XtGem Forum catalog
KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. CÂY NHÀ LÁ VƯỜN
PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG BỆNH NGOẠI KHOA ĐÔNG Y
Nội Dung
1 BIỆN CHỨNG TRONG NGOẠI KHOA ĐÔNG Y
2 NGUYÊN TẮC CHẨN TRỊ NGOẠI KHOA
3 ĐIỀU TRỊ BỆNH NGOẠI KHOA ĐÔNG Y

BIỆN CHỨNG TRONG NGOẠI KHOA ĐÔNG Y
Biện chứng bệnh ngoại khoa cũng như nội khoa thông qua tứ chẩn thu thập tư liệu lâm sàng rồi dựa theo lý luận của bát chứng, tạng phủ khí huyết kinh lạc mà phân tích qui nạp thành những hội chứng bệnh lý hay thể bệnh là cơ sở để chẩn đoán, lập pháp, định phương trong điều trị.
+ Âm Dương: Có thể tóm tắt theo bảng sau:
LOẠI
DƯƠNG CHỨNG
ÂM CHỨNG
Phát bệnh
Nhanh
Chậm
Sắc da
Đỏ
Không thay đổi, trắng bệch
Nhiệt độ da
Nóng
Mát, không thay đổi
Độ sưng
Sưng
Không sưng, lõm
Phạm vi sưng
Chân nhọt thu lại
Chân nhọt tán ra
Độ cứng mềm
Cứng, mềm vừa
Rất cứng hoặc rất mềm
Cảm giác đau
Rất đau, không thích ấn
Không đau hoặc đau âm ỉ
Nhọt loét
Ở da, cơ, mạch máu
Gân xương
Tính chất mủ, dịch
Mủ, dịch đặc
Mủ dịch loãng
Mầu nhọt loét
Đỏ nhuận
Tái nhạt hoặc tím thâm
Triệu chứng toàn thân
Bắt đầu sốt, ớn lạnh, khát, chán ăn, táo bón, nước tiểu vàng, bứt rứt
Bắt đầu không rõ, lúc làm mủ thì hơi sốt nhẹ, gò má đỏ, mồ hôi ra
Lưỡi
Rêu trắng, vàng, khô, chất lưỡi đỏ
Rêu trắng mỏng, trắng nhầy, chất lưỡi nhạt
Mạch
Huyền, Hoạt, Sác, Hồng, Đại
Tế, Nhược, Trầm, Hoãn, Vô lực
Thời gian bệnh
Ngắn
Dài
Tiên lượng
Tốt, vết loét dễ liền miệng
Xấu, khó tiêu, vết loét khó liền miệng
2. Phân biệt chẩn đoán một số chứng ngoại khoa thường gặp.
a. Chứng Phù.
+ Phù Do Hoả (Hoả Thủng): tức do nhiệt, da sưng đỏ, da mỏng bóng nhuận, cảm thấy nóng như lửa đốt và đau nhức: gặp trong loại nhọt làm mủ cấp tính.
+ Phù Do Hàn (Hàn Thủng): chứng phù cứng như gỗ, không đỏ, không nóng, thường kèm theo đau nhức, sắc da trắng bệch (do hàn ngưng khí trệ) hoặc xanh tối (do hàn ngưng huyết ứ) hoặc sắc da không thay đổi, gặp trong chứng thoát thư (viêm tắc động mạch chi), đông sang (bỏng da do lạnh).
+ Phù Do Phong (Phong Thủng): phù sưng nông và mềm, hơi nóng và đau nhẹ, phát bệnh cấp và lan nhanh hoặc di chuyển, gặp trong quai bị, phong chẩn…
+ Phù Do Thấp (Thấp Thủng): thường có 3 loại:
. Thuỷ thấp ứ trệ: ở da nổi các mụn nước trắng hoặc vàng, lúc vỡ chảy nước, gặp trong các chứng thuỷ đậu, chàm nước...
. Thuỷ thấp tích tụ thành bọc: da bóng như chứng bìu dái ứ nước (hydrocele).
. Nước thấm vào da thịt cẳng chân: sưng phù mềm ấn lõm như chứng chân voi gặp trong bệnh giun chỉ.
+ Đờm Thủng: phù mềm (chứng bướu cổ địa phương) hoặc phù cứng như chứng lao hạch (loa lịch), da không đỏ không nóng.
+ Khí Thủng: da căng nhưng mềm, không đỏ không nóng, to nhỏ theo sự thay đổi tính tình người bệnh như khí anh (bướu cổ đơn thuần).
+ Uất Thủng: mầu da không đỏ không nóng, khối u cứng như đá, bề mặt nham nhở, gặp trong các chứng như nhũ nham (ung thư vú), chứng thất vinh (ung thư hạch cổ di căn).
+ Huyết thủng: thường gặp do té ngã, máu chảy dưới da, mầu da bầm tím.
+ Nùng thủng: do nhọt làm mủ, ngón tay ấn vào thấy bập bềnh, đau liên tục.
+ Hư Thủng: sưng phù do khí huyết hư (gặp trong chứng suy dinh dưỡng nặng, protein máu quá thấp).
b. Chứng Đau: Theo YHCT, đau là do khí huyết ứ trệ, kinh mạch tắc nghẽn (thống tắc bất không, thông tắc bất thống). Đau là dấu hiệu báo bệnh, và là cảm giác chủ quan thường gặp trong các chứng ung nhọt ngoại khoa. Chứng đau thường tùy bệnh mà khác nhau, có bệnh đau nhiều, có bệnh đau ít, có bệnh đau ngay từ lúc mới mắc, cũng có bệnh vào giai đoạn giữa hoặc cuối mới đau, vì vậy phân biệt chẩn đoán chứng đau rất cần trong ngoại khoa. Có mấy loại đau thường gặp:
. Nhiệt Thống: sắc da đỏ, đau, nóng như lửa đốt, gặp lạnh giảm đau, thường gặp trong chứng nhọt làm mủ cấp tính.
. Hàn Thống: sắc da không đỏ, không nóng, đau nhức, gặp lạnh đau tăng, gặp trong chứng thoát thư, đông sang.
. Phong Thống: vị trí đau không cố định, lúc đau chỗ này lúc đau chỗ khác; ít gặp trong ngoại khoa.
. Khí Thống: đau thất thường, lúc vui thì nhẹ, lúc tức giận thì nặng lên, kiểu đau liên sườn cơ năng.
. Nùng Thống: đau do nhọt sưng tấy làm mủ, đau liên tục, căng tức.
. Ứ Huyết Thống: đau do ứ huyết, cố định một chỗ, ấn vào đau, cũng gọi Huyết thống, gặp trong trường hợp đau viêm ruột dư cấp.
. Hư Thống: tính chất đau hòa hoãn, không có cảm giác căng tức, xoa ấn dễ chịu, ít gặp trong ngoại khoa.
. Thực Thống: đau nhiều kèm theo cảm giác căng tức, ấn đau tăng (cự án).
c Chứng Ngứa: Gặp nhiều ở bệnh ngoài da, là một triệu chứng chủ quan của người bệnh, trong các chứng lở loét nhọt độc ít gặp nhưng cũng có. Ngứa là do các tà khí phong, thấp, nhiệt, trùng gây nên, khí huyết không điều hoà tạo thành.
Do nguyên nhân gây ngứa khác nhau nên tính chất ngứa cũng khác.
. Ngứa Do Phong (Phong Dưỡng): tính di chuyển, dễ thay đổi, như ngứa do chứng mề đay. Vì phong hướng lên trên nên ngứa phần trên đầu mặt nhiều, gãi dễ nổi mẩn, hay tróc vảy, gặp trong chứng Diện du phong, Bạch điến phong.
. Ngứa Do Thấp (Thấp Dưỡng): thường nổi mụn phỏng nước (thủy bào), chảy nước vàng có khi lan thành đám như thấp chẩn. Vì thấp hướng xuống dưới cho nên thấp dưỡng thường gặp ở phần dưới cơ thể.
. Ngứa Do Nhiệt (Nhiệt Dưỡng): da đỏ, nóng, sẩn đỏ thành mảng, ngứa nhiều, gặp nóng tăng thêm, gãi dễ chảy máu; gặp trong chứng huyết phong sang (dị ứng).
. Ngứa Do Trùng Thú Cắn (Trùng Dưỡng): ngứa rất khó chịu, như trùng bò trong da, dễ lây lan như bệnh ghẻ.
. Hư Dưỡng: chứng ngứa do khí huyết hư, da dày khô, tróc vảy.
. Liễm Dưỡng: chứng nhọt lở lúc mủ độc đã hết, tổ chức hạt mới sinh sắp lành miệng sinh ngứa do khí huyết lưu thông tốt kích thích lên da non.
Các mụn nhọt trước khi vỡ mà phát ngứa là phong và nhiệt phối hợp với nhau. Sau khi đã vỡ mà phát ngứa là bình thường, khí huyết dần dần đầy đủ, bồi dưỡng cho thịt mới da non nhưng cần phải như kiến bò mới tốt. Nếu có biến chứng mà phát ngứa, bệnh nhẹ thì do nước mủ thấm ngầm, bệnh nặng do miệng nhọt bị cảm phong phát ra. Mụn nhọt lồi ra hình như bột gạo mà ngứa, sau khi gãi chảy nước là kinh Tỳ có thấp; Chảy máu tươi là kinh Tỳ bị táo quá. Ngoài ra, nếu ngoài da bị ghẻ mà ngứa, thuộc về bệnh phong, lai (cùi hủi).
+ Chứng Mủ: Sinh mủ là một giai đoạn phát triển của nhọt. Nhọt có mủ là chính khí đã chặn được độc tà để bài tiết ra ngoài. Thường nhọt đã làm mủ chín sẽ tự chảy ra ngoài hoặc cần phải rạch da tháo mủ, tháo hết mủ mới có thể lành miệng, Do đó, biện chứng mủ là một phần không thể thiếu trong ngoại khoa.
Biện chứng mủ có hay không:
. Có Mủ: nhọt mềm (nhọt nông dễ bể, chẩn đoán nhọt hay apxe sâu hơi khó, nhiều khi phải chọc dò để chẩn đoán), ấn đau rõ, có cảm giác bập bềnh.
