DỪA CẠN
Tên khác
Tên thường dùng: Dừa cạn còn gọi là trường xuân, hoa hải đằng, bông dừa, dương giác, pervenche de Madagascar.
Tên khoa họcCatharanthus roseus (L.) G. Don; Vinca rosea L; Lochnera rosea Reich.
Họ khoa học: Thuộc họ Trúc đào Apocynaceae.
Cây dừa cạn
(Mô tả, hình ảnh cây dừa cạn, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý,...)
Mô tả cây:
Dừa cạn là cây thuốc nam quý. Cây nhỏ cao 0,4-0,8m, có bộ rễ rất phát triển, thân gỗ ở phía gốc, mềm ở phần trên. Mọc thành bụi dày, có cành đứng. Lá mọc đối, thuôn dài, đầu lá hơi nhọn, phía cuống hẹp nhọn, dài 3-8cm, rộng 1-2,5cm. Hoa trắng hoặc hồng, mùi thơm, mọc riêng lẻ ở các kẽ lá phía trên, quả gồm 2 đại, dài 2-4cm, rộng 2-3mm, mọc thẳng đứng, hơi ngả sang hai bên, trên vỏ có vạch dọc, đầu quả hơi tù, trong quả chứa 12-20 hạt nhỏ màu nâu nhạt, hình trứng, trên mặt hạt có các hột nổi thành đường chạy dọc. Mùa hoa quả gần như quanh năm.
Phân bố, thu hái và chế biến:
Mọc hoang dại và được trồng ở nhiều nước nhiệt đới như Việt Nam, Ấn Ðộ, Indonesia, Philippine, châu Phi, châu Úc, Braxin... Tại châu Âu và châu Mỹ ở những vùng nóng cũng trồng quanh năm, nhưng ở những vùng lạnh cây được trồng theo mùa vì không chịu được lạnh.
Dừa cạn được xem là đặc sản của vùng đất Madagascar với giá trị dược tính cao nhất thế giới. Hiện nay hàng năm người dân Madagascar xuất khẩu đến ngàn tấn dừa cạn phơi khô ra nước ngoài để làm dược liệu. Ở Việt Nam gặp nhiều nhất tại các tỉnh gần biển, nhưng khắp nơi đều trồng được, trước đây chỉ được trồng làm cảnh, gần đây đã được trồng để thu hoạch lấy cây, lá và rễ chế thuốc. Tại Việt Nam, cây được trồng làm cảnh, hoặc làm thuốc trị cao huyết áp, tiểu đường, sốt rét, bệnh máu trắng, thông tiểu.
Công ty Dược liệu Trung ương Việt Nam II cũng đã xuất khẩu cây này từ thập niên 1990.
Thị trường dược phẩm Mỹ, Pháp, Nhật, Việt Nam… có nhiều loại thuốc được bào chế từ dừa cạn như thuốc trị cao huyết áp, ung thư (máu, tinh hoàn, dạ con)…
Hoạt chất trong dừa cạn phụ thuộc vào nơi trồng và thu hái. Giống trồng ở Việt Nam được đánh giá là thảo được tốt tương đương dừa cạn ở Madagascar, chứa khoảng 0,1-0,2% alkaloid toàn phần. Tỷ lệ alkaloid trong rễ (0,7-2,4%) cao hơn trong thân (0,46%) và lá (0,37-1,15%). Các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… cũng đang ra sức bào chế thuốc từ loại cây này
Bộ phận dùng làm thuốc:
Dùng toàn cây: lá, rễ, cây
Bào chế:
Cây sau khi được thu hái, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô
Bảo quản:
Bảo quản nơi khô ráo, tránh ẩm mốc
Thành phần hóa học
Hoạt chất của Dừa cạn là alkaloid có nhân indol trong tất cả các bộ phận của cây, nhiều nhất trong lá và rễ. Dừa cạn Việt Nam có tỷ lệ alkaloid toàn phần là 0,1-0,2%. Rễ chứa hoạt chất (0,7-2,4%) nhiều hơn trong thân (0,46%) và lá (0,37-1,15%). Các chất chủ yếu là: vinblastin, vincristin tetrahydroalstonin, prinin, vindolin, catharanthin, vindolinin, ajmalicin, vincosid (1 glucoalkaloid tiền thân để sinh tổng hợp các alkaloid). Từ Dừa cạn, người ta còn chiết được các chất sau: acid pyrocatechic, sắc tố flavonoid (glucozid của quercetol và campferol) và anthocyanic từ thân và lá dừa cạn hoa đỏ. Ngoài ra từ lá chiết được acid ursoloc, từ rễ chiết được cholin.
Tác dụng dược lý
Từ năm 1952 y học đã phát hiện ra dược tính của dừa cạn. Xuất phát từ việc bác sĩ Clark Noble ở Canada đã nhận được một gói chuyển phát nhanh loại cây này do một người dân gửi tới với lời giới thiệu “dân địa phương đã dùng chúng trị bệnh tiểu đường” nên ông đã đưa vào phân tích. Kết quả khá bất ngờ, thay vì tác dụng hạ đường huyết trong máu, ông lại phát hiện ra hoạt tính trị bệnh ung thư bạch cầu của loại cây này. Dừa cạn đã được đưa vào bệnh viện thử nghiệm và trở thành cây dược liệu chính thức theo y khoa hiện đại.
Thành phần vincristin có tác dụng với bệnh nhân ung nhưng chúng lại là thành phần gây hại cho thai nhi, ức chế hệ thần kinh.
Kết quả phân tích của bác sĩ Clark, chiết xuất dừa cạn giàu alkaloid (gồm các loại: vinblastin, vincristin, tetrahydroalstonin, pirinin, vindolin, catharanthin, vindolinin, ajmalicin….).
Trong đó thành phần vincristin, vinblastin khi tách chiết thành dạng thuốc tiêm sẽ có tác dụng lớn trong ức chế tế bào hoặc sự phân bào. Cho nên chúng hạn chế được việc hình thành bạch cầu thừa ở bệnh nhân ung thư máu. Đặc biệt đến nay, y khoa vẫn chưa tìm ra phương pháp gì điều trị bệnh bạch cầu tốt hơn nên chiết xuất dừa cạn càng trở nên quý với bệnh nhân ung thư máu.
Thân và lá dừa cạn có tính chất làm săn da, lọc máu.
Tác dụng tẩy giun khá mạnh, tác dụng lợi tiểu của catharanthin, vindolinin và vindolidin, nhưng ajmalicin lại có tác dụng ngược lại. Những thí nghiệm dùng trên người bệnh được bắt đầu vào những năm 1960 ở Mỹ, Pháp và một số nước khác. Tuy nhiên còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Mặc dù vậy, vì hiện nay chưa có loại thuốc nào khác tốt hơn, nên nhu cầu về dừa cạn vẫn cứ tăng lên. Cũng vì mục đích dùng chữa các khối u nên khi mua dừa cạn, người ta đặc biệt chú ý tới hàm lượng ancaloit toàn phần, và trong số ancaloit toàn phần ấy có bao nhiêu hàm lượng vincaleu-coblastin.
Vị thuốc dừa cạn
(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)
Tính vị, tác dụng:
Dừa cạn có tính có tính mát, vị đắng, tác dụng hoạt huyết, tiêu thũng, trị viêm, hạ huyết áp.
Công dụng của dừa cạn :
Phòng và hỗ trợ điều trị bệnh Ung thư, u bướu
Hỗ trỗ điều trị bệnh tiểu đường, đường huyết cao
Rất tốt cho người mắc huyết áp cao
An thần, điều trị bệnh mất ngủ
Tác dụng tốt đối với bệnh nhân bị bệnh bạch cầu (Bệnh máu trắng)
Cách dùng, liều dùng
Liều dùng thân và lá phơi khô 8 - 20g (dạng thuốc sắc, cao lỏng hay viên nén từ cao khô). Nước ta đã chiết được vinblastin từ lá dừa cạn và dùng dưới dạng thuốc tiêm để chữa bệnh bạch cầu lymphô cấp.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc dừa cạn
Dùng cho bệnh nhân ung thư :
Dừa cạn 15g, cây xạ đen 30g. Các vị thuốc đen rửa sạch, sắc với 1 lít nước, sắc cạn còn 700ml chia 3 lần uống sau bữa ăn 30 phút.
Trị bệnh bạch cầu lymphô cấp:
Dùng 15g dừa cạn sắc nước uống. Ta đã chiết được vinblastin từ lá Dừa cạn và dưới dạng thuốc tiêm vinblastin sulfat để chữa bệnh này. 2. Trị huyết áp cao: Dùng Dừa cạn 12g, Hy thiêm 9g, Thảo quyết minh 6g và Bạch cúc 6g, sắc uống.
Hỗ trợ điều trị tăng huyết áp:
Dừa cạn 160g, lá đinh lăng 180g, hoa hòe 150g, cỏ xước 160g, đỗ trọng 120g, chi tử 100g, cam thảo đất 140g. Các vị sao giòn, tán vụn trộn đều (bảo quản trong hộp kín tránh ẩm). Ngày dùng 40g. Hãm với 1 lít nước sôi, sau 10 phút có thể dùng được. Dùng uống thay nước trong ngày.
Trị bỏng nhẹ:
Dùng lá giã nát đắp lên những vết bỏng (chú ý: chỉ đắp trong trường hợp không chợt da, bỏng nhẹ) có tác dụng làm mát chỗ bỏng, giảm đau, chống bội nhiễm. Đắp 2 – 3 ngày.
Trị bế kinh (đau bụng, mặt đỏ, bụng dưới căng đầy, tính tình cáu gắt):
Dừa cạn (phơi khô) 16g, nga truật 12g, hồng hoa 10g, tô mộc 20g, chỉ xác 8g, trạch lan 16g, huyết đằng 16g, hương phụ 12g. Sắc với 500ml nước, còn 300ml chia 2 lần uống trong ngày.
Trị Lỵ trực khuẩn:
Dừa cạn (sao vàng hạ thổ) 20g, cỏ sữa 20g, cỏ mực 20g, chi tử 10g, lá khổ sâm 20g, hoàng liên 10g, rau má 20g, đinh lăng 20g. Sắc với 600ml nước còn 300ml chia 3 lần uống trong ngày. Uống 5 ngày.
Chứng tiêu khát (khát nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều):
Dừa cạn 16g, cát căn 20g, thạch hộc 12g, hoài sơn 16g, sơn thù 12g, đan bì 10g, khiếm thực 12g, khởi tử 12g, ngũ vị 10g. Sắc với 600ml nước, còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày. Uống 7 ngày.
Dừa cạn 10g, cây dây thìa canh 20g, nước 1 lít. Các vị thuốc đem rửa sạch, sắc cạn nước còn 3 bát chia 3 lần uống trong ngày (Uống sau bữa ăn 15-20 phút).
Trị mất ngủ:
Lấy 20g thân lá dừa cạn khô sao vàng, 12g lá vông nem, 12g hạt muồng sao đen, sắc uống trước khi đi ngủ.
Trị rong kinh:
Lấy từ 20 – 30g dừa cạn sao vàng (toàn cây có cả hoa và rễ), sắc lấy nước, uống liên tục từ 3 – 5 ngày.
Tham khảo
Kiêng kị:
Thuốc có thể gây độc cho thai, nên tránh dùng cho thai phụ và người đang nuôi con bằng sữa mẹ.
Người huyết áp thấp không nên dùng
Sử dụng liều cao và kéo dài có thể gây mù, tử vong
Lưu ý khi dùng
Tương tự các loại thuốc kháng ung thư khác, các chế phẩm alkaloid của dừa cạn cũng gây một số phản ứng bất lợi như: buồn nôn, nôn, nhức đầu, tiêu chảy, táo bón, tắc ruột, liệt, chán ăn, viêm miệng, rụng tóc, giảm bạch cầu, viêm thần kinh..
- Khi dùng dừa cạn làm thuốc nên chọn loại hoa trắng vì hoạt chất của chúng cao hơn cây hoa đỏ, hồng.
- Bạn có thể lấy toàn thân cây phơi khô, nấu nước hoặc hãm thành trà để trị cao huyết áp. Tuy nhiên không nên dùng quá 50g mỗi ngày.
Mặc dù trong dừa cạn có hoạt chất chống ung thư, tuy nhiên không phải cứ dùng trà dừa cạn thì chữa được ung thư, bởi một liều tiêm vincristin, vinblastin có hàm lượng rất cao, việc dùng các thành phần này cũng dễ bị ngộ độc nên cần có sự hướng dẫn của bác sỹ điều trị. DỨA Dứa
Tên khác:
Tên thường gọi: Dứa, Khóm, Thơm,khớm, huyền nương
Tên tiếng Trung: 菠萝
Tên khoa học:-Ananas comosus (L.) Merr
Họ khoa học:thuộc họ Dứa - Bromeliaceae.
Cây dứa
(Mô tả, hình ảnh cây dứa, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Cây dứa không chỉ là cây ăn quả mà còn là một cây thuốc quý. Cây có thân ngắn. Lá mọc thành hoa thị, cứng, dài, ở mép có răng như gai nhọn (khóm) có khi rất ít (thơm). Khi cây trưởng thành, thì từ chùm lá đó mọc ra một thân dài 20-40cm, mang 1 bông hoa, tận cùng bằng một chùm lá bắc màu tím, các hoa này dính nhau. Khi hình thành quả thì các lá bắc mọng nước tụ họp với trục của bông hoa thành một quả mọng kép có màu vàng hay gạch tôm; các quả thật thì nằm trong các mắt dứa.
Cây thường ra hoa quả vào mùa hè.
Bộ phận dùng:
Quả, nõn cây và rễ cây – Fructus, Gemma et Radix Ananatis.
Nơi sống và thu hái:
Gốc ở Brazin, được trồng khắp nơi để lấy quả ăn và xuất khẩu. Thu hoạch quả và rễ quanh năm, nõn thu hái tốt nhất vào mùa xuân; thường dùng tươi.
Tại Việt Nam, dứa được trồng khá phổ biến, phân bố từ Phú Thọ đến Kiên Giang. Tiền Giang là tỉnh có sản lượng dứa đứng đầu cả nước. Năm 2007, sản lượng dứa của tỉnh Tiền Giang đạt 161.300 tấn. Tiếp theo là Kiên Giang (85.000 tấn), Ninh Bình (47.400 tấn), Nghệ An (30.600 tấn), Long An (27.000 tấn), Hà Nam (23.400 tấn), Thanh Hoá (20.500 tấn). Tổng sản lượng cả nước năm 2007 đạt 529.100 tấn. Nhiều địa phương xây dựng thương hiệu đặc sản quả dứa như dứa Đồng Giao (Tam Điệp - Ninh Bình), hoặc ở Kiên Giang, Tiền Giang đều có những nhà máy chuyên sản xuất, chế biến các thực phẩm từ quả dứa.
Thành phần hoá học:
Quả dứa có các thành phần sau đây: nước 75,7%, protid 0,68%, lipid 0,06%, glucid 18,4% (saccharose 12,43%, glucose 3,21%), chất chiết xuất 4,35%, cellulose 0,57%, tro 1,24%. Còn có acid citric, acid malic và các vitamin A, B, C. Trong quả có một chất men tiêu hoá là bromelin có thể thuỷ phân trong vài phút một lượng protein bằng 1000 lần trọng lượng của nó và so sánh được với pepsin và papain. Ngoài ra còn có iod, magnesium, mangan, kalium, calcium, phosphor, sắt, lưu huỳnh.
Tác dụng dược lý
Dứa có chứa nhiều vitamin C giúp chống oxy hóa, tốt cho da, tăng sức đề kháng. Nghiên cứu được công bố gần đây trên website của Hội Da liễu New Zealand, DermNet NZ cho biết, các loại kem dưỡng da chứa thành phần vitamin C có thể bảo vệ da chống lại những tác động lão hóa từ ánh nắng mặt trời, có tác dụng làm giảm nếp nhăn.
Các nghiên cứu vào các năm 1960 - 1970, đã xác định bromelin của trái dứa có đặc tính kháng phù và kháng viêm. Từ đó, vài công ty dược đã đưa ra các thực phẩm bổ sung có chứa chất chiết từ Dứa để giải quyết viêm mô tế bào, để làm tan các cục mỡ nổi cộm. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào xác định Dứa có khả năng làm tan các khối mỡ không đẹp này.
Ở Đức, trẻ em bị viêm xoang thường được chữa trị bằng bromelin, chiết xuất từ Dứa (Huyền Nương). Bromelin cho kết quả tốt, nó làm giảm thời gian bị bệnh (từ 8 ngày, còn 6 ngày). Bromelin là một enzym giúp thủy phân protein (có trong thịt cá) thành các axit amin có tác dụng tốt trong việc tiêu hóa và phân giải lượng calo thừa trong cơ thể (loại bỏ khỏi cơ thể gần 1/3 chất béo có trong khẩu phần ăn tương đương 510 calo/ ngày)... nên nó có tác dụng giảm cân tự nhiên, rất an toàn và vô cùng hiệu quả.
Một loại giun nhỏ, thường gặp ở trẻ em. Qua nghiên cứu của Hordegen P., bromelin cũng cho kết quả tốt như Pyratel.
Một số enzym của quả Dứa làm mau lành các vết thương ở da hay các vết phỏng. Chuột bị phỏng, khi dùng chất chiết xuất từ Dứa giúp tiến trình làm sạch một vết thương sau 4 giờ, lấy đi các vật lạ và mô chết để không còn trở ngại nào cho vết thương lành lại. Bromelin còn làm giảm hiện tượng phù nề, các vết bầm tím trên da và giảm đau nhức.
Bromelin giảm đau nhức do hư khớp: Ở Đức, trên thị trường có một sản phẩm chứa 90 mg bromelin, 48 mg trypsin (enzym nguồn động vật) và 100 mg rutin (một flavonoid bảo vệ mao mạch). Thử nghiệm nhằm so sánh sản phẩm này trong 6 tuần trên 90 người bị hư khớp háng với diclofenac (100 mg/ ngày), là một kháng viêm không steroid. Kết quả điều trị tốt như diclofenac về đau nhức do hư khớp, không có tác dụng phụ. Kết quả tốt đối với đau nhức ở các khớp khác
Vị thuốc dứa
(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)
Tính vị
Quả dứa có vị chua ngọt, tính bình.
Tác dụng:
Dứa có tác dụng giải khát, sinh tân dịch, giúp tiêu hoá; nước dứa nhuận tràng, tiêu tích trệ.
Nõn dứa thanh nhiệt giải độc; rễ dứa lợi tiểu.
Dịch ép lá và quả chưa chín có tác dụng nhuận tràng và tẩy.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Được chỉ định dùng trong các trường hợp: Thiếu máu, giúp sự sinh trưởng, dưỡng sức, thiếu khoáng chất, trong chứng khó tiêu, khi bị ngộ độc, trong các bệnh xơ cứng động mạch, viêm khớp, thống phong và sỏi, trong chứng béo phì. Bromelin được dùng chữa bệnh rối loạn tiêu hoá dạ dày - ruột, dùng làm thuốc tiêu viêm, giảm phù, chữa các vết thương, vết bỏng cho mau lành sẹo. Dứa còn là nguyên liệu chiết bromelin, có nhiều trong thân dứa (phần lõi trắng của chồi), trong quả (ở vỏ dứa có nhiều hơn trong dịch chiết quả. Thường dùng quả chín để ăn tươi hoặc ép lấy nước uống hoặc dùng bromelin.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc dứa
Chữa sốt nóng:
Nõn dứa 30-40g giã vắt lấy nước cốt, uống hay sắc uống.
Chữa tiểu tiện không thông, đái ra sạn, sỏi:
Dùng rễ cây Dứa 30-40g sắc uống.
Trường hợp bị say nắng (trúng thử), hoặc sốt cao, sốt vàng da:
Dùng nõn dứa (phần non của ngọn cây dứa), khoảng 50g, giã nát, vắt lấy nước cốt cho uống. Có thể dùng nhiều lần trong ngày. (Theo GS.TS. Phạm Xuân Sinh).
Chữa sỏi đường tiết niệu, bí tiểu tiện, tiểu buốt, tiểu ra máu:
Dứa một quả, gọt bỏ vỏ, thêm khoảng 0,3 g phèn chua, nấu trong 3 giờ liền. Lấy ra ăn các miếng dứa và uống nước nấu. Dùng liền một tuần lễ. Hoặc dùng rễ cây dứa, rửa sạch, thái nhỏ, sắc uống 30 - 50g/ngày. Uống nhiều ngày tới khi hết các triệu chứng trên. (Theo GS.TS. Phạm Xuân Sinh).
Nhuận tràng và tẩy:
Lấy 50g quả dứa xanh, gọt vỏ, ép lấy dịch cho uống. Cần chú ý, cách dùng này, không thích hợp cho phụ nữ có thai.
Viêm ruột, tiêu chảy:
Lá dứa 30 gam sắc uống.
Cảm nóng phiền khát:
1 quả dứa giã nát lấy nước, hòa nước sôi để nguội uống.
Viêm thận:
Dứa quả 60 gam, rễ cỏ tranh tươi 30 gam, sắc uống thay nước chè.
Rối loạn tiêu hóa:
Dứa 1 quả, quýt 2 quả, ép lấy nước uống.
Viêm phế quản:
Dứa quả 120 gam, mật ong 30 gam, lá tỳ bà 30 gam, sắc uống.
Tham khảo
Lưu ý khi ăn dứa
Khi ăn dứa cần phải cắt gọt hết các “mắt dứa”, vì trong mắt quả dứa có chứa một số nấm (Candida), nếu ăn phải rất dễ bị ngộ độc: người choáng váng, buồn nôn, đau bụng, nôn mửa tiêu chảy... Nhân dân thường có kinh nghiệm chữa ngộ độc dứa bằng cách lấy vỏ quả dứa, khi gọt, nấu lên, lấy nước cho uống là khỏi. Tuy nhiên cũng cần theo dõi, nếu quá nặng, phải kịp thời đưa đến cơ sở y tế để cấp cứu. (Theo GS.TS. Phạm Xuân Sinh) DƯA HẤU
Dưa hấu, Dưa đỏ, tây qua, thủy qua, Hàn qua, Hạ qua - Citrullus lanatus (Thunb.) Matsum. et Nakai (C. vulgaris Schrad.), thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae.
