HOÀNG ĐẾ CỬU ĐỈNH THẦN ĐAN KINH QUYẾT Cuốn sách này, chủ yếu là dạy các loại pháp luyện chế đan dược có thể nhìn thấy được. Cổ nhân từng hi vọng thông qua quá trình các loại quáng thạch dược vật trộn lẫn nung luyện chế tạo có thể giúp người trường sinh bất tử. Linh đan phi thăng lên mây tuy tưởng là hoang đản rất hư huyễn nhưng có 1 ít đan dược trị bệnh hữu hiệu, mở ra cho nhân loại biết được những nghiên cứu dược vật trước đó.
MỤC LỤC:
1. Huyền hoàng pháp
2. Lục nhất nê pháp
3. Đệ nhất đan
4. Đệ nhị đan
5. Đệ tam đan
6. Đệ tứ đan
7. Đệ ngũ đan
8. Đệ lục đan
9. Đệ thất đan
10. Đệ bát đan
11. Đệ cửu đan
Hoàng Đế thọ Đạo Hoàn Đan nơi Huyền nữ. Huyền nữ là thiên nữ. Hoàng Đế phục uống nó nên đăng tiên. Huyền nữ nói cùng Hoàng đế rằng: nếu muốn trường sinh mà không có thần đan kim dịch. Học trò tự khổ thôi. Tuy hô hấp đạo dẫn, thổ cố nạp tân (nhã củ nạp mới), cùng uống dược thảo mộc có thể kéo dài tuổi thọ nhưng không khỏi chết. Phục thần đan thành người thần tiên độ thế, sống cùng thiên địa, nhật nguyệt đồng quang, thấy đến vạn lý, sai khiến quỷ thần, đưa gia đình thăng hư, không cánh mà bay, cưỡi mây ngự rồng lên xuống Thái Thanh trong khoảnh khắc, chu du Bát Cực không nề giang hà, không sợ bách độc. Hoàng Đế lấy truyền Huyền tử bảo rằng: Đạo này chí trọng, Chỉ trao cho người hiền. Nếu sai người thì tuy vàng nhiều như núi vạn lý cũng chớ tiết lộ đạo này. Đắc 1 đủ thành tiên chứ không phải 9. Truyền pháp này lấy 1 kim nhân nặng 9 lượng, 1 kim ngư nặng 3 lượng, ném theo nước chảy về đông mà thề, kim nhân cùng ngư đều bỏ để thọ đạo. Trước tiên tắm gội, đặt 1 huyền nữ ngồi trên nước nơi không người đốt hương mà bạch rằng: muốn lấy đạo trường sinh truyền, rồi lấy đan kinh để trên bàn ngồi tại đó. Nay muốn gần đạo. hướng bắc phục xuống 1 thì thần, nếu trời không gió có thể nhận nó. Nhận nó rồi uống máu gà trắng mà thề rồi truyền khẩu quyết. cái yếu của hợp đan là ném đầu kim nhân kim ngư xuống nước vì nếu không có thần tiên cốt thì cuối cùng không được thấy đạo này vậy.
Hoàng đế nói: muốn hợp thần đan thì ở nơi thâm sơn đại trạch (đầm lớn) nếu rộng rãi và không người ở, nếu ở nơi có người thì làm sau bức tường cao khiến trong ngoài không thể thấy cũng được. Kết bạn không quá 2, 3 người, trước phải ăn chay 7 ngày, tắm gội ngũ hương cho thêm tinh khiết. đừng qua lại với nhà nữ giá ô uế chết chóc. Hoàng Đế nói: Muốn được thần dược trước ăn chay 7 ngày, ngày tý sửu tắm gội. Chọn ngày mua nó rồi chọn nơi nguyệt đức mà tọa, chớ cùng người tranh quý tiện. Huyền nữ nói: làm thuốc lấy ngày 5 tháng 5 là rất tốt. kế là dùng ngày 7 tháng 7. Trước bỏ ngày giáp tý đinh tỵ là tốt. kế là ngày giáp thân ất tỵ ất mão. Ngày kị làm thuốc là mùa xuân mậu thìn kỷ tỵ, mùa hạ đinh tỵ mậu thân nhâm thìn kỷ mùi, mùa thu tuất tân hợi canh tý, mùa đông mậu dần kỷ mùi quý mão quý dậu và ngày nguyệt sát và chi thiên. Quý tứ mạnh trọng, mùa tháng thu nhâm ngọ bính tuất quý hợi tân tỵ, tháng thấy sóc vọng đều hung, không thể dùng mà khởi hỏa. Hợp thần dược cẩn thận không được cùng người ngu của thế gian giao thông, chớ khiến người tật đố (ghen ghét) nhiều miệng lưỡi, người không tin đạo nghe biết thì thần dược không thành. Thần dược thành thì là chân nhân. Nhập sâu vào thượng thiên, biến hóa bất chợt. Có thể khiến cả nhà thành tiên chứ không chỉ 1 thân. Người tục tiếc tiền tài không hợp đan dược mà tin thảo mộc dược. Thảo mộc đó chôn nó thì hư, nấu nó thì nát, thiêu nó thì tiêu, không thể tự sinh sao có thể làm người sinh. có thể lấy trị bệnh ích khí chứ không khỏi chết vậy. Trọng yếu của hoàn đan chỉ người phi phàm mới có thể nghe.