. Không Có Mủ: nhọt vẫn cứng, ấn hơi nóng, đau ít, ấn không có cảm giác bập bềnh, chọc dò không có mủ.
Biện chứng mủ nông hay sâu:
Mủ Nông: da nóng đỏ tím, nhọt sưng cao bóng sáng, da mỏng, ấn nhẹ đã đau, bập bềnh rõ.
Mủ Sâu: mầu da quanh nhọt không thay đổi, chính giữa hơi đỏ, bóng láng, ấn mạnh đau, vùng da bệnh hơi nóng, cảm giác bập bềnh không rõ, có thể dùng chích hút mủ.
Biện chứng tính chất, sắc thái, khí vị của Mủ:
. Mủ là do huyết nhục hóa thành cho nên thường đặc sệt. Nếu mủ đặc là khí huyết đầy đủ, nếu mủ loãng là khí huyết hư. Các chứng dương như Ung nhọt, Nhọt độc (Hữu đầu thư), Tiết (nhọt), Ápxe (lưu chú), Viêm tủy xương (Phụ cốt thư) thì mủ thường đặc. Các loại âm chứng như Loét, Loa lịch (Lao hạch cổ), Lưu đờm (Lao xương khớp), mủ thường loãng.
Nếu bắt đầu mủ vàng đặc, sau đó mủ vàng nước là triệu chứng thu miệng tốt. Nếu mủ từ loãng chuyển thành đặc là cơ thể hồi phục, là dấu hiệu thu miệng. Nếu mủ từ đặc chuyển thành loãng là cơ thể suy dần, thu miệng khó.
. Sắc Thái Của Mủ: nếu mủ vàng, trắng, đặc, sắc tươi sáng là khí huyết đầy đủ, dấu hiệu tốt. Nếu mủ vàng đục, chất dính, sắc không trong là hỏa khí thịnh, thuộc chứng thuận; Nếu mủ vàng, trắng, loãng, trong, khí huyết tuy hư nhưng chưa phải là chứng bại. Nếu mủ sắc xanh đen, loãng, là chứng độc tụ lâu ngày, có khà năng làm tổn thương gân cốt. Nếu trong mủ có ứ huyết, sắc tím thành cục là huyết lạc bị tổn thương.
. Khí Vị Của Mủ: mủ thường có mùi tanh. Nếu tanh hôi thối, chất loãng, phần lớn thuộc chứng nghịch, và thường là chứng ăn sâu vào xương.
. Biện Chứng Tê Dại: Tê dại là không còn cảm giác đau, ngứa, do khí huyết vận hành trở ngại hoặc độc tà thịnh, trong ngoại khoa thường gặp ở những trường hợp cá biệt. Như trong chứng đinh sang, nhọt độc có đầu, nhọt sưng cứng màu sẫm, tê dại không biết đau, kèm thẹo triệu chứng toàn thân nặng là do độc tà thịnh, dễ gây nhiễm độc toàn thân (đông y gọi là tẩu hoàng hoặc nội hãm). Còn chứng hủi (ma phong), tắc mạch chi (thoát thư) lúc mới phát là do khí huyết ứ trệ phát triển có thể gây loét, rất khó lành miệng.
. Biện Chứng Loét: Chứng nhọt đã vỡ loét gọi là hội dương. Do cơ thể khí huyết thịnh suy, tính chất bệnh lý khác nhau mà chứng loét biểu hiện về màu sắc và hình thái khác nhau, cách phòng trị và tiên lượng cũng khác.
. Hình Thái Loét: phân biệt về hình thái để hiểu tính chất của loét.
(Loét Mủ Độc: chân loét nhỏ miệng rộng, bờ nghiêng như Ung thư, Đinh, Nhọt (Tiết, Sang).
(Loét Chứng Sang Lao (Âm Sang): bờ loét khoét sâu dưới da như chứng Lao hạch (Loa lịch), Lưu đờm (Lao xương khớp).
(Loét Dinh Dưỡng: bờ loét trên dưới đều, thường sâu vào tận xương, tổ chức hạt thường sắc tái nhợt, gặp ở chứng Loét hủi, Loét sâu quảng.
(Loét Ung Thư: loét lồi lõm, không đều, như đóa hoa, nham thạch, gặp trong chứng nhũ nham (ung thư vú), ung thư hạch cồ (thất vinh).
. Loét Do Dị Vật: Ở miệng loét có thịt lồi lên kèm theo chảy mủ, gặp trong chứng chín mé (giáp thư), viêm xương tủy (phụ cốt thư, vô đầu thư) cùng các loại dị vật khác gây loét.
. Lỗ Dò: là nhọt có một hoặc nhiều lỗ nhỏ có mủ chảy, lâu ngày lỗ chỗ có lồi thịt, da chung quanh lõm xuống hoặc sờ thấy những cục cứng. Có loại tiên thiên như dò trước tai; Do nhọt làm mủ gây nên như dò vú, dò hậu môn; Do phẫu thuật nhiễm khuẩn; Do dị vật không ra hết cũng gây dò.
Màu Sắc Của Loét:
. Loét mà sắc đỏ tươi màu như quả thạch lựu, tươi nhuận là khí huyết đầy đủ, loét chóng lành.
. Loét sắc đỏ như máu là hỏa độc thịnh, huyết nhiệt.
. Loét mà thịt sắc xanh tối, da quanh loét mát, nước mủ loãng, lâu chưa lành miệng là dương khí hư hàn hoặc do ngoại cảm phong hàn.
. Loét sắc thịt hồng nhạt là khí huyết bất túc, tổ chức hạt mọc chậm. Nếu loét mà tổ chức hạt trắng bệch, bóng như gương, là khí huyết khô kiệt, tiên lượng xấu.
. Loét sắc tím thâm là độc khí thịnh hoặc khí huyết ứ trệ.
. Loét mà sắc đen cháy là da thịt hoại tử.
. Loét mà trên mặt phủ một lớp mủ vàng hoặc trắng là rêu mủ.
. Loét mà tổ chức hạt mọc cao hơn da mà không tự tiêu tức thịt lồi.
. Loét sắc đen lõm xuống, không có mủ, quanh da mầu đỏ sẫm, sưng to ra, là triệu chứng đinh nhọt gây nhiễm trùng huyết.
Biện Chứng Lành Dữ Thuận Nghịch
thường biểu hiện tình trạng toàn thân; thuận nghịch chủ yếu là biểu hiện bệnh lý tại chỗ. Phán đoán tiên lượng bệnh tốt xấu, một mặt phải xem tình hình bệnh lý thuận nghịch tại chỗ, đồng thời phải kết hợp với tình hình lành dữ của toàn thân, mới có được sự phán đoán chính xác.
Năm Điểm Lành Bảy Điểm Dữ (theo sách ‘Dương Khoa Tuyển Túy’.
Là tổng kết kinh nghiệm của người xưa trong khi điều trị trên lâm sàng. Chủ yếu là nắm vững biểu hiện của bệnh lúc đó để tiên lượng được sự lành dữ của ung nhọt. Theo các nhà chuyên môn thì trong 5 điều lành, thấy có 3 điểm là tốt, bẩy điểm dữ thấy có hai điểm là xấu.
* Năm Chứng Lành:
1- Tâm Lành (Tâm Thiện): Tinh thần tỉnh táo, khoan khoái, tiếng nói hòa nhã, thông suốt, lưỡi nhuận không khô, mụn nhọt tuy đau mà không khát, không có hiện tượng buồn bực, trằn trọc, ngủ bình thường.
2- Can Lành (Can Thiện): thân thể nhẹ nhàng, không tức giận, không sợ, móng tay chân đỏ nhuận, nhị tiện thông lợi, khi nằm, thức dậy đều yên tĩnh.
3- Tỳ Lành (Tỳ Thiện): sắc môi tươi nhuận, ăn uống biết ngon, mủ vàng đặc mà không hôi thối, đại tiện điều hòa. Môi miệng nhuận hoạt, ăn uống như thường, mủ đặc vàng.
4- Phế Lành (Phế Thiện): tiếng nói sang sảng, không ho, không khó thở, hô hấp điều hòa, sắc da tươi nhuận.
5- Thận Lành (Thận Thiện): không sốt về chiều, miệng và răng nhuận, tiểu tiện trong, nhiều, đêm ngủ ngon giấc.
* Bảy Chứng Dữ:
(1) Tâm Dữ (Tâm Ác): thần chí hôn mê, tâm phiền, lưỡi khô, mầu nhạt, tím đen, nói không rõ ràng, mụn nhọt mầu đen bầm.
(2) Can Dữ (Can Ác): cơ thể cứng đờ, mắt khó nhìn thẳng, nhọt chảy nước máu, hồi hộp, co giật.
(3) Tỳ Dữ (Tỳ Ác): cơ thể gầy mòn, nhọt lõm, mủ hôi thối, không muốn ăn uống, uống thuốc nôn ra.
(4) Phế Dữ (Phế Ác): da khô, đờm nhiều, nói nhỏ, thở khó, cánh mũi phập phồng.
(5) Thận Dữ (Thận Ác): khát đòi uống nước, sắc mặt xam đen, họng khô, bìu đái co rút.
(6) Bại Tạng Phủ: cơ thể phù thũng, nôn mửa, nấc cụt, bụng sôi, tiêu chảy (Trường minh tiết tả), miệng loét lan rộng.
(7) Khí Huyết Suy Kiệt (Dương Thoát): nhọt lõm, mầu tối, chảy nước bẩn, chân tay lạnh, ra mồ hôi, thích nằm, nói nhỏ.
Biện chứng thuận chứng nghịch
Chứng thuận chứng nghịch là chỉ tình hình bệnh lý tại chỗ, phân làm 4 thời kỳ bệnh.
+ Chứng Thuận
. Giai đoạn đầu: từ nhỏ to dần, nhọt sưng cao, nóng đỏ, đau, chân nhọt không lan rộng.
. Làm mủ: đỉnh cao, gốc thu lại, da mỏng bóng, làm mủ dễ.
. Vỡ mủ: mủ trắng, vàng, đặc, sắc tươi, không thối, chất hoại tử dễ thoát ra, sưng giảm đau giảm theo.
