, mỗi lần uống 4 chỉ sắc uống (Hoạt Nhân Thư Phương).
Trị tiểu tiện không thông:
dùng “Niệp đầu tán” trị trẻ con tiểu không thông, dùng Diên hồ sách, Xuyên luyện tử, 2 vị bằng nhau tán bột lần uống nửa chỉ đến 1 chỉ với nước sôi cho vào vài giọt dầm mè (Tiểu Nhi Chân Quyết Phương).
Trị đau phần ngoài do khí và khí kết khối:
Diên hồ sách tán bột với tụy tạng heo, xắt ra từng miếng, nấu chín, chấm bột thuốc ăn (Thắng Kim Phương).
Trị đau tim do nhiệt quyết, khi đau khi không, lâu ngày khó trị, mình nóng chân lạnh:
Huyền hồ sách bỏ vỏ, dùng thịt quả Kim linh tử, 2 vị bằng nhau tán bột uống với rượu nóng hoặc nước sôi lần 2 chỉ (Thánh Huệ Phương).
Trị bệnh khí huyết của đàn bà, quặn đau trong bụng, kinh nguyệt không đều:
Huyền hồ sách bỏ vỏ sao giấm, Đương quy tẩm rượu sao mỗi thứ 1 lượng, Quất hồng 2 lượng tán bột trộn rượu, nấu viên hồ làm bằng hạt ngô đồng, lần uống 100 viên lúc đói với nước dấm sắc, uống trung với Ngải cứu (Phổ Tế Phương).
Trị các loại đau sau khi sinh.
Hễ sau khi sinh đẻ, những ô uế trong người chưa ra sạch, bụng căng đầy và huyết vận sau khi sinh, tức cứng ở tim hoặc sốt rét không dứt hoặc bứt rứt, bồn chồn, tay chân hâm hấp nóng, khí lực muốn hết. Các chứng ấy đều có thể dùng Diên hồ sách sao nghiền uống với rượu, mỗi lần 6g (Thánh Huệ Phương).
Trị trẻ con đau quặn trong ruột:
Diên hồi sách, Hồi hương, 2 vị bằng nhau, nghiền sao, uống lúc đói với nước cơm (Vệ Sinh Gia Giảm Phương).
Trị sán khí (thoát vị) nguy cấp:
Huyền hồ sách sao muối, Toàn yết bỏ phần độc, dùng sống, 2 vị bằng nhau tán bột, mỗi lần uống 1,5g lúc đói với rượu muối (Trực Chỉ Phương).
Trị đau đầu một bên hoặc giữa đầu chịu không nổi
dùng Huyền hồ sách 7 củ, Thanh đại 2 chỉ, Trư nha tạo giác 2 trái bỏ vỏ hạt tán bột trộn nước làm viên như hạt Hạnh nhân lớn. Khi dùng lấy một viên hoà nước gịo vào mũi bệnh nhân, đau bên nào giọt bên ấy, đồng thời trong miệng ngậm 1 đồng tiền bằng đồng khi có nhiều nhớt nhãi chảy ra thì bớt (Vĩnh Loại Kiềm Phương).
Trị té ngã từ trên cao rơi xuống, làm đau nhức gân cốt
dùng Diên hồ sách nghiền bột, uống với rượu đậu lần 2 chỉ ngày 2 lần (Thánh Huệ Phương).
Trị đàn bà đau bụng do khí ngưng huyết trệ
dùng ‘Diên Hồ Sách Tán’ gồm Diên hồ, Đương quy, Xuyên khung, Quế tâm, Mộc hương, Chỉ xác, Xích thược, Đào nhân, Địa hoàng (Phụ Khoa Phương).
Trị đau ở vùng vị quản:
Diên hồ sách, Ngũ linh chi, Nga truật, Cao lương khương, Đương quy (Dũ Thống Tán- Thẩm Thị Tôn Sinh).