Hoàng Đế nói: Lúc khởi hỏa ở bên cái nồi mà tế lễ. lấy rượu trắng ngon 5 thăng. Lê 1 đấu. thục kê tử 13 quả. Lý ngư (cá chép) 3 con mỗi thứ 3 cân. Dùng 3 cái bàn, 2 cái chén. Đốt hương rồi lạy khấn rằng: chúng tôi thành thật chỉ có đại đạo quân, lão quân thái hòa quân thương chúng tôi tham sinh dược, dạy tôi làm dược không phi vong. Đều giữ trong lửa, dược được tốt đẹp, tùy tay biến hóa, hoàng bạch đều phục, uống dược phi tiên, triều nơi tử cung, mệnh trường vô cực. đắc đến chân nhân. Hành tửu rồi đứng dậy lạy. các loại quả đỏ như quýt, quýt quả nhỏ, đều đưa lên rồi đốt lửa như pháp. Hoàng đế nói muốn làm thần đan trước làm huyền hoàng. HUYỀN HOÀNG PHÁP:
Huyền hoàng pháp lấy thủy ngân 10 cân, chì 20 cân cho vào trong nồi sắt, mạnh thì hạ lửa. Chì cùng thủy ngân cho ra tinh hoa, hoa sắc tím hay hoàng kim sắc. Dùng thìa sắt mà lấy gọi là huyền hoàng còn gọi hoàng tinh, hoàng nha hay hoàng khinh. Cho thuốc vào ống tre, chưng nó, lấy nước hùng hoàng đan sa làm nó bốc hơi. Nước hùng hoàng đan sa trong 36 nước. Hoàng đế nói lại tạo lục nhất nê (bùn lục nhất).
LỤC NHẤT NÊ PHÁP:
Nê pháp dùng phàn thạch nhung diêm lỗ hàm dự thạch. 4 vật trước tiên đốt lên. Đốt nó 20 ngày. Biển đông có hoạt thạch của mẫu lệ xích thạch (xích thạch của loài sò). 7 vật phân bằng nhau, bao nhiêu tùy thích. Hợp đảo vạn chày thành phấn bỏ vào nồi thiết bọc lại rồi đốt 9 ngày 9 đêm, mạnh thì hạ hỏa, dược sắc đỏ như lửa lại đảo vạn chày rồi cho qua sàng lụa, để trăm ngày hoa trì (ao) mà thành nê (bùn), lấy làm nê xích thổ phủ (nồi đất bùn đỏ). Nồi đất làm nặng8, 9 thăng, lớn khoảng 1 đấu. bôi lên nó trong ngoài dày 3 phân, phơi nó trong nắng 10 ngày cho thật khô ráo mới dụng để chế đan hoa. Còn pháp làm dược cùng nồi lục nhất nê, làm xong rồi chứa trong hủ, trùm miệng giữ kín. Bỏ hủ xuống đất 3, 4 xích (thước ngày xưa). Chớ để bị ẩm ướt.
1. ĐỆ NHẤT THẦN ĐAN
Đệ nhất đan gọi là đan hoa, cách làm dùng chân sa 1 cân cũng có thể dùng 2 cân củng có thể là 10 cân tùy thích. Tùy người giàu hay nghèo. Cho vào trong nồi. lấy muối rãi khắp lên rồi đảo. lấy lục nhất nê bôi miệng nồi không cho rỉ ra ngoài, cẩn thận xem xét nó đừng cho nứt ra thì dược sẽ bay, mất đi tinh hoa. Nếu chỉ uống cặn bả thì vô ích vậy. Bôi lên xong làm khô nó trên 10 ngày thì có thể dùng. Không khô đến thì không thể đốt nó. Trước lấy nước đái ngựa, lửa trấu bỏ vào nồi 5 thốn nấu 9 ngày 9 đêm. Rồi lại nấu thêm 9 ngày 9 đêm. Cho lửa lên đến nữa bụng nồi nấu thêm 9 ngày 9 đêm. Thường 36 ngày có thể dừng lửa 1 ngày, làm nguội nó. Dược đều bay hết bám vào nồi trên như ngũ sắc long lanh hay như sao chạy hay như sương tuyết hay đỏ như đan hoặc xanh hoặc tím. Dùng lông chim quét lấy. 1 cân giảm 4 lượng vậy. nếu dược không qua lửa. đương nấu nó bay. Dùng huyền thủy dịch long cao trạch. Quấy cho thấm rồi để huyền hoàng vào nồi xích thổ phong lại như thủy pháp. Dùng lửa mạnh nấu nó 36 ngày dược thành. Thường 72 ngày là xong.Muốn phục dược. ăn chay tắm gội 5, 7 ngày. Đốt hương rồi buổi sáng hướng đông lễ bái quỳ gối. uống nó như hạt lúa lớn. cũng có thể như hạt đậu nhỏ. Thượng sĩ phục nó 7 ngày thăng thiên. Trung sĩ phục nó 7 ngày đắc tiên. Ngu nhân phục nó 1 năm đắc tiên. Thành nồi đan hoa lấy chế đệ nhị đan đến cửu đan hết thảy thần đan rất tốt vậy.
Huyền nữ nói: Làm đan hoa thành thì lấy làm kim, kim thành thì dược thành, kim không thành thì dược không thành. Dược chưa phục hỏa thì không thể uống vậy, hay nồi không kín, Hay phạm cấm vân vân đều theo trước chế nó mà dùng. Long cao hoàn đan như hạt đậu nhỏ để lửa mạnh ở trên dùng ống tre thổi nó, phút chốc thành hoàng kim. Lại lấy 24 thù đan hoa điểm phấn hống 1 cân cũng thành hoàng kim. Hoàng kim thành lấy ống tre đựng dược. lại lấy 1 thù đan hoa hợp hống 1 cân. Nếu 1 cân diên dụng võ hỏa dần dần mạnh thổi nó đều thành hoàng kim vậy. Cân và thù cần thận đừng nhiều, nhiều thì kim cứng mà ít thì kim nhu, đều không đúng phải bỏ. lại nói. Kim nếu thành có thể độ đời. kim không thành mạng khó cố. tự tổn hao sao có thể giúp ai.