. Thu miệng: miệng nhọt đỏ tươi, nhuận, thịt non dễ sinh, miệng nhọt thu lại, cảm giác bình thường.
+ Chứng Nghịch:
. Giai đoạn đầu: đỉnh nhọt bằng, chân nhọt tán ra, không đau, không nóng.
. Làm mủ: đỉnh nhọt mềm lõm, sưng cứng, tím tối, không làm mủ.
. Sau loét: da loét, thịt cứng, không có mủ, chảy nước, máu, sưng đau không giảm.
. Thu miệng: nước mủ loãng, chất thối thoát ra, thịt non không mọc, nhọt có mùi thối, miệng nhọt lâu ngày không liền, không đau, không ngứa.
Xét Về Kinh lạc
Ung nhọt tuy mọc ở phần biểu của cơ thể nhưng lại có quan hệ với kinh lạc, tạng phủ, vì vậy, nếu nắm được học thuyết kinh lạc thì mới có thể dựa trên đường vận hành của kinh lạc mà suy đoán được vị trí phát bệnh thuộc kinh lạc nào từ đó mới chia kinh để dùng thuốc. Thí dụ:
. Nhọt mọc ở đỉnh đầu liên hệ với mạch Đốc.
. Nhọt ở hai bên đầu liên hệ với kinh Bàng quang.
. Mọc ở môi thuộc kinh Tỳ.
. Mọc ở sau tai thuộc kinh Đởm...
Dựa theo đặc tính khí, huyết nhiều ít của từng đường kinh để tiên liệu việc dễ hoặc khó trị:
Nhọt mọc ở những đường kinh nhiều huyết, ít khí (Can, Tâm bào, Tiểu trường, Bàng quang) và những kinh nhiều huyết nhiều khí (Vị, Đại trường) thì dễ trị hơn. Nhọt mọc ở những đường kinh nhiều khí, ít huyết (Đởm, Thận, Tâm, Phế, Tỳ) thì khó trị hơn.
Xét Về Mạch
Theo quá trình của ung nhọt thì trước khi vỡ mủ, mạch nên hữu dư, sau khi đã vỡ mủ mạch nên bất túc. Nhọt chưa vỡ mà mạch hữu dư là dấu hiệu độc khí đang thịnh; khi vỡ rồi mạch nên bất túc là dấu hiệu chính khí đã hư, đều là hiện tượng bình thương của mạch và chứng thích hợp với nhau. Nếu nhọt chưa vỡ mà thấy mạch bất túc là dấu hiệu chính khí suy mà độc khí hãm lại. Hoặc khi nhọt đã vỡ mà vẫn thấy mạch hữu du đó là chính khí bị trệ mà độc khí thịnh đều là dấu hiệu khác thường của mạch và chứng không tương hợp với nhau.
Phân Loại Các Bệnh Chủ Yếu Thường Gặp Trong Ngoại Khoa
Phạm vi bệnh ngoại khoa, đa số đều lấy ung nhọt làm chủ. Trong bài tổng luận sách ‘Dương Khoa Tuyển Túy’ viết: “Chứng bệnh của Dương khoa không gì quan trọng bằng chứng ung nhọt”. Vì vậy các sách vở thời nhà Minh, Thanh đều chú trọng về lý luận của bệnh ung nhọt.
+ UNG: có hình thể cứng, mọc ở khoảng giữa bắp thịt. Mới phát thì ở ngoài da, chưa có đầu làm mủ, chỉ sưng đỏ, cao, nóng, đau, chung quanh viền chưa rõ. Khi chưa thành mủ thì dễ tiêu. Khi đã thành mủ thì dễ vỡ, vỡ rồi cũng dễ thu miệng. Thí dụ mụn ở cổ, ở vú, ở mông...
+ NHỌT (từ chuyên môn xưa gọi là Thư), có hai loại:
. Một loại phát ở khoảng giữa bắp thịt, khi mới phát đã có đầu mủ, hình như hạt lúa, rất dễ lở loét, lan rộng ra chung quanh, có nhiều đầu giống như tổ ong. Thí dụ: Não thư, Bối thư. Lại có loại ngoài da không có đầu mủ, bằng phẳng và sưng lan tỏa ra, mầu da bình thường, không đỏ, không nóng. Chưa thành mủ thì khó tiêu, đã thành mủ thì khó vỡ, khi vỡ rồi thì khó liền miệng và thường gây tổn hại đến gân xương. Thí dụ loại Phụ cốt thư, Hoãn thư...
+ ĐINH NHỌT: đa số mọc ơ đầu, mặt, chân tay.
Đinh mọc ở đầu mặt thì lúc đầu nhỏ như hạt lúa, chân đinh sâu mà cứng, tê, ngứa, hoặc lúc đầu ngứa rồi sau đó đau, chung quanh sưng và nóng. Nếu nặng quá thì kèm nóng lạnh, gây biến chứng nhiễm trùng máu, rất nguy hiểm (Đông y gọi là Tẩu hoàng).
Đinh nhọt mọc ở chân tay đa số sưng đỏ nhưng không có đầu rõ rệt. Nếu có tia đỏ chạy lên thì gọi là Hồng ty đinh.
MỤN NHỌT: là một loại nhọt ở ngoài da. Có thể chia thành hai loại: có đầu và không có đầu. Chân mụn rất nông, sưng đỏ, đau, ấn vào không thấy cứng, chỗ sưng có giới hạn, ngang dọc khoảng vài cm, vì vậy, tương đối nhẹ và dễ trị.
TRÀNG NHẠC: Là một loại bệnh mạn tính, thường mọc ở cổ và gáy, cũng có khi lan xuống đến ngực, nách.mới mọc có hình dạng giống hột đậu, mầu da không thay đổi, dần dần to lên, hoặc dài hoặc tròn hoặc chỉ mọc một mụn, hoặc nổi chùm như chuỗi hạt, lấy tay day vào thì thấy di động, ấn vào đau, lâu ngày không khỏi thì vỡ ra, khi vỡ thì khó thu miệng lại được, gây nên vết sẹo lớn.
BƯỚU CỔ (Anh Lựu): Anh thuộc về dương chứng, hình dáng giống như cái giải mũ, sắc đỏ mà nhô cao lên, da phẳng, cuống nhỏ mà thòng xuống, ấn vào hơi mềm, không bao giờ vỡ ra. Lựu thuộc về âm chứng, chỗ sưng có giới hạn, da non mà sáng bóng, đầu nhỏ mà chân lớn, ấn vào thấy hơi cứng.
BƯỚU ĐỘC (Nham): Khi mới mọc hình dạng giống như hạch kết lại, sau đó thì cứng như đá, không đau. Vài năm sau mới bắt đầu vỡ ra nhưng chỉ chảy máu mà không có mủ, lúc đó lại rất đau, chỗ bị đau nứt, loét ra, chỗ vết thương sần sùi, lồi lõm như nham thạch, vì vậy người xưa gọi là Nham. Thí dụ như Nhũ nham... Thường rất khó trị.
NHỌT DI CHUYỂN (Lưu chú): Phát ra không nhất định, chứng trạng chính là sưng lan man không có đầu, mầu da không thay đổi. Chứng này rất dễ chạy quanh, thường chỗ này chưa khỏi chỗ khác đã sinh, không ở nơi nhất định vì vậy mới được gọi là Lưu Chú.
TRĨ: Trong các lỗ hổng có miếng thịt lồi ra đều gọi là trĩ như trĩ tai, trĩ mũi và trĩ hậu môn. Có loại đầu to chân nhỏ, có loại đầu rộng chân nhỏ giống như cái nấm, như quả cà, không nhất định. Bệnh trĩ ở hậu môn lại có thể chia làm hai loại: mọc ở phía ngoài hậu môn gọi là Ngoại Trĩ, mọc ở bên trong hậu môn gọi là Nội Trĩ.
LỖ DÒ (Lậu): Các loại nhọt ở ngoài vỡ đã lâu mà không thu miệng, miệng nhọt lõm sâu, nước mủ chảy ra dầm dề, gọi là dò (lậu). Thí dụ: Nhãn lậu, Tề lậu, Hậu môn lậu... trên lâm sàng thường gặp chứng rò hậu môn nhiều hơn.
ĐƠN ĐỘC: một loại phát sinh ngoài da. Có hai loại:
. Can tính: mầu đỏ, hình dáng giống như đám mây lượn, chạy không nhất định, trên mặt nổi mụn như hạt lúa, nóng, ngứa.
. Thấp tính: nổi mụn, phồng lên, mầu vàng hoặc trắng, chảy nước đến đau thì loét đến đó, đau nhức nhiều hơn.
NHỌT NỘI TẠNG (Nội Ung): Là loại mụn nhọt phát triển trong nội tạng. Thí dụ: Phế ung (áp xe phổi), Can ung (áp xe gan), Trường ung (Ruột dư viêm)...
NGUYÊN TẮC CHẨN TRỊ NGOẠI KHOA
Đại Cương
Ngoại khoa đời xưa gọi là ‘Dương Khoa’.
Tại Trung Quốc, từ đời nhà Chu (770 trước Công nguyên) đã có chế độ dùng thầy thuốc Dương y để trị các bệnh ngoại khoa như thủng dương, hội dương, kim dương, chiết dương... Đời nhà Hán (khoảng năm thứ 9 ~ 23 trước Công nguyên), Vương Mãng giết đồ đệ là Địch Nghĩa rồi sai Thái y Thương Phương mổ xác để xem, đo đạc và ghi chép tạng phủ. Đây là lần mổ tử thi đầu tiên trong Đông y. Đến đời Tam Quốc (280 năm sau Công nguyên), Hoa Đà đã biết phẫu thuật và là người đầu tiên dùng thuốc mê mổ bụng. Hoa Đà cũng còn dự định mổ não cho Tào Tháo nữa. Đời nhà Tống (960 ~1249 sau Công nguyên, Đỗ Kỷ giết nhóm Âu Hy Phạm, mổ bụng 56 người, bảo thầy thuốc xem nội tạng và sai hoạ sĩ vẽ hình. Đời nhà Minh (1360 ~ 1644), Trần Thực Công soạn ra quyển ‘Ngoại Khoa Chính Tông (1617) tổng kết những thành tựu về ngoại khoa, nhất là ngoại khoa chấn thương.