Mô tả: Dây leo có nhiều lông, tua cuốn chẻ 2-3 nhánh. Lá màu xanh nhạt, hình tam giác, có 3-5 thuỳ, các thùy này lại chia thành thuỳ nhỏ có góc tròn; cuống lá có lông mềm. Hoa đơn tính cùng gốc, to, màu vàng lục. Quả rất to, hình cầu hoặc hình trứng dài, nhẵn, vỏ ngoài màu lục đen sẫm, nhiều khi có vân dọc màu lục nhạt, có thể dài tới 50cm, rộng 30cm, nặng 10-20kg. Thịt quả trắng đỏ hay vàng, mọng nước, vị dịu ngọt; hạt dẹp, màu nâu hay đen nhánh.
Hoa tháng 4-7, quả tháng 7-8.
Bộ phận dùng: Vỏ quả- Pericarpium Citrulli, thường được gọi là Tây qua bì. Quả và hạt cũng được dùng.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở Phi châu nhiệt đới, được trồng ở hầu khắp các vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới. Ở nước ta, Dưa hấu được trồng ở các bãi đất cát, đất bồi ở nhiều nơi. Ở miền Bắc, Dưa hấu được trồng và thu hoạch vào mùa hè thu; còn ở miền Nam, Dưa hấu được trồng khác vụ, cho quả vào mùa đông, ăn vào dịp Tết Nguyên đán. Cây chịu khô ráo; có tạp chúng không hạt; quả rất to, quán quân là 118kg. Ta thường dùng quả để ăn tráng miệng và giải khát, có khi được dùng ăn kèm với các món rau khác trong bữa ăn. Hạt dùng rang ăn vào dịp Tết, hội hè, cưới hỏi; cũng có thể chế biến lấy dầu ăn. Có 1 thứ (var. fistulosum (Stockes) Duthie et Fuller) được trồng lấy quả làm rau ăn.
Thành phần hoá học: Quả chứa citrullin (0,17% của dịch quả), caroten, lycopin, mannitol, rất giàu về pectin, nghèo về vitamin A và vitamin C. Còn có một acid amin là a-amino-b-(pyrazolyl-N) propionic acid. Hạt chứa dầu có tỷ lệ thay đổi 20-40%; còn là nguồn enzym ureaza. Còn có acid amin (-)b- pyrazol-g-ylal-amin.
Tính vị, tác dụng: Quả có vị ngọt nhạt, tính lạnh; có tác dụng giải khát, giải say nắng, tránh phiền nhiệt, hạ khí, lợi tiểu tiện, hạ huyết áp. Vỏ quả có vị ngọt, tính mát; có tác dụng thanh thử giải nhiệt, chỉ khát, lợi tiểu. Hạt có vị ngọt, tính lạnh có tác dụng hạ nhiệt, lợi tiểu tiện, hạ huyết áp, tăng sinh lực.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả được dùng trong các trường hợp huyết áp cao, nóng trong bàng quang, đái buốt, viêm thận phù thũng, vàng da, đái đường, say rượu, cảm sốt, phiền khát. Còn dùng chữa đi lỵ ra máu và ngậm khỏi viêm họng. Vỏ quả được dùng giải nắng, chữa sốt khát nước, đi tiểu ít, đái dắt, phù thũng, miệng lưỡi sưng lở. Có thể dùng tới 40g vỏ quả sắc với nửa lít nước đun sôi uống thay trà; hoặc dùng vỏ quả phơi khô đốt ra than tán bột ngậm hoặc sắc nước ngậm chữa lở miệng lưỡi. Hạt dùng chữa Đau lưngvà phụ nữ hành kinh quá nhiều, lại có thể trị giun sán. Liều dùng 12g, dạng thuốc sắc; ngày uống 3lần. Dầu hạt có thể thay dầu hạnh đào.
Đơn thuốc:
1. Dưa hấu giải thử nhiệt: Vào mùa hè, trời quá nóng làm cho người ta ăn uống không bình thường, tiêu hoá không tốt, đầy bụng, người mệt mỏi, không thích làm việc. Có thể dùng vỏ Dưa hấu 1 lạng, lạc 1 lạng, mạch nha 1/2 lạng, ý dĩ 1/2 lạng, nấu thành cháo đặc, ăn liền 6-7 ngày.
2. Dưa hấu trị trúng thử: Mùa hè trúng thử, bỗng nhiên Chóng mặt, phát sốt nếu chưa nôn mửa, ỉa chảy, có thể ép nước Dưa hấu, ngày uống 2-3 bát, người mắc bệnh nhẹ có thể khoẻ. Sốt không lui, có thể dùng đạm Đậu xị 12g, Hương nhu 8g, sắc lên làm thuốc uống, lại lấy nước Dưa hấu ép uống thay nước chè, cũng có thể khỏi bệnh.
3. Trị sốt cao: Trường hợp bị viêm đường tiết niệu, viêm bàng quang, viêm thận đều có thể dùng nước ép Dưa hấu để uống.
4. Trị say rượu: Dùng nước Dưa hấu ép uống có thể giải rượu và tỉnh lại.
Ghi chú: Người lạnh dạ nên kiêng ăn, vì ăn nhiều sinh nôn tháo DỨA DẠI
Tên khác:
Tên thường gọi: Dứa dại còn được gọi là Dứa gai, dứa gỗ, dứa núi, lỗ cổ tử, sơn ba la, dã ba la, lộ đầu từ ...
Tên khoa họcPandanus tectorius Sol,
Họ khoa học: thuộc họ dứa dại Pandanaceae.
Cây dứa dại
(Mô tả, hình ảnh cây dứa dại, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý,...)
Mô tả
Dứa dại là một cây thuốc nam quý, Cây mọc hoang ở bờ suối, ven đê. Ngoài ra dứa dại còn được trồng ở nhiều nơi để làm hàng rào để ngăn châu bò. Nhiều nơi còn trồng dứa dại để lấy lá dệt đồ thổ cẩm, chiếu. Đọt non dứa dại còn được dùng để ăn.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố rộng trên các bờ biển của Ấn Độ, Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Trung Quốc (Hồng Kông, Đài Loan), Nam quần đảo Ryu Kyu Malaixia, Micronesia và Philippin. Dứa dại thường phân bố trên các bãi ẩm có cát, trong các rú bụi ven biển, dọc bờ ngòi nước mặn; rừng ngập mặn, cũng phân bố trong đất liền, ở vĩ độ thấp, dọc theo các sông, khắp nước ta, từ Hoà Bình, Quảng Ninh, Nam Hà tới Quảng Nam-Đà Nẵng, Khánh Hoà, Bình Thuận, Đồng Nai, Kiên Giang.
Bộ phận dùng
Búp lá non đọt, rễ hoa quả đều có thể dùng làm thuốc
Rễ thu hái quanh năm; thu các rễ chưa bám đất tốt hơn là rễ ở dưới đất, đem về thái mỏng, phơi hay sấy khô dùng dần. Thu hái quả vào mùa đông dùng tươi hay phơi khô.
Cách chế biến và thu hái
Đọt non, quả và rễ được dùng làm thuốc. Rễ lấy về (rễ non chưa bám đất tốt hơn) thái mỏng, phơi hay sấy khô dùng dần.
Quả hái về thái mỏng phơi hoặc sấy khô sử dụng dần
Rễ cây Có thể thu hái quanh năm, rửa sạch, thái lát, phơi hoặc sấy khô dùng dần. Có người cho rằng dùng rễ non chưa bám đất thì tốt hơn.
Thành phần hoá học:
Hạt phấn hoa và lá bắc rất thơm, khi chưng cất, người ta thu được nước thơm và hương liệu. Các phần ngoài của hoa (lá bắc) chứa tinh dầu mà 70% là methyl ether của b-phenylethyl alcohol. Hoa nở chứa 0,1-0,3% tinh dầu chứa benzyl benzoate, benzyl salicylate, benzyl acetate, benzyl alcohol, geraniol, linalool, linalyl acetate, bromostyren, guaiaco,l phenylethyl alcohol và aldehyd.
Vị thuốc Dứa dại:
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị qui kinh:
Đọtcó vị ngọt, tính lạnh. Có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết, sinh cơ, tán nhiệt độc.
Vào các kinh tâm, phế, tiểu tràng, bàng quang
Quảvị ngọt, tính bình. Có tác dụng ích huyết, cường tâm, bổ tỳ vị, tiêu đàm, phá tích trệ, giải độc rượu...
Rễvị ngọt nhạt, tính mát.
Hoa:Theo đông y, hoa dứa dại có vị ngọt, tính lạnh. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thủy, trừ thấp nhiệt, cầm tiêu chảy do nhiệt độc
Liều dùng: 10-30g sắc uống, dùng ngoài giã nát đắp.
Cách dùng, liều dùng
Đối với đọt non: Ngày uống 20 – 30gram
Đối với rễ: Ngày uống 10 – 15gram
Đối với quả dứa dại: Ngày dùng 30 – 40gram sắc uống.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc dứa dại
Chữa Kiết lỵ:
Dùng quả dứa dại 30-60g sắc nước uống (theo sách Thường dụng trung thảo dược thủ sách).
-Chữa mắt sinh màng mộng, thị lực giảm dần, nhìn không rõ:
Dùng quả dứa dại, thái nhỏ, ngâm trong mật ong, ăn dần trong ngày; mỗi ngày ăn 1 quả, dùng liên tục 1 tháng có thể khỏi bệnh (sách Cương mục thập di);
- Chữa cảm nắng, say nắng:
Dùng quả dứa dại 10-15g, sắc uống (Lĩnh nam thái dược lục).
- Chữa viêm gan siêu vi:
Dùng quả dứa dại 12g, diệp hạ châu (chó đẻ răng cưa) 8g, nhân trần 12g, trần bì 8g, hổ trượng căn (cốt khí củ) 12g, ngũ vị tử 6g, cam thảo 4g, sắc với 1.000ml, đun cạn còn 450ml, chia thành 3 lần uống lúc đói trong ngày (Hiện đại thực dụng phương tễ).
- Chữa đái buốt, đái rắt, đái đục, đái tháo đường:
Dùng quả dứa dại khô 20-30g, thái lát mỏng, sắc hoặc hãm uống thay trà trong ngày (Kinh nghiệm dân gian).
- Bồi bổ cơ thể:
Dùng trái dứa dại, thái lát mỏng, ngâm rượu uống (Kinh nghiệm dân gian).
Điều trị bệnh lòi dom:
Dùng đọt non, rễ non dứa dại đắp vào vùng lòi dom trong 1 tháng sẽ khỏi
- Chữa chân lở loét lâu ngày:
Dùng đọt non dứa dại và đậu tương, hai thứ liều lượng bằng nhau, giã nát, đắp vào chỗ lở loét; có tác dụng sát trùng và lành vết loét (Lĩnh nam thái dược lục).
- Chữa các vết loét sâu gây thối xương:
Dùng đọt non dứa dại giã đắp vào vết thương, có tác dụng hút mủ và làm lành vết loét (Lĩnh nam thái dược lục).
- Chữa chứng người bồn chồn, chân tay vật vã, phát nóng:
Dùng đọt non dứa dại 30g, đậu đỏ nhỏ hạt (xích tiểu đậu) 30g, cỏ bấc đèn (đăng tâm thảo) 6g, búp tre 15 cái, sắc nước uống (Lục xuyên bản thảo).
- Chữa phù thũng, đái rắt, đái buốt, đái ra máu, đái ra sỏi:
Dùng đọt non dứa dại 15-20g sắc nước uống thay nước trong ngày (Kinh nghiệm dân gian).
Hoa dứa dại:
Theo đông y, hoa dứa dại có vị ngọt, tính lạnh. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thủy, trừ thấp nhiệt, cầm tiêu chảy do nhiệt độc. Dùng chữa các chứng ho do cảm mạo, sán khí, đái dục,đái buốt, đái nhỏ giọt, tiểu tiện không thông, nhọt mọc ở sau gáy,...
- Chữa hodo cảm mạo:
Dùng hoa dứa dại 4-12g hoặc dùng quả 10-15g, sắc nước uống (Quảng Tây trung thảo dược).
rễ dứa dại
Dùng chữa các chứng bệnh như cảm mạo, sốt dịch, viêm gan, viêm thận, viêm đường tiết niệu, phù thũng, đau mắtđỏ, thương tổn do bị ngã, bị đánh chấn thương.
- Chữa phù thũng, xơ gancổ trướng:
Dùng rễ dứa dại 30-40g, phối hợp với rễ cỏ xước 20-30g, cỏ lưỡi mèo 20-30g sắc nước uống trong ngày (Kinh nghiệm dân gian).
- Chữa ngã, đánh chấn thương:
Dùng rễ dứa dại, giã nát đắp vào chỗ bị thương rồi băng cố định lại (Kinh nghiệm dân gian). RAU RỪA NƯỚC Cây Rau Dừa Nước: Cây Mọc Ở Bờ Ruộng Chữa Được Nhiều Bệnh Hiểm Nghèo
TRỊ CÁC CHỨNG HUYẾT ÁP CAO
Khi bị huyết áp cao nên áp dụng ngay phương thuốc chữa trị cấp bách sau đây:
Nấu siêu nước cho sôi, chế vô thao để hơi nguội, thọc 2 chân vô ngâm, ngâm độ 15-20 phút, rồi bảo người nhà vắt 4 trái chanh giấy đổ vô ly, chế chút nước và tý muối cho người bệnh uống, nó sẽ hạ ngay chứng cấp tính này.
CHÚ Ý : Theo kinh nghiệm chúng tôi, chứng huyết áp lên cao của mỗi người phát sinh ra do sự ăn uống không kiêng cử, nhất là ăn mặn uống rượu, hút thuốc hoặc làm việc quá độ, suy nghĩ nhiều, vui buồn cũng bị ảnh hưởng. Trong dân gian có nhiều phương thuốc hay nhưng phải sử dụng cho đúng và biết kiêng cử. Trong người nóng bức thường cũng sinh ra huyết áp cao. Ốm mập gì cũng bị huyết áp.
Trong thời gian nghiên cứu, trắc nghiệm, chúng tôi nhận thấy cây rau dừa cạn, loại bông trắng trị huyết áp rất tốt, không loại nào sánh kịp. Có thể quả quyết rằng cây rau dừa cạn là một loại dược thảo quý của nước ta. Ngoài ra cây rau dừa cạn còn trị được các bệnh nan y khác nữa như : băng huyết, bệnh phụ nữ . . .
Hiện nay có một số cơ sở trồng rau dừa cạn trên mấy chục mẫu ở vùng Lâm Đồng, Phương Lâm để chế ra nhiều phương thuốc này.
CÔNG THỨC 16: TRỊ CHỨNG HUYẾT ÁP CAO
Rau dừa cạn loại bông trắng, nếu đi xa không có cây sống để uống, nên kiếm cho nhiều, phơi khô, tán thành bột, để vô hộp đem theo. Mỗi lần bị áp huyết cao, múc ra uống chừng 2 muỗng cà phê sẽ hạ được ngay. Chẳng những vậy mà còn trị chứng ung thư máu nữa.
Rau dừa nước: Cây bờ ruộng chữa bệnh hiểm nghèo
Công dụng quan trọng nhất của dừa nước là chữa các bệnh về thận.
Rau dừa nước vị thuốc gọi Du long thái, loại rau lâu nay được hái ngọn lá non làm rau ăn mát bổ và trị chứng tiểu buốt tiểu rắt, tiểu ra máu (viêm đường tiết niệu). Rau có tên khoa học: Jussiaea repens L.
Theo y học cổ truyền rau dừa nước có vị ngọt nhạt, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt giải độc,lợi tiểu, tiêu thũng. Thường dùng trị phù thũng, tiểu đục, tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu ra máu, ho khan, nóng sốt, lên ban sởi, mụn nhọt, áp xe…
Trong 100 g rau dừa nước tươi có: 2,62 g protid, 4,5 g glucid, 5,5 g chất xơ, 1,2 g chất tro, 152 mg calcium, 2,5 mg phospho, 0,7 mg sắt, 0,26 mg caroten, 52 mg vitamin C. Trong thân và lá có flavonoid và tanin.
Qua phân tích thân lá cây rau dừa tìm được 12 chất chuyển hóa có giá trị y học quan trọng. Trong đó là những chất chống oxy hóa và chống tế bào ung thư phát triển có thể chiết rút dạng tinh khiết bằng phương pháp sắc ký.
Một số chất flavonoid cô lập cho thấy hoạt động chống lại các tế bào ung thư Ehrlich ascitis. Các chất flavonoid trong cây rau dừa không gây độc cho người.
Rau dừa nước (Ảnh minh họa: Internet)
1. Rau dừa nước trị các bệnh về thận
Công dụng quan trọng nhất của dừa nước là chữa các bệnh về thận: tiểu đục, tiểu buốt dắt, viêm cầu thận, viêm bể thận, sỏi đường tiết niệu, sỏi mật...
- Chữa tiểu buốt rắt, tiểu ra máu:Dừa nước tươi 200g sắc nước uống ngày vài lần.
- Chữa viêm cầu thận (tiểu ra dưỡng chấp):Rau dừa nước, mã đề mỗi vị 50-100g sắc uống.
- Chữa phụ nữ có khí hư màu vàng (do tỳ thận thấp nhiệt):Rau dừa nước, rau mã đề, mỗi thứ 100g, lá trinh nữ hoàng cung 2 lá sắc uống ngày 3 lần, một đợt 5-7 ngày.
- Chữa đái dắt, đái buốt, nước tiểu đỏ:Rau dừa nước, rau mã đề, cỏ mực, lá đinh lăng mỗi thứ 50g, nấu nước uống trong ngày. Tác dụng: chống viêm thanh nhiệt, lợi tiểu. Chỉ dùng vài lần là có hiệu quả.
- Chữa sỏi tiết niệu:Rau dừa nước, rau ngò om (rau ngổ), mỗi thứ 100g sắc nước uống ngày 3 lần, uống nhiều ngày.
- Chữa nước tiểu đục như nước vo gạo (do thận hư, chức năng của thận bị rối loạn):Rau dừa nước tươi 80 -100g nấu nước uống trong ngày, dùng liên tục 10 – 15 ngày.
Hoặc rau dừa nước (khô) 20g, hoài sơn 12g, sơn thù 10g, đan bì 10g, trạch tả 12g, thục địa 12g, bạch linh 10g, khởi tử 12g, khiếm thực 12g, đỗ trọng 10g, biển đậu 12g, rau má 20g, đinh lăng 16g, cam thảo đất 16g, trần bì 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
- Chữa sỏi tiết niệu:Rau dừa nước (khô) 20g, kim tiền thảo 16g, ích mẫu 16g, ké đầu ngựa 12g, đinh lăng 16g, mã đề thảo 16g, trinh nữ 16g, cối xay 16g, lá tre 16g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. 7 – 10 ngày là 1 liệu trình.
- Đau vùng hố thận, mi mắt sụp, chân tay phù, tiểu ít:Rau dừa nước (khô) 20g, hương nhu trắng 16g, xa tiền 12g, bạch truật 12g, ngải diệp 16g, sinh khương 6g, quế 8g, kiện 10g, trần bì 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần, uống 3 lần.
Rau dừa nước mọc dại nhưng chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo (Ảnh minh họa: Internet)
2. Dừa nước trị các chứng bệnh khác
- Chữa u xơ tiền liệt tuyến:Rau dừa nước phơi khô 24g, cỏ xước 16g, thương nhĩ (sao) 12g, đinh lăng 20g, hoàng cung trinh nữ (khô) 5g, huyền sâm 10g, hoàng kỳ 16g, trần bì 10g. Sắc uống ngày 1 thang, điều trị 1 tháng là một liệu trình.
- Chữa đau dạ dày lâu ngày, có biến chứng hẹp môn vị, chất nôn màu vàng đậm:Rau dừa nước (khô) 20g, hoàng kỳ 16g, đinh lăng 20g, bạch truật 16g, chỉ xác 8g, cam thảo 10g, mẫu lệ chế 16g, hạt sen 16g.
Sắc uống ngày 1 thang, dùng 10 ngày, nghỉ 3 ngày rồi dùng tiếp đợt 2.
- Chữa viêm đại tràng, rối loạn tiêu hóa, phân sống, đại tiện nhiều lần:Rau dừa nước (khô) 24g, hoài sơn 20g, liên nhục 16g, ngũ giabì 12g, cao lương khương 16g, sơn thù 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: chống viêm, bổ thổ, sáp trường.
- Chữa vú có hòn cục đau nhức, cơ thể mệt mỏi, sút cân:Rau dừa nước loại tươi 40g, lá bồ công anh loại tươi 40g. Hai thứ giã nhỏ đắp vào vú, băng lại. Tác dụng thanh nhiệt, chống viêm, phá kết (làm tan hòn cục).
- Chữa vết thương phần mềm, lâu không liền miệng: Rau dừa nước (dùng ngọn non) 40g, lá vông (dùng lá non) 40g. Hai thứ giã nhỏ, đắp vào vết thương băng lại.
- Chữa bệnh ngứa ngoài da, do thời tiết oi nóng: Rau dừa nước (tươi) 30g, cỏ mực (tươi) 24g, nam hoàng bá 12g, kinh giới 12g, huyền sâm 10g, ngân hoa 10g, liên kiều 10g, sài hồ 12g.
3. Cách chế biến rau dừa nước để chữa bệnh
Rau dừa nước có thể dùng ở 2 dạng: Dạng tươi và dạng khô.
Ở dạng tươi có thể dùng dừa nước để sắc uống, ngọn và lá rau để ăn sống cho mát.
Dừa nước còn có thể lưu trữ bằng cách phơi khô cất đi dùng dần những lúc không tiện thu hái. Cách làm như sau:
Dừa nước lấy về cần loại bỏ phần gốc, rễ, rửa sạch, thái dài khoảng 1,5 - 2cm. Đêm phơi nắng, thỉnh thoảng đảo đề cho nhanh khô và đẹp dược liệu.