2. ĐỆ NHỊ THẦN ĐAN
Đệ nhị thần đan gọi là thần phù. Lấy thủy ngân không độc, bao nhiêu tự ý cho vào nồi lục nhất nê, phong kín nó khô xong. Đầu tiên làm như điều chế đan hoa pháp. Chế nó 9 trên dưới, ngừng rồi mở ra. Quét lấy hòa cùng mật lý ngư (cá chép), rồi phong kín như lúc đầu. Lại chế nó 9 lần trên dưới, dừng rồi quét lấy hòa với long cao đó gọi là thần phù. Lấy diên hoàng hoa 10 cân đặt trong khí cụ, dùng than lửa nung nó, lại lấy thủy ngân 7 cân bỏ vào trong chì. Dùng lửa mạnh nung nó. Chốc lát tinh hoa đều bay lên giống như hoàng kim lại giống như lưu tinh, tử xích lưu châu, ngũ sắc huyền hoàng. Dùng thìa thiết lấy nó được 10 cân tức hóa cửu chuyển gọi là đan hoa chi hoàng, còn gọi là dịch huyền hoàng, địa chi phù. Đó là đảo hống hóa thành đan gọi là hoàn đan, thánh nhân giữ bí mật này, không phải phàm tục đạo sĩ sở kiến vậy, không phải người đạt thì không thể biết. Hỏa gọi là tử minh, hống cũng là tử minh. Nhất là diên tinh còn gọi là thái âm còn có tên là kim công, hà sa, xá nữ, sơn trung lập chế thạch. Người ngu điều chế dùng trực tiếp sơn trung lập chế thạch, thật sự không phải. Chân nhân nói thạch đảm đều xuất từ trong diên, phàm nhân ngu muội sửa chế thần dược dùng khương lý thạch đảm, không phải như vậy, rời xa đạo vạn dặm, chế dược không thành. Chân nhân nói: lấy đan sa tinh hóa thành lưu châu sương tuyết, duyên tinh hóa hoàn đan hoàng bạch là thành uống thành thần tiên. Không dùng 2 vật này điều chế dược tuy đắc đan uống nó sau đó chết vậy. thái âm là diên, thái dương là đan. Lấy hống 9 cân. Diên 1 cân, hợp đặt trong nồi xích thổ (nồi đất đỏ), hỏa mạnh ở trên, từ sáng sớm đến trưa dưới nắng thủy ngân và diên tinh đều xuất sắc như hoàng kim gọi là hoàng tinh còn gọi hoàng nha, còn gọi hoàng khinh, hoàng hoa, cho tĩnh hoa thủy (nước giếng múc lúc sáng sớm) vào đốt nó gọi là hoàng hoa trì còn gọi là hoàng long, hoàng phục, lập chế thạch. Lấy huyền hoàng hòa với huyền thủy dịch, hợp nó như đắp bùn, làm thành hoàn, bỏ vào trong nồi xích thổ. Lấy lục nhất nê bôi lên dày 3 phân, phơi khô 10 ngày, không cho rỉ. Lấy nước đái ngựa lửa trấu nung nó 80 ngày sẽ thành kim dược. lấy huyền hoàng 1 đao khuê (10 hạt thóc 1 khuê). Cho lửa mạnh lấy quạt thổi nó, phút chốc thành hoàng kim. Hoàng kim nếu không thành dược nhưng sanh thì chưa thể dùng vậy, lại cho vào trong nồi xích thổ như trước, bôi bùn, đốt nó 80 ngày dược có thể uống. Huyền hoàng còn gọi là phục đan, tử phấn, muốn uống nó thì ngày giáp tý, sáng sớm hướng đông lạy bái, uống như đậu nhỏ. Nuốt 1 hoàn ngày 1. trăm ngày thành thần tiên, vạn bệnh đều khỏi, bệnh điên bệnh hủi cũng hết. Không bị ốm đau thì uống trăm ngày hoa trì và huyền hoàng làm như bùn, lấy đặt trong 2 cái nồi xích thổ, trong ngoài dày 3 phân. Cho thủy ngân 1 cân, cũng có thể 10 cân tùy ý. 3 cân có thể làm 1 người thành tiên. Có thể được huyền hoàng tinh 10 lượng. Lấy hống 3 cân cho vào trong nồi đất. lại lấy huyền hoàng đổ ở trên cao 2 thốn rồi lấy 1 nồi đất đậy nó, lấy lục nhất nê phong kín trong ngoài không cho rỉ thuốc, để phơi ngoài nắng cho thật khô, không cho ướt có lửa thì sẽ bị nứt, như điều chế đan hoa pháp, lấy nước đái ngựa lửa trấu đốt nó 9 ngày đêm dừng 1 ngày rồi mở ra, dược đều báy bám vào nồi trên như sương tuyết, tím hồng đỏ xanh, ngũ sắc quang hoa, dày 2 phân thốn, ta lấy lông chim quét lấy nó, hòa cùngmật lớn chó vàng cũng có thể dùng cá của hà bá. Quyết nói là lấy mật lý ngư hòa nó, lấy huyền hoàng đó làm như phong kín bùn. Chú rằng có thể làm thành hoàn, quyết gọi là thủy tuyền vậy. Lại cho vào trong nồi đất, cùng để xuống, lại bỏ vào trong nồi đất rồi lấy huyền hoàng đổ vào nó cao 1 thốn lấy nồi đậy nó rồi dùng lục nhất nê phong kín nó như pháp ban đầu, phơi 10 ngày cho khô rồi nung nó. Không cho ẩm ướt, bị nhiệt nồi sẽ nứt. Lại nung 9 ngày đêm có thể dừng 1 ngày rồi mở ra, dùng lông chim quét lấy phi tinh bám ở nồi trên. Nếu chỉ màu tím thì gọi là thần phù hoàn đan, hòa với long cao làm thành hoàn như đậu nhỏ. Thường ngày giáp tý, sáng sớm hướng đông, bái lại rồi quỳ. Uống nó trăm ngày cùng tiên nhân gặp gỡ, ngọc nữ sẽ đến, đó là theo chư thần mà phi hành. Muốn qua đại thủy thì hòa thần phù cùng long cao. Nếu hà bá dư lấy bôi lên chân thì đi trên nước chân không chìm, muốn nhập hỏa uống 1 hoàn thì không nhiệt. Phục dược trăm ngày tam thi cửu trùng đều tự hủy hoại, trường sinh bất tử vậy.