Trị đau bụng do bế kinh:
Diên hồ sách, Đương quy, Thược dược, Hậu phác mỗi thứ 3 chỉ, Tam lăng, Nga truật, Mộc hương mỗi thứ 1,5 chỉ. Sắc uống (Diên Hồ Sách Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đau bụng có kinh:
Diên hồ sách (sao rượu) 2 lượng, Hương phụ (sao dấm) 4 lượng. Tán bột lần uống 2 chỉ với rượu nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị loét dạ dầy tá tràng, các chứng đau nhức do viêm dạ dầy, đau thần kinh chức năng dạ dầy do khí trệ hoặc kiêm ứ huyết sinh ra:
Diên hồ sách 9 phần. Thiên tử 1 phần tán bột lần uống 3 chỉ, ngày 2-3 lần, uống với nước (Thống Kinh Tán - (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đau nhức thần kinh mặt
Diên hồ sách, Xuyên khung, Bạch chỉ mỗi thứ 5 chỉ, Thương nhĩ tử 3 chỉ sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
Trích dẫn y văn
Diên hồ sách chủ thận khí, phá sản hậu ác lộ hoặc chứng đau bụng dưới của đàn bà, kết hợp với Tam lăng, Miết giáp, Đại hoàng tán bột lại càng tốt (Hải Dược Bản Thảo).
Diên hồ sách đuổi trừ được phong, trị khí, làm ấm được lưng và chân, khỏi chứng đau bụng và đau lưng, phá được bỉ tích như nổi hòn nổi cục trong bụng, huyết ứ và có thể làm cho hư thai (Chư Gia Bản Thảo).
Diên hồ sách trị được chứng tâm khí, làm giảm đau ở bụng dưới (Thang Dịch Bản Thảo).
Diên hồ sách có thể làm được huyết trệ trong khí hoặc khí trệ trong huyết, vì vậy chuyên trị được chứng bệnh đau nhức toàn thân, thông lợi tiểu tiện (Bản Thảo Cương Mục).
Diên hồ sách vị cay khí ấm, không độc, nhập vào kinh Túc quyết âm. Cũng nhập vào kinh thủ thái âm. Khí ấm thì có thể làm cho tất cả được điều hòa nhờ vào chỗ điều hòa đó mà khí lưu hành thông thương tới các cơ quan được. Vị cay cho nên có thể nhuận mà tẩu tán được, khi nó tẩu tán thì huyết phải hoạt bát lưu lợi. Khi khí đã lưu hành huyết đã trơn tru thì có thể phá được những ứ đọng của các chứng bệnh sản hậu vậy (Bản Thảo Kinh Sơ).
Diên hồ sách được khí trệ ở trong huyết, huyết trệ ở trong khí chi nên hễ những chứng kinh nguyệt không đều, đau tim bụng đột ngột, đau căng bụng dưới, thai không xuống, nổi hòn, nổi cục đau đớn huyết vận huyết sung sau khi sinh, tổn thương do chấn thương, chẳng kể là huyết hay khí tích lại ở đó mà không tan đi được, cần phản dùng vị này mới có thể thông đạt được...Những người bệnh quá suy nhược cần phải uống kết hợp thêm với thuốc bổ, còn không thì chỉ hao hại thêm mà không có ích lợi gì hết vậy (Bản Thảo Cầu Chân)
Diên hồ sách hành được huyết trệ trong khí, khí trệ trong huyết, chữa được mọi chứng đau khắp cả người, trên cũng như dưới, thường dùng 1 mình thì công hiệu nhiều, cho nên trong thuốc điều kinh hay dùng đến nó. Nhưng không có công bổ khí, lại thiếu nuôi dưỡng vinh huyết, chỉ nhờ tính cay ấm mà công vào chỗ ngừng đuổi được cái trệ, cho nên đối với người hư chứng thì nên dùng nó với thuốc bổ, bằng không chỉ làm tổn hại mà chẳng lợi ích gì (Dược Phẩm Vậng Yếu).
Diên hồ sách có tác dụng hoạt huyết lợi khí mà có tác dụng giảm đau lại rất mạnh. Hễ khí huyết ngưng trệ, đau nhức ngực bụng thì nó là thuốc chủ yếu. Tính của ấm vị cay cho nên dùng trong chứng hàn uất. Những chứng do huyết nhiệt gây ra bệnh kinh nguyệt sớm, hoặc huyết nóng vọng hành đều nên kiêng dùng nó (Trung Dược Học).