Phơi khoảng 4 - 6 nắng, rau đã khô đẹp là được, đóng gói bảo quản để dùng dần.
Liều lượng dùng hàng ngày:
- Nếu là rau tươi dùng 30 - 40g/ngày.
- Nếu là rau khô dùng 10 - 20g/ngày.
- Dùng ngoài không kể liều lượng. VỪNG ĐEN
Tên khác
Tên dân gian: Vị thuốc Vừng đen là tên gọi ở miền Bắc, miền Nam gọi là mè.
Tên theo Đông y: Chi ma, Hồ ma, Hồ ma nhân, du tử miêu, cự thắng tử, bắc chi ma.
Tên khoa học: Sesamum indicum
Họ khoa học:thuộc họ vừng (Pedaliaceae)
Cây vừng đen
(Mô tả, hình ảnh cây vừng đen, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả:
Vừng đen vừa là cây lương thực vừa là cây thuốc nam quý. Dạng cây thảo có lông mềm, cao 60-100cm. Lá mọc đối, đơn, nguyên, có cuống, hình bầu dục, thon hẹp ở hai đầu. Hoa trắng, mọc đơn độc ở nách, có cuống ngắn. Quả nang kép dài, có lông mềm, có 4 ô mở từ gốc lên. Hạt nhiều, thuôn, vàng nâu hay đen, hơi bị ép dẹp, hầu như nhẵn, có nội nhũ.
Hoa tháng 5-9, quả tháng 7-9.
Bộ phận dùng:
Hạt vừng màu đen - Semen Sesami Nigrum, thường gọi là Hắc chi ma.
Nơi sống và thu hái:
Cây của Á châu nhiệt đới, được trồng rộng rãi lấy quả. Thu hái cây vào tháng 6-8. Cắt toàn cây, phơi khô, đập lấy hạt rồi lại phơi khô. Khi dùng, đồ thật kỹ, phơi khô sao vàng. Ngoài ra còn ép lấy dầu vừng.
Thành phần hóa học
100g Vừng trắng sinh 587 calori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 25g protein, 55g lipid 6,9g glucid, 702mg photpho, 423mg kali, 71mg calci, 220mg manhê, 1mg đồng, 4,3mg sắt, 2,2mg mangan, 6mg nicotinamid.
Dầu vừng làm từ vừng đen; nó có 40% acid béo nhiều nối đôi, 40% acid béo một nối đôi, 18% acid béo bão hoà. Tỷ lệ 4.4.1 đạt tiêu chuẩn vì yêu cầu lý thuyết là mỗi thứ 1/3, nhưng trong thức ăn hàng ngày thường có acid béo bão hoà ; dầu vừng ít acid béo bão hoà, phối hợp chung thành mỗi thứ 1/3. Như vậy ăn dầu vừng tốt hơn dầu dưà, dầu cọ. Dầu vừng để lâu không bị ôi– Trước khi chiên rán thức ăn cần để ráo nước vì những hạt nước làm cho dầu bắn tung toé dễ bị phỏng. Để tránh tai nạn, hãy cho vào hạt muối vào chảo dầu, đợi khi muối tan hãy cho thức ăn vào, dầu sẽ không bắn lên nữa. Đây là bí quyết cuả các bà nội trợ, chưa được lý giải thoả đáng.
Tác dụng dược lý
Dầu Mè bôi lên niêm mạc có tác dụng làm giảm kích thích, chống viêm.
Có tác dụng giảm lượng cholesterol máu, phòng trị xơ cứng động mạch.
Dầu mè đen có tác dụng nhuận trường.
Là thức ăn nhiều chất dinh dưỡng đối với cơ thể.
Vị thuốc vừng đen
(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)
Tính vị
- Nó có vị ngọt, tính bình, không độc.
Sách Bản kinh: vị ngọt tính bình.
Sách Bản kinh phùng nguyên: ngọt ôn.
Qui kinh:
- Vào kinh can thận
Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập phế tỳ.
Sách Bản thảo kinh sơ: nhập túc thái âm kiêm nhập túc quyết âm, thiếu âm.
Sách Ngọc thu dược giải: nhập túc quyết âm can, thủ dương minh đại trường kinh.
Tác dụng vừng đen
Nó có tác dụng bổ ích can thận, dưỡng huyết, khu phong, nhuận tràng, bổ ngũ tạng, tăng khí lực, làm sáng mắt, phát triển bắp thịt, bổ ích tinh tủy.
Mặc dù phân tích hoá học không thấy khác biệt nhiều giữa thành phần cuả vừng trắng và vừng đen nhưng kinh nghiệm sử dụng chỉ dùng vừng đen với ý nghĩ màu đen đi vào thận nên vừng đen bổ thận.
Y học dân gian cho rằng nước sắc lá và rễ vừng đen bôi lên đầu làm tóc mọc tốt và đen hơn.
Hoa vừng đen vò nát đắp lên mắt làm dịu sưng đỏ.
Hạt vừng được dùng làm nhiều “Món ăn-bài thuốc”:
Liều dùng: 12-40g sắc uống hoặc hoàn tán
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc vừng đen
Chữa táo bón:
Mỗi buổi sáng, uống 1 chén (nhỏ) dầu mè hoặc ăn một nắm hạt mè là khỏi, hoặc có thể nấu cháo mè ăn cho dễ.
Chữa viêm đại tràng mãn tính:
Mè đen 40g rang bốc mùi thơm và 1 bát mật mía, mỗi lần uống 1 thìa canh vừng trộn lẫn với 1/3 thìa canh mật, uống ngày 2 lần, uống liên tục trong một tháng.
Sản phụ thiếu máu, thiếu sữa:
Mè đen sao qua, giã nhỏ cho thêm ít muối ăn hàng ngày cho lợi sữa. Ăn chung với cơm hoặc nấu cháo với nếp.
Chữa rết cắn:
Lấy hạt mè nhai nhuyễn đắp vào, chỉ chốc lát là hết sưng đau
Chữa chứng nôn mửa:
Lấy một bát hạt mè, giã nát, thêm ít nước sôi để nguội, ép lấy nước cốt. Khi uống, pha thêm chút muối.
Bỏng nước sôi nhẹ:
Lấy mè đen giã nát đắp lên chỗ bỏng hoặc thoa một lớp mỏng dầu mè ngay lên vết bỏng sẽ đở ngay.
Chữa nhũ ung:
Phụ nữ sau sinh tuyến sữa bị tắc nghẽn làm vú sưng to, đau nhức (áp-xe vú). Dùng hạt mè tươi nhai nhuyễn rồi đắp lên nơi vú sưng đau vài lần sẽ khỏi.
Chữa kiết lỵ mới phát:
Ăn sống mè đen mỗi ngày 30 g (ăn trong 3 ngày).
Chữa tóc bạc sớm:
Mè đen, táo nhục đồng lượng, sấy khô tán bột, vò thành viên nhỏ mỗi lần uống khoảng 20 viên, ngày hai lần, sáng và tối.
Dùng mè đen trị chứng rụng tóc:
Lấy 1 bát con hạt mè đen sao chín tán nhuyễn cho thêm đường vào nấu uống, tóc sẽ hết rụng và đen mượt.
Trị chứng đầy bụng:
Lấy một bát hạt mè đen, nấu như nấu cháo, khi gần được cho vào ít muối và một miếng vỏ quýt thái nhỏ, múc ra bát để nguội ăn rất hiệu nghiệm.
Chữa bụng đầy trướng:
Nấu 1 chén mè đen thành cháo, thêm ít muối và một miếng vỏ quýt thái nhỏ, múc ra để hơi nguội, húp ăn sẽ khỏi.
Chữa mụn nhọt lở loét:
Lấy 1 muỗng canh mè đen, rang, tán nhỏ, rửa sạch máu mủ trên nhọt bằng nước muối ấm, sau đó đắp bột mè lên vết nhọt vài lần sẽ khỏi.
Trị thương hàn:
Nếu bị chứng thương hàn, da vàng thì lấy hạt mè đen còn tươi giã nát, ép lấy 1 tách dầu cho thêm nửa tách nước và một lòng trắng trứng gà, khuấy đều tất cả rồi uống 1 lần/ngày, uống khoảng 3 – 4 lần là khỏi.
Mè đen trị kiết lỵ kinh niên:
Lấy một vốc hạt vừng giã nhỏ, nấu chín rồi pha vào 1 thìa cà phê mật ong. Mỗi ngày uống 2 lần như thế, uống liên tục trong vài ngày là khỏi.
Trị lang ben trắng:
Để trị bệnh lang beng trắng bạn lấy 1 chén nhỏ dầu vừng hòa với rượu uống mỗi ngày 3 lần, uống liên tục đến khi khỏi. Trong khi uống thuốc kiêng đồ lạnh, sống, thịt gà, thịt lợn, tỏi.
Trị tai ù:
Nếu tự nhiên tai bị hơi ù đi rồi điếc thì lấy dầu mè nhỏ vào tai vài giọt, ngày nhỏ 2 – 3 lần khoảng 1 tuần có hiệu nghiệm.
Tham khảo
Kiêng kỵ:
Âm suy, cơ thể khô ráo.
Món ăn bài thuốc chữa bệnh từ mè đen
Đơn giản nhất là món Cháo mè đen ghi trong Thọ thân dưỡng lão tân thư. Cháo này thơm ngon, ngọt bùi. Nó là món ăn bổ dưỡng với dủ ba nhón thực phẩm chính là protein, lipid, glucid. Cháo này ghi trong sách Thọ thân dưỡng lão tân thư với lý do:
·Người gìa yếu răng, nuốt hay bị sặc, ăn cháo thật hợp lý.
·Vừng đen quân bình các chất bổ dưỡng
·Người gìa âm suy, tân dịch suy giảm.Vừng đen bổ âm, sinh tân dịch.
·Người gia thường bị táo bón, vừng làm phân trơn nhuận do bổ âm và có chất dầu, nghĩa là trị táo bón cả gốc lẫn ngọn. (xemgiải thích ở đoạn dưới)
Chè mè đen gồm mè đen, bột sắn dây, đường. Bài này bổ âm, giải nhiệt.
Tang ma hoàn gồm vừng đen và lá dâu. Giản tiện hơn là luộc lá dâu non rồi chấm với vừng. Đây là bài thuốc bổ âm an toàn và công hiệu. Món ăn này nhuận trường êm dịu, không gây đau thắt như các thuốc nhuận trường kích thích (lô hội = đảm nha, rễ Nhàu, Muồng…). táo bón có nhiều nguyên nhân:
·Thực phẩm thiếu chất xơ
·Gan tiết ít mật
·Ruột lười hoạt động, ít hoạt động cơ bắp.
·Không có thói quen đi cầu hàng ngày
Thuốc nhuận trường kích thích làm ruột co bóp ; dùng dài hạn có thể bị lờn. Điều nên làm là thay đổi thực đơn và tăng cường rau quả, vận động nhiều hơn, bổ âm và tân dịch. Tang ma hoàng nhuận trường với cơ chế:
·Cả hai đều bổ âm, sinh tân dịch
·Chất dầu cuả vừng làm phân trơn nhuận.
·Dầu vừng làm tăng tiết mật.
·Lá dâu kích thích nhu động ruột, làm cho phân không đóng tảng.
·Bài này trị bệnh táo bóncả gốc lẫn ngọn.
Một số tài liệu ghi rằng bài này trị được cao huyết áp,nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, tay chân tê dại..đó là những chứng do âm hư và can thận hư.
Cháo mè-khoai mỡ làm giảm cholesterol và ngưà xơ động mạch với cơ chế sau đây:
·Khoai mỡ khoá hoạt tính cuả cholesterol trong mật và thực phẩm để bài xuất theo phân.
·Mè đen kích thích gan tiết mật, giảm cholesterol-huyết.
·Bệnh tim mạch có nguồn gốc sâu xa là âm suy. Mè đen và khoai mỡ đều bổ âm. RUỐI Ruối
Tên khác:
Tên thường dùng: duối, snai, som po
Tên tiếng Trung: 鹊肾树
Tên khoa học:Streblus asper Lour.
Họ khoa học: Thuộc họ dâu tằm Moraceae.
Cây Ruối
( Mô tả, hình ảnh cây ruối, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả
Cây có thể cao tới4-8m, cành mang hoa gầy, lá hình trứng, dài 3-7cm, rộng 12-35mm, mép có răng cưa, cứng, nháp, không có lông. Hoa đực cái khác gốc, hoa đực họp thành đầu có cuống, đính phía dưới những cành ngắn, hoa cái mọc đơn độc trên một cuống. Quả thịt, màu vàng nhạt, to bằng hạt tiêu, hơi nổi lên giữa đài
Thu hái và chế biến
Ruối là một cây mọc rất phổ biến và được trồng ở khắp các tỉnh trong nước ta để làm hàng rào do có nhiều cành chằng chịt với nhau.
Người ta dùng lá, thân, rễ tươi và khô, thu hái gần như quang năm. Nhựa ruối cũng được dùng.
Thành phần hóa học
Trong nhựa mủ ruối có nhựa và một ít cao su. Trong nhựa ruối đã đông đặc. Tỷ lệ nhựa tới 76% và cao su là 23%.
Tác dụng dược lý
Một khảo sát (những đặc tính hoá học, những đặc tính dược lý và y học dân tộc ethnomédicales ) được xây dựng và những văn bảng nghiên cứu bổ sung và thay thế( Médecine Vol. 3 pp 217-222) đã tuyên bố rằng cây duối có những đặc tính :
- chống oxy hóa antioxydant
- chống dị ứng anti-allergique
- chống sốt rét antipaludiques
- chống ung thư anti-cancer
- những bệnh về bổ dưởng tim mạch maladies cardio-toniques
- và những đặc tính diệt côn trùng insecticides.
Vị thuốc ruối
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị
Duối có vị đắng, chát, tính mát
Công dụng
Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, thông huyết, cầm máu, sát trùng
Liều dùng
Sắc uống từ 12-20g
Tác dụng chữa bệnh của vị thuốc ruối
Chữa mụn nhọt sưng đau (chưa vỡ mủ): Nhựa duối tẩm vào giấy bản rồi dán vào mụn 3 giờ, ngày thay 2 lần.
Chữa bí tiểu, nước tiểu sẻn đỏ do nóng: Cành và rễ duối 20g, rửa sạch, thái mỏng cho vào ấm đổ 500ml nước, sắc còn 250ml nước, chia 3 lần uống trong ngày, 10 ngày 1 liệu trình. Có thể dùng bài thuốc sau: Vỏ rễ duối, rễ nhót, mỗi vị 20g, sao vàng. Đổ 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 3 lần uống trong ngày. 10 ngày 1 liệu trình.
Nếu kèm theo đái buốt, đái đục: Vỏ rễ cây duối, rễ cây nhót rừng mỗi thứ 20g, (sao vàng), bạch mao căn 30g, râu ngô 30g, bông mã đề 30g, cỏ nhọ nồi 20g. Đổ 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 3 lần uống trong ngày. 10 ngày 1 liệu trình.
Trị đau nhức răng do sâu răng: Vỏ cây duối 20g, thái mỏng, sắc lấy nước đăc ngậm.
Trị đau đầu, nhức hai bên thái dương, nhức trán do thay đổi thời tiết: Phết nhựa duối lên hai miếng giấy trắng, có đường kính 3cm, cho lên lớp nhựa một chút vôi tôi (bằng hạt đỗ xanh), trộn đều vôi vào nhựa, rồi dán hai miếng giấy đó vào hai bên thái dương. Cũng làm tương tự với một miếng giấy có đường kính 1cm, dán vào huyệt ấn đường (điểm giữa hai đầu lông mày). Ngày làm 1 - 2 lần. Có tác dụng giảm đau rõ rệt.
Ngoài ra, một số địa phương bà con còn dùng lá duối sao vàng chữa băng huyết, kiết lỵ và làm thuốc lợi sữa.
Tham khảo
Đặc tính dược liệu lá duối :
Lá duối được dùng :
-Viêm sưng đường tiểu inflammation urinaire,
- Và như chất tạ sữa galactogogue.
▪ Lá duối nghiền nát được dùng làm thuốc trị :
- Lợi tiểu diurétique
- Chữa trị bệnh bạch đới khí hư leucorrhée.
▪ Nước ép lá duối được dùng bởi Garo de Madhupur để chống :
- Chứng tiểu khó dysurie
- Bệnh kiết lỵ dysenterie.
▪ Bột nhão pâte từ lá duối : Ở Ấn Độ, bột nhão pâte chế biến từ lá duối, được áp dụng trên :
- Những chỗ sưng phồng gọi là thủy thũng oedèmes
- Dùng để ngăn ngừa chứng đổ mồ hôi quá nhiều .
▪ Ngâm trong nước đun sôi infusion lá được xem như dùng để thay trà.
▪ Trong y học ayurvédique, những lá duối được sử dụng :
- Để giúp đở xúc tiến trữ lượng sữa mẹ ở những bà mẹ trong thời gian cho con bú.
cũng như chế biến làm thuốc dán để chữa trị :
- Những nhọt đầu đinh
- Những loét ở da
▪ Dung dịch trich từ lá cho thấy có những đặc tính :
- Chống vi trùng antimicrobiennes
Đặc tính hạt duối :
Hạt duối có lợi ích trong :
- Chứng bệnh chảy máu cam épistaxis
- Bệnh tiêu chảy diarrhée.
▪ Bột nhão của hạt áp dụng cho bệnh bạch ban ( da trắng ) leucoderme .
▪ Hạt duối còn có những ích lợi trong những bệnh như : - chảy máu cam ( chảy máu mũi ) và cũng trị tiêu chảy.
Mủ cây duối : mủ cây duối có những đặc tính :
- Và sưng những tuyến.
- Làm se thắc astringentes
- Sát trùng antiseptiques
- Áp dụng dưới chân trị đau gót endoloris
- Chữa trị bàn tay nứt nẻ gercées
- Mủ cây duối đôi khi được áp dụng trên màng tang thái dương trong trường hợp đau dây thần kinh đầu
- Được ghi nhận là thuốc an thần trong trường hợp chữa trị đau dây thần kinh névralgie.
Vỏ cây duối :
Một dược phẩm được bào chế với vỏ cây duối như trong trường hợp :
Nấu sắc trong nước đun sôi vỏ được sử dụng cho :
- Bệnh sốt fièvre
- Bệnh tiêu chảy diarrhée
- Bệnh kiết lỵ dysenterie
Trong khi dùng trực tiếp nhai vỏ như là :
- Một thuốc giải độc rắn cắn.
Mủ của vỏ rỉ ra, ở Ấn Độ được dùng trong trường hợp :
- Da tay và da chân bị nứt nẻ.
Đồng thời cũng được dùng cho những tuyến bị sưng, thường dùng để đắp bên ngoài những chổ sưng
. Vỏ của cây duối có thể nấu chín trong nước sôi và dung dịch nước lọc này dùng như :
- dung dịch sát trùng cho những vết thương và những vấn đề về da.
Rễ duối :
Rễ duối được xem như thuốc chữa trị :
- Thuốc hạ sốt antipyrétique
- Chống bệnh kiết lỵ antidysentérique
- Thuốc giảm đau analgésique
- Thuốc an thần sédative.
- Chứng động kinh épilepsie
- Viêm sưng gonflements inflammatoires
- Những mụt nhọt furoncles.
Nấu sắc rễ cũng được đưa ra cho các bệnh và bệnh sốt.
▪ Thuốc dán chế từ rễ áp dụng cho :
- Bệnh loét ulcères
- Xoang sinus
- Những viêm sưng phồng
- Những nhọt đầu đinh furoncles.
Bột từ rễ quy định chữa trị :
- Tiêu chảy diarrhée
- Bệnh kiết lỵ.
A. Mô tả cây
B. Phân bố, thu hái và chế biến
C.Thành phần hoá học
D. Công dụng và liều dùng
Nhân dân thường dùng nhựa ruối dán lên hai bên thái dương chữa Nhức đầu. Nhựa mủ của ruối có tác dụng là đông sữa.
Cành và rễ thái mỏng sắc uống dùng làm thuốc thông tiểu, chữa bụng trướng. Vỏ ruối ngâm rượu chữa sâu răng, đau họng.
Nhân dân Cămpuchia còn dùng rễ ruối phối hợp với nhiều vị thuốc khác Chữa ho, chữa lao phổi. Ấn Độ dùng dưới dạng sắc uống chữa sốt, đi ỉa lỏng, lỵ. Có thể dùng dưới dạng sấy vỏ khô, tán nhỏ mà uống. CÂY DUNG
Cây dung Còn gọi là chè lang, chè đại, duối gia, chè dung.
Tên khoa học Symplocos racemosa Roxb
Thuộc họ Dung Symplocaceae.
Mô tả: là một cây nhỏ cao1.5-2m, nhưng có thể cao 4-5m, lá mọc so le, đơn, nguyên, cuống ngắn, hình trứng thuôn dài, phía cuống hẹp hơi tù, phiến lá dài 9-15cm, rộng 3-6cm, mép có răng cưa ngắn, thưa, mặt nhẵn, khi khô có màu vàng lục nhạt, mọc thành chùm ở nách hay đầu cành, cuống hoa ngắn, trên mặt có phủ lông mịn. Hoa thơm nên ong rất thích. Quả hạch ăn được thuôn dài, trên đỉnh phiến đài tồn tại, thịt quả màu tím đỏ. Hạt thường đơn độc, màu nâu.
Phân bố: mọc phổ biến ở các tỉnh miền Bắc. Hái lá tươi về phơi hay sao khô để dùng dần. có nơi dùng vỏ thân hay vỏ rễ, bóc vỏ về phơi hay khô, vỏ mềm rễ gẫy vụn, màu vàng nâu nhạt, khi cắt ngang giữa lớp bần và lớp mô vỏ có một lớp màu đỏ, chứa một chất màu đỏ.