Tại Việt Nam, đời Vua Trần Duệ Tông (1372 ~ 1377) có Tuệ Tĩnh, trong bộ sách Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư và Nam Dược Thần Hiệu có bàn về các chuyên khoa,trong số 11 quyển, có một quyển bàn về Ngoại khoa. Tác giả trình bầy một cách đơn giản, thiết thực về y lý, chứng trạng, cách chữa của từng loại bệnh bằng các vị thuốc Nam công hiệu do bản thân tác giả và kinh nghiệm dân gian lưu truyền.
Đời Hậu Lê (1428 ~1789), Hải Thượng lãn Ông viết bộ Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh, cũng có bàn đến ngoại khoa.
Phạm vi chữa trị của ngoại khoa rất rộng. Cách chung, các bệnh thuộc phần ngoài cơ thể hoặc ở nội tạng nào phát sinh những chứng trạng cục bộ như đau, ngứa, sưng, phù, làm mủ thì phải dùng vị thuốc, dụng cụ, thủ thuật để trị ở ngoài hoặc ở bên trong như đinh nhọt, ung nhọt, tràng nhạc, bướu cổ, bệnh ở tai, mũi, họng, miệng lưỡi, mắt cho đến vết thương do binh khí, té ngã, chấn thương, trùng thú cắn...
đều có thể gọi là Ngoại khoa. Tuy nhiên sau này, khuynh hướng đi sâu vào từng chuyên khoa nên đã tách nhiều loại bệnh thành từng chuyên khoa riêng như Mắt (Nhãn khoa), Tai (Nhĩ khoa), Họng (Hầu khoa)...
Bệnh ngoại khoa gồm những bệnh nhiễm khuẩn, bỏng, vết thương... Tổn thương thường ở các bộ phận bên ngoài nhưng có liên hệ mật thiết với tạng phủ, tân dịch bên trong. Nếu chức năng của tạng phủ không điều hòa, kinh lạc không thông, khí huyết không vận hành thì tác nhân gây bệnh mới xâm nhập vào cơ thể gây ra bệnh. vì vậy, ngoài việc điều trị tại chỗ, YHCT còn rất chú trọng đến việc điều chỉnh sự mất thăng bằng về âm dương, khí huyết và kinh lạc.
Tên gọi bệnh ngoại khoa theo Đông y là tuỳ thuộc vào hình thái như chứng Nham...., vị trí bệnh như Não thư, Phát bối..., màu sắc bệnh như Đơn độc, Bạch điến phong... vị trí huyệt như Nhân trung đinh, Uỷ trung độc, Hoàn khiêu thư. Theo tên tạng phủ như Phế ung, Can ung, Trường ung... Theo triệu chứng như Ma phong, Hoàng thuỷ sang... Theo đặc trưng của bệnh như lưu đờm, lưu chú... Theo phạm vi to nhỏ như nhọt nhỏ là Tiết, nhọt to là Ung, to hơn nữa là Phát... Theo tính lây lan như Dịch đinh, Đại đầu ôn, Thời độc...
Nguyên Nhân Gây bệnh
Nguyên nhân bệnh ngoại khoa có thể phân làm 6 loại như sau:
a - Sự Thay Đổi Bất Thường Của Khí Hậu như gió, lạnh, nóng mùa hè, độ ẩm, khô hanh, nhiệt, Đông y gọi là lục dâm (phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả). Thời tiết môi trường tác động lên con người có thể làm cho cơ thể yếu tà khí dễ xâm nhập sinh bệnh. Mặt khác lục dâm đều có thể hoá nhiệt, hoá hoả, sinh nhiệt độc, hoả độc gây nên bệnh. Chương ‘Ngoại Khoa Tâm Pháp Yếu Quyết’ (Y Tông Kim Giám) viết: "Ung thư do hoả độc sinh ra".
b - Tổn Thương Tình Chí: Tình chí là sự hoạt động về tinh thần của con người bao gồm vui, buồn, giận, lo, nghĩ, kinh, sợ, Đông y gọi là thất tình. Những biến động bất thường về tinh thần, những thay đổi đột ngột về tình cảm đều có thể gây rối loạn chức năng của khí huyết, kinh lạc, tạng phủ gây nên bệnh ngoại khoa. Theo Đông y, giận dữ làm tổn thương Can, Can khí uất kết lâu ngày hoá hoả. Lo nghĩ nhiều tổn thương Tỳ làm cho chức năng vận hoá của Tỳ suy, bên trong sinh ra đờm thấp, khí uất, hoả uất, đờm thấp kết tụ đều là những nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh ngoại khoa như sưng tấy, đau nhức, tê dại, khối u...
c - Ăn Uống Không Điều Độ: Theo Đông y, ăn nhiều chất béo ngọt, cay nóng, uống nhiều rượu bia đều sinh nhiệt độc, đờm thấp, ăn uống no đói thất thường gây tổn thương tỳ Vị, chức năng của Tỳ Vị suy, thì đờm thấp tích tụ, khí huyết suy giảm, chính khí suy cũng dễ mắc bệnh.
d- Sinh Hoạt Thất Thường bao gồm lao động quá sức, sinh hoạt tình dục quá mức. Lao động quá sức gây tổn thương Tỳ Vị, khí huyết hư tổn, chính khí suy, mụn nhọt dễ phát sinh. Ham mê tình dục gây tổn thương thận, tinh khí của thận suy dễ mắc các bệnh về xướng khớp...
e - Nhiễm Các Loại Độc Tà do trùng thú cắn như rắn rết, ong đốt... uống các loại thuốc hoặc thức ăn gây nhiễm độc, dị ứng phát ban, nhiễm trùng ngoài da sinh bệnh ngoại khoa.
Những chấn thương ngoại khoa như bỏng lửa, bỏng nước sôi, té ngã gây sưng tấy, tụ máu hoặc gây nhiễm khuẩn đều là những nguyên nhân gây nên bệnh ngoài da.
Chẩn Bệnh Trong Ngoại Khoa
Việc chẩn đoán bệnh ngoại khoa cần dựa vào Tứ Chẩn mới có thể nhận diện đúng được Âm Dương, Biểu Lý, Hàn Nhiệt, Hư Thực và sự lành dữ của bệnh tình.
+ Vấn Chẩn: Ngoài những nội dung giống trong nội khoa, ngoại khoa có những đặc điểm riêng cần chú ý:
a - Cách chung: Tên tuổi, giới tính, quốc tịch, nghề nghiệp, địa chỉ... và những vấn đề có liên quan đến việc gây nên bệnh ngoại khoa.
b - Lý do khám bệnh: chủ yếu ghi tính chất bệnh, vị trí và thời gian mắc bệnh.
c- Hiện tình bệnh: căn cứ vào lý do khám bệnh mà hỏi bệnh nhân (hoặc người nhà) các nội dung như triệu chứng chủ yếu, tình hình bắt đầu và phát triển của bệnh, những triệu chứng kèm theo, đâ khám và trị bệnh qua những nơi nào, đã được kiểm tra những gì, được chẩn đoán là bệnh gì và đã trị qua các phương pháp và thuốc gì (thuốc tây, thuốc bắc, thuốc nam…), kết quả ra sao và hiện tình bệnh, tình hình ăn, ngủ, tiêu, tiểu, v.v...
d - Tiền sử bệnh tật (từ nhỏ đến lớn đã mắc các bệnh gì và đang mắc các bệnh gì về nội khoa).
e- Tình hình sinh hoạt cá nhân (tính tình, nơi ở, làm việc ăn uống, nghỉ ngơi đối với nữ hỏi tình hình kết hôn, sanh đẻ, kinh nguyệt, huyết trắng, v.v...
g - Tình hình gia đình: chú ý các bệnh di truyền, bệnh lây của vợ chồng, cha mẹ, con cái.
+ Vọng Chẩn: Chủ yếu nhìn tinh thần, sắc thái, hình thái, chất bài tiết có những thay đổi bệnh lý.
. Nhìn tinh thần: tinh thần người bệnh tỉnh táo, lanh lợi là bệnh nhẹ, tiên lượng bệnh tốt; tinh thần ủ rũ, mệt mỏi, hoặc không tỉnh táo, lơ mơ hoặc bất tỉnh là bệnh nặng, tiên lượng dè dặt.
. Nhìn sắc thái: sắc mặt tái nhợt là chứng hư hàn hoặc huyết hư, sắc đỏ là chứng nhiệt, sắc vàng tươi là chứng thấp nhiệt, hoàng đản, sắc da vàng tái hoặc vàng sạm là
chứng thiếu máu hoặc âm hoàng, sắc da tím sạm là chứng ứ huyết, thận hư hoặc hư hàn; sắc da xanh tím là phế khí ủng trệ hoặc khí huyết ứ trệ.
. Nhìn vùng bị bệnh: bệnh ngoại khoa thường biểu hiện triệu chứng trước tiên là ở nơi bị bệnh, xem xét sự thay đổi bệnh lý của nơi bị bệnh sẽ giúp dễ chẩn đoán
. Ung nhọt: sắc da đỏ thắm, bệnh thuộc nhiệt, dương chứng; Sắc da trắng hoặc không thay đổi thường thuộc hàn, âm chứng; Sắc da đen sạm, thường là dấu hiệu da thịt hoại tử; Sắc da xanh tím là huyết ứ. Tự nhiên mặt da lõm xuống, sắc da đỏ sạm là nhọt chuyển thành loét.
. Lở loét (hội dương): sắc tím tối sạm, thường miệng loét khó liền, lâu khỏi; Nếu mặt loét gồ ghề nham nhở thường gặp là nhũ nham, ung thư da. Trường hợp loét vùng cẳng chân (bên trong hoặc bên ngoài) bờ cứng nhô ra như miệng bình có viền sắc đen hoặc chảy nước gọi là Liêm sang. Nếu là Nhục sang hay Tịch sang thường gặp ở người bệnh ốm nằm lâu ngày, loét ở vùng da tiếp xúc nhiều với chiếu, giường, vùng da bị chèn ép sinh loét do thiếu dinh dưỡng rất khó lành miệng.