Diên hồ sách có tác dụng hoạt huyết, hành khí, tác dụng chỉ thống mạnh, đi vào phần huyết và phần khí, vì vậy khí huyết ngưng trệ gây nên đau nhức vùng bụng, ngực đều có thể dùng vị này (Thực Dụng Trung Y Học). MANG TIÊU
(Mirabilitum)
Mang tiêu còn gọi là Phác tiêu, Huyền minh phàn dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Danh y biệt lục, có tên khoa học là Mirabilita Natrium Sulfuricum, Sai Glauberis là muối Natri sulfat thiên nhiên tinh chế mà thành. Tại những nơi có Mang tiêu thiên nhiên ( Na2SO410H2O) đào về hòa tan với nước, lọc trong để loại tạp chất rồi cô đặc để kết tinh. Làm đi làm lại nhiều lần cho đến khi nưóc trong thì thôi, để cho nguội kết tinh gọi là Mang tiêu. Đem Mang tiêu bỏ vào nồi nước cho lửa đun sôi, nước bay hơi còn lại bột trắng, hoặc bọc Mang tiêu vào bọc giấy treo vào nơi thông gió phân hóa thành bột trắng, gọi là Huyền minh phấn, chế theo phương pháp thứ 2 cũng gọi là Phong Mang tiêu.
Ở Trung quốc, Mang tiêu chủ yếu chủ yếu được khai thác ở các tỉnh Hà bắc, Hà nam, Sơn đông, Giang tô, An huy.
Nước ta vẫn phải nhập Mang tiêu của Trung quốc. Theo Đỗ tất Lợi, hiện ta đã tự túc.
Tính vị qui kinh:
Mang tiêu vị mặn, đắng, tính hàn, qui kinh Phế Vị Đại trường.
Theo các sách thuốc cổ:
*.Sách Danh y biệt lục: đắng mặn.
*.Sách Bản thảo cương mục: phác tiêu vị cay, cay để nhuận thận táo, ngày nay người ta nói thuốc mặn, mặn để nhuyễn kiên.
*.Sách Dược phẩm hóa nghĩa: nhập phế, vị, đại trường kinh.
Thành phần chủ yếu:
Thành phần chủ yếu là Sodium sulfate, ngoài ra còn có ít Calcium sulfate, Natri chlorure, Magnesium sulfate, muối.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Mang tiêu có tác dụng: tả hạ nhuyễn kiên, thanh nhiệt tả hỏa. Chủ trị các chứng: nhiệt kết tiện bí, ngoại cảm nhiệt bệnh, đàm nhiệt khái thấu, tý thống ( đau cánh tay), chứng điên cuồng, ung thũng ( nhọt sưng), đơn độc, yết thống ( họng đau), khẩu sang (lở mồm), răng lợi sưng đau ( nha ngân thũng thống).
Trích đoạn Y văn cổ:
*.Sách Danh y biệt lục:" chủ ngũ tạng tích tụ, cửu nhiệt vị bế, trừ tà khí, phá lưu huyết, phúc trung đàm nhiệt kết bác ( bụng đầy có đàm nhiệt kết), thông kinh mạch, lợi đại tiểu tiện và nguyệt thủy ( kinh nguyệt), phá ngũ lâm, tống cũ sinh mới (suy trần chí tân)".
*.Sách Trân châu nang:" công dụng của Mang tiêu có 3: khử thực nhiệt, địch trường trung súc cấu ( tẩy chất bẩn đọng lại trong ruột), phá kiên tích nhiệt khối".
*.Sách Dược phẩm hóa nghĩa:" vị mặn nhuyễn kiên mà thông được táo kết, tính hàn giáng hạ mà có thể khử hỏa táo. Chủ trị chứng thời hành nhiệt cuồng ( bệnh nhiễm sốt cao phát hoảng). Trị lục phủ tà nhiệt hoặc thượng tiêu cách nhiệt hoặc đi tiêu táo bón ( hoặc hạ bộ tiện kiên).