Công dụng và liều dùng: nhân dân nhiều vùng dùng lá dung làm chè uống cho tiêu cơm, chữa đau bụng, ỉa chảy.
Dùng dưới dạng bột hay thuốc sắc mỗi ngày uống 3-4 lần, mỗi lần uống 1g. DUYÊN ĐƠN
Tên khác
Còn gọi là hoàng đơn, hồng đơn, duyên hoàng, đơn phấn, tùng đơn, châu đơn, châu phấn.
Tên khoa học Minium.
Duyên đơn
( Mô tả, hình ảnh Duyên đơn, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả
Duyên đơn có thể chế biến bằng cách oxy hóa chì (Pb) hay chế từ một chì oxyt gọi là mátsicô(massicot). Tùy theo nhiệt độ khác nhau ta có thể được mật đà tăng hay duyên đơn. Duyên đơn là một chất bột màu đỏ sẫm tươi, nặng được dùng làm thuốc và trong kỹ nghệ sơn, thủy tinh, tráng men V.V.. Nhân dân Trung Quốc và nhân đân ta đã biết dùng từ lâu. Duyên đơn thấy được ghi trong “Thần nông bản thảo” là bộ sách thuốc cổ nhất của Trung Quốc. Trong bộ “Nam dược thần hiệu” của Tuệ Tĩnh (Việt Nam) cũng đã ghi.
Thành phần hóa học
Thành phần chủ yếu của duyên đom là chì oxyt Pb3O4 hoặc có thể viết 2PbO.PbO2.
Vị thuốc Duyên đơn
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị
Vị cay, tính hơi lạnh và không độc
Công dụng
Uống trong có tác dụng long đờm, chấn tâm, bôi ngoài thì đuổi được độc và làm cho mau lên da non. Thường dùng chữa nôn ọe, ăn vào nôn ra, trừ nhiệt độc, cầm máu, thổ huyết, khái huyết, nhưng gần đây ít dùng hơn.
Liều dùng
Uống hàng ngày là 1 đến 2g dưới hình thức thuốc bột hay viên.
Tác dụng chữa bệnh của vị thuốc Duyên đơn
Chữa mất ngủ do sợ mà tim hồi hộp, kinh giản (của Trương Trọng Cảnh):
Duyên đơn 3g, long cốt 5g, mẫu lệ 20g, phục linh l0g, quế chi 3g, bạch thược 5g, cam thảo 3g, sài hồ 4g, hoàng cầm 5g, nhân sâm 3g, bán hạ 5g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Tham khảo
Thận trọng trong sử dụng
Những người hư hàn, không thực nhiệt không dùng được.
Cần dùng cẩn thận, thời gian dùng ngắn, tránh nhiễm độc do chì.
Tây y không dùng duyên đơn để uống vì độc.
Thường chỉ dùng để chế thuốc cao, dán mụt nhọt (emplastra), còn dùng làm bột pha sơn màu đỏ, kỹ nghệ nấu chùy tinh v.v.. VIỄN CHÍ
Tên khác:
Tên Hán Việt:Vị thuốcViễn chícòn gọiKhổ viễn chí(Trấn Nam Bản Thảo), Yêu nhiễu, Cức quyển(Nhĩ Nhã), Nga quản chí thống, Chí nhục, Chí thông, Viễn chí nhục, Chích viễn chí, Khổ yêu, Dư lương, A chỉ thảo, Tỉnh tâm trượng(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học:Polygala tenuifolia Willd
Họ khoa học: Họ Viễn chí (Polygalaceae).
Cây viễn chí
(Mô tả, hình ảnh cây viễn chí, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô Tả:
Cây viễn chí là cây thuốc quý. Cây Viễn chí Polygala japonica Houtt. còn gọi là nam Viễn chí, hay Tiểu thảo. Cây thảo, cao 10-20cm. Cành có ngay từ gốc. Cành nhỏ hình sợi mọc lan ra, trên có lông mịn. Lá mọc so le, nhiều dạng: lá phía dưới hình bầu dục, rộng 4-5mm; lá phía trên hình dải, đầu nhọn, dài 20mm, rộng 3-5mm, mép lá cuốn xuống mặt dưới. Hoa mọc thành chùm gầy, ngắn. Hoa xanh nhạt ở dưới, trắng ở giữa, tím ở đỉnh. Quả nang, nhẵn, hình bầu dục. Cây này mọc hoang ở Bắc Thái, Thanh Hóa, Nam Hà.
Cây Viễn chí Polygala sibirica L. Cây thảo, sống lâu năm. Đường kính thân 1-6mm. Lá phía dưới nhỏ hơn, hình mác, ở cả hai mặt đều có lông nhỏ, mịn. Hoa mọc thành chùm, dài 3-7cm. Cánh hoa màu lam tím.
Phân bố địa lý:
Cây này mọc nhiều ở miền Trung (Nghệ Tĩnh).
Vị Viễn chí ta còn nhập nội. Nó là rễ phơi khô của cây Viễn chí Polygala sibirica L., hoặc của cây Viễn chí Polygala tenuifolia Willd.
Ở Việt Nam có nhiều loài Viễn chí như Polygala japonica Houtt., Polygala sibirica L... nhưng chúng chưa được khai thác.
Thu hoạch:
Vào mùa xuân, thu đàolên, bỏ thân tàn, rễ con và đất, phơi cho vỏ hơi nhăn, rút bỏ lõi gỗ, phơi khô là được.
Phần dùng làm thuốc:
Rễ khô (Radix Polygalae). Thứ ống to, thịt dầy, bỏ hết lõi gỗ là thứ tốt.
Mô tả dược liệu:
Viễn chí hình ống dài, cong, dài 3-13cm, đường kính 0,3 – 1cm. Vỏ ngoài mầu vàng tro, toàn thể có đường nhăn ngang và vân nứt tương đối dầy và lõm sâu hoặc có vân dọc nhỏ và vết rễ nhánh như cái máng nhỏ. Dòn, dễ bẻ gẫy, mặt cắt ngang mầu trắng vàng, ở giữa rỗng. Hơi coa mùi, vị đắng, hơi cay, nhai có cảm giác tê cuống họng (Dược Tài Học).
Bào chế:
+ Bỏ lõi, sao lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Chích Viễn chí: Lấy Cam thảo cho vào nồi, đổ thêm nước, nấu bỏ bã, cho Viễn chí vào (Cứ 5kg Viễn chí dùng 100g Cam thảo), nấu vừa lửa cho hút hết nước cốt Cam thảo, lấy ra để khô là được (Dược Tài Học).
Bảo quản:
Để nơi thoáng gió, khô ráo.
Thành phần hóa học:
+ Tenuigenin A, B Chou T Q và cộng sự, Am Pharm Assoc Sci Ed 1947, 36: 241).
+ Tenuifolin (Pelletier S W và cộng sự, Tetrahydron 1971, 27 (19): 4417).
+ Onjisaponin A, B, C, D, E, F, G (Sakuma S và cộng sự, Pharm Bull 1981, 29 (9): 2431).
+ Tenuifoliside A, B, C, D và a-D- (3-O-Sinapoyl) – Fructofuranosyl-a-D- (6-O- Sinapoyl) –Glucopyranoside (Ikeya Y và cộng sự, Chem Pharm Bull, 1991, 39 (10): 2600).
+ Tenuifoliose A, B, C, D, E, F (Miyase Y và cộng sự Chem Pharm Bull 1991, 39 (11): 3082).
Tác dụng dược lý:
+Thuốc có tác dụng hóa đờm rõ, thành phần hóa đờm chủ yếu là ó vó re Cơ chế hóa clam của thuốc có thế do thuốc kích thích lên niêm mạc bao tử gây phản xạ tăng tiết ở phế quản(Trung Dược Học).
+ Toàn bộ Viễn chí gây ngủ và chống co giật (Trung Dược Học).
+ Chất Senegi có tác dụng tán huyết, phần vỏ mạnh hơn phần gỗ. Viễn chí có tác dụng hạ áp (Trung Dược Học).
+ Cồn chiết xuất Viễn chí có tác dụng in vitro ức chế vi khuần gram dương, trực khuẩn lỵ, thương hàn và trực khuẩn lao ở người (Trung Dược Học).
+ Saponin Viễn chí kích thích dạ dày gây buồn nôn vì thế không nên dùng đối với những bệnh nhân viêm loét dạ dày (Trung Dược Học).
+Trên súc vật thực nghiệm, thuốc cho uống hoặc chích tĩnh mạch đều có tác dụng kích thích tử cung có thai hay không đều như nhau (Trung Dược Học).
Độc tính:
+ Liều độc LD50 của vỏ rễ Viễn chí cho chuột nhắt uống là 10.03 ± 1.98g/kg. Liều LD50 toàn rễ là 16,95 ± 2.01g/kg mà rễ bỏ lõi gỗ đi dùng đến 75g/kg thì gây tử vong (Châu Lương Kiên, Sơn Tây Y Dược 1973 (9): 52).
Vị thuốc viễn chí
Tính vị:
+ Vị đắng, tính ôn (Bản Kinh).
+ Không độc (Biệt Lục).
+ Vị dắng, hơi cay, tính ôn (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Vị chua, hơi cay, tính bình (Y Học Trung Trung Tham Tây lục).
+ Vị đắng, tính ôn, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Vị đắng, cay, tính ôn (Trung Dược Đại Từ Điển).
Quy kinh:
. Vào kinhThận, phần khí (Thang Dịch Bản Thảo).
. Vào kinh Tâm, Can, Tỳ (Trấn Nam Bản Thảo).
. Vào kinh Tâm, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vào kinh Tâm, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).
Tác dụng:
+ Bổ bất túc, trừ tà khí, lợi cửu khiếu, thính nhĩ, minh mục, cường chí (Bản Kinh).
+ Giải độc Thiên hùng, Phụ tử (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Định Tâm khí, giải kinh quý, ích tinh (Biệt Lục).
+ An thần, ích trí, khứ đờm, giải uất (Trung Dược Đại Từ Điển).
Chủ trị:
+ Trị ho nghịch thương trung (Bản Kinh).
+ Trị tâm thần hay quên, kiên tráng dương đạo (Dược Tính Luận).
+ Trị thận tích, bôn đồn (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Trị lo sợ, hay quên, mộng tinh, Di tinh, mất ngủ, ho nhiều dờm, mụn nhọt, ghẻ lở (Trung Dược Đại Từ Điển).
Liều dùng:
4 – 10g. Dùng ngoài tùy dùng.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc viễn chí
Trị tâm thống lâu ngày:
Viễn chí (bỏ lõi), Xương bồ (thái nhỏ) đều 40g. tán bột. Mỗi lần dùng 12g, nước 1 chén, sắc còn 7 phần, bỏ bã, uống ấm (Viễn Chí Thang – Thánh Tế Tổng Lục).
Trị ung thư, phát bối, nhọt độc:
Viễn chí (bỏ lõi), gĩa nát. Rượu I chén, sắc chung, lấy bã đắp vết thương (Viễn Chí Tửu – Tam Nhân phương).
Trị họng sưng đau:
Viễn chí nhục, tán nhuyễn, thổi vào, đờm sẽ tiết ra nhiều (Nhân Trai Trực Chỉ phương).
Trị não phong, đầu đau không chịu được:
Viễn chí (bỏ lõi). Tán nhuyễn. Mỗi lần dùng 2g. lấy nước lạnh ngậm trong miệng rồi thổi thuốc vào mũi (Viễn Chí tán – Thánh Tế Tổng Lục).
Trị khí uất hoặc cổ trướng:
Viễn chí nhục 160g (sao với trấu). Mỗi lần dùng 20g, thêm Gừng 3 lát, sắc uống (Bản Thảo Hối Ngôn).
Trị tiểu đục, nước tiểu đỏ:
Viễn chí ½ cân (ngâm nước Cam thảo, bỏ lõi), Phục thần (bỏ gõ), Ích trí nhân đều 80g. tán bột. Lấy rượu chưng với miến làm hồ, trộn thuốc bột làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 50 viên với nước Táo sắc (Viễn Chí hoàn – Chu Thị Tập Nghiệm Y Phương).
Trị vú sưng (suy nhũ):
Viễn chí chưng với rượu, uống, bã đắp vào vết thương (Thần Trân phương).
Trị thần kinh suy nhược, hay quên, hồi hộp, mơ nhiều, mất ngủ:
Viễn chí (tán). Mỗi lần uống 8g với nước cơm, ngày 2 lần (Thiểm Tây Trung Thảo Dược).
Trị tuyến vú viêm, tuyến vú u xơ:
Tác giả Hoàng Sĩ Tiêu dùng Viễn chí 12g, thêm 1 5ml rượu 600 ngâm 1 lúc, cho nước 1 chén, đun sôi 15-20 phút, lọc cho uống. Trị 62 ca tuyến vú viêm cấp, có kết qủa (Thông Tin Tân Y Dược Quảng Châu 1973, 65) và Tuyến Vú U Xơ 20 ca đều khỏi (Trần Phú, Trung Y Dược Học Học Báo 1977, 1: 48).
Trị âm đạo viêm do trùng roi:
Viễn chí tán bột, thêmGlycerine làm thành thuốc đạn (Đặt vào âm đạo), mỗi viên có hàm lượng thuốc sống là 0,75g. Trước khiđặt thuốc, dùng bài thuốc nước rửa phụ khoa: (Ngải diệp, Xà sàng tử, Khổ sâm, Chỉ xác,đều 15g, Bạch chỉ 9g), sắc lấy nước để xông và rửa âm hộ.Đặt thuốc vào âm đạo mỗitối 1 lần. Trị 225ca, sau 3 - 12 lần, hết triệu chứng và kiểm tra trùng roi âm tính có 193 ca khỏi, tỉ lệ 85,8% (Cao Tuệ Phương, Trung Y Tạp Chí 1983, 4: 40).
Trị suy nhược thần kinh do tâm huyết kém có triệu chứng mất ngủ hay quên, hồl hộp, mơ nhiều:
Viễn chí, Phục linh đều 10g, Xương bồ 3g, sắc nước uống (Định Chí Hoàn – (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị suy nhược thần kinh do tâm huyết kém có triệu chứng mất ngủ hay quên, hồl hộp, mơ nhiều:
Đảng sâm, Viễn chí, Mạch môn, Phục linh đều 10g, Cam thảo 3g, Đương quy, Bạch thược, Sinh khương, Đại táo đều 10g, Quế tâm 3g, sắc, thêm bộtQuế tâm vào, hòa uống (Viễn Chí Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị suy nhược thần kinh do tâm huyết kém có triệu chứng mất ngủ hay quên, hồl hộp, mơ nhiều:
Quy bản, Long cốt, Viễn chí,đều 10g, Xương bồ 3g, sắc uống (Chẩm Trung Đơn- Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị phế quản viêm mạn, ho đờm nhiều:
Viễn chí, Trần bì, Cam thảo đều 3g, sắc uống(Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị phế quản viêm mạn, ho đờm nhiều:
Viễn chí 8g, Cam thảo, Cát cánh đều 6g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị tuyến vú sưng đau:
Viễn chí, tán bột, hòa rượu uống hoặc chưng cách thủy uống,dùng một ít hòa với rượu đắp (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
Lưu ý khi dùng viễn chí
+ Dùng dơn phương (độc vi) Viễn chí trị tất cả các chứng ung thư phát bối do thất tình uất ức, dùng Viễn chí sắc uống, bã đắp ngoài đều khỏi cả(Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Viễn chí chạy vào Thận, chủ trị của nó tuy nhiều nhưng tóm lại không ngoài công dụng bổ Thận. Viễn chí không phải là thuốc riêng của Tâm mà làm cho mạch chỉ bổ tinh, trị hay quên vì tinh và chí đều tàng ở Thận. Tinh hư thì chí suy, không đạt lên Tâm dược cho nên hay quên. Sách Linh Khu ghi: Thận tàng tinh, tinh hợp chí, Thận thịnh mà không ngăn được thì tổn thương, hay quên. Gười có chứng hay quên là vì khí ở trên không đủ, khí ởdưới có thừa, trường vị thực mà Tâm hư thì vinh vệ sẽ lưu trệ xuống dưới lâu mà không có lúc nào đi lên, cho nên hay quên. Hơn nữa, trong mùi vị của Viễn chí có vị cay cho nên hạ được khí mà chạy đến kinh quyết âm. Sách Nội kinh ghi: Dùng vị cay để bổ là ý nghĩa thủy với mộc cùng một nguồn gốc mà muôn đời chưa ai nói ra được(Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Sở dĩ Viễn chí trị được chứng mất ngủ vì Thận tàng chí, Tâm thận không giao thì chí không định mà thần không yên. Viễn chí thông được Thận khí lên đến Tâm, khiến cho thủy ở trong Thận lên giao tiếp với Tâm, tạo thành Thủy Hỏa Ký tế. Còn trị ho và mụn nhọt là do công dụng lợi khiếu, long đờm. Trước kia Viễn chí đa số được dùng làm thuốc an thần, gần đây phần lớn dùng trị ho nghịch lên. Dùng vị đắng để tiết, lấy ôn để thông, có thể trị chứng ho nghịch thuộc hàn ẩm (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Viễn chí sống có tác dụng khử đàm, khai khiếu mạnh. Viễn chí mà chích thì độc tính giảm, vị khí kém cũng dùng được. Viễn chí tẩm mật, sao, thìtính nhuận, tác dụng an thần tốt. Viễn chí tính ôn, táo, uống trong kích thích mạnh vì vậy, đàm nhiệt thực hỏa, bao tử tá tràng loét cần thận trọng. Nếu không dùng với Chích Cam thảo sắc uống dễ gây nôn, buồn nôn(Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Kiêng kỵ:
+ Sợ Tề tào (Dược Tính Luận).
+ Viễn chí sợ Trân châu, Lê lô, Tề tào (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Kinh Tâm có thực hỏa, phải dùng chung với Hoàng liên (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Có thực hỏa, kiêng dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). DƯA CHUỘT
Tên khác
Dưa chuột hay Dưa leo
Tên khoa họcCucumis sativus L., thuộc họ Bầu bí- Cucurbitaceae.
Cây Dưa chuột
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây leo sống hàng năm, chia ra nhiều nhánh có gốc và có lông. Tua cuốn đơn. Lá chia thuỳ rõ. Hoa đơn tính mọc ở nách lá, màu vàng. Số hoa đực nhiều hơn số hoa cái. Quả mọng trên quả có nhiều u vằn và gai.
Bộ phận dùng:
Quả - Fructus Cucumis Sativi.
Nơi sống và thu hái:
Cây của Ấn Độ và Trung Quốc, trồng thông thường lấy quả làm rau ăn. Có thể thu hái quả quanh năm.
Thành phần hoá học:
Ngoài các thành phần thông thường, còn có các nguyên tố Ca, P, Fe, S, Mn và nhiều muối Kali, các chất nhầy và các vitamin A, B1, B2, PP và vitamin C. Quả chứa một enzym là erepsin, enzym thuỷ phân protein; còn có acid ascorbic oxydaza, succinic và malic dehydrogen, chất thơm.
Vị thuốc Dưa chuột
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
Dưa chuột có vị ngọt, tính lạnh.
Công dụng:
Thanh nhiệt, giải khát, lọc máu, làm tan acid uric và các urát, lợi tiểu và gây ngủ nhẹ. Quả bổ dưỡng và làm nhầy dịu; hạt làm mát, bổ, lợi tiểu.
Chỉ định và phối hợp:
Thường được chỉ định dùng trong các trường hợp sốt nhẹ, nhiễm độc đau bụng và kích thích ruột, thống phong, tạng khớp, sỏi, bệnh trực khuẩn coli. Dùng đắp trị ngứa, nấm ngoài da và dùng trong mỹ phẩm làm thuốc giữ da, làm kem bôi mặt.
Cách dùng:
Để uống trong, dùng Dưa chuột nấu ăn, có thể ăn sống, nhưng khi ăn nhiều lại gây khó tiêu. Để dùng ngoài, lấy dưa leo giã ra lấy dịch bôi hoặc lấy nước bôi, hoặc nấu dịch tươi pha cồn làm nước rửa mặt. Có thể chế thành dạng pomát làm dịu dùng trị bệnh ngoài da, nứt nẻ môi, giữ da mặt.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Dưa chuột
Chữa phù thũng bụng trướng, tay chân đều phù
1 quả Dưa chuột to bổ ra, để cả hạt, nấu với giấm, cho đến khi chín nửa chừng, ăn vào lúc sáng sớm đói lòng, ăn hết cả cái lẫn nước, thì nước sẽ tháo dần hết mà xọp phù.
Chữa hội chứng lỵ nhiệt ở trẻ em
10 quả Dưa chuột non, nấu với mật cho ăn dần, trong 1-2 ngày thì khỏi.
Chữa bị mèo cào phải, sinh sưng đau
Rễ cây Dưa chuột giã nhỏ đắp thì khỏi.
Tham khảo
Ghi chú:
Ăn nhiều dưa chuột thì sinh đái luôn, vãi đái và dẫn tới liệt dương. Người lạnh dạ và thận yếu phải kiêng.
Giảm cân với dưa chuột
Để có thể giảm cân với dưa chuột, các bạn có thể tăng cường ăn dưa chuột hàng ngày bằng cách sử dụng như một loại rau hoặc hoa quả thông thường. Có rất nhiều cách chế biến loại quả này như ăn trực tiếp, làm salad dưa chuột, dưa chuột xào nấm, nước ép dưa chuột… Tuy nhiên, để có thể giảm cân hiệu quả mà vẫn đảm bảo sức khỏe, các bạn chỉ nên thay thế một phần các món ăn giàu chất béo, đạm bằng dưa chuột. Chúng mình vẫn cần cung cấp đầy đủ các dưỡng chất cho cơ thể để có một sức khỏe tốt. Ngoài ra, các bạn cũng có thể kết hợp với các bộ môn thể thao nhẹ nhàng như yoga, chạy bộ, bơi lội… để công cuộc giảm cân đạt hiệu quả cao hơn nhé!