+ Nhìn Hình Thái: nhìn ngoại hình người bệnh có thể đoán biết một số bệnh. Hình thể tráng kiện, thể chất khoẻ tiên lượng tốt, bệnh chóng khỏi; Người gầy yếu, thể chất yếu, bệnh lâu khỏi. Người béo mập, bệnh phần lớn thuộc đờm thấp, người gầy ốm phần lớn thuộc hư nhiệt. Bệnh tật khác nhau thì hình thái cũng khác; nếu là nhọt ở đầu cổ thì gáy cứng, quay đầu khó khăn. Có nhọt sưng đau ở chân, chứng Hạc tất phong hoặc đau các khớp chân thì đi lại khó; bệnh Lao cột sống thì lưng gù; Chứng thoát thư đau nhiều nên thường ngồi ôm chân; Người mắc bệnh nhũ ung (áp xe vú) lúc đi tay hay đỡ vú, v.v... giúp ta chẩn đoán bệnh.
. Nhìn Bì Chẩn: đối với một số bệnh nổi ban chẩn ngoài da cần xem kỹ: Nếu ban chẩn đỏ là chứng nhiệt, sắc trắng thuộc phong hàn. Ban chẩn khô ngứa, tróc vảy là chứng phong táo. Da loét chảy nước vàng thuộc chứng thấp nhiệt. Ban chẩn đỏ ấn xuống lặn mất là chứng huyết nhiệt (giãn mạch), ấn không mất phần lớn là huyết nhiệt hoặc huyết ứ (chảy máu dưới da).
. Nhìn Lưỡi:
- Chất Lưỡi: chất lười đỏ ở bệnh cấp tính là chứng nhiệt, ở bệnh mạn tính là chứng hư nhiệt (âm hư); Nổi gai đỏ là nhiệt cực; Lưỡi đỏ mà khô là nhiệt thịnh thương âm (tân dịch hao tổn). Lưỡi đỏ sẫm là nhiệt tà đã vào phần dinh, huyết, gặp ở chứng đinh nhọt độc thịnh, thư độc nội hãm. Trường hợp lưỡi sắc nhợt trắng, thường là khí huyết hư, nếu lười sắc trắng nhợt mà bệu thuộc chứng dương hư, thường gặp ở chứng nhọt lở, máu mủ ra quá nhiều, hoặc các chứng suy mòn mạn tính; Lưỡi bệu dày mà rìa lười có dấu răng, thường thuộc chứng khí hư, dương hư, gặp trong các chứng lupus ban đỏ cuối kỳ hoặc sau khi dùng nhiều các loại Cocticoit. Trường hợp lưỡi bóng như kính, chất lưỡi đỏ sẫm kèm theo nứt nẻ, loét lưỡi là chứng vị âm hư. Chất lưỡi xanh tím là triệu chứng ứ huyết thường gặp ở chứng lưu chú ứ huyết.
Rêu Lưỡi: rêu trắng trong ngoại khoa thường gặp ở bệnh có chứng biểu hàn hoặc hàn thấp. Lưỡi rêu vàng là nhiệt tà uất kết gặp trong chứng ung nhọt giai đoạn làm mủ. Rêu lười nhầy là triệu chứng thấp nặng, rêu nhầy trắng là hàn thấp, nhầy vàng là triệu chứng thấp nhiệt, nếu rêu vàng nhầy mà lười đỏ sẫm có gai, người bệnh sốt cao, nhọt độc sắc sẫm là bệnh tình xấu đi, độc tà nội hãm (nhiễm khuẩn huyết) chứng nguy. Lười rêu sắc đen nếu là đen táo là nhiệt cực hoá hoả, rêu đen mà mỏng nhuận là dương hư cực hàn, mệnh môn hoả suy.
3. Văn Chẩn.
Gồm có nghe âm thanh và ngửi mùi vị.
Nghe tiếng nói: tuy là bệnh ung nhọt nhưng giọng nói to là thực chứng, người khoẻ thuộc chứng thực, nếu giọng nói nhỏ là khí kém thuộc chứng hư. Người mắc bệnh ung thư mê man nói sảng là chứng nhiệt độc nội công tạng phủ, tiếng la hét hoặc rên rỉ là do quá đau không chịu được gặp trong chứng trường ung (viêm ruột thừa cấp) trong bệnh ung thư hoặc bệnh thoát thư.
Nghe Tiếng Thở: tiếng thở bình thường, nhịp thở không nhanh không chậm là bệnh nhẹ; Bệnh nhọt nhiệt độc thịnh mà thở gấp khó thở là độc tà phạm phế, khí cơ không không đạt; Phế ung mà hơi thở ngắn là triệu chứng khí trệ, huyết ứ.
Nghe tiếng nôn, nấc cục: bệnh nhọt lở nhiệt độ thịnh, nhiệt tà phạm vị, vị khí nghịch gây nôn; Bệnh ung thư thời kỳ cuối xuất hiện nấc cục là vị khí đã tuyệt, tiên lượng rất xấu.
Ngửi Mùi Vị: Chủ yếu ngửi chất xuất tiết ở chứng lở loét. Nếu chất xuất tiết không có mùi hôi thì miệng loét chóng lành, ngược lại nếu mùi vị thối tanh khó ngửi thì bệnh lâu lành. Trường hợp các bệnh nhọt ở đầu (não thư), nhọt ở lưng (bối thư), viêm tắc động mạch chi (thoát thư) mà vùng loét ngửi thấy mùi ngọt thì phải cảnh giác có bệnh tiểu đường.
4. Thiết Chẩn:
. Sờ Nắn Vùng Bệnh: Bệnh ngoại khoa chủ yếu là bệnh có thể nhìn thấy được bên ngoài cơ thể cho nên không thể thiếu việc sờ nắn vùng có bệnh để chẩn đoán. Phép sờ nắn cần chú ý các mặt sau:
+ Độ nóng lạnh của da: vùng da có bệnh mát, lạnh thuộc âm chứng, hàn chứng; Vùng da có bệnh ấm nóng thuộc dương chứng, nhiệt chứng. Đối với một số bệnh ngoài da, da vùng bị bệnh nhiệt độ bình thường tức là không nóng thì qui vào âm chứng.
+ Tính chất đau: dùng ngón tay ấn từ nhẹ đến nặng vùng da bị bệnh để thăm dò độ đau và vị trí đau nông sâu, rộng hẹp.
Trường hợp ấn vào đau tăng hoặc bệnh nhân không thích cho ấn) là chứng thực; Nếu ấn vào làm giảm đau (hoặc bệnh nhân thích xoa ấn) là chứng hư. Một số trường hợp không có đau cũng thuộc chứng âm.
+ Hình thái của vùng sưng, khối u: Cần xem khối u to nhỏ, độ cứng mềm, bờ rõ hay không, khối u đặc hay rỗng, bề mặt bằng phẳng hay lồi lõm không đều, hình tròn hay dẹt, hòn cục hay hình sợi dây, di động hay cố định, có cảm giác bập bềnh hay không.
+ Bắt Mạch: Cũng như bắt mạch trong nội khoa Đông y, ở đây chỉ giới thiệu một số mạch thường dùng trong ngoại khoa.
. Mạch Phù: đối với chứng ung nhọt, mạch Phù là chứng phong hàn, phong nhiệt tại biểu, hoặc phong nhiệt tà độc ở phần trên; mạch Phù vô lực là khí huyết hư. Chứng loét mạch Phù là thứ phát chứng ngoại cảm.
. Mạch Trầm: chứng nhọt mạch Trầm là tà khí ở sâu, bệnh ở sâu, hàn ngưng, khí huyết ủng tắc; Chứng loét mạch Trầm là độc bên trong, khí huyết ngừng trệ.
. Mạch Trì: chứng nhọt mạch Trì là hàn tà bên trong, khí huyết suy giảm; Chứng loét mạch Trì, phần lớn mủ độc đã tiết ra, tà khí đã hết nhưng chính khí suy.
. Mạch Sác: chứng nhọt mạch Sác là nhiệt tà bên trong, mủ đã có; chứng loét mạch Sác là chưa hết nhiệt tà.
. Mạch Hoạt: chứng nhọt mạch Hoạt mà Sác là nhiệt thịnh, có đờm, làm mủ; chứng loét mạch Hoạt mà to là nhiệt tà chưa hết hoặc đờm nhiều khí hư.
. Mạch Sáp: chứng nhọt mạch Sáp là thực tà ủng tắc khí huyết ứ trệ; Chứng loét mà Sáp là âm huyết bất túc.
. Mạch Đại: chứng nhọt mạch Đại là tà thịnh chính thực; Chứng loét mà mạch Đại là tà thịnh bệnh đang tiến triển.
. Mạch Tiểu: chứng nhọt mạch Tiểu là chính khí chưa thắng được tà; Loét mà mạch Tiểu, phần lớn là khí huyết hư.
Tám loại mạch trên đây có thể đơn độc hoặc 2, 3 mạch cùng tồn tại. Các mạch Phù, Sác, Hoạt, Đại là mạch dương thường thuộc nhiệt chứng, thực chứng, dương chứng. Các mạch Trầm, Trì, Sáp, Tiểu là mạch âm, thường thuộc hàn chứng, hư chứng, âm chứng. Thông thường thì bệnh thuộc chứng nhiệt, chứng thực, chứng dương dễ trị, bệnh thuộc chứng hàn, chứng hư, chứng âm là khó trị.
Tùy vị trí bị tổn thương, người xưa đưa ra những hướng dẫn cho việc chẩn trị cụ thể như: Bệnh vùng đầu mặt thường do phong độc gây nên. Bệnh ở giữa cơ thể liên hệ đến khí uất. Bệnh ở phía trước cơ thể do thấp độc gây ra...
Về chẩn đoán: ngoài việc tìm những triệu chứng bệnh toàn thân, việc khám xét tổn thương cục bộ cần đi đến tìm xem bệnh thuộc âm hoặc dương chứng.