ĐỆ TAM ĐAN
Đệ tam thần đan gọi là thần đan. Trước lấy lục nhất nê bôi trong ngoài 2 nồi xích thổ dày 3 phân. Lại lấy từ thạch từ xích thạch con hào. Làm vô từ thạch. Giữ gốc đừng sửa, thường 3 vật bằng nhau. Đâm vạn chày cho thành phấn, làm bách nhật hoa trì cho ướt, lấy bao trong ngoài nồi rồi lấy huyền hoàng hoa bao bên trên dày khoảng 1 thốn. Lấy 2 cân đế nam là hùng hoàng, đế nữ 1 cân là thư hoàng. Đầu tiên lấy bách nhật hoa trì tiểu cô mà thấm ướt nó thì trên sẽ không bay. Lấy cái cối đảo thành phấn.trên nồi lấy hoàng phấn bao khoảng 1 thốn, lấy 1 cái nồi hợp nó, dùng lục nhất nê phong kín nó chớ để tiết khí, làm khô nó 10 ngày. Lấy nước đái ngựa lửa trấu mà nung nó 9 ngày đêm. Lửa lên nồi 5 thốn. Dùng lửa giữ nó 9 ngày đêm, lửa nhỏ 1 ngày, lửa mạnh 9 ngày đêm, đắp đến giữa bụng đốt nó 9 ngày đêm dừng. Thường 36 ngày. 1 ngày làm mát nó. Dùng lông chim quét lấy phi tinh bám nó hòa với long cao bỏ vào nồi rồi lấy bùn phong nó, làm khô, phục hỏa 36 ngày. 27 ngày dừng 1 ngày rồi mở nó. Dùng lông chim lấy nó, gọi là phi tinh. Trì nó gọi là thần đan. Thượng sĩ uống nó 1 đao khuê 1 ngày. 50 ngày thần tiên. Trung sĩ uống nó trăm ngày. Ngu nhân uống nó 1 năm thành thần tiên. Phàm phu nam nữ tiểu nhân nô tì lục súc cũng uống nó đều thành tiên bất tử. Tránh ngũ binh liên hệ nó. Thần nhiều bảo hộ tránh binh khí gây thương tích. Phục đan trăm ngày chư thần tiên đến nghênh tiếp. là ngọc nam ngọc nữ là ngọc đồng sơn khanh trạch úy đều đến theo, nhìn hình như người. độ đời không phải việc của người vậy. ĐỆ TỨ ĐAN
Đệ tứ thần đan gọi là hoàn đan. Lấy phàn thạch dự thạch đại giả nhung diêm mẫu lệ xích thạch chi thổ long thỉ vân vô hoạt thạch. 9 vật đốt trong 1 ngày 1 đêm, lửa mạnh, hợp lại đảo thành phấn hòa với tả vị thành dạng bùn. Bọc trong nồi cho vào 1 cân hống rồi cho đế nam vào rồi đến tằng thanh rồi phàn thạch đình chi rồi đến lỗ hàm. kế đó lấy thái nhất vũ dư lương rồi phàn thạch dự thạch ở trên mà thủy ngân riêng ở dưới. Gồm 7 vật ở các đồ đựng khác đảo nó thành phấn. lấy thủy ngân 1 cân riêng ở dưới, lần lượt bỏ vào nó. Dùng 1 cái nồi đậy ở trên, lấy tả vị và lục nhất nê bôi lên nó, phong cho kỷ, phơi nó 10 ngày. Để sắt lên 3 trụ cao 9 thốn, lấy nước đái ngựa và lửa trấu đốt nó lên đáy nồi 5 thốn. Sau đó đốt 9 ngày đêm. Thêm lửa đến giữa bụng nồi 9 ngày đêm, thường lấy vải ướt phủ lên trên cho dược không bay, thấy vải khô lại làm ướt nó, 18 ngày thì dừng 1 ngày rồi mở ra, dược đều bay lên nồi trên, nồi có ngũ sắc, chế pháp cần nhất đồng dược. Lấy lông gà quét lấy nó hợp với bách thảo hoa. Dùng hoa thủy uống nó. 100 ngày chu tước phượng hoàng bay liệng ở trên, thần nhân ngọc nữ đến. 200 ngày đăng thiên nhập địa, tiên nhân đến, 1 năm thái nhất dùng vân xa long mã nghênh đón. Uống đan này khiến người không đói khát, 100 tuổi thì uống thạch tuyền, ăn táo, hạt dẽ 20 quả. Khô trâu dê 5 thốn. lại lấy hoàn đan đồ tiễn để bán. tiễn ngày tự hoàn. Theo sách hoàn đan giúp mắt người mở rộng trăm quỷ đều tránh đi. Lại lấy dược 1 đao khuê phấn thủy ngân 1 cân mà đốt nó thành hoàng kim. 1 pháp lấy long cao cùng dược đốt nó 9 ngày đêm thì thành chân kim vậy.
ĐỆ NGŨ ĐAN
Đệ ngũ thần đan gọi là nhị đan. Lấy hống 1 cân cho vào trong nồi lục nhất. lại lấy đế nam 1 cân đảo nó thành phấn thêm hống ở trên. Vũ dư lương 1 cân. Đảo nó thành phấn thêm đế nam ở trên rồi lấy nồi lục nhất đậy nó, phong kín bên ngoài. Lấy lục nhất nê bôi lên cho khô, thêm nước đái ngựa lửa trấu đốt nó 9 ngày đêm rồi dừng, lại lấy than hỏa thiêu nó 9 ngày đêm rồi dừng hỏa 1 ngày rồi mở ra, dược đều bay lên nồi trên như sương tuyết. lấy lông chim quét lấy nó hòa với long cao thiếu thất thiên hùng bằng nhau rồi ăn gà, máu gà 1 đao khuê 30 ngày bay lên tiên. Vạn thần đến thị vệ. ngọc nữ đều có thể sai khiến. thần tiên nghênh đón, thăng lên tiên vậy, bách quỷ xã tắc thần phong bá vũ sư đều nghênh đón, có thể sai khiến.