Trị quầng thâm mắt
Để loại bỏ quầng thâm sau mỗi đêm thức khuya, các bạn hãy sử dụng nước ép dưa chuột trộn với nước ép cà chua và dùng bông thấm thoa đều lên vùng mắt có quầng thâm. Sau đó, chúng mình massage nhẹ nhàng quanh mắt trong khoảng 15 phút. Các dưỡng chất có trong dưa chuột và cà chua sẽ giúp bạn giảm quầng thâm, đồng thời còn thư giãn cho mắt nữa đó!
Chăm sóc da với dưa chuột
Cách chăm sóc da bằng dưa chuột rất đơn giản. Bạn chỉ cần sử dụng những lát dưa chuột mỏng làm mặt nạ đắp mặt khoảng 20 phút mỗi ngày. Các vitamin và khoáng chất sẽ được thấm hút vào da một cách tự nhiên nhất, mang lại hiệu quả nhanh chóng. CÂY LÁ DONG
Tên khác Còn gọi là dong, cây lùn, toong chinh.
Tên khoa học Phrynium parvifloum Roxb.
Thuộc họ Hoàng tinh Marantaceae.
Cây lá dong
( Mô tả, hình ảnh cây lá dong, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ....)
Mô tả:
Cỏ cao khoảng 1m, lá to hình trứng thuôn dài đầu nhọn nhẵn, dài 35cm, rộng 12cm, cuống dài 22cm, trong đó 2-3cm phía trên nhẵn. Cụm hoa hình đầu, không cuống, nằm trong bẹ của lá, đường kính 4-5cm gồm 4-5 hoa. Cánh hoa màu trắng hay đỏ. quả hình trứng dài 11mm, một phía lhum nhiều hơn phía lia. Hạt thuôn dài với áo hạt gồm 2 phiến.
Phân bố:
Cây mọc hoang ở khắp núi rừng những nơi ẩm ướt, được trồng để lấy lá gói bánh. Cây dong mọc hoang ở khắp núi rừng những nơi ẩm ướt. Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Inđônêxya, nam Trung Quốc...
Thành phần hóa học của cây dong:
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu
Vị thuốc lá dong
( Công dụng,Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
Vị ngọt, nhạt, tính hơi hàn
Tác dụng:
Thanh nhiệt giải độc, lương huyết, chỉ huyết, lợi niệu.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc lá dong
Dã rượu chữa say rượu, còn dùng làm thuốc giải độc:
Ngày uống 100-200g giã nát, vát lấy nước cho uống.
Chữa rắn cắn:
Lá dong nhai nát nuốt nước lấy bã đắp lên nơi rắn cắn..
Chữa ngộ độc:
Đọt lá dong 50g, rửa sạch, giã nát, thêm nước, gạn uống. Ngày làm 2 - 3 lần.
Chữa vết thương:
Lá dong 100g, rửa sạch, giã nhỏ, đắp băng. Nếu vết thương chảy máu sẽ cầm lại ngay.
Chữa rối loạn tiêu hóa, đi ngoài nhiều lần trong ngày:
Lá dong đốt tồn tính, mỗi lần uống 20g với nước sôi để nguội. Ngày uống 2-3 lần. CÂY CŨ DONG RIỀNG
Tên khác Dong riềng, Chuối củ, khoai riềng, khoai đao, khương vu
Tên khoa học:Canna edulis Ker Gawl. (C. indica L.),thuộc họ Chuối hoa - Cannaceae.
Cây Dong riềng
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây cao 1,2-1,5m, có thể tới 2m. Thân rễ phình to thành củ, chứa nhiều tinh bột. Lá có phiến thuôn dài, thường có màu tía, bẹ tía, gân giữa to, gân phụ song song. Hoa xếp thành cụm ở ngọn thân; đài 3, cánh hoa 3, vàng vàng; nhị lép màu đỏ son, rộng 1cm; nhị vàng, môi vàng. Quả nang.
Ra hoa quả quanh năm.
Bộ phận dùng:
Thân rễ, hoa - Rhizoma et Flos Cannae Edulis.
Nơi sống và thu hái:
Gốc ở Mỹ châu được trồng. Cây tương đối chịu rợp, yếu chịu rét, cho năng suất 20 tấn củ trở lên sau một năm, trong điều kiện thuận lợi. Thu hái các bộ phận của cây quanh năm. Rễ dùng tươi hay phơi khô. Hoa phơi khô.
Thành phần hoá học:
Củ dong riềng đỏ có chứa nhiều tinh bột (khoảng 70%), chất khoáng 2%, chất xơ 5%, chất đạm 3%, chất béo 2% và một số hoạt chất khác.
Vị thuốc Dong riềng
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
Dong riềng có vị ngọt, nhạt, tính mát.
Qui kinh:
Đang cập nhật.
Công dụng:
Thanh nhiệt, lợi thấp, an thần, giáng áp. Lá có tác dụng làm dịu và kích thích.
Liều dùng:
Rễ 15-20g, sắc uống; hoa 10-15g, hãm sôi trong nước và dùng ngay.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Dong riềng
Viêm gancấp:
Rễ Dong riềng tươi 60-90g đun sôi uống. Có hiệu quả sau một tuần lễ điều trị.
Đòn ngã chấn thương:
Giã rễ tươi và đắp tại chỗ.
Rong kinh:
Củ dong riềng và hoa đỗ quyên (ánh sơn hồng) lượng vừa đủ hầm gà ăn; để chữa đau răng và khí hư dùng củ dong riềng và gạo nếp hầm gà ăn
Chữa trẻ em chướng bụng:
Lá, hoa dong riềng và kim tiền thảo lượng bằng nhau, giã nát, sao nóng rồi đắp lên bụng
Để cầm máu vết thương do kim khí
Hoa dong riềng 20g sắc uống; để chữa viêm gan vàng da dùng rễ dong riềng sắc uống
Chữa viêm tai chảy mủ
Hạt dong riềng sấy khô tán bột rắc vào trong tai…
Viêm gan truyền nhiễm cấp tính
Mỗi ngày lấy 100 – 150g rễ dong riềng tươi, thái vụn, sắc kỹ lấy nước, chia uống 2 lần sáng và chiều, 20 ngày là 1 liệu trình, trong thời gian dùng thuốc kiêng tôm cá và các thức ăn cay. Kết quả sơ bộ cho thấy, trên 63 bệnh nhân có 58 ca khỏi bệnh, 3 ca có chuyển biến tốt và 2 ca không đỡ, đạt hiệu quả 96,8%, trong đó khỏi bệnh sau 20 ngày là 34 ca, sau 30 ngày là 18 ca, sau 45 – 47 ngày là 6 ca. Một nghiên khác dùng dong riềng phối hợp với một số thảo dược khác chế thành thuốc viên điều trị cho 100 bệnh nhân cũng đạt kết quả rất tốt với 92 ca khỏi bệnh và 8 ca có chuyển biến rõ rệt.
Tham khảo
Hỗ trợ điều trị chứng bệnh tắc nghẽn động mạch vành
Đây chính là kinh nghiệm điều trị bệnh bằng cây thuốc nam của đồng bào người Dao ở miền Tây Bắc, sử dụng dong riềng đỏ làm thuốc điều trị chứng tức ngực, khó thở và bệnh tim mạch. Theo kết quả của cuộc khảo sát từ các nhà khoa học đã cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân mắc động mạch vành sử dụng dong riềng đỏ khỏi bệnh là rất cao, Một nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam cho thấy người dân tộc Dao có sử dụng cây dong riềng đỏ làm thực phẩm hàng ngày hầu như không mắc các bệnh về tim mạch.
Bên cạnh đó, cuộc khả sát do chính bệnh viện cổ truyền tỉnh bắc cạn tiến hành đã sử dụng củ dong riềng, trong việc điều trị chứng bệnh động mạch vành với tỷ lệ khỏi bệnh 90%. Bởi vậy có lúc dong riềng đỏ còn được đặt tên là “Thần dược cho người mắc bệnh tim mạch”.
Cách dùng để điều trị chứng bệnh tim mạch vành với củ dong riềng như sau, bạn tiếu hành dùng 60g cả lá, thân và củ rong riềng khô sắc nước uống hàng ngày. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể dùng củ dong riềng để chế biến thành món ăn bổ dưỡng để trị bệnh tim mạch vành là lấy 60g củ khô đem rửa sạch, hầm với 1 quả tim lợn ăn cả nước lẫn cái. Mỗi ngày làm 1 lần, ăn liên tục trong thời gian 10 ngày là có kết quả. ME RỪNG
Me rừng, Chùm ruột núi, Du cam tử, Ngưu cam tử, Dư cam tử - Phyllanthus emblica L., thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.
Mô tả: Cây nhỡ cao 5-7m, có khi hơn. Lá nhỏ xếp sít nhau thành hai dây, nom như lá kép lông chim. Hoa nhỏ, màu vàng, mọc thành tán ở nách lá. Quả thịt, hình cầu to bằng quả táo ta, có khía rất mờ.
Ra hoa tháng 4, tháng 5.
Bộ phận dùng: Quả, lá, vỏ cây và rễ - Fructus, Folium, Cortex et Radix Phyllanthi Emblicae.
Nơi sống và thu hái: Cây của phân vùng Ấn Ðộ, Malaixia, mọc hoang ở vùng rừng núi, thường gặp ở chỗ sáng. Thu hái quả vào mùa thu đông, dùng tươi hay phơi khô để dành. Thu hái lá vào hè thu, rễ và vỏ quanh năm, dùng tươi hoặc phơi hay sấy khô.
Thành phần hóa học: Quả chứa acid phyllemblic (6,3%), lipid (6%) acid gallic (5%) và emblicol. Quả Me rừng là nguồn nguyên liệu tự nhiên của vitamin C, trong vỏ quả có tỉ lệ 70-72%. Còn có acid mucic. Quả khô chứa tanin và phức hợp keo mà thành phần chính là acid phyllemblic. Hạt chứa dầu cố định, phosphatid và tinh dầu. Vỏ cũng chứa tanin, leucodelphinidin. Lá cũng chứa tanin.
Tính vị, tác dụng: Quả có vị chua ngọt, hơi chát, tính mát, có tác dụng hạ nhiệt, tiêu viêm, nhuận phế hoà đàm, sinh tân chỉ khát. Ở Ấn Ðộ người ta cũng dùng làm thuốc làm mát, lợi tiểu, nhuận tràng. Lá có vị cay, tính bình; có tác dụng lợi tiểu. Rễ có vị đắng chát, tính bình có tác dụng thu liễm, hạ huyết áp. Vỏ cũng có tác dụng thu liễm. Hoa làm mát, hạ nhiệt, nhuận tràng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả được dùng chữa: 1. Cảm mạo phát sốt; 2. Ðau họng, Đau răng, miệng khô phiền khát; 3. Ðái đường; 4. Thiếu vitamin C.
Rễ dùng chữa: 1. Huyết áp cao; 2. Ðau thượng vị, viêm ruột; 3. Lao hạch bạch huyết.
Lá dùng chữa: 1. Phù thũng; 2. Eczema, viêm da, mẩn ngứa.
Dùng 10-30g quả; 15-30g rễ, vỏ; 10-20g lá, dạng thuốc sắc.
Dùng ngoài lấy lượng lá thích hợp nấu sôi tắm rửa.
Ở Ấn Ðộ, người ta dùng quả khô để trị xuất huyết, ỉa chảy và lỵ, dùng phối hợp với sắt để trị Thiếu máu, vàng da và chứng khó tiêu. Nước lên men từ quả Me rừng dùng trị vàng da, khó tiêu và ho. Bột nước quả Me rừng với dịch Chanh được dùng làm ngưng lỵ trực khuẩn cấp tính. Dịch ứa ra khi chích quả, dùng đắp ngoài, chữa viêm mắt. Hạt được dùng trị hen, viêm cuống phổi và thiểu năng mật. Ở Thái Lan, quả cũng được dùng làm thuốc long đờm, hạ nhiệt, lợi tiểu, trị ỉa chảy, chống bệnh scorbut.
Đơn thuốc:
1. Ðái đường: nấu sôi 15-20g quả Me rừng ướp muối và uống hàng ngày.
2. Rắn cắn: Vỏ cây giã thêm nước uống và lấy bã đắp.
3. Nước ăn chân: Giã quả lấy nước bôi. YẾN THÁI
Tên khác:
Yến thái có tên gọi Hải yến, huyền điểu, du hà ưu điểu, yến oa, yến thái, quan yến, kim ty yến
Tác dung:
Bổ phế dưỡng âm, tiêu đờm chỉ khái
Chủ trị:
Cơ thể hư yếu, ho lao, sốt từng cơn, hen suyễn thổ huyết
Kiêng kỵ:
Người biểu tà, tỳ vị hư hàn không dùng
Đơn thuốc kinh nghiệm:
Dùng làm thức ăn bổdưỡng trong các bữa tiệc, yến sào( tổ yến) 6-10g cho vào túi vải thêm nước sôi vào để lắng sau đó uống
Tìm hiểu thêm:
Tênkhoa học:
Collocalia- vũ yến Apodidae
Mô tả:
Hải yến giống con chim én, cũng gọi là yến, nhưng lông không đẹp, hót không hay, mình nhỏ, cánh dài và nhọn, đuôi ngắn mỏ cong, lông ở lưng và bụng màu xám, lông đuôi và cánh đen như huyền do đó người ta thường gọi loại yến này là “ huyền điểu”
Bộ phận dùng:
Yến sào( tổ yến)
Thành phần hóa học:
Phân tích tổ yến người ta thấy có gần 50% chất proteit, 30% gluxit, 6.19% tro, trong protit thấy có 2.7% histidin, 2.7% acginin, 2.4% xystin, 1.4% tryptophan, 5.6% tyrosin
Tính vị:
Vị ngọt, tính bình
Qui kinh:
Vào hai kinh Phế và vị LÔ HỘI
Tên khác:
Tên dân gian: Lô hội, Chân Lô Hội, Dương Lô Hội, Lô Khoái, Nội Hội, Nột Hôi, Quỷ Đan, Tượng Hội, Tượng Đởm (Bản Thảo Thập Di), Lưỡi Hổ, Hổ Thiệt, Nha Đam(Dược Liệu Việt Nam).
Tên khoa học:Aloe vera L var. Chinensis (Haw) Berger.
Họ khoa học: Họ Hành Tỏi (Liliaceae).
Cây lô hội
(Mô tả, hình ảnh cây lô hội, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả
Cây lô hội là một cây thuốc quý. Cây sống dai, có khi không có thân, có khi thân cao lên hóa thành gỗ, ngắn, to, thô. Lá mọng nước, tiết diện 3 cạnh, có gai ở mép lá, mặt lá có đốm trắng, lá không cuống, đầu nhọn sắc, dài 20-30cm, rộng 3-5cm, dày 1-1,5cm. Lá mọc thành cụm như hoa thị ở gốc. Hoa có cán dài đến 1m, màu vàng đỏ, hợp thành chùm dài. Quả nang hình trứng thuôn, lúc đầu màu xanh sau nâu và dai, có 3 ô, mỗi ô đựng nhiều hạt. Lô hội ở miền Bắc Việt Nam được trồng làm cảnh là Aloe maculata Forsk. Cây ra hoa vào mùa Thu.Trồng khắp nơi làm cảnh.
Thu hái, Sơ chế:
Hái lá quanh năm, cắt nhỏ lá, gĩa và ép lấy nước. Để lắng 24 giờ, gạn nướcthu được đem cô ở ngoài nắng hoặcđun cho đặc.
Bộ phận dùng:
Nhựa cây đã chế biến. Lô hội dùng làm thuốc là những cục nhựa có dạng tinh thể màu nâu đen óng ánh, khi khô thì giòn. Tan trong rượu, hoàn toàn tan trong nướcsôi, vị đắng. Dùng loại khối nhựa khô, sắc đen vàng, hơi có ánh bóng, dễ nát, không lẫn tạp chất là loại tốt. Loại của cây Aloe vera L. gọi là Lão Lô hội, loại của cây Aloe ferox Mill. Gọi là Tân Lô hội.
Mô tả dược liệu:
Lô hội là khói không nhất định,thườngvỡ tách ra hình nhiều góclớnnhỏ khác nhau. Lão Lô hội thì mặt ngoài mầu nâu hồng hoặc nâu sẫm, mờ tối. Thể nhẹ, chất cứng, khó vỡ nát, chỗ gẫy sù sì hoặc có vân nhăn. Tân Lô hội mặt ngoài mầu nâu tối, xanh, sáng bóng. Thể nhẹ, chất xốp, dòn, dễ vỡ. Chỗ gẫy giống như thủy tinh và có lớp vân. Mùi hơi đặc biệt, vị rất đắng.
Bào chế:
+ Rạch 1 đường giữa lá Lô hội tươi, tách mở ra rồi dùng sống dao nạo phần giữa lá ra sẽ có 1 chất gel trong suốt. Đó là gel Lô hội (Aloe vera gel). Phơi khô gel này sẽ có chất Nha đam (Aloès) màu nâu đen hoặc màu ánh lục.
+ Tán vừa nhỏ, dùng sống. Khi sắc thuốc, lấy nước thuốc đang sôi, chế vào Lô hội cho tan ra, lọc bỏ tạp chất ở dưới rồi hòa chung với thuốc uống.
+ Làm thuốc hoàn: thường dùng nó làm hồ để viên hoặclàm áo ngoài viên thuốc.
Bảo quản:
Bỏ vào thùng để nơi thoáng gió, tránh ánh nắng vì gặp nóng nhựa sẽ chảy.
Thành phần hóa học:
+Nhựa có 12-13% Antraglycozit, chủ yếu là Aloin (Dược Liệu Việt Nam).
+Nhựa chứa Aloin, Isoaloin, b-Aloin, Aloe-emodin, Aloinoside A, B (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+Trong Lô hội có Aloin (cũng gọi là Barbaloin), p-Coumaric acid, Glucose, Aldopentose, Calcium oxalate (Trung Dược Học).
+Prostanoid, Cyclooxygenase, Cholesterol (Afzal và cộng sự 1991).
+ Aloeresitanol, Cinnamic acid Wehmer C, Die Pflanzenstoffe (I), 1929: 148).
+ Isobarbaloin, Aloin B (Mulemann H. Pharm Act Helv 1952, 27: 17).
+ Cholesterol, Campesterol, b-Sitosterol, Lupeol (Waller G R và cộng sự, C A 1979, 90: 3177g).
Tác dụng dược lý:
+Tác dụng đối với Vị trường: Aloin là chất tẩy xổ mạnh và mạnh hơn so với Đại hoàng. Aloin tác động trên kết trường. Lô hội dùng thụt Đại trường có tác dụng cũng như uống (Trung Dược Học).
+ Tác dụng tẩy xổ: Aloin là chất tẩy xổ mạnh, tác dụng kích thích đại trường gây xổ thường kèm theo đau bụng, hố chậu sung huyết. Nghiêm trọng có thể gây viêm Thận. Lô hội dùng thụt Đại trường có tác dụng cũng như uống (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược).
+ Tác dụng đối với tim mạch: nướcsắc Lô hội có tác dụng ức chế tim cô lập của ếch (Trung Dược Học).
+ Nướcngâm kiệt Lô hội có tác dụng ức chế với mức độ khác nhau đối với nấm gây bệnh ngoài da (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược).
+ Lô hội còn có tác dụng kháng hoạt tính ung thư (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược).
+ Tác dụng chữa vết thương và vết phỏng: nướcsắc Lô Hội 10% bôitrênthỏvà chuột thấy rút ngắn được thời gian điều trị. Trong những năm gần đây, nướcsắc Lô hội dùng điều trị phỏng có kết quả tốt, 1 số trường hợp cho thấy Lô hội kháng được với Pseudomonas aeruginosa (Trung Dược Học).
+Tác dụng chống khối u: Lô hội chiết xuất bằngalcoholcó tác dụng ức chế sự phát triển của 1 số khối u và xơ gan cổ trướng (Trung Dược Học).
+Liều nhỏ Lô hội giúp kích thích tiêu hóa (Liều thường dùng: 0,5-1g), vì nó kích thích nhẹ niêm mạc ruột và không cho cặn bã ở lâu trong ruột. Liều cao, nó là vị thuốc tẩy mạnh nhưng tác dụng chậm, gây sự sung huyết ở các cơ quan bụng, nhất là ở ruột gìa. Tùy theo liều dùng, có thể gây độ tẩy cần thiết. Có tác dụng sau 10-15 giờ, phân mềm nhão, không lỏng. Có khi hơi đau bụng (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+Lô hội liều cao 200-500mg nhựa khô (3-5 lá tươi) có tác dụng xỏ mạnh. Công năng xổ này là do các chất có nhân Anthraquinon của Lô hội có tính kích ứng đường ruột, gây ra đau bụng quặn nên không tốt bằng các loại Muồng (Cassia) hoặcTả diệp [Séné](Thuốc Và Sức Khỏe 1996, 80: 23).
+Tác dụng kháng sinh: các nghiên cứu mới nhất chứng minh gel Lô Hội tươi có tính sát khuẩn, gây tê (làm giảm đau sau khi bôi), tăng vi tuần hoàn vì vậy giúp mau lành vết thương khi bôi lên (Cuzzel 1986, David và cộng sự 1987, Rodriguez và cộng sự 1988, Hogan 1988).
+Các Anthraquinon của các loại Aloe kết hợp được với các ion Calcium trong đường tiểu thành hợp chất tan được để tống ra ngoài theo nướctiểu (Thuốc Và Sức Khỏe 1996, 80: 23).
+Aloe vera gel có tác dụng làm săn da, kháng sinh, làm đôngkết dịch rỉ (Thuốc Và Sức Khỏe 1996, 80: 24).
Vị thuốc lô hội
(Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...)
Tính vị
Lô hội vị đắng, tính hàn
Sách Bản thảo thập di: Lô hội tục gọi là Tượng đảm, vị đắng như mật.
Sách Khai bảo bản thảo: đắng hàn không độc.
Quy kinh:
Qui kinh Can và Đại tràng.
Sách Bản thảo cương mục: Lô hội nãi quyết âm kinh dược dã.