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Tác dụng tẩy xổ(laxative): sodium sulfat hòa tan vào nước nhưng gốc SO4có phân tử lớn khó qua màng ruột lưu lại ở ruột hút nước ở các tổ chức vào ruột làm lỏng phân ( do SO4hình thành dung dịch ưu trương), làm tăng dung tích ruột gây kích thích cơ giới làm tăng nhu động ruột gây tiêu chảy.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị vú sữa đầy căng tức đau:dùng Mang tiêu làm thuốc giảm sữa. Tác giả đã trị 33 ca đều thành công, cách làm: Mang tiêu 200g, dùng 2 lớp gạc gói thành 2 gói đặt lên 2 núm vú dùng vải băng buộc lại, sau 24 giờ lấy ra, làm 1 lần chưa hết làm lại lần 2 ( Lôi Vĩnh Trọng, Tạp chí Phụ sản khoa Trung hoa 1957,5:401).
2.Trị nhiễm khuẩn ngoài da:dùng Băng phiến, Mang tiêu theo tỷ lệ 1:10 trộn đều, bỏ thuốc vào giữa miếng gạc dày 0,5cm đắp vào chỗ nhiễm khuẩn cố định băng băng dính, 2 - 3 ngày thay 1 lần, đã dùng trị nhiễm khuẩn ngoại khoa chưa có mủ và chưa vỡ mủ bao gồm: đơn độc 25 ca, viêm tuyến vú cấp 42 ca, sưng tấy (phlegmon) 30 ca, nhọt sưng 40 ca, viêm ống lâm ba 38 ca, viêm tĩnh mạch 27 ca, viêm ruột thừa có mủ 28 ca. Tất cả 230 ca kết quả tốt, bình quân thay thuốc 3 lần là khỏi ( Trương Liên Xuân và cộng sự, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1984,5:272).
3.Trị bệnh ở hậu môn:dùng dịch Huyền minh phấn 3% ngâm hậu môn, trị các chứng trĩ, nẻ, dò hậu môn thời kỳ viêm tấy. Đã theo dõi 4834 ca, kết quả tốt ( Hoàng Ngọc Nga, Học báo Trung y học viện Hà bắc 1983,1:21).
4.Trị chứng táo bón do trường vị thực nhiệt:
*.Điều vị thừa khí thang: Mang tiêu, Đại hoàng đều 10g, Chích thảo 3g, sắc uống. Có thể dùng bài Đại thừa khí thang.
5.Trị đau đầu không chịu được:Mang tiêu tán nhỏ thổi vào mũi.
6.Trị lở mồm:dùng bài:
*.Nhất tự tán: Phác tiêu, Bằng sa, Chu sa, Long não lượng vừa đủ, tán bột mịn thổi vào chổ lở.
7.Trị tiểu tiện không thông do bàng quang nhiệt:
*.Bột Mang tiêu uống mỗi lần 4g, ngày 2 - 3 lần với nước pha Tiểu hồi.
8.Trị ăn uống không tiêu, bụng ì ạch:
*.Mang tiêu 30g, Ngô thù du 40g, sắc nước uống dần, thấy bớt thì thôi.
9.Trị chàm, mề đay:
*.Mang tiêu, Bạch phàn đều 30g, hòa nước sôi rửa lúc nước còn nóng.
Liều lượng thường dùng và chú ý:
*.Uống trong 10 - 15g, uống với nước sôi nguội hoặc thuốc thang.
*.Dùng ngoài lượng vừa đủ.
*.Chú ý: Tỳ vị hư hàn và phụ nữ có thai không dùng. Lúc dùng trị viêm tuyến vú ở phụ nữ đang cho con bú, có kết quả thì ngưng, sợ đắp nhiều làm mất sữa.
*.Ba vị: Phác tiêu, Mang tiêu, Huyền minh phấn do cách bào chế mà khác tên nhưng tác dụng như nhau. Nhưng Phác tiêu thô, không được tinh chế nên chỉ dùng ngoài. Mang tiêu tinh hơn có thể dùng uống trong, Huyền minh phấn chất lượng tốt hơn có thể uống trong đắp ngoài, chế thành thuốc tán, dùng làm thuốc thổi trị bệnh hầu họng mồm đều tốt.
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648