ĐỆ LỤC ĐAN
Đệ lục đan gọi là luyện đan. Lấy bát thạch mà thành nó. Bát thạch là lấy ba việt đan sa đế nam đế nữ đốt nó. Tằng thanh phàn thạch dự thạch thạch đảm từ thạch. Gồm 8 vật bằng nhau, ít nhiều tùy ý. Rồi đảo thành dạng phấn hòa với thổ long cao, lấy thổ long thỉ 2 thăng. Lấy gan mật chó vàng hợp làm nồi. mẫu lệ xích thạch mỗi thứ 3 cân đảo thành phấn, lấy tả vị hòa với bùn bôi trong ngoài dày 3 phân cho khô. 1 pháp bát vị nhiều ít tùy ý, lấy thổ long cao thổ long thỉ 1 thăng hòa cùng mật chó vàng hòa thổ long thỉ 2 thăng. mẫu lệ xích thạch nghiền thành phấn hòa làm bùn bao trong ngoài nồi dày 3 phân, làm khô nó. Các bát thạch khác nghiền thành phấn rồi cho vào đan sa bên dưới rồi đến đế nam rồi đế nữ rồi đến tằng thanh, phàn thạch, dự thạch, thạch đảm, từ thạch. Riêng từ thạch ở trên, lấy nồi lục nhất đậy lên rồi lấy lục nhất nê phong bên ngoài, làm khô nó. Như pháp trên lấy nước đái ngựa lửa trấu đố nó 36 ngày rồi dừng, nghỉ 1 ngày rồi mở ra. Dược đều bay lên trên bám như sương tuyết. lấy lông quét giữ nó hòa với long cao làm thành hoàn như hạt đậu nhỏ. Sau khi ăn uống 1 hoàn 1 ngày. 10 ngày thành tiên. Quỷ thần đến giữ mà sai khiến. Cũng có thể lấy uống hoàng kim. Không chỉ nam tử. nữ nhân cũng đắc phi tiên. Nếu muốn tịch cốc thường tuyệt phòng sự, chỉ uống vật có nước, như vậy cặn của đan có thể trị bách bệnh. 1 pháp diên hợp thành hoàng kim, lấy luyện đan đao khuê hợp thủy ngân 1 cân đốt nó thành hoàng kim. Nhu đan và luyện nhị đan tương tự. thấm nước dễ ăn nó. ĐỆ THẤT ĐAN
Đệ thất đan gọi là nhu đan. Dùng hống 3 cân. Tả vị cùng huyền hoàng hợp như bùn. Lấy bôi trong ngoài nồi đất dày 3 phân. Cho hống vào 1 nồi. dùng lục nhất nê bôi bên ngoài làm khô nó 10 ngày. Đốt nó như thái đan hoa pháp 36 ngày rồi dừng 1 ngày mở ra. Lấy lông chim quét lấy những cái bám ở nồi trên hòa với long cao. Uống như đậu nhỏ ngày 3 lần khiến người thành tiên bất tử. lấy lọ nước hòa với nó. Lão ông 90 tuổi uống nó 20 ngày tóc bạc thành đen. Bổ dương tinh âm khí. Nếu giao thì sinh con vô số thì theo sách nhu đan viết lên cây ngồ đồng làm người rồi lấy nhu đan thư ghi tên nô tì không thể trốn, phụ nữ 80 tuổi uống nó đều có con. Uống nó lâu ngày thì thay đổi, cùng diên hợp hỏa thành kim ngân gọi là hoàng kim.
ĐỆ BÁT ĐAN
Đệ bát đan gọi là phục đan. Sắc tím đen. Nếu như có màu ngũ sắc, lấy hống 1 cân cũng có thể hơn, lấy huyền hoàng hoa bọc nồi đất trong ngoài dày 3 phân rồi đảo tằng thanh từ thạch thành phấn, lấy huyền hoàng hoa cùng mạt tằng thanh từ thạch đổ vào trên hống rồi lấy 1 nồi đậy lại, dùng lục nhất nê bôi bên ngoài làm khô nó 10 ngày, lấy nước đái ngựa lửa trấu đốt nó 9 ngày đêm. Chuyển nồi trên xuống dưới, đốt nó 9 ngày đêm, lại chuyền nồi dưới lên trên đốt nó 9 ngày đêm. Như vậy 9 trên 9 dưới thì dừng 1 ngày rồi mở ra. Lấy lông chim quét nó giữ chất bay lên bám ở trên hòa với long cao. Sau đó bỏ lại trong nồi thêm hỏa 1 tuần (10 ngày gọi 1 tuần) rồi dừng 1 ngày mở ra. Lấy lông chim quét chất bám ở trên. Đảo nó thành phấn. Đựng kim ngân trong ống tre hay ống trúc sống. thường sáng sớm hướng đông lạy rồi quỳ. Lấy tỉnh hoa thủy (nước múc lúc sáng sớm) uống 1 đao khuê thì thành thần tiên. Làm như hạt táo lớn giữ trong tay mà làm bách quỷ tiêu diệt, lấy nhu đan này viết chử lên cửa bách tà chúng tinh, si mị (yêu quái), võng lượng (yêu quái ở gỗ đá) không tiến tới. lại tránh đạo tặc mà đến hổ lang cũng tránh nó. Nếu phụ nữ giữ thì cho bằng hạt đậu lớn, bách quỷ đạo tặc tránh xa không dám đến.