A- Xét Theo Âm Dương
. Dương Chứng: hình dạng nhọt sưng cao, vành chân bó chặt, nóng nhiều, sưng đau, mầu da đỏ, khi phát bệnh nhanh, chưa thành mủ thì dễ tiêu, đã thành mủ thì dễ vỡ, vỡ rồi thì dễ lành miệng.
. Âm Chứng: hình dạng nhọt sưng lan ra, đầu bằng phẳng, chân lan tỏa, không đỏ,không nóng hoặc cứng hoặc mềm lõm hoặc không đau hoặc hơi đau, khi phát bệnh chậm, chưa thành mủ thì khó tiêu, thành mủ thì khó vỡ, vỡ rồi thì khó liền miệng.
Nếu thấy chỗ sưng lan tỏa mà không cao, hơi đau mà không đau quá, hơi sưng mà không nóng, hơi đỏ mà mầu nhạt đó là loại bán âm bán dương.
Cách chung: Dương chứng nhẹ mà dễ trị, Âm chứng nặng mà khó khỏi. Chứng bán âm bán dương và chứng Nham khó nhận biết được.
ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA ĐÔNG Y
Gồm 2 phần: trị bên trong và trị bên ngoài.
Thường thì cả hai phương pháp cùng dùng kết hợp nhưng có nhưng trường hợp bệnh nhẹ chỉ cần trị bên ngoài là đủ.
A. Phép Trị Bên Trong:
Phép trị bên trong tức cho uống thuốc thì cùng biện chứng luận trị như nội khoa nhưng theo sự phát triển thành giai đoạn của bệnh ngoại khoa nên tuỳ giai đoạn bệnh mà có 3 phương pháp khác nhau là Tiêu, Thác và Bổ.
Phép Tiêu dùng trị mụn nhọt chưa có mủ, làm cho nó tiêu đi một cách vô hình. Phép Thác dùng khi mụn nhọt đã mưng mủ và khi mới vỡ để thác độc ra ngoài và phòng ngừa khi độc vào sâu, lan rộng. Phép bổ dùng sau khi nhọt đã vỡ, khi mủ đã ra, độc khí thoát ra, khí huyết đã hư, cần dùng phép bổ để giúp phục hồi chính khí. Đây là ba phép chữa chủ yếu để trị mụn nhọt. Tuy nhiên, nguyên nhân gây bệnh khác nhau, biểu lý, hàn nhiệt, hư thực, âm dương của từng bệnh khác nhau, do đó ba cách chữa này lại có thể chia thành các cách chữa khác.
1. Phép Tiêu: là phép điều trị cho tất cả các loại bệnh ngoài da ở giai đoạn mới bắt đầu, bao gồm các chứng mụn nhọt có làm mủ và các chúng không có mủ, mục đích để làm cho tiêu viêm. Trên lâm sàng thường tùy theo trạng thái bệnh lý của người bệnh mà dùng phép trị cho phù hợp. Thí dụ, bệnh nhọt có chứng biểu thì dùng phép giải biểu, lý thực thì thông lý; Nhiệt độc thịnh thì phải thanh nhiệt, tiêu độc; Hàn ngưng phải ôn thông; Đờm ngưng phải khu đờm; Thấp ứ trở phải trừ thấp; Khí trệ phải hành khí; Huyết ứ phải hoạt huyết, hóa ứ, v.v...
Vì vậy, phép tiêu gồm nhiều phương pháp sau đây:
a- Phép Giải Biểu: cũng là phép phát hãn làm ra mồ hôi.
Giải Biểu Tán Tà: Mụn nhọt khi mới phát có những chứng ở biểu như sợ lạnh, sốt, đầu đau, mạch Phù, phải dùng phép giải biểu, tán tà để trị. Hơn nữa, mụn nhọt do lục dâm gây nên, khi mới phát đều có biểu chứng xuất hiện, vì vậy, dùng phương pháp giải biểu, tán tà có thể làm cho độc khí theo mồ hôi mà ra.
Bài thuốc thường dùng để giải biểu là bài Kinh Phòng Bại Độc Tán.
Nếu nhiệt nặng nên dùng bài Ngưu bàng Giải Cơ Thang để trừ phong khí, tiết nhiệt, nhất là ung nhọt ở phần trên, đa số do phong nhiệt gây nên, dùng phương pháp này rất thích hợp.
Nếu do phong hàn gây nên, dùng bài Bảo An Vạn Linh Đơn để phát tán phong hàn và thông hành kinh lạc.
Trên lâm sàng thường dùng 2 cách:
+ Tân Lương Giải Biểu, dùng trị chứng ngoại cảm phong nhiệt có triệu chứng khát nước, không có hoặc ít mồ hôi, nhọt sưng nóng đỏ, đau, rêu lười trắng, mạch Phù Sác. Thuốc thường dùng có Ngân Kiều Tán (Kim ngân hoa, Liên kiều, Cát cánh, Trúc diệp, Kinh giới tuệ, Đạm đậu xị, Ngưu bàng tử, Bạc hà, Cam thảo), Ngưu Bàng Giải Cơ Thang (Ngưu bàng tử, Bạc hà, Kinh giới, Liên kiều, Sơn chi, Đơn bì, Thạch hộc, Huyền sâm, Hạ khô thảo).
+ Tân Ôn Giải Biểu dùng cho chứng ngoại cảm phong hàn, sốt ít, lạnh nhiệt, nhọt sưng đau, kèm theo đau đầu, đau toàn thân, rêu lưỡi mỏng, mạch Phù Khẩn. Thường dùng bài Kinh Phòng Bại Độc Tán (Sài hồ, Xuyên khung, Khương hoạt, Phục linh, Tiền hồ, Chỉ xác, Độc hoạt, Cát cánh, Kinh giới, Phòng phong, Cam thảo).
b- Công Lý Tiết Nhiệt: dùng thuốc tả hạ để bài tiết độc tà ra ngoài. Thường các bệnh mụn nhọt thấy có những chứng thuộc về phần lý như sốt, khát, phiền táo, tiểu bí, táo bón, mạch Trầm Thực, có lực, phải dùng phương pháp công lý. Lý chứng phần nhiều thuộc thực nhiệt, thường xuất hiện sau biểu chứng. Thường dùng Lương Cách Tán, Nội Sơ Hoàng Liên Thang.
Bị mụn nhọt kèm chứng ở phần lý, lại kèm chứng ở biểu như sốt, sợ lạnh, đầu đau thì phải giải cả biểu lẫn lý, dùng phép phát hãn và phép hạ. Thường dùng bài Thần Thụ Vệ Sinh Thang.
Trên lâm sàng thường dùng 2 phương pháp công hạ và nhuận hạ. Phương pháp công hạ dùng cho chứng lý có thực nhiệt (nhọt kèm theo bứt rứt, khát nước, bụng đầy, táo bón, mạch Trầm Sác có lực, lưỡi đỏ, rêu vàng khô). Thường dùng bài Đại Thừa Khí Thang. Phương pháp nhuận hạ dùng cho chứng âm hư hoả vượng, trường vị tân dịch khô, táo bón, bụng đầy, lười khô, lưỡi đỏ, mạch Tế Sác. Bài thuốc thường dùng là Nhuận Trường Thang (Đương quy, Sinh địa, Cam thảo, Hoả ma nhân, Đào nhân).
c- Thanh Nhiệt: dùng thuốc hàn lương để thanh giải nhiệt độc bên trong. Vì nhiệt tà hóa độc là nguyên nhân gây bệnh phổ biến trong ngoại khoa đông y, cho nên phép thanh nhiệt dùng khá nhiều trong ngoại khoa bất kỳ ở giai đoạn nào của bệnh.
Thường dùng 3 cách chính để thanh lý thực nhiệt:
. Thanh Nhiệt Giải Độc, thường dùng bài Hoàng Liên Giải Độc Thang (Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm, Chi tử).
. Thanh Nhiệt Tả Hỏa (thanh nhiệt tại phần khí), thường dùng bài Bạch Hổ Thang (Thạch cao, Tri mẫu, Cam thảo, Ngạnh mễ).
. Thanh Nhiệt Lương Huyết (thanh nhiệt tại phần huyết), thường dùng bài Tê Giác Địa Hoàng Thang (Tê giác có thể thay bằng Sừng trâu), Sinh địa hoàng, Xích thược, Đơn bì).
Tùy tình hình bệnh lý phát triển, 3 phương pháp trên có thể phối hợp cùng dùng.
. Thanh Tâm Giải Độc: ung nhọt mà nhiệt độc nung nấu dữ dội, độc khí hãm vào Tâm bào biểu hiện bằng sốt cao, phiền táo, hôn mê, nói xàm, co giật, quyết nghịch, nên dùng phép thanh Tâm giải độc. Nếu chứng đinh chuyển thành ‘tẩu hoàng’ và chứng nhọt biến thành ‘nội hãm’ tức là độc khí hãm vào Tâm bào gây ra. Thường dùng Tử Tuyết Đơn, Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn.
Nếu nhiệt độc chưa thanh giải được lâu ngày gây tổn thương âm dịch sinh chứng hư nhiệt (hư hỏa), cần tư âm thanh nhiệt dùng bài Tri bá địa hoàng hoàn (Sinh địa, Hoài sơn, Sơn thù, Đơn bì, Bạch linh, Trạch tả, Tri mẫu, Hoàng bá), hoặc bài Thanh Cốt Tán (Ngân Sài hồ, Miết giáp, Chích cam thảo, Tần giao, Thanh hao, Địa cốt bì, Hồ hoàng liên, Tri mẫu).
+ Sơ Phong Giải Nhiệt: Khi phong nhiệt uất kết ở ngoài da, mọc nốt như nốt sởi, ngứa gãi không dứt, đỏ quầng thành từng đám, sốt, rét, nặng hơn thì chảy mủ dầm dề. Nên dùng phép sơ phong giải nhiệt làm chính, khư thấp hoạt huyết làm phụ. Dùng bài Tiêu Phong Tán, Đương Quy Ẩm Tử.