Tác dụng:
+Minh mục, trấn Tâm, sát trùng, giải độc Ba đậu (Khai Bảo Bản Thảo).
+Chuyên sát trùng, thanh nhiệt (Bản Thảo Cương Mục).
+Thanh nhiệt, nhuận hạ, mát gan, kiện Tỳ (Trung Dược Học).
+Nhuận hạ, sát trùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ trị:
+Trị táo bón, trẻ nhỏ bị cam nhiệt, tích trệ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều thường dùng:
Uống 0,6 - 1,5g cho vào hoàn tán, không cho vào thuốc thang. Dùng ngoài vừa đủ đắp chỗ bệnh.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc lô hội
Trị táo bón(do trường vị thực nhiệt) mạn tính:
Lô hội 20g, Chu sa 15g,cùng tán nhỏ, hòa với ít rượu làm viên. Mỗi lần uống 4g với rượu hoặcnướccơm, ngày 2 lần(Canh Y Hoàn - Cục Phương).
Trị táo bón, tiểu bí do nhiệt kết:
Lô hội 6g, Nghiền nát. Phân ra cho vào 6 viên nang nhỏ. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2-3 viên nang. Nếu không có viên nang, dùng đường trộn với thuốc, ngậm nuốt dần (Lô Hội Thông Tiện Giảo Hoàn - Trung Quốc Đương Đại Danh Y Nghiệm Phương Đại Toàn).
Trị màng tiếp hợp viêm cấp:
Lô hội 3g, Hồ hoàngliên 3g, Đương quy 10g, Bạch thược 12g, Xuyên khung 3g, Vô di 10g, Mộc hương 3g, Long đởm thảo 6g. Sắc nướcuống (Lô Hội Hoàn Gia Vị - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị Can Đởm thực nhiệt gây ra táo bón, tiểu đỏ, ít, hoa mắt, chóng mặt, nặng hơn thì co giật, phát cuồng, nói nhảm:
Lô hội, Đại hoàng, Thanh đại (thủy phi), mỗi thứ 4g, Đương quy, Long đởm thảo, Hoàng cầm, Chi tử, Hoàng bá, Hoàng liên mỗi thứ 6g, Mộc hương 5,5g, Xạ hương 0,3g (để riêng). Tán bột, luyện mật làm hoàn. Mỗi lần uống 6-10g, ngày 3 lần (Đương Quy Lô Hội Hoàn - Tiền Ất).
Trị cam nhiệt, giun đũa:
Lô hội 15g, tán bột. Mỗi ngày uống 6g lúc đói với nướcấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị cam tích, táo bón, giun đũa, suy dinh dưỡng:
Lô hội, Diên hồ sách, Mộc hương đều 3g, Vôdi,Thanh bì đều 6g, Đương quy, Phục linh, Trần bì đều 10g, Chích thảo 3g. Tán bột, trộn hồ làm hoàn. Ngày uống 4-6g (Lô Hội Tán - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị ghẻ lở, lở loét hậu môn:
Lô hội 30g, Cam thảo 15g. Tán bột. Dùng nướcđậu hũ rửa chỗ loét rồi đắp thuốc vào (Lô Hội Tán - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị mụn mặt ở thanh niên:
Chế cao xoa mặt có gia thêm nướclá Lô hội 5-7%, xoa ngày 1-3 lần. Trị 140 cas, có kết quả 136 cas (Vương Thị - Liêu Ninh Trung Y Tạp Chí 1987, 9:27)
Trị táo bón, khó tiêu vì thiếu nướcmật, vàng da, yếu gan yếu ruột:
Bột Lô hội 0,08g, Cao mật bò tinh chế 0,05g, Phenltalein 0,05g, bột Cam thảo 0,05g. Tá dược vừa đủ 1 viên. Ngày uống 1-2 viênvào bữa cơm chiều. Trẻ nhỏ dưới 15 tuổi không dùng (Viên Nhuận Trường - Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Phòng ngừa sỏi niệu:
Dùng vài lá Lô hội tươi, lấy gel nấu vớiđậu xanh làm nướcuống hàng ngày. Ăn mỗi tuần vài lần (Thuốc Và Sức Khỏe 1996, 81: 23).
Trị viêm loét dạ dày:
Uống gel tươi của lá Lô hội: cứ vài giờ uống 1 muỗng canh gel tươi, lúc bụng đói [tổng cộng khoảng 400ml gel Lô hội tươi/ngày] (Thuốc Và Sức Khỏe 1996, 81: 23).
Trị phỏng nắng:
Bôi ngay gel Lô hội lên da vài giờ 1 lần (Thuốc Và Sức Khỏe 1996, 81: 24).
Trị trĩ ra máu:
Bôi gel Lô hội vào, ngày vài lần (Thuốc Và Sức Khỏe 1996, 81: 24).
Tham khảo
Kiêng kỵ:
+Đang có thai hoặc đang hành kinh: không dùng (Trung Dược Học).
+Người Tỳ hư hàn, rối loạn tiêu hóa: không dùng (Trung Dược Học).
+Tỳ Vị suy yếu, tiêu chảy, phụ nữ có thai: không dùng (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
+Lô hội gây sung huyết, do đó, không dùng cho người bị lòi dom và có thai (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Độc tính: Dùng liều quá cao (8g), có thể gây ngộ độc chết người [Tiểu nhiều, yếu toàn thân, mạch chậm, hạ nhiệt độ] (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam). BỒ CÔNG ANH Tên khác
-Tên thường dùng: Vị thuốc Bồ công anh còn gọi làPhù công anh(Thiên Kim Phương),Cấu nậu thảo, Bộc công anh(Đồ Kinh Bản Thảo), Thái nại, Lục anh, Đại đinh thảo, Bột cô anh(Canh Tân Ngọc Sách),Bồ công định, Thiệu kim bảo, Bồ anh, cổ đính, Thiệu kim bảo, Ba ba đinh, Địa đinh thảo, Bát tri nại, Bạch cổ đinh. Nhĩ bản thảo(Tục Danh),Kim trâm thảo, Kim cổ thảo, Hoàng hoa lang thảo, Mãn địa kim tiền, Bột Bột đinh thái(Hòa Hán Dược Khảo),Hoàng hoa địa đinh(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
-Tên khoa học:Taraxacum offcinal Wig (Taraxacum dens-leonis Desf.).
-Họ khoa học:Bồ công anh thuộc họ Cúc (Compositae).
Cây bồ công anh
( Mô tả, hình ảnh cây Bồ công anh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
- Cây bồ công anh cây thuốc quý. Dạng cây cỏ sống dai, rễ đơn, dài, khỏe, thuộc loại rễ hình trụ. Lá mọc từ rễ nhẵn, thuôn dài hình trái xoan ngược, có khía răng uốn lượn hoặc xẻ lông chim, mép giống như bị xé rách. Đầu màu đơn độc ở ngọn, cuống dài rỗng, từ rễ mọc lên. Tổng bao hình chuông gồm nhiều dãy lá bắc, những cái ở phía ngoài xòe ra và cong xuống, còn các cái ở trong thì mọc đứng. Hoa hình nhỏ ở phía ngoài có màu nâu ở mặt lưng, quả bế 10 cạnh, có mỏ dài. Các tơ của màu lông sắp theo 1 dẫy, ra hoa từ tháng 3-10.
- Phân bố:
Phù công anh mọc hoang ở những nơi vùng núi cao như Đà Lạt, Tam Đảo, Sa Pa, mọc hoang nhiều ở Trung Quốc.
- Thu hái và chế biến:
Chọn vào giữa tháng 4 đến tháng 5 là thời kỳ có vị đắng nhiều nhất, có người dùng thứ nhỏ và dài, thân và cành màu tím là tốt nhất. Dùng toàn cây phơi trong râm cho khô.
- Dùng toàn cây, dùng rễ phơi khô. Lựa cây nhiều lá, mầu lục tro, rễ nguyên đủ là tốt.
- Bảo quản:
Phơi thật khô,để nơi cao ráo, hoặc phơi nắng, bị ẩm thấp rất mau mốc và mục.
Thành phần hóa học:
Taraxasterol, Choline, Inulin, Pectin (Trung Dược Học).
Fructose (Power F B và cộng sự C A, 1913, 7: 13523).
Sucrose, Glucose (Belaev V F và cộng sự, C A, 1975, 51: 11495c).
Tác dụng dược lý:
. Thuốc sắc Bồ công anh có tác dụng ức chế các loại vi khuẩn như tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn dung huyết, phế cầu, não mô cầu, trực khuẩn bạch hầu, trực khuẩn lỵ Flexener, trực khuẩn mủ xanh, Leptospira hebdomadia (Trung Dược Học).
. Nước sắc Bồ công anh có tác dụng lợi mật, bảo vệ gan, lợi tiểu (Trung Dược Học).
. Nước sắc Bồ công anh có tác dụng nhuận trường (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Vị thuốc Bồ công anh
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng )
Tính vị:
Vị ngọt, tính bình, không độc (Tân Tu Bản Thảo).
Vị hơi đắng, tính hàn (Đông Viên Dược Tính Phú).
Vị ngọt, tính bình, hơi hàn (Bản Thảo Thuật).
Vị đắng, ngọt, tính hàn (Dược Tính Công Dụng).
Vị ngọt, đắng, tính hàn (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Qui kinh:
Vào kinh Can, Vị (Trấn Nam Bản Thảo).
Vào kinh Dương minh Vị và Thái âm Phế (Bản Thảo Giảng Nghĩa Bổ Di).
Vào kinh Can, Vị (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)
Công dụng:
Thanh nhiệt, giải độc, tán sưng tiêu ung
Liều dùng:
- Bên trong uống 12g đến 40g.
- Dùng tươi, gĩa nát đắp vào nơi sưng đau.
- Bên ngoài dùng tùy ý theo nhu cầu.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Bồ công anh
Trị gai đâm hoặc bị nhằm nước đái của con cáo làm cho thịt sưng phù:
Bồ công anh gĩa nát lấy nước cốt bôi vào nhiều lần thì khỏi (Đồ Kinh phương).
Trị sản hậu không cho con bú, sữa tích lại làm cho vú căng, sưng:
Bồ công anh gĩa nát, đắp lên đó, ngày 3 đến 4 lần (Mai Sư phương).
Làm cho răng cứng, mạnh gân xương, sinh được thận thủy, tuổi chưa đến 80 có tác dụng làm đen râu tóc, tuổi trẻ uống gìa không yếu:
Bồ công anh 1 cân, loại này thường sống ở trong vườn, nó có vào giữa tháng 3tháng 4, sang mùa thu thì nở hoa, khi ấy cắt cả gốc lá, thân cây, 1 cân rửa sạch đem phơi âm can, không được phơi nắng, bỏ vào thùng đậy kín. Lấy 40gmuối, 20gHương phụ tử, tán bột rồi cho Bồ công anh vào đó ngâm 1 đêm, hôm sau chia làm 20 nắm, rồi dùng giấy bao 3-4 lớp thật chặt. Lấy phân giun đất buộc thật chặt cho vào lò sấy khô, dùng lửa nướng cho hồng lên là đủ. Xong đem ra bỏ phân giun đất đi rồi tán nhỏ, cứ sức vào răng vào buổi sáng, tối, nhổ cũng được, nuốt cũng được, làm lâu mới hiệu nghiệm (Hoàn Thiếu Đơn- Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm phương).
Trị vú sưng đỏ:
Bồ công anh 40g, Nhẫn đông đằng 80g, gĩa nát. Sắc với2 chén nước còn 1 chén, uống trước bữa ăn (Tích Đức Đường phương).
Trị cam sang, đinh nhọt:
Bồ công anh gĩa nát, lấy riêng một ít vắt nước trộn rượu sắc uống cho ra mồ hôi (Chứng Loại Bản Thảo).
Trị lở loét lâu ngày không khỏi, ong châm, rắn cắn, bọ cạp cắn:
Bồ công anh gĩa nát,đắp vào vết thương (Cấp Cứu phương).
Trị tuyến sữa viêm cấp tính:
Bồ công anh 32g, Qua lâu, Liên kiều mỗi thứ 20g, Bạch chỉ 12g, sắc uống. Bên ngoài dùng Bồ công anh tươi gĩa nát đắp (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị ung độc sưng tấy cấp tính:
Bồ công anh 20gđến 40g, sắc uống (Bồ Công Anh Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đinh nhọt, sưng độc phát sốt, lở loét ngoài da, đỏ mắt do phong hỏa:
Bồ công anh 20g , Dã cúc hoa, Kim ngân hoa mỗi thứ 12g, Cam thảo sống 1,20g. Sắc uống.
Trị viêm ruột thừa chưa vỡ mủ:
Bồ công anh 12g, Tử hoa địa đinh 20g, Mã xỉ hiện 40g, Hoàng cầm, Đơn sâm mỗi thứ 12gsắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị kết mạc viêm cấp tính, mắt đỏ sưng đau [do Can hỏa bốc lên]:
Bồ công anh (tươi) 80g , Chi tử 7 trái, sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đường tiểu viêm, bàng quang viêm,tiêu hóa kém, căng đau vùng dạ dầy):
Bồ công anh 40g, Quất bì 24g, Sa nhân 12g, Tán bột. Mỗilần uống 1-2g, ngày 3 lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị các chứng sưng vú, thiếu sữa:
Bồ công anh, Hạ khô thảo, Bối mẫu. Liên kiều, Bạch chỉ, Qua lâu căn, Quất diệp, Cam thảo, Đầu cấu, (gầu trên đầu). Hùng thử phẩn (phân chuột đực). Sơn đậu căn, Sơn từ cô, sắc uống làm viên tùy theo bệnh để làm quân, thần, tá, sứ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Bồ công anh thường dùng trong đơn thuốc điều trị viêm tuyến vú:
Bài thuốc ngân bồ thang: Kim ngân hoa 20g, Bồ công anh 20g, Vòi voi 10g, Lá Mỏ quạ 10g. Các vị cho vào 600 ml nước, sắc lấy 200 ml nước thuốc, chia uống 2 lần trong ngày. Ngày uống 1 thang. (Viêm tuyến vú)
Bồ xuyên thang: Bồ công anh 20g Xuyên sơn giáp (đốt tồn tính) 15g Cách dùng, liều lượng: Các vị cho vào 400ml nước, sắc lấy 200 ml nước thuốc, chia uống 2 lần trong ngày, Ngày uống 1 thang. (Chủ trị: Phụ nữ viêm tuyến vú, sưng, nóng, đỏ đau.)
Bồ hương thang: Bồ công anh2 lượng, Hương phụ 1 lượng. Mỗi ngày 1 thang, sắc uống 2 lần. (Trị viêm tuyến vú cấp tính)
Bồ công anh được dùng trong điều trị lẹo mắt, viêm mi mắt:Ngân Kiều Tang Cúc Công Anh Thang:Bồ công anh, Cúc hoa, Kim ngân hoa, Liên kiều, Tang diệp. Lượng bằng nhau. Sắc uống. (Thanh nhiệt, giải độc, sơ phong)
Bồ công anh có tác dụng tốt trong điều trị dị ứng, tróc lở toàn thân ở trẻ em:Bài thuốc: Sài đất 300g, Cam thảo đất 6g, Cỏ Màn chầu 10g, Kim ngân hoa 20g, Kinh giới 4g, Bồ công anh 10g, Thổ phục linh 2g, Thương nhĩ tử 10g. Cách dùng, liều lượng: Các vị cho nước, nấu kỹ lấy 300ml nước cao lỏng. Trẻ em tuỳ tuổi mỗi ngày uống 3 lấn mỏi lần từ 10 - 30 ml pha loãng với nước chín.
Tham khảo thêm về bồ công anh
1) Bồ công anh có hoa nở vàng, vị ngọt, giải được các độc do ăn phải, tán được khí trệ, Nhập vào kinh Dương minh, Thái âm, hóa giải được nhiệt độc, tiêu sưng hạch rất đặc hiệu. Sắc chung với Nhẫn đông đằng uống với 1 chút rượu để trị nhũ ung, sau khi uống mà muốn ngủ là có công hiệu, khi ngủ ra mồ hôi là lành bệnh (Đan Khê Tâm Pháp).
2) Nước nhựa của Bồ công anh bôi vào chỗ nước đái của chồn đái là khỏi ngay (Tân Tu Bản Thảo Đồ Kinh).
3) Bồ công anh có thể giải được các thức ăn bị độc, làm tiêu tan được trệ khí, hòa được nhiệt độc, làm tiêu tan được trệ khí, hòa được nhiệt độc tiêu chỗ sưng đau, kết hạch đinh nhọt rất hiệu quả (Bản Thảo Diễn Nghĩa).
4) Dùng bồ công anh xát vào răng chữa được chứng đau răng, đen dược tóc, khỏe mạnh gân xương (Bản Thảo Cương Mục).
5) Bồ công anh khí không có gì độc cả, khí vị nhập vào Can, Vị. Đó là vị thuốc chính trong việc giải huyết, làm mát huyết. Nhọt sưng vú thuộc Can kinh, phụ nữ sau khi hành kinh thì Can chủ sự nên nó làm chủ, người đàn bà bị nhũ ung sưng vú, các chứng ấy nên dùng lá tươi (Bản Thảo Kinh Sơ).
6) Bồ công anh vị ngọt, tính bình, làm cho mát huyết, giải nhiệt, nên những chứng nhũ ung, vú có ung nhọt thì nó là thuốc quan trọng được xem như đứng đầu. Vả lại nó hay thông lợi được chứng lâm, xát vào răng đau, bôi làm đen râu tóc, xức được gai chích, giải được thức ăn có độc, tiêu được đinh nhọt. Vì quanh đầu vú thuộc Can, nhũ phòng thuộc Vị nên khi phát ra chứng nhũ ung, nhũ nham phần nhiều bởi nhiệt thịnh mà có huyết độc trệ, dùng vị này nhập vào 2 kinh ấy, bên ngoài đắp có tác dụng tan khỏi sưng, nhưng nếu muốn chóng chóng tiêu thì nên dùng với Hạ khô thảo, Bối mẫu, Liên kiều, Bạch chỉ là những vị thuốc trị được rất hay. Bồ công anh thuộc thổ, hoa màu vàng nên trị được thức ăn đình trệ, hoặc có hơi độc cũng phải tiêu tan, nó lại nhập vào kinh Thận làm cho mát huyết, nên nhuộm đen được râu tóc. Nhưng phải chú ý cây nào chỉ có 1 ngọn 1 hoa thì mới đúng, nếu thấy nhiều cành nhiều hoa là không đúng (Bản Thảo Cầu Chân).
7) Bồ công anh có vị ngọt, khí bình cho nên thanh được phế, lợi được hung cách, hóa được đờm, tiêu tan được tích kết, chữa được những chứng mụn nhọt, nuôi dưỡng được âm phận, mát huyết, cứng xương, cứng răng, thông lợi được chứng nhũ ung, làm cho ít tinh khí. Khi non nó mềm mại như rau, lúc về gìa nó được dùng làm thuốc, đúng là 1 vị thuốc hay, người đời nay dùng nó để trị bệnh nhũ ung, sưng vú, đau vú nghĩa là bây giờ người ta chỉ biết dùng bình thường hoặc cũng bởi tính hẹp hòi sau đó mà không làm được việc gì (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
8) Bồ công anh và Tử hoa địa đinh đều có tác dụng thanh nhiệt, giải độc. Nhưng Bồ công anh có công hiệu sơ Can, trị viêm tuyến vú rất tốt, còn Tử hoa địa đinh có tác dụng mạnh trong thanh nhiệt, giải độc, trị đinh nhọt rất tốt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Kiêng kỵ: Không có thấp nhiệt ung độc kỵ dùng. Ung thư thuộc hư hàn âm cấm dùng. CÂY THUỐC BỎNG Thuốc bỏng
Tên khác
Thuốc bỏng, Sống đời, Lạc địa sinh căn, Trường sinh, Thổ tam thất, Đả bất tử, Diệp sinh căn, Sái bất tử, Lạc địa sinh căn
Tên khoa học:Kalanchoe pinnata(Lam.) Pers. (Cotylelon pinnataLam.), thuộc họ Thuốc bỏng -Crassulaceae.
Tiếng Trung: 落地生根 (Lạc địa sinh căn)
Cây Thuốc bỏng
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý....)
Mô tả:
Cây thảo cao cỡ 40-60cm. Thân tròn, nhẵn, mọng nước, có đốm tía. Lá mọc đối chéo chữ thập, đơn hoặc gồm 3-4 lá chét dày, mép lá khía răng cưa tròn. Hoa màu đỏ hay vàng cam mọc thành xim rũ xuống trên một cán dài ở ngọn thân hay ở nách lá.
Cây ra hoa tháng 2-5.
Bộ phận dùng:
Toàn cây -Herba Kalanchoes Pinnatae.
Nơi sống và thu hái:
Loài cổ nhiệt đới, phân bố ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc hoang ở vách đá, ven suối, nơi có nhiều ánh sáng, cũng thường được trồng. Trồng bằng lá, vì nó có khả năng tạo thành cây ra từ nách các vết khía của mép lá. Thu hái lá quanh năm, thường dùng tươi.
Thành phần hóa học:
Lá chứa acid malic, isocitric, citric, succinic, fumaric, pyruvic, oxalacetic, lactic, oxalic và một số acid hữu cơ khác. Còn có các glucosid flavonoic như quercetin 3-diarabinosid, kaempferol 3-glucosid, các hợp chất phenolic bao gồm acid p-cumaric, syringic, cafeic, p-hydroxeybenzoic.
Vị thuốc Thuốc bỏng
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Tính vị:
Vị nhạt, hơi chua, chát, tính mát.
Qui kinh:
Can
Công dụng:
Giải độc tiêu thũng, hoạt huyết chỉ thống, bạt độc sinh cơ.
Ứng dụng lâm sàng của cây Thuốc bỏng
Tai nạn đứt da chảy máu, dập nát, bầm huyết, bỏng lửa, rắn rết cắn:
Giã nhuyễn lá để đắp buộc lên vết thương.
Trĩ (nội, ngoại)
Dịch lá sống đời uống vào sáng và tối, mỗi lần 60ml (20 - 25 lá).
Chốc lở sài đầu, mụn nhọt lở ghẻ ở trẻ em:
Trong uống dịch lá bỏng, sáng tối, mỗi lần 20 - 25ml. Ngoài đắp rửa bằng nước lá bỏng giã nhuyễn.
Mụn trứng cá:
Trong uống, ngoài đắp rửa.
Các bệnh phong ngứa dị ứng (lở sơn, mề đay, chàm):
Trong uống, ngoài xoa đắp rửa.
Viêm họngkhô rát ngứa:
Nhai ngậm lá bỏng Cúm, sổ viêm mũi xoang: vò lá bỏng nhét vào lỗ mũi, nhỏ dịch lá bỏng.
Sốt xuất huyết:
Ngày đầu mỗi ngày uống 3 - 4 lần 100ml. Ngày sau 2 lần. Mỗi lần 60ml cho đến khi khỏi.
Viêm nhiễm đường hô hấp, ho, ho lao, ho ra máu:
Uống thường xuyên sáng tối. Mỗi lần 60 - 80ml dịch lá bỏng.
Trẻ em ho gà
20 - 25ml (6 - 8 lá).
Xơ gan cổ trướng và các loại viêm gan:
Uống ngày 3 lần, mỗi lần 100ml liên tục. Dùng lá trong bóng râm có nhiều vị chua.
Viêm loét dạ dày:
Không chảy máu uống 60ml vào sáng tối, có chảy máu các ngày đầu 3 - 4 lần với liều 100ml (khoảng 35 lá) cho cầm, sau đó ngày 2 lần, mỗi lần 60ml. Phù thận (và các loại phù thũng) uống ngày 2 lần dịch lá bỏng, mỗi lần 60ml.
Mồ hôi trộm:
Cho trẻ uống ngày 2 lần, mỗi lần 60ml.
Táo bón:
Ngày 2 lần, mỗi lần 60ml.
Mất ngủ (người lớn, trẻ em):
Người lớn nhai ngậm nuốt hoặc trẻ em uống dịch lá bỏng đều ngủ ngon giấc.
Sốt nóng trẻ em:
Uống ngày 2 - 4 lần, mỗi lần 30ml dịch lá bỏng.
Nhức đầu, hồi hộp, huyết áp cao:
Ngày uống 2 lần mỗi lần 60ml dịch lá sống đời sẽ lợi tiểu, giảm nhịp tim, ngủ tốt hạ huyết áp, hết nhức đầu.
Đau lưng, mỏi gối:
Trong uống dịch, ngoài xoa đắp bã lá bỏng sẽ tiêu viêm, giảm đau.
Hôi nách:
Trong uống dịch ngoài xoa xát rửa bằng bã lá bỏng giã nhuyễn.
Chữa phong khí bỗng dưng phát ngứa:
Lá Thuốc bỏng, Nghề răm, lá Ké, Bồ hòn nấu nước xông và tắm. Trong dùng lá Ké đầu ngựa sắc uống.
Chữa đi lỵ và bệnh Trĩ lòi dom, lở loét:
Lá Thuốc bỏng và rau Sam, mỗi vị 5-6g nhai sống hay sắc uống. Nếu lòi dom và lỗ hậu môn lồi, nấu nước Bồ kết ngâm rửa và giã lá Thuốc bỏng đắp ngoài. ĐỖ TRỌNG
Tên khác
-Tên thường gọi: Đỗ trọngcòn gọi làTư trọng(Biệt Lục),Tư tiên(Bản Kinh),Mộc miên(Ngô Phổ Bản Thảo),Miên, Miên hoa, Ngọc ti bì, Loạn ngân ty, Qủy tiên mộc(Hòa Hán Dược Khảo),Hậu đỗ trọng, Diêm thủy sao, Đỗ trọng, Xuyên Đỗ trọng, Miên đỗ trọng(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
- Tên khoa học:Eucommia ulmoides Oliv
-Họ khoa học:Thuộc họ Đỗ Trọng (Eucommiaceae).
Cây đỗ trọng
(Mô tả, hình ảnh cây đỗ trọng, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô tả :
Đỗ trọng là một cây thuốc quý, dạng thân cây gỗ sống lâu năm, hàng năm rụng lá. Cây' cao . từ 15 - 20m, đường kính độ 33 - 50cm, cành mọc chếch, tán cây hình tròn. Vỏ cây màu xám. Lá mọc cách, hình tròn trứng, phía cuống hìnhbầu dụchay hình thùy, đuôi lá nhọn, lá xanh có răng cưa; mặt lá nhắn bóng, màu xanh đậm, bóng láng, mặttráilá non có lông tơ, lúc gìa thì nhẵn bóng không còn lông, có vân vằn, cuống lá có rãnh,không có lá bắc. Cây đực và cây cái khác nhau rõràng, hoa thường ra trước lá hay hoa và lá cùng ra một lúc với hoa, hoa đực có cuống, mọc thành chùm, dùng để làm làm thuốc, hoa cái do hai nhi cái hợp thành, một tâm bì, đầuquả nứt đôi. Quả có cánh mỏng dẹt, ở giữa hơi lồi, trong có một hạt. Hạt dẹt, hai đầu tròn, có thể dùng làm giống. Rễ và vỏ cây có chất keo màu trắng bạc như tơ, bé gãy lá và vỏ cây thấy có những sợi nhựa. Trung Quốc có trồng nhiều. Đỗ trọng đã di thực vào trồng ở Việt Nam, nhưng chưa phát triển.
Thu hái, sơ chế:
Sau khi cây trồng được 10 năm, thì chọn những cây to mập để thu hoạch trước.
Vào tháng 4 - 5 hàng năm, lấy cưa cưa đứtchung quanh vỏ cây thành những đoạn dài ngắn tùy ý, rồi dùng dao rạch dọc thân cây thành từng miếng để bóc vỏ cho dễ. Để cho cây không bị chết mà vẫn giữ nguyên tình trạngcủarừng cây, khi bóc vỏ chỉ bóc 1/3 vỏ ở chung quanh cây, đề giữ cho cây tiếp tục sinh trưởng sau mấy năm vỏ ở chỗ bóc đó đã liền lại như cũ, lúc đó lại có thể tiếp tục bóc. Vỏ bóc về đem luộc nước sôi rồi trải ở chỗ bằng phẳng dưới có lót rơm, bên trên nén chặt làm cho vỏ phẳng, chung quanh lấy rơm phủ kín để ủ cho nhựa chảy ra. Sau đó độ một tuần, lấy ra một miếng để kiểm tra, nếu thấy vỏ có màu tím, thì có thể dỡ ra đem phơi, cạo thật sạch lớp vỏ bên ngoài, làm cho vỏ thật nhẵn bóng, cuối cùng cắt thành từng miếng ý muốn.
Phần dùng làm thuốc: Vỏ (Cortex Eucommiae).
Mô tả dược liệu:
Vỏ cây dày, ít sù sì, sắc nâu đen, bẻ ra thấy nhiều tơ trắng, dai, óng ánh là tốt.
Phân biệt bắc đỗ trọng với Đỗ trọng nam.
+ Bắc đỗ trọng: Vỏ dẹt, phẳng, dày 0,1 - 0,4cm, dài rộng khác nhau. Mặt ngoài màu nâu vàng đến nâu xám, có nhiều nếp nhăn dọc, có cáclỗvỏ nằm ngang và vết tích của cành cây. Mặt trong nhẵn, nâu tím, hơi mờ. Chất giòn, dễ bé gãy, mặt bẻ có nhiều sợi nhựa trắng đàn hồi. Mùi hơi thơm, vị hơi đắng.
+Nam đỗ trọng: Vỏ cuộn hình lòng máng, dày l 0,2 - 0,4cm. Mặt ngoài màu vàng sáng có những khoang màu vàng nâu, có nhiều đường nứt dọc. Mặt trong nhẵn, màu nâu, chất cứng, khó bẻ, mặt bẻ có ít nhựa đắng, đàn hồi kém, không mùi, hơi thơm, vị nhạt, hơi chát.
Phẩm chất, quy cách:
Do vị Đỗ trọng phân bố rộng rãi khắp nơi ở Trung Quốc cho nên mỗi nơi một khác.
+ Đỗ trọng sản xuất ở Đại ba (Tứ Xuyên) mặt vỏ mịn, dày thịt.
+ Đỗ trọng ở dẫy núi Lầu sơn (Quý Châu) thì mặt vỏ thô mịn khác nhau, phẩm chất không tốt bằng Tứ Xuyên.
+ Còn Đỗ trọng ở Thiểm Tây, Hồ Bắc thì vỏ thô, xù xì, mỏng thịt, chất lượng kém hơn cả.
Các qui cách chính gồm có:
Đỗ trọng dày thịt: Những miếng vỏ khô dày thịt, to, mặt sau có màu đen tím, bẻ gãy có những sợi như sợi bông màu trắng, không bi sâu bệnh hại và trầy sát là tốt nhất. Trong đó chia làm 3 loại theo thứ tự tốt xấu:
(1) Khô kiệt, cạo hết lớp vỏ khô ở mặt vỏ, hai mặt cắt đều dày 8,3mm, dài 20 - 93cm, rộng 53cm.
(2) Khô kiệt, cạo hết lớp vỏ khô bên ngoài, mặt cắt chếch hai đầu dày 3 - 8,3mm, dài 20 - 93cm, rộng 40cm.
(3) Cạo hết lớp vỏ khô chết ở ngoài, dày 3-5mm, dài 20 - 60cm, rộng 17 - 40cm.
2 - Đỗ trọng miếng nhỏ: Những miếng nhỏ dày trên 3mm.
3 - Đỗ trọng mỏngthịt: Mặt vỏ mịn như vỏ quế, mặt sau màu đen tím, bẻ gẫy có sợi như sợi bông màu trắng. Trong đó phân làm 3 loại:
. Khô kiệt, cạo hết vỏ ngoài, hai đầu cắt thẳng, dài 17 - 93cm, rộng 17 - 40cm.
. Khô kiệt, cạo hết vỏ mặt thô mịn khác nhau, cắt vuông góc có độ dày khoảng 3mm, dài 20-93cm, rộng 17 - 40cm.
4-Loại ngoại lệ: Gồm những miếng dài, miếng vụn nhỏ, miếng cuốn cong, miếng rách.
Bào chế đỗ trọng
1- Gọt bỏ vỏ dày bên ngoài, mỗi cân dùng chừng 120g mật ong và 40g sữa tô, hòa đều, tẩm kỹ
rồi sao cho thật khô là được (Lôi Công Bào Chích Luận).
2 - Gọt bỏ vỏ dày ngoài rồi xắt miếng nhỏ, tẩm nước muối sao cho đứt tơ là được (Bản Thảo Cương Mục).
3 - Tẩm với rượu 40o trong 2 giờ sao vàng cho tới khi đứt tơ là được (Trung Dược Học).
4 - Rửa sạch, cạo bỏ vỏ thô ở ngoài, cắt từng lát nhỏ 3-5kg, đeo nhau, tơ không thể cắt được, như da rắn, phơi khô sẽ xấu, để vậy dùng sống hoặc ngâm rượu (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Bảo quản:
Để nơi khô ráo, không để nơi ẩm ướt dễ bị biến chất, nếu thấy mốc mọt phải đem phơi ngay.
Thành Phần Hóa Học của đỗ trọng
+ Gutta – Percha, Alcaloids, Glycoside, Potassium, Vitamin C (Trung Dược Học).
+ Trong Đỗ trọng có Syringaresinol, Pinoresinol, Epipinoresinol, 1- Hydroxypinoresinol, Erythro-Dihydroxydehydrodiconiferyl Alcohol, Medioresinol (Deyama Y và cộng sự – Chem Pharm Bull,1987, 35 (5): 1785).
+ Ulmoprenol (Horii Z và cộng sự – Tetraheldron Lettér 1978, (50): 5015).
+ Vanilic acid, Ursolic acid, Sitosterol, Daucosterol (Lý Đông – Thực Vật Học Báo 1986, 28 (5): 528).
+ Augoside, Harpagide acetate, Reptóide Bianco A và cộng sự – Tetrahedron 1974, 30: 4117).
Tác Dụng Dược Lý của đỗ trọng
+ Tác dụng hạ áp: Sắc nước và cồn chiết xuất thuốc đều có tác dụng hạ áp, nước sắc tác dụng mạnh hơn, nước sắc Đỗ trọng sao tốt hơn nước sắc Đỗ trọng sống. Cơ chế tác dụng chủ yếu do thuốc trực tiếp làm thư gĩan cơ trơn củamạchmáu (Trung Dược Học)nhưng tác dụnghạáp thờigianngắn (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ Thuốc có tác dụng hạ Cholesterot huyết thanh, dãn mạch,tăng lưu lượng máu của động mạch vành (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ Có tác dụng kháng viêm, tăng cường chứcnăng vỏ tuyến thượng thận (Trung Dược Học).
+ Thuốc có tác dụng chống co giật và giảm đau (Trung Dược Học).
+ Thuốc làm tăng tính miễn dịch của cơ thể. Thực nghiệâm chứng minh thuốc có tác dụng điều chỉnh chức năng của tế bào. Lá, cành, vỏ tái sinh của Đỗ trọng đều có tác dụng như nhau (Trung Dược Học).
+ Tác dụng đối với tử cung: nước sắc và cồnchiếtxuất Đỗ trọng có tác dụnghưng phấn tử cung tử cung cô lập của thỏ và chuột lớn, làm cho tử cung cô lập của mèo thì tác dụng hưng phấn lại rất nhẹ (Trung Dược Học).
+ Thuốc có tác dụng rút ngắn thời gian chảy máu và tác dụng lợi tiểu (Trung Dược Học).
+ Thuốc sắc có tác dụng ức chế với mức độ khác nhauđốivới tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lỵ Flexner, trực khuẩnColi, trực khuẩn mủ xanh, trực khuẩn bạch hầu, phế cầu khuẩn, liên cầu khuẩn dung huyết B (Trung Dược Học).
Vị thuốc đỗ trọng
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị
+ Vị cay, tính bình (Bản Kinh).
+ Vị ngọt, tính ôn, không độc (Biệt Lục).
+ Vị đắng (Dược Tính Bản Thảo).
+ Vị ngọt, hơi cay, tính ấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Quy kinh:
+ Vào kinh Thận (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
+ Vào kinh thủ Thái âm Phế (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào kinh Can và Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tác dụng đỗ trọng
+ Bổ trung, ích tinh khí, kiện cân cốt, cường chí (Bản Kinh).
+ Nhuận can táo, bổ can hư (Bản Thảo Bị Yếu).
+ Bổ can, thận, cường cân cốt, an thai(Trung Dược Học).
+ Ôn thận, tráng dương, mạnh gân cốt, an thai (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Hư nhược mà mình cứng đơ đó là do phong làm thắt lưng không cử động được, cần phải thêm Đỗ trọng (Dược Tính Bản Thảo).
+ Đỗ trọng trị Thận suy làm thắt lưng và cột sống co rút (Nhật Hoa ChưGia Bản Thảo).
+ Đỗ trọng nhuận được can táo, bổ can kinh sinh ra chứng hư phong (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Đỗ trọng có thể làm cho xương cốt dẻo dai (Dụng Pháp Tượng Luận).
Chủ trị:
+ Trị âm nang ngứa chảy nước, tiểu gắt, lưng đau (Bản Kinh).
+ Trị chân đau nhức không muốn bước (Biệt Lục).
+ Trị lưng gối đau nhức, vùng bìu dái lở ngứa, âm hộâ ngứa, tiểu són, có thai bị rong huyết, trụy thai (Bản Thảo Bị Yếu).
+ Trị chứng thận hư, lưng đau,liệtdương, thai động, thai lậu, trụy thai (Trung Dược Học).
+ Trị cột sống đau nhức, thắt lưng đau, đầu gối mỏi, thai động, Rong kinh, đầu đau, chóng mặtdo thận hư (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Liều dùng: 8-12g, có thể dùng đến 40g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc đỗ trọng
Trị mồ hôi trộm sau khi bị bệnh, chảy nước mắt sống:
Đỗ trọng, Mẫu lệ, 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 20g với nước lúc ngủ (Trửu Hậu phương).
Trị phong lạnh làm thương tổn thận, gây đau thắt lưng, đau cột sống do hư:
Đỗ trọng 640g, xắt, sao với 2 thăng rượu, ngâm trong 10 ngày, ngày uống 3 lần (Thế Y Đắc Hiệu Phương).
Trị có thai 2 – 3 tháng mà bị động thai, ngang lưng đau như sápsẩy thai:
Đỗ trọng (tẩm nước Gừng, sao cho đứt tơ), Xuyên tục đoạn (tẩm rượu). Tán bột. Dùng nhục Táo nẫu kỹ lấy nước trộn thuốc bột làm thành viên, uống với nước cơm (Đỗ Trọng Hoàn – Chứng Trị Chuẩn Thằng).
Trị thắt lưng đau do thận hư:
Đỗ trọng bỏ vỏ, sao vàng với sữa tô 1 cân, chia làm 10 thang, Mỗi đêm lấy 1 thang ngâm với 1 thăng nước chotớicanh năm, sắc còn 3 phần, giảm còn 1, lấy nước, bỏ bã, rồi lấy 3 - 4 cái thận dê, xắt lát bỏ vào sắc tiếp, bỏ tiêu muối vào như nấu canh uống lúc đói (Hải Thượng Phương).
Trị lưng đau do thận hư: dùng phối hợp với các vị thuốc bổ thận khác:
- Nếu thận dương hư, dùng Thục địa 26g, Hoài sơn 16g, Sơn thù 10g, Câu kỷ tử 12g, Đương quy 16g, Thỏ ty tử 12g, Phụ tử 6g, Nhục quế 8g, Đỗ trọng 12g, Lộc giác giao 10g, sắc uống hoặc dùng mật chế làm hoàn (Hữu Quy Hoàn - Cảnh Nhạc Toàn Thư).
- Nếu thận âm hư: dùng: Sinh địa 16g, Hoài sơn 12g, Sơn thù 12g, Thỏ ty tử 12g, Câu kỷ tử 16g, Ngưu tất 12g, Đỗ trọng 12g, Cẩu tích 12g, Nhục thung dung 12g, sắc uống hoặc chế với mật làm hoàn (Tả Quy Hoàn - Cảnh Nhạc Toàn Thư). Trị quen hư thai, hoặc có thai cứ tới 4 - 5 tháng là hư.
Trước có thai 2 tháng, lấy 320g Đỗ trọng, Lấy gạo nếp sắc lấy nước ngâm Đỗ trọng cho thấm rồi sao cho hết tơ, dùng 80g Tục đoạn tẩm rượu sấy khô, tán bột, lấy Sơn dược 200-240g, tán bột làm hồ, rồi viên với các thứthuốc trên, to bằng hạt Ngô đồng lớn, mỗi lần uống 5- a0 viên lúc đói (Giản Tiện phương).
Trị các loại bệnh sau khi sinh (sản hậu) hoặc thai không yên:
Đỗ trọng bỏ vỏ thô ngoài, để trên tấm ngói sấy khô, bỏ vào cối gỗ,gĩa nát, nấu Táo nhục cho thật nhừ,trộn thuốc bột làm viên to bằng hạt Ngô đồng lớn, mỗi lần uống l viên với nước cơm, ngày 2 lần (Thắng Kim phương).
Trị liệt dương, Di tinhdo thận hư:
Lộc nhung 80g, Đỗ trọng 160g, Ngũ vị tử 40g, Thục đia 320g, Mạch môn đông, Sơn dược, Sơn thù nhục, Thỏ ty tử, Ngưu tất, Câu kỷ tử, mỗi thứ 160g (Thập Bổ Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).).