ĐỆ CỬU ĐAN
Đệ cửu đan gọi là hàn đan. Pháp dùng xích thổ phủ (nồi đất đỏ). Lấy lục nhất nê bôi trong ngoài dày 3 phân. Làm khô nó như đan hoa pháp. Lấy đế nam đế nữ tằng thanh dự thạch từ thạch mỗi thứ 1 cân rồi đảo nó như phấn. trước lấy huyền hoàng bao nồi lục nhất như đan hoa pháp rồi cho lưu châu 1 cân vào. Sau đó lấy đế nam cho lên trên lưu châu rồi đến đế nữ, tằng thanh, dự thạch, từ thạch. Từ thạch trên nhất. lấy 1 cái nồi đậy lên, lấy lục nhất nê bôi bên ngoài dày 3 phân. Lại lấy thổ long thỉ hoàng thổ mỗi cái nữa cân làm thành bùn, lấy mẫu lệ xích thạch (xích thạch của con hào) bôi lên dày 3 phân rồi lấy thổ long thỉ bôi dày 3 phân phơi 10 ngày cho khô. Dùng trước văn sau võ 9 ngày đêm rồi dừng 1 ngày mở ra. Lấy lông chim quét lấy chất bám ở trên hòa với long cao mật chó vàng làm hoàn như đậu nhỏ. Sáng sớm lấy nước tĩnh hoa thủy hướng mặt trời lạy rồi uống 1 hoàn làm cho thân nhẹ nhàng. Trăm ngày trăm bệnh đều hết. ngọc nữ đến thì mệnh không còn ở tử tịch mà danh đề tiên lục, phi hành trên dưới, xuất nhập vô gian không câu chế (hạn chế). Ngồi thì còn đứng thì mất. nhẹ nhàng cưỡi mây. Thăng lên trời vậy. THÁI THƯỢNG HUỲNH ĐÌNH NGOẠI CẢNH KINH Sách mật của hai nguyên quân Đan hà, Thanh hà. Núi Viên kiệu Động Tử hà Hàm hư chú giải.
Chương thứ nhất
Lão tử lúc nhàn rỗi làm thơ bảy chử, giải bày thân hình có chư thần. Trên có Huỳnh đình phía dưới là Quan nguyên, trước là U khuyết sau có mệnh môn.
Hô hấp trong hư không nhập vào đan điền, ngọc trì thanh thuỷ quán linh căn ( ao ngọc nước trong rót vào linh căn), đều là chân đồng tử (trẻ thơ) nuôi dưỡng thai thấm nhuần. xét rõ mà tu học có thể sẽ trường tồn.
Chương ấy Thiểu dương tổ sư đã khai kinh chỉ dẫn. tổ sư nói: Lão quân thường niệm (nghĩ nhớ) ngọc văn, thường là <nội cảnh kinh>được lọc bỏ cái phiền phức mà dùng cái giản tiện để làm thơ bảy chử vẫn gọi tên <hoàng đình>, để phân biệt gọi là <ngoại cảnh>. Nội ngoại ấy là danh hiệu gọi trước sau không phải là trong ngoài của thân. Nói rằng nhất thân ngủ hình (một thân năm hình thể), cùng với vạn thần trong thân là phần kinh điển chân yếu. Thái thượng lấy hư vô làm bổn (căn bản). Cái không gian trên dưới sau trước đó bên trong có một vùng hư vô, người có thể hạ thủ ở đó, hô hấp có thể thâm nhập vào đan điền, nuôi dưỡng trong ngọc trì (ao ngọc) cho tiên thiên thuỷ cực trong mà lấy rót vào linh căn của ta, linh căn bền chắc thì đan cơ lập (nền tảng của đan được xây dựng). Đứng đầu chân đồng tử là thai anh (anh nhi: đứa bé). Thai anh là tổ của vạn thần. Ngày ngày dưỡng nuôi, phục thực (ăn uống) thai tức (thở thai) huyền tân (nước dãi huyền diệu), cứ như vậy mà tu luyện có thể trường sanh bất tử. Quán linh căn là lấy hậu thiên dưỡng thân, thực thai tân là lấy tiên thiên dưỡng đan. Đó là chỉ dẫn ý nghĩa thâm diệu. Thế gian truyền (Huỳnh Đình Kinh) , cẩu thả bỏ đi 2 câu Lão tử nhàn cư rồi bên dưới đổi thành tứ ngôn (bốn chử) là“thượng hữu huỳnh đình, hạ hữu quan nguyên, tiền hữu ưu khuyết, hậu hữu mệnh môn, hô hấp lư ngoại, xuất nhập đan điền, thẩm năng hành thử, khả dĩ trường tồn”. câu tổng chân đồng tử đều mất nghĩa gốc. không thấy chân hàm ( hàm nghĩa chân thật), nhiều câu mất đi chân nghĩa. Lúc đầu khi ta chú giải (Hoàng Đình), tự nhiên thấy Đan Hà nguyên quân giáng xuống Sơn Trai (phòng riêng trên núi) nói rằng:“đón tiếp sách của Nguỵ Phu nhân, truyền cho con khảo xét kỷ càng kinh<Huỳnh Đình> , kết hợp vớI chỉ bảo trong sách bí mật này . Ngày kia sẽ có Xan Hà [1] đạo nhân, được đệ tử Nam Nhạc Dương Trường Ngự sử truyền sách, Nhận phó thác giữ cho con, kết hợp chỉ bảo của ta với sách của Đan Hà mà tham khảo, mới có cơ hiểu thiên cung bí lục (sách mệnh của thiên cung), nên đi từ sự tương đồng. quá mừng vui nên đã chú giải bên dưới.
Chương thứ 2
Huỳnh đình chân nhân mặc y phục màu đỏ, then cài cửa khoá ẩn sâu xa trống rỗng mà sai khiến nơi cao lồng lộng, bên trong đan điền tinh khí mầu nhiệm. ngọc trì thanh thuỷ ( ao ngọc nước trong) làm Thổ (đất) sinh màu mỡ, linh căn kiên cố thì già lão không bị suy yếu.
Then cài cửa khoá, cơ ấy bao quát có con có mẹ, ở lúc quan môn (đóng cửa), lấy mẫu (mẹ) nhập vào tẫn (con), thì then khoá hợp lạI mà hai cửa cũng bị đóng, đórỏ là thần khí giao cấu, như mẹ con cùng dung chứa lẫn nhau. Cố làm để sinh ra là sai lầm. Thổ sanh phì là hạ thủ trong Ngọc trì làm cho Thuỷ trong ngọc trì (ao ngọc) cực trong không nhiễu, ngày ngày tưới trồng vun bón, thì thổ (đất) gầy biến thành màu mỡ, mà linh căn ổn định lâu dài, kiên kiên cố cố, dù già cũng không suy yếu khô héo vậy. Ta thấy <Nội cảnh> cũng có bốn chương như vậy.