+ Ôn Thông: là phép dùng các loại thuốc có tác dụng ôn kinh, thông lạc, tán hàn hóa đờm, theo nguyên tắc điều trị "hàn giả nhiệt chi". Mụn nhọt thuộc loại hư hàn thì chỗ nhọt bằng đầu nhưng sưng lan ra, mầu da không đổi, không đỏ, không nóng, đau ê ẩm, mạch Trì Tế, như là chứng Phụ cốt thư, chứng nhọt di chuyển... Nên dùng phương pháp ôn kinh thông lạc.
Trên lâm sàng thường phân ra hai loại là Ôn Kinh Thông Dương và Ôn Kinh Tán Hàn.
. Ôn Kinh Thông Dương dùng cho các chứng cơ thể hư hàn, đờm làm tắc ở cân cốt, vùng bệnh đau nhức âm ỉ, sưng không rõ, không nóng, không đỏ, miệng không khát, cơ thể mát, sợ lạnh, tiểu nhiều, nước tiểu trong, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm, gặp trong chứng lao xướng khớp (lưu đờm), viêm tắc động mạch (thoát thư) lúc mới phát. Bài thuốc thường dùng là Dương Hòa Thang (Thục địa, Bạch giới tử, Bào khương, Cam thảo, Lộc giác giao, Nhục quế, Ma hoàng).
. Ôn Kinh Tán Hàn dùng cho chứng cơ thể hư, cảm phong hàn thấp ở kinh lạc; vùng bệnh đau nhức tê dại, không nóng, không đỏ, gặp lạnh đau tăng, rêu lưỡi trắng nhầy, mạch Trì Khẩn, thường gặp ở bệnh phong lúc bắt đầu, chứng hàn thấp tý, thường dùng bài Quế Chi Gia Đương Quy Thang (Quế chi, Bạch thược, Chích thảo, Sinh khtơng, Đại táo, Đương quy).
+ Khư Đờm: phép dùng thuốc tính hàn, vị mặn để hóa đờm, nhuyễn kiên, làm tiêu tan khối u do đờm ngưng tụ. Vì đờm không phải là nguyên nhân chính gây bệnh u nhọt nên khư đờm thường là phương pháp phối hợp, cho nên có nhiều phép khư đờm như sơ phong hóa đờm, giải uất hóa đờm, dưỡng vinh hóa đờm, v.v... Bài thuốc thường dùng có Ngưu Bàng Giải Cơ Thang (Ngưu bàng tử, Bạc hà, Kinh giới, Liên kiều, Chi tử, Đơn bì, Thạch hộc, Huyền sâm, Hạ khô thảo), Hương Bối Dường Vinh Thang (Hương phụ, Bối mẫu, Bạch truật, Đảng sâm, Phục linh, Trần bì, Xuyên khung, Thục địa, Đương quy, Cát cánh, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo), Tiêu Dao Tán hợp Nhị Trần Thang.
+ Lý Thấp: là phép dùng thuốc táo thấp hoặc thấm thấp để trừ thấp tà. Chứng ung nhọt do thấp tà gây nên thường kèm nhiệt, phong, thấp hoặc hàn cho nên phép lý thấp thường cũng không dùng đơn độc mà thường dùng kết hợp với các phép thanh nhiệt, trừ phong, tán hàn. Cho nên thường dùng các phép thanh nhiệt lợi thấp, tán hàn hóa tháp, trừ thấp khu phong trong các trường hợp ung nhọt do thấp nhiệt hoặc hàn thấp, phong thấp. Bài thuốc thường dùng có Tỳ Giải Thấm Thấp Thang (Tỳ giải, Ý dĩ, Hoàng bá, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả, Hoạt thạch, Thông thảo), Ngũ Thần Thang (Phục linh, Kim ngân hoa, Ngưu tất, Xa tiền, Tử hoa địa đinh), Long Đởm Tả Can Thang (Long đởm thảo, Chi tử, Sài hồ, Hoàng cầm, Sinh địa, Trạch tả, Đương quy, Xa tiền tử, Mộc thông, Cam thảo), Độc Hoạt Ký Sinh Thang.
+ Sơ Can Giải Uất: Vì lo nghĩ, uất giận, tình chí không được thoải mái, thất tình uất kết gây nên. Thí dụ như vú sưng, thạch thư (hạch cứng ở cổ gáy), thất vinh (hạch mọc trước và sau tai, trong gáy), tràng nhạc (lao hạch), chỗ sưng cứng khác thường, mầu da không thay đổi, khó tiêu cũng như khó vỡ. Phải dùng phương pháp sơ Can giải uất. Thường dùng bài Thư Can Hội Kiên Thang.
+ Lý Khí: là phép dùng thuốc lý khí để thông lợi khí cơ, điều hòa khí huyết, tiêu sưng, nhuyễn kiên, chỉ thống. Bệnh ngoại khoa phát sinh thường do khí huyết ứ trệ. Khí và huyết là có quan hệ mật thiết cho nên phép hành khí thường dùng kết hợp với thuốc hoạt huyết. Phép hành khí dùng cho các chứng ngoại khoa do khí trệ, khí uất như các loại khối u cứng không đỏ, không nóng, hoặc các khối u da căng mà bên trong mềm, thay đổi theo tình chí tức giận, buồn phiền, như chứng Khí anh (bướu giáp thường), Nhũ tích... Bài thuốc thường dùng có Tiêu Dao Tán (Đương quy, Bạch thược, Sài hồ, Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo, Táo, Gừng), Kim Linh Tử Tán (Kim linh tử, Huyền hồ).
+ Hòa Vinh: dùng thuốc có tác dụng điều hòa vinh huyết làm cho kinh mạch lưu thông để cho ung nhọt tiêu sưng, giảm đau. Phép hòa vinh dùng trong ngoại khoa tương đối rộng rãi, như dùng cho các chứng kinh lạc bị tắc, huyết ứ ngưng trệ, chứng u nhọt sau khi sờ vẫn cứng, đau không giảm, các nốt cục đỏ nhạt hoặc không đỏ hoặc xanh tím, các chứng ngoài da có huyết ứ, có khối u, chứng dãn mao mạch, xơ cứng mạch… Bài thuốc thường dùng có Đào Hồng Tứ Vật Thang (Đương quy, Thục địa, Bạch thược. Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa), Hoạt Huyết Tán Ứ Thang ( Đương quy, Xích thược, Đào nhân, Đại hoàng, Xuyên khung, Tô mộc, Đơn bì, Chỉ xác, Qua lâu nhân, Binh lang).
+ Thác: là phương pháp dùng các loại thuốc vừa có tác dụng bổ ích khí huyết vừa làm thoát mủ ra ngoài để hỗ trợ cho chính khí tăng khả năng tháo độc. Phép thác cũng gọi là phép Nội thác, phép Thác độc, phép Thác lý, dùng cho chứng ung nhọt và thời kỳ làm mủ. Do sự thay đổi của chính khí và tà khí trong quá trình diễn biến bệnh nên có 2 phép khác nhau:
a- Thấu Thác: Dùng cho chứng nhọt độc tà thịnh nhưng chính khí khỏe, nhọt chưa vỡ hoặc đã vỡ nhưng mủ ra không thông lợi, trị chứng thực như bài Thấu Nùng Tán (Đương quy, Sinh hoàng kỳ, Xuyên sơn giáp (sao), Xuyên khung, Tạo giác thích).
b- Bổ Thác: Dùng cho chứng nhọt tà độc thịnh mà chính khí suy không bài được độc ra ngoài, đầu nhọt không nhô lên mà chân nhọt tán ra khó vỡ, khó làm mủ, hoặc sau khi vỡ rồi nước mủ loãng, nhọt cứng không tiêu kèm theo tinh thần bệnh nhân lơ mơ, sắc mặt kém tươi nhuận, mạch Sác vô lực. Thường dùng bài Thác Lý Tiêu Độc Tán (Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo, Xuyên khung, Đương quy, Bạch thược, Bạch chỉ, Kim ngân hoa, Tạo giác thích, Cát cánh).
3. Phép Bổ: Dùng các loại thuốc có tác dụng bổo dưỡng cơ thể, giúp cho chính khí mau hồi phục, ung nhọt chóng lành miệng. Thường đùng trong giai đoạn cuối của chứng ung nhọt, nhiệt độc đã hết nhung tinh thần còn mệt mỏi, nguyên khí suy yếu, nước mủ loãng, nhọt khó liền miệng. Tùy tình hình hư nhược của cơ thể mà dùng phép bổ khác nhau. Nếu khí huyết hư thì bổ khí huyết, nếu tỳ vị hư thì bổ tỳ hòa vị, can thận bất túc thì bổ ích can thận. Trường hợp độc tà chưa hết thì phải thận trọng khi dùng phép bổ vì sẽø làm cho tà khí bị lưu giữ lại và bệnh nặng hơn.
Phép bổ dùng trong ngoại khoa thường có mấy loại:
+ Bổ khí dưỡng huyết: Dùng trong các trường hợp nhọt đã vỡ hoặc lở loét lâu ngày, nước mủ trong, loãng, miệng nhọt khó liền, mạch Hư, mệt mỏi, hoặc các bệnh ngoại khoa khác có chứng khí huyết hư. Thường dùng bài Bát Trân Thang.
+ Bổ Âm: dùng cho chứng âm hư như các chứng ung nhọt đã vỡ hoặc chưa vỡ hoặc các chứng ngoại khoa khác. Các bệnh ngoại khoa mà có các triệu chứng như sốt đêm, sốt về chiều, mồ hôi trộm, lòng bàn chân tay nóng, lưng gối đau mỏi, hoa mắt, ù tai, mạch Tế Sác, lưỡi đỏ, ít rêu, thuộc chứng thận âm hư đều có thề dùng bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn để tư âm, bổ thận.
+ Bổ Dương: các chứng ung nhọt lở loét khó làm mủ hoặc sau khi đã vỡ mà xám đen hoặc khó mọc, tắc động mạch chi, co thắt động mạch đầu chi, chân lạnh, mầu da tái nhợt, thích ấm, sợ lạnh, tiêu lỏng, tiểu nhiều lần, lười nhợt, rêu trắng, mạch Trầm Tế Trì... có triệu chứng dương hư, dùng bài Quế Phụ Bát Vị Hoàn.