Trị lưng đau do thận hư, tay chân tê mỏi, không có sức:
Đỗ trọng, Ngưu tất, Thỏ ty tử, Nhục thung dung, Hồ lô ba, Bổ cốt chỉ, Đương quy, Tỳ giải, Bạch tật lê, Phòng phong, mỗi thứ 2 phần, Nhục quế 1 phần, Thận heo 1 cặp (nấu chín, quết nhuyễn). Trộn lại, hoàn với mật ong, mỗi lần uống 12g, ngày 2 lần với nước (Ổi Thận Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị thắt lưng đau do thận hư kèm phong hàn:
Đỗ trọng, Đơn sâm, mỗi thứ 12g, Xuyên khung 6g, Quế tâm 4g, Tế tân 6g. Ngâm rượu, uống (Đỗ Trọng Tửu - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đàn bà có thai quen dạ đẻ non:
Đỗ trọng (sống) 40g, Xuyên tục đoạn 12g, Đại táo 40 trái. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị quen dạ đẻ non:
Đỗ trọng (sao), Tục đoạn, Tang ký sinh, Bạch truật (sao đất sét), mỗi thứ 20g, A giao châu, Đương quy, mỗi thứ 12g, Thỏ ty tử4g. Sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị huyết áp cao:
Đỗ trọng (sống), Hạ khô thảo mỗi thứ 80g, Đơn bì, Thục địa, mỗi thứ 40g, tán bột làm viên, mỗi lần uống 12g, ngày 2 - 3 lần, với nước (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị huyết áp cao:
Đỗ trọng, Tang ký sinh, mỗi thứ 16g, Mẫu lệ (sống) 20g, Cúc hoa, Câu kỷ tử, mỗi thứ 12g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị huyết áp cao:
Đỗ trọng, Hoàng cầm, Hạ khô thảo, mỗi thứ 20g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị thắt lưng đau do thận hư, yếu từ thắt lưng xuống chân:
Đỗ trọng, Ngưu tất, Câu kỷ tử, Tục đoạn, Bạch giao, Địa hoàng, Ngũ vị tử, Thỏ ty tử, Hoàng bá, Sơn dược (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị liệt dương, Di tinh:
Lộc nhung 80g, Đỗ trọng 160g, Ngũ vị tử 40g, Thục địa 230g, Mạch môn, Sơn dược, Sơn thù, Thỏ ty tử, Ngưu tất, Câu kỷ tử, mỗi thứ 18Og, tán bột mịn, trộn với mật làm hoàn, mỗi lầnuống 12g, ngày 2 lầnvớinước muối nhạt (Thập Bổ Hoàn - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị phụ nữ có thai dọa sẩy thai, động thai:
Đỗ trọng sống 40g, Xuyên tục đoạn 12g, Sơn dược 20g, Cam thảo 4g, Đại táo 20 quả, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trịsẩy thainhiều lần:
Tục đoạn, Đỗ trọng (sao), Tang ký sinh, Bạch truật (sao), A giao, Đỗ trọng, mỗi thứ 12g, Thỏ ty tử 4g, sắc nước uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị huyết áp cao:
Đỗ trọng (sống), Hạ khô thảo, mỗi thứ 80g, Đơn bì Thục địa,mỗithứ 40g, tán bột làm hoàn, mỗi lần uống 12g, ngày 2-3 lần (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị huyết áp cao:
Đỗ trọng, Tang ký sinh mỗi thứ 16g, Mẫu lệ sống 20g, Cúc hoa, Câu kỷ tử, mỗi thứ 12g, sắc uống(Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị đau dây thần kinh tọa:
Đỗ trọng 30g nấuvớithịt thăn heo trong 30 phút, bỏ Đỗ trọng, ăn thịt heo mỗi ngày 2 lần, liệu trình 7- 10 ngày, tác giả chữa 6 ca kết quả tốt (Học Báo Y Học Viện Phong Phu 1979, 1: 36)
Tham khảo
Phân biệt đỗ trọng
1- Hiện nay ở Việt Nam có nơi dùng vỏ một cây trong họ Trúc đào, với tên là Đỗ trọng dây hay Đỗ trọng nam hay Nam đỗ trọng [Parameria laevigata (juss.) Moldenke = Parameria glandurifera Benth. Họ Apocynaceae. Đó là dây leo dài 5 - IOm, Lá hình bầu dục, thuôn hay hình trái xoan ngược, có mũi nhọn dài, nhọn hay tù ở chóp, có góc ở gốc, mặt trên sáng bóng, có mép hơi cong về phía dưới, dạng màng, thường mọc đối và có khi mọc vòng 3. Hoa trắng thơm xếp thành xim dạng ngù ở ngọn cây. Quả gồm 2 quả dại, dài 15 - 30cm: rẽ đôi, nhọnnhẵn. Mào lông mềm, trắng, dài 2 - 5cm. Mùa hoa quả từ tháng 8 đến tháng 4 năm sau. Cây mọc hoang trong rừng và lùm bụi. Có thể thu hái vỏ quanh năm, đem vềxắtnhỏ, phơi khô hay sao. Cây chứa một chất nhựa như cao su, bẻ ra cũng có nhiều tơ nhưng không dai và kéo dài và óng ánh như tơ của Đỗ trọng bắc. Kinh nghiệm dân gian thường dùng để trị huyết áp cao,gây dãn mạch và thay thế cho vị Bắc đỗ trọng, cần nghiên cứu lại.
- Ở miền Trung, còn dùng vỏ một vài cây trong chi Euonymus họ Celastraceae.
- Phân biệt Đỗ trọng với cây Bạch phụ tử còn gọi là cây San hô (Jatropha multifida Un.) thuộc họ Euphorbiaceae là một cây có nhựa mủ. Khi bẻ gẫy cuống lá nhựa mủ khô lại, thành sợi tơ mành, vì vậy cũng cóngườigọi là cây Đỗ trọng. Cây này chỉ thườngđượctrồng làm cảnh
Lưu ý khi dùng
Đỗ trọng vị cay, khí bình, không có độc. Sách‘Biệt Lục’ lại nói là có vị ngọt tính ấm. Sách ‘Dược Tính Bản Thảo’ lại nói Đỗ trọng vị đắng, tính ấm. Như vậy, vị cay, ngọt là chính, còn đắng là thứ yếu và nhiều ấm, mà bình thìít. Đỗ trọng có khí bạc vị hậu, nhập vàokinhTúc thiếu âm (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Hoàng Cung Tú nói: Thục địa tư bổ Can Thận, đi vào trong tinh tủy của cân cốt; Tục đoạn điều bổ cân cốt, ở chỗ khí huyết của các đầu khớp gấp; Đỗ trọng bồi bổ Can thận, đi thẳng vào phần dưới của khí huyết ở cân cốt (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Đỗ trọng có công năng bổ can, tư thận, vì can chủ cân, thận chủ cốt, thận đầy đủ thì xương cốt mạnh, can đầy đủ thì gân khỏe mạnh, co duỗi mạnh đều thuộc ở gân, vì vậy Đỗ trọng nhập vào can mà bổ thận, con có thể làm cho mẹ đầy đủ (Tử năng linh mẫu thực) đểø trị can và thận đều bất túc, là thuốc chính yếu đề trị lưng đau gối mỏi. Bài ‘Thanh Nga Hoàn’ kết hợp Bổ cốt chỉ, Hồ đào nhục để trị lưng đaudo thậnhư,Bài ‘Bảo Dựng Hoàn’ của sáchBị Cấp Thiên Kim Phương dùng Đỗ trọng, Tục đoạn, Sơn dược. Bài ‘Đỗ Trọng Hoàn’ của sáchChứng Trị Chuẩn Thằng, dùng Đỗ trọng, Tục đoạn, Táo nhục đều là những phương thuốc an thai. Tuy nhiên, Đỗ trọng tính của nó trầm mà giáng, mà Tục đoạn cũng thông huyết mạch, nên thận hư làm cho động thai dùng nó trước tiên là tốt vậy. Nếudo khí hư mà huyết không vững, mà lại dùng Đỗ trọng sẽ làm cho khí hãm xuống không thăng lên được, gây ra thoát huyết không cầm. Điều này thầy thuốc không thể không biết được (Trung Dược Học Giảng Nghĩa).
+ Tuy trên thực nghiệm, thuốc có tác dụng hạ áp nhưng trên lâm sàng dùng độc vị Đỗ trọng tác dụng thấp (Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
Kiêng kỵ khi dùng đỗ trọng
+ Ghét Huyền sâm, Xà thoái (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Không phải Can Thận hư hoặc âm hư hỏa vượng: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Âm hư có nhiệt: dùng thận trọng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). DIÊN HỒ SÁCH Tên khác:
Diên hồ sách, Huyền hồ sách, Nguyên hồ sách, Khuê nguyên hồ, Sanh diên hồ, Sao diên hồ, Vũ hồ sách, Trích kim noãn ...
Tên khoa học: Corydalis ambigua Champ et Schlecht.,
Họ: Papaveraceae.
Tên tiếng trung: 延 瑚 索 (Diên hồ sách)
Cây Diên hồ sách
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ....)
Mô tả:
Cây thảo sống nhiều năm, tự sinh ở nơi sơn dã, dưới đất có rễ củ hình cầu, thân nhỏ yếu, cao chừng 0,5m, lá mọc đối có mép nguyên, hoa nở vào mùa xuân ở cuối thân cây, màu hồng nhạt hoặc hoa đỏ màu tím, hoa hình môi gồm 1 mặt há ra, sắp xếp thành chùm.
Phân bố:
Mọc ở Triết Giang, Phúc Kiến, Nhiệt Hà, loại sản xuất ở Ninh Ba, Kim Hoa, Hàng Châu thuộc Triết Giang là loại tốt. Cây này chưa thấy ở Việt Nam
Thu hái, sơ chế:
Diên hồ sáchSau tiết lập xuân đào củ rửa sạch phơi nắng cất dùng.
Phần dùng làm thuốc: Củ rễ (Corydalistuber).
Thành phần hoá học:
Alcaloid như: corydalin, dehydrocorydalin, protin, corybolbin…
Tác dụng dược lý:
Thuốc có tác dụng giảm đau, trấn kinh an thần, gíup ngủ tốt.
Thuốc làm tăng lưu lượng máu động mạch vành của tim thỏ cô lập.
Thuốc có tác dụng làm hạ mỡ nhẹ đối với mô hình gây xơ mỡ động mạch chuột trắng lớn.
Trên thực nghiệm còn cho thấy thuốc có tác dụng ức chế gây loét lúc thắt môn vị của chuột, ức chế loét do acid acetic hoặc loét do histamin.
Thuốc còn có tác dụng tăng tiết nội tiết tố vỏ tuyến thượng thận.
Vị thuốc Diên hồ sách
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Mô tả dược liệu:
Củ rễ khô thể hiện hình cầu dẹt không nhất định, đường kính dài từ 1-1,5cm mặt ngoài màu vàng đất hoặc vàng tươi, mặt trên có sẹo dính với thân cây biểu hiện của một hõm cạn, cuối cùng của mặt dưới thường có 2-3 nhánh rãnh hay chia ra làm 3 phần. Toàn thể phân bố đầy những lằn nhăn ngang cong queo, đồng thời ở giữa có những vết lằn ngang tương đối sâu hoặc lõm xuống, củ cứng chắc màu vàng ánh, vỏ nhăn nheo không mốc mọt là loại tốt.
Bào chế: Bỏ hết tạp chất, cho vào nồi đổ giấm vào (Cứ 10 kg Diên hồ sách thì dùng 2kg giấm) đun nhỏ lửa cho giấm cạn hết. Phơi khô lúc dùng tán bột, tẩm rượu hay muối tùy theo từng trường hợp.
Tính vị:
Vị cay hơi đắng, khí ấm.
Qui kinh:
Vào kinh Phế, Can, Tỳ
Liều dùng:
4,5-9g
Công dụng:
Diên hồ sách Hoạt huyết, tán ứ, lợi khí chỉ thống.
Tẩm với rượu có tác dụng hành huyết. Tẩm giấm có tác dụng giảm đau. Dùng sống có tác dụng phá huyết, muốn điều huyết thì sao vàng.
Kiêng kỵ:
Có kinh trước kỳ, người hư huyết. Có chứng băng huyết, Rong kinh, sản hậu, huyết hư, chóng mặt thì không nên dùng. Kỵ thai.
Phân biệt:
Có nơi dùng Diên hồ sách bằng củ của rễ cây Corydalis ternata Nakai.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Diên hồ sách
Trị ho bất luận gìa hay trẻ:
Diên hồ sách 1 lượng, 2,5 chỉ khô phàn tán bột, mỗi lần uống 6g với 1 cục kẹo mạch nha ngậm nuốt từ từ (Nhân Tồn Đường Phương).
Trị chảy máu cam:
bột Diên hồ sách gói trong bông sạch nhét trong lỗ tai, hễ máu chảy bên phải thì nhét bên trái và ngược lại (Phổ Tế Phương).
Trị tiểu ra máu:
1 lượng Diên hồ sách, 7,5 chỉ Phác tiêu, tán bột, mỗi lần uống 4 chỉ sắc uống (Hoạt Nhân Thư Phương).
Trị tiểu tiện không thông:
dùng “Niệp đầu tán” trị trẻ con tiểu không thông, dùng Diên hồ sách, Xuyên luyện tử, 2 vị bằng nhau tán bột lần uống nửa chỉ đến 1 chỉ với nước sôi cho vào vài giọt dầm mè (Tiểu Nhi Chân Quyết Phương).
Trị đau phần ngoài do khí và khí kết khối:
Diên hồ sách tán bột với tụy tạng heo, xắt ra từng miếng, nấu chín, chấm bột thuốc ăn (Thắng Kim Phương).
Trị đau tim do nhiệt quyết, khi đau khi không, lâu ngày khó trị, mình nóng chân lạnh:
Huyền hồ sách bỏ vỏ, dùng thịt quả Kim linh tử, 2 vị bằng nhau tán bột uống với rượu nóng hoặc nước sôi lần 2 chỉ (Thánh Huệ Phương).
Trị bệnh khí huyết của đàn bà, quặn đau trong bụng, kinh nguyệt không đều:
Huyền hồ sách bỏ vỏ sao giấm, Đương quy tẩm rượu sao mỗi thứ 1 lượng, Quất hồng 2 lượng tán bột trộn rượu, nấu viên hồ làm bằng hạt ngô đồng, lần uống 100 viên lúc đói với nước dấm sắc, uống trung với Ngải cứu (Phổ Tế Phương).
Trị các loại đau sau khi sinh.
Hễ sau khi sinh đẻ, những ô uế trong người chưa ra sạch, bụng căng đầy và huyết vận sau khi sinh, tức cứng ở tim hoặc sốt rét không dứt hoặc bứt rứt, bồn chồn, tay chân hâm hấp nóng, khí lực muốn hết. Các chứng ấy đều có thể dùng Diên hồ sách sao nghiền uống với rượu, mỗi lần 6g (Thánh Huệ Phương).
Trị trẻ con đau quặn trong ruột:
Diên hồi sách, Hồi hương, 2 vị bằng nhau, nghiền sao, uống lúc đói với nước cơm (Vệ Sinh Gia Giảm Phương).
Trị sán khí (thoát vị) nguy cấp:
Huyền hồ sách sao muối, Toàn yết bỏ phần độc, dùng sống, 2 vị bằng nhau tán bột, mỗi lần uống 1,5g lúc đói với rượu muối (Trực Chỉ Phương).
Trị đau đầu một bên hoặc giữa đầu chịu không nổi
dùng Huyền hồ sách 7 củ, Thanh đại 2 chỉ, Trư nha tạo giác 2 trái bỏ vỏ hạt tán bột trộn nước làm viên như hạt Hạnh nhân lớn. Khi dùng lấy một viên hoà nước gịo vào mũi bệnh nhân, đau bên nào giọt bên ấy, đồng thời trong miệng ngậm 1 đồng tiền bằng đồng khi có nhiều nhớt nhãi chảy ra thì bớt (Vĩnh Loại Kiềm Phương).
Trị té ngã từ trên cao rơi xuống, làm đau nhức gân cốt
dùng Diên hồ sách nghiền bột, uống với rượu đậu lần 2 chỉ ngày 2 lần (Thánh Huệ Phương).
Trị đàn bà đau bụng do khí ngưng huyết trệ
dùng ‘Diên Hồ Sách Tán’ gồm Diên hồ, Đương quy, Xuyên khung, Quế tâm, Mộc hương, Chỉ xác, Xích thược, Đào nhân, Địa hoàng (Phụ Khoa Phương).
Trị đau ở vùng vị quản:
Diên hồ sách, Ngũ linh chi, Nga truật, Cao lương khương, Đương quy (Dũ Thống Tán- Thẩm Thị Tôn Sinh).
Trị đau bụng do bế kinh:
Diên hồ sách, Đương quy, Thược dược, Hậu phác mỗi thứ 3 chỉ, Tam lăng, Nga truật, Mộc hương mỗi thứ 1,5 chỉ. Sắc uống (Diên Hồ Sách Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đau bụng có kinh:
Diên hồ sách (sao rượu) 2 lượng, Hương phụ (sao dấm) 4 lượng. Tán bột lần uống 2 chỉ với rượu nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị loét dạ dầy tá tràng, các chứng đau nhức do viêm dạ dầy, đau thần kinh chức năng dạ dầy do khí trệ hoặc kiêm ứ huyết sinh ra:
Diên hồ sách 9 phần. Thiên tử 1 phần tán bột lần uống 3 chỉ, ngày 2-3 lần, uống với nước (Thống Kinh Tán - (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đau nhức thần kinh mặt
Diên hồ sách, Xuyên khung, Bạch chỉ mỗi thứ 5 chỉ, Thương nhĩ tử 3 chỉ sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
Trích dẫn y văn
Diên hồ sách chủ thận khí, phá sản hậu ác lộ hoặc chứng đau bụng dưới của đàn bà, kết hợp với Tam lăng, Miết giáp, Đại hoàng tán bột lại càng tốt (Hải Dược Bản Thảo).
Diên hồ sách đuổi trừ được phong, trị khí, làm ấm được lưng và chân, khỏi chứng đau bụng và đau lưng, phá được bỉ tích như nổi hòn nổi cục trong bụng, huyết ứ và có thể làm cho hư thai (Chư Gia Bản Thảo).
Diên hồ sách trị được chứng tâm khí, làm giảm đau ở bụng dưới (Thang Dịch Bản Thảo).
Diên hồ sách có thể làm được huyết trệ trong khí hoặc khí trệ trong huyết, vì vậy chuyên trị được chứng bệnh đau nhức toàn thân, thông lợi tiểu tiện (Bản Thảo Cương Mục).
Diên hồ sách vị cay khí ấm, không độc, nhập vào kinh Túc quyết âm. Cũng nhập vào kinh thủ thái âm. Khí ấm thì có thể làm cho tất cả được điều hòa nhờ vào chỗ điều hòa đó mà khí lưu hành thông thương tới các cơ quan được. Vị cay cho nên có thể nhuận mà tẩu tán được, khi nó tẩu tán thì huyết phải hoạt bát lưu lợi. Khi khí đã lưu hành huyết đã trơn tru thì có thể phá được những ứ đọng của các chứng bệnh sản hậu vậy (Bản Thảo Kinh Sơ).
Diên hồ sách được khí trệ ở trong huyết, huyết trệ ở trong khí chi nên hễ những chứng kinh nguyệt không đều, đau tim bụng đột ngột, đau căng bụng dưới, thai không xuống, nổi hòn, nổi cục đau đớn huyết vận huyết sung sau khi sinh, tổn thương do chấn thương, chẳng kể là huyết hay khí tích lại ở đó mà không tan đi được, cần phản dùng vị này mới có thể thông đạt được...Những người bệnh quá suy nhược cần phải uống kết hợp thêm với thuốc bổ, còn không thì chỉ hao hại thêm mà không có ích lợi gì hết vậy (Bản Thảo Cầu Chân)
Diên hồ sách hành được huyết trệ trong khí, khí trệ trong huyết, chữa được mọi chứng đau khắp cả người, trên cũng như dưới, thường dùng 1 mình thì công hiệu nhiều, cho nên trong thuốc điều kinh hay dùng đến nó. Nhưng không có công bổ khí, lại thiếu nuôi dưỡng vinh huyết, chỉ nhờ tính cay ấm mà công vào chỗ ngừng đuổi được cái trệ, cho nên đối với người hư chứng thì nên dùng nó với thuốc bổ, bằng không chỉ làm tổn hại mà chẳng lợi ích gì (Dược Phẩm Vậng Yếu).
Diên hồ sách có tác dụng hoạt huyết lợi khí mà có tác dụng giảm đau lại rất mạnh. Hễ khí huyết ngưng trệ, đau nhức ngực bụng thì nó là thuốc chủ yếu. Tính của ấm vị cay cho nên dùng trong chứng hàn uất. Những chứng do huyết nhiệt gây ra bệnh kinh nguyệt sớm, hoặc huyết nóng vọng hành đều nên kiêng dùng nó (Trung Dược Học).
Diên hồ sách có tác dụng hoạt huyết, hành khí, tác dụng chỉ thống mạnh, đi vào phần huyết và phần khí, vì vậy khí huyết ngưng trệ gây nên đau nhức vùng bụng, ngực đều có thể dùng vị này (Thực Dụng Trung Y Học). NGƯ TINH THẢO
Hay còn gọi là rấp cá, diếp cá
Tác dụng: Ngư tinh thảo
+ Thanh nhiệt độc, tiêu thủng, thấm thấp nhiệt (Trung Dược Học).
+ Tác dụng kháng khuẩn: Nướcsắ Ngư tinh thảo in vitro có tác dụng kháng Streptoccocus pneumonia và Staphylococcus aureus nhưng kém hiệu quả đối với Shigella, Salmonella và E. Coli. Nướcsắc Ngư tinh thảo cho chuột bị lao uống thấy giảm mức tử vong (Trung Dược Học).
+ Tác dụng kháng Virus: Nướcsắc Ngư tinh thảo có tác dụng kháng sự phát triểncủa cúm và virus Echo ở người (Trung Dược Học).
+ Tác dụng đối với hệ sinh dục - tiết niệu: Nướcsắc Ngư tinh thảo được dùng cho thận cóc bị tổn thương hoặcchân ếch bị tổn thương thấy có tác dụng gĩan mạch và tăng bài tiết nướctiểu (Trung Dược Học).
+ Tác dụng đối với hệ hô hấp: Chích dưới da dịch Ngư tinh thảothấ có tác dụng giảm ho nhưng không long đờm hoặcgĩan phế quản (Trung Dược Học).
Chủ trị: Ngư tinh thảo
+ Điều trị da liễu: dịch chiết Ngư tinh thảo bôi tại chỗ có tác dụng đối với bệnh ngoài da, đặc biệt là với Herpes đơn thuần (Trung Dược Học).
+ Điều trị bệnh hệ hô hấp: Năng suất sắc Ngư tinh thảo dùng có hiệu quả trong nhiều nghiên cứuvề phế cầu khuẩn. Nướcsắc Ngư tinh thảo liều cao (đến 80g) dùng có hiệu quảđối với áp xe phổi. Nướcsắc Ngư tinh thảo được dùng trị bệnh ứ trệ ở phổi. Nhiều kết quả tương tự trong điều trị với chất Decanoyl acetaldehyde. Nhiều kết quả khả quan hơn được thực hiện bằng cách chích dịch Ngư tinh thảo vào các huyệt Khúc trì (Đtr. 11), Định suyễn, kèm giác hơi các huyệt Thận du (Bq.23) và Cao hoang du (Bq. 38) (Trung Dược Học).
Kiêng kỵ
+ Hư hàn: không dùng (Trung Dược Học).
+ Mụn nhọt thể âm: không dùng (Trung Dược Học).
Tính vị: Ngư tinh thảo
+ Vị chua, tính mát (Trung Dược Học).
Qui kinh
+ Vào kinh Phế, Can (Trung Dược Học).
Tên khoa học
+ Decaynoyl acetaldehyde, Lauric aldehyde, Methyl - n - Nonykelton, Myrcene, Capric aldehyde, Capric acid, Cordarine, Calcium sulfate, Calcium Chloride, Isoquercitrin, Quercitrin, Reynoutrin, Hyperin (Trung Dược Học).
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648