Chương thứ ba
Trung trì (trong ao) có người mặc y phục đỏ, dưới đan điền ba thốn là nơi cư ngụ của thần, khoảng từ trong đến ngoài cần coi trọng bế (đóng) nó, bên trong thần lư (nhà thần) chăm chỉ tu trì. Huyền ưng khí quản nhận tinh, mau làm yên tinh mà tự giữ lấy tinh đó.
Trung trì (trong ao) là khí hải, cũng gọi là trung tâm, bên trong có người tu, mặc y phục màu đỏ là chỉ thần tâm. Điền là đan điền. dưới đan điền một thốn là Quan nguyên, 2 thốn là trung cực, 3 thốn là hội âm, đều là nơi thần cư ngụ chứ không riêng gì ở Trung trì. Trung trì cùng đan điền bên dưới 3 thốn là cái thế trong ngoài cách biệt nên coi trọng nhanh bế (đóng lại) thì thần bên trong sẽ không ra ngoài. Thần lư là thần thất (nhà của thần), bên trong thần thất nên chăm chỉ tu trì thanh tịnh, không nghe theo duyên bên ngoài xâm lấn, liên tục thuận theo mà tồn tưởng, nội dưỡng thần hoả, tự nhiên thuỷ đến giúp thêm thì sẽ có huyền ưng khí quản theo thụ nhận tinh phù. Tinh phù là lấy tinh hợp thần, lấy thuỷ chế hoả vậy. Tinh ở ta là tinh mầm, theo đó mà nhanh nhanh yên định, lấy tự phù trì (giúp đở, nắm giữ) thì chính là hàm chứa hoa vậy.
Chương bốn
Trạch trung (ở đó) có người thường mặc đồ đỏ, con có thể thấy nó thì bất bệnh. Hạ thủ trên đó khoảng 1 thước (xích) có thể vô dạng vô hình. Hô hấp lấy lư gian (có lẽ là khoảng xung quanh khu ấy) tự bù đắp, giữ đầy đủ bền chặc thì thân lành, cẩn thận cái ẩn chứa bên trong thốn vuông đó. Khi tinh thần trở về thì già lão cũng phục hồi tráng kiện. Lấy U khuyết lưu chuyển xuống dưới, dưỡng tử (con) có thể tựa vào ngọc thụ (cây ngọc).
Câu ấy cùng <nội cảnh>“trạch trung hữu chân thường y đan (trong nhà có người thường mặt đồ đỏ)”giống nhau. Trạch (nhà ở) là linh trạch, là nơi bồi dưỡng thành âm đan, có một tên là lư gian (gian nhà), một tên là phương thốn (thốn vuông). Đường kính dài không quá một thước (xích), ước tính bên trong có thần cư ngụ. Chăm chú khiến nội cảnh không thể xuất, ngoại cảnh không thể nhập, hạ thủ tại đó, hô hấp tại đó, bảo dưỡng tại đó, ẩn ở đó, tinh thần quy căn (trở về gốc ở đó). U khuyết sai khiến nó, chảy vọt xuống dưới mà cánh, cánh là dừng lại. dưỡng tử ngọc thụ là tưới trồng linh căn khiến cành ngọc lâm xum xuê, có thể vi trượng (tựa vào) là lời nói ẩn dụ nội đan đã thành tựu, Có nghĩa là giúp người già đã suy kém.
Chương thứ năm
Chí đạo (đạo cùng cực) nếu không giản dị thì không gặp ngay bên cạnh, linh thai trên trời soi vào bên trong. Bên trong thốn vuông cực trống rỗng ấy hạ xuống, bên trong ngọc phòng là nhà thần. Tất cả đều là công tử người dạy cho ta.
Trái lại của Ngỗ là hành (là đi) vậy. chí đạo nghịch hành (đi ngược), đương nhiên không giống [2] bàng môn nghịch hành là trên trái dưới phảI, đó không phải chính pháp. tất nhiên là phải phía sau đi lên phía trước đi xuống, bèn tự nhiên thành đại lộ (đường lớn). Linh thai sinh ra ở trung thiên, là nơi phát ra chân tâm. Hạ lâm trung là chú ý ở trung ương huỳnh đình. Phương thốn là trở về trong. Khuyết hạ là dưới rốn vậy, ngọc phòng là <nội cảnh> của kim quỹ (rương vàng), ngọc phòng. Ngọc phòng và kim quỹ cũng ở bên trong. Ôi thần của người trụ ở mắt, nên gọi đó là nhà của thần, thường nói cơ tại mục là như vậy. cái chủ yếu của chí đạo (cái đạo cùng cực) ấy, đều là con của mộc công, người chỉ bảo cho ta. Công tử là chấn đế (vua sấm), là trường tử ( người sống lâu dài), là long. Long tòng hoả xuất (rồng cùng hoả sinh) hống (thuỷ ngân) tính linh thông. Đạo dạy người trước tiên phải tỏ rõ tính mình, có thể tỏ rỏ tính mình thì có thể tự mình tỉnh ngộ, tự kỷ (tự mình) tỉnh ngộ cũng như có công tử chỉ vậy.
Chương thứ sáu
Minh đường đạt bốn nguồn pháp hải [3], đan chân nhân đang trước mặt ta. Khoảng tam quan tinh khí tụ nhiều, con muốn bất tử thì tu trì ở côn lôn.
Minh đường là cung minh đường. cung ấy nằm bên trong khoảng giửa hai chân mày một thốn, nhật nguyệt đều trú lại, chiếu diệu quang minh (sáng rỏ) nên nói là đạt được bốn.
Vận dược đến đó là nơi đan pháp quy hội trở lại, nguyên đầu ( nguồn đầu) hoạt thuỷ (thuỷ linh hoạt) theo đó mà hoá sanh nên gọi là pháp hải nguyên [4] (nguồn biển pháp). Tử đan là thai vàng vậy. do minh đường nhập thần thất (nhà thần), thần thất ở phía trước minh đường nên nói đang ở trước ta. Kiến (thấy) tam quan có chú thích trong <nội cảnh>. Muốn bất tử thì tu ở Côn lôn, câu ấy là diệu ngữ của huyền trung huyền, không thể không biết. Thượng côn lôn là nơi tu luyện dương thần, là quê hương của trường sinh lìa xa cái chết, người cũng biết mà càng không dừng nó lại. Trong Côn lôn, ẩn ở trong thân là cảnh chí thanh chí không (cực thanh cực không), khí cùng thần hợp, đông đặc lạI tạo thành một mảnh như vào vạn nhận ( nhà chu định tám thước là một nhận) trong hư không, trong thân tuy có thượng trung hạ tam quan, đến đấy tất cả đều không thể phân tam quan thì nhất chân riêng lộ, vạn tượng đều không, rời khỏi ranh giới mọi loài, tạo cảnh lồng lộng. Cái gọi là <đạo tình> của Trương tam phong [5] tiên sinh là:“vô sự chân nhân ẩn vào trong, chủ ông ngồi ngay ngắn ở trên côn lôn”là như vậy. Ở nơi ấy thấy được dương thần tiên thiên trường sinh chứ không phải hậu thiên chuyển kiếp âm thần. Nên nói ở khoảng tam quan tinh khí thâm hậu, muốn bất tử thì tu ở thượng côn lôn. Thơ <hoàng đình > là chủ yếu ở hai chử“chi gian”trước mắt, lại có hạ côn lôn là để tu nguồn phát hoả của đan, tất cả làm rồi sẽ biết. phàm tu ở côn lôn cần ngưng thần ở khoảng tam quan, khoảng ấy chí thanh chí tinh (rất trong rất sạch). Có khí rất tịnh (sạch), thần nhập vào trong, mầu nhiệm thâm sâu mênh mông xa tít, không không vô vô, tâm rất rỏ ràng lại không động niệm trong một sát na (một thời gian rất ngắn, chỉ trong một mối niệm có tới 90 sát na) liền siêu lên thượng thừa. thế nhân thấy hai chử côn lôn liền cho đó là nê hoàn. Nếu không có ngô sơn bảo hoà hai sư luôn luôn chỉ điểm ai biết trí ý ở khoảng tam quan như thế.
Chương thứ bảy
Giáng cung ở bên dưới trọng lâu, dược vào giáng cung, tất nhiên trước sẽ xuống phế quản trọng lâu 12 tầng. Trong cung khuyết là chỉ Hoàng cung. Đuổi nhị khí ở hoàng đạo, hợp tam tính ở hoàng cung thì ngủ khí triều nguyên, mọi thứ đẹp xinh hội tụ nên gọi là ngủ thải tập ( năm sắc xen nhau). Xích thần chi tử là chân ý. Do tâm sinh ý nên nói là con của xích thần (thần đỏ). Trung trì (trong ao) là nguyên hải, lúc năm sắc cùng hội hợp, chân thổ giữ chân diên, chân diên chế chân hống, ổn định mà không loạn thì thần khí ngưng tụ nên nói là gây dựng. Bên dưới trung trì có trường thành, là đê vàng. Lại có huyền cốc là quê hương của thuỷ. Bên trong ấp là nơi người tu hành thực thải (ăn, hái) như ấp và kinh đô của nhân gian. Có tường thành vây quanh nó, có hào xung quanh nó, là một nơi nghiêm ngặt. Sự thần diệu của trường sinh từ phòng trung (trong phòng) mà đạt, đan gia gọi đó là thuật tiếp mệnh cũng như nam nữ giao cấu, không phải việc chọn lựa mà là thần khí cùng dò xét. Kim mộc giao hợp là như vậy.
Chương thứ tám
Quên bỏ dâm dục chuyên chú nuôi tinh, thốn điền xích trạch khả trì sanh (có thể kéo dài sự sống). thường làm tâm yên ổn, xem xét tâm chí, ngắm thần tam kỳ linh. Nhàn hạ vô sự tâm thái bình.
Ý chính là khuyên người giới hạn sắc dục để yên tinh. Thốn điền là mệnh môn. Xích trạch là linh xá (nhà thần linh). <nội cảnh> nói,“một thốn vuông trong mệnh môn”, sách này nói đi lên khoảng 1 thước (xích) là nơi dưỡng thân tồn tâm, người phàm tục cho là mặt ngoàilà không đúng. Tâm không an ổn do bị quấy rối và rong ruổi theo bên ngoài. Cứ lưu chuyển lâu không trở về nên cần liên hệ với bên trong để an tâm. Quan chí là bế (đóng) nội quan để giữ chí. Du thần là chân nhân ẩn rất sâu, vật trôi nổi thu trở về trong. Đắc cảnh tượng lặn ngầm trong nước là lúc tinh khí thần hợp lại không phân nên gọi là tam kỳ linh. Nhàn nhàn hạ hạ, vô sự vô vi là tâm cảnh rất bình yên.
Chương thứ chín
Thường tồn ngọc phòng đạt thần minh, thường niệm thái thương (cái bịt đựng thóc) hết đói khát. Sai khiến lục đinh thần nữ yết kiến, bế (đóng) đường tinh có thể trường hoạt (trường sinh).
Thường tồn ngọc phòng là giờ giờ tồn thần, nhắm mắt nội thủ, thần không nhàn tản bên ngoài thì sẽ định hơn có tuệ (trí sáng ) hơn. Người biết thần là thần đạt minh (sáng suốt), mà không biết là không thần thì thần bèn đạt chân minh. Thì niệm thái dương là giờ giờ điều hoà giúp đở, lấy vị nhạt (đạm bạc) mà dưỡng nó, thái thương là dạ dày, ý thổ ở đó, nơi ý ở là nơi thái thương, không thể chấp ở dạ dày hữu hình. Tiên gia xem huyền quan là thái thương huyệt, là nơi trường thai trụ tức (nuôi thai lớn và giữ hơi thở nơi đó), <nội cảnh> nói,“thốn vuông trong mệnh môn”, ngô sơn [6] lấy làm nơi ý an