+ Dưỡng Vị: Thường dùng ở giai đoạn cuối của bệnh ung nhọt để giúp hồi phục chức năng của tỳ vị. Trên lâm sàng thường dùng phương pháp lý tỳ, hòa vị và thanh dưỡng vị âm.
Lý tỳ hòa vị dùng cho chứng tỳ vị hư nhược như chứng ung nhọt ăn uống kém, tiêu lỏng, rêu lưỡi mỏng, chất lưỡi nhạt, dùng bài Hương Sa Lục Quân Tử Thang. Phép thanh dưỡng vị âm dùng cho chứng vị âm bất túc như như chứng ung nhọt nhiễm trùng huyết (Tẩu hoàng), đinh nhọt đầu lõm, bỏng diện tích rộng... miệng họng khô, chất lưỡi thon đỏ, mạch Tế Sác, dùng bài Ích Vị Thang.
Nếu mụn nhọt trước khi chưa vỡ mà vì đau làm cho Tỳ Vị bị tổn thương, người bệnh không muốn ăn uống, khi mủ vỡ thì bớt đau, khí của Tỳ Vị dần dần phục hồi thì muốn ăn uống trở lại ngay, không cần dùng thuốc bổ. Nếu bệnh nặng, thời gian bệnh kéo dài, khí của Tỳ Vị khó khôi phục ngay thì cần dùng thuốc để điều lý. Tỳ Vị là nguồn gốc để
sinh hóa khí huyết, Tỳ Vị bình thường thì ăn uống được tốt, khí huyết cũng tự nhiên mạnh lên. Thuốc thường dùng để điều bổ Tỳ Vị là: Hương Sa Lục Quân Tử Thang, Ích Khí Dưỡng Vinh Thang... Sau khi mụn nhọt đã vỡ mà Thận thủy bị hư yếu, nên uống bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn. Thận dương hư, nên dùng bài Kim Quỹ Thận Khí Hoàn.
B. Phép Trị Bên Ngoài
Phép trị bên ngoài là phép dùng thuốc và thủ thuật hoặc phối hợp một số dụng cụ trực tiếp tác động lên vùng bị bệnh hoặc nơi nào đó bên ngoài cơ thề để đạt mục đích điều trị.
Trong điều trị ngoại khoa thì phép trị bên ngoài kháquan trọng. Phép trị bên ngoài không những là phép trị không thể thiếu được để phối hợp với phép trị bên trong, giúp việc trị bệnh có hiệu quả cao mà đối với nhiều trường hợp ung nhọt nhẹ chỉ cần dùng phép trị bên ngoài cũng đạt hiệu quả tốt. Đối với bệnh ngoài da, chọn đúng thuốc không những giảm nhẹ đau khổ cho người bệnh mà còn làm cho bệnh chóng lành, chứng trĩ nội, dò hậu môn có thể dùng phép trị bên ngoài chữa khỏi bệnh. Trị bệnh bên ngoài cũng cần biện chứng luận trị để chọn phương trị thích hợp. Phép trị bên ngoài có thể chia làm 3 loại: phép trị dùng thuốc, phép trị bằng thủ thuật và trị bằng các phương pháp khác.
1. Phép trị dùng thuốc: Có nhiều cách dùng thuốc bên ngoài.
+ Thuốc Đắp: Đắp thuốc tươi như hái lá tươi Bồ công anh, lá cây Sống đời, v.v.. giã nát đắp lên vùng bệnh; dùng cho bệnh ung nhọt thuộc chứng dương, chứng nhiệt.
+ Thuốc Dán: Là loại thuốc cao dùng để tiêu thủng, hút độc, trừ thịt họa tử, giảm đau, sinh da non, thu miệng có nhiều loại cao khác nhau cho nên khi áp dụng, cần hiểu rõ tính chất của từng loại. Thí dụ: Gia Vị Thái Ất Cao dùng để thanh hỏa, tiêu thủng, hút mủ, sinh cơ, vì vậy đây là phương thuốc cao thông dụng để trị khi nhọt mưng và vỡ. Thích hợp với chứng dương và chứng nửa âm nửa dương. Bài Dương Hòa Giải Ngưng Cao thiên về ôn nhiệt, bất kể nhọt đã vỡ hoặc chưa vỡ đều dùng được, nhưng chỉ hợp với chứng âm hàn. Bài Hoàng Liên Cao có tác dụng thanh hỏa, nhuận táo, vì vậy, mụn nhọt đã vỡ rồi mà lại sưng lên đau nhức thì rất hợp. Bài Sinh Cơ Ngọc Hồng Cao chuyên trị thịt hoại tử, sinh cơ, là phương thuốc có có tác dụng thu liễm rất hay của Ngoại khoa.
+ Thuốc Bao Vây: Mụn nhọt khi mới phát, sưng cứng thì dán cao cho tiêu là đúng nhưng nếu mụn lan tỏa, không có chân, không thành khối u, cứng, thì phải dùng thuốc bao vây. Vì tác dụng của thuốc bao vây có thể làm cho ung độc thu lại, không lan rộng ra; Chứng nhẹ có thể tiêu đi, rồi khỏi. Nếu độc khí đã kết tụ cũng có thể làm cho mụn nhọt thu nhỏ lại, sưng lên, dễ mưng mủ, dễ vỡ ra. Vì vậy không chỉ dùng loại thuốc này khi mới phát mà dù sau khi đã vỡ mủ mà chỗ sưng còn sót lại cũng cần dùng nó để làm tiêu sưng. Tuy nhiên, cần dựa vào hàn nhiệt mà lựa chọn thuốc cho phù hợp. Dương chứng: dùng bài Như Ý Kim Hoàng Tán.
Âm chứng: dùng bài Hồi Dương Ngọc Long Cao.
+ Cao Mềm: cũng gọi là cao dầu. Dùng cho chứng đinh nhọt loét, bệnh ngoài da, loét xuất tiết, bệnh hậu môn. Các ung nhọt dương chứng dùng Kim Hoàng Cao, Tam Hoàng Cao, Ngọc Lộ Cao, Hoàng Liên Cao. Nhọt ung thuộc âm chứng dùng Hồi Dương Ngọc Long Cao; Lở loét dùng Sinh Cơ Ngọc Hồng Cao…
+ Thuốc Tán Dạng Hồ: dùng bôi nhọt lúc sơ khởi, lúc làm mủ và lúc vỡ mủ. Dương chứng dùng Kim Hoàng Tán, Tam Hoàng Tán Và Ngọc Lộ Tán; Âm chứng dùng Hồi Dương Ngọc Long Tán; Bán âm bán dương dùng Xung Hòa Tán. Lúc dùng lấy thuốc bột hòa với thuốc nước thành dạng hồ để bôi. Trường hợp dương chứng, trộn với nước Cúc hoa, Ngân hoa lộ, nước sôi để nguội... Chứng bán âm bán dương dùng nước cốt của hành, gừng, nước lá hẹ hoặc mật ong… Âm chứng thì dùng dấm hoặc rượu.
+ Thuốc Bột: lúc dùng có thể trộn với thuốc cao hoặc trực tiếp bôi lên nhọt. Thuốc bột có nhiều loại, chỉ định điều trị rất rộng, bất cứ loại nhọt hay loét cần dùng phương pháp tiêu tán, bài nùng, sinh cơ, thu miệng, cầm máu đều có thể dùng loại thuốc bột. Tùy theo tác dụng, thuốc bột có các loại sau:
. Thuốc Tiêu Tán: có tác dụng thấm thấu và tiêu tán. Thuốc có thể rắc lên cao dán, dán vào nhọt, có tác dụng hút độc từ sâu lên nông để tiêu độc. Dùng cho chứng nhọt mới mọc, độ sưng gom nhỏ. Dương chứng dùng Dương Độc Nội Tiêu Tán; Âm chứng dùng Âm Độc Nội Tiêu Tán, Quế Xạ Tán.
. Thuốc Bài Nùng Khứ Hủ: có tác dụng làm thoát mủ và sạch chỗ loét. Dùng cho chứng loét lúc mới phát, cùi mủ chưa rụng hoặc chưa đâỷ hết mủ ra, chưa sinh cơ. Thường dùng Tiểu Thăng Đơn, Cửu Nhất Đơn, Bát Nhị Đơn, Ngũ Ngũ Đơn.
. Thuốc Hủ Thực, Bình Nô: có tác dụng làm sạch các chất thối rữa, làm cho đầy các cục thịt lồi, giúp cho các nhọt đã có mủ mà chưa vỡ hoặc các chứng trĩ, lao hạch, mụn cóc, thịt lồi hoặc chứng nhọt đã vỡ nhưng miệng quá nhỏ, miệng cứng, có thịt lồi làm trở ngại việc liền miệng. Thường dùng Bạch Giáng Đơn, Bình Nô Đơn.
+ Thuốc Sinh Cơ, Thu Miệng: có tác dụng giải độc, thu liễm, giúp da sinh trưởng nhanh, bôi thuốc giúp nhọt nhanh lành miệng, dùng trong trường hợp nhọt đã hết mủ. Thường dùng Sinh Cơ Tán, Bát Bảo Đơn.
+ Thuốc Cầm Máu: có tác dụng thu sáp, cầm máu. Dùng bôi rắc vào nơi chảy máu rồi băng lại. Thường dùng Ddaò Hoa Tán, Điền Thất Tán, Vân Nam Bạch Dược…
+ Thuốc Rửa: Là các dùng thuốc nấu lấy nước, khi nước còn ấm nóng, dùng để rửa, ngâm, bôi, đắp chỗ đau.
. Mụn nhọt mới sưng và khi sắp vỡ mủ: dùng bài Song Quy Tháp Thủng Thang.
. Nhọt thuộc loại âm chứng không nổi lên được: dùng bài Ngải Nhung Phu Pháp.
. Mụn nhọt đã vỡ dùng Trư Đề Thang, có khả năng làm cho đỡ đau.
. Các chứng lở loét, hắc lào, ngứa... có thể dùng Khổ Sâm Thang để rửa.
Cách chung:
. Bệnh ở chân tay: có thể dùng nước thuốc để ngâm.
. Bệnh ở lưng, bụng nên thấm rửa nhiều lần.
. Bệnh ở hạ bộ có thể dùng cách ngồi tắm.
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:1085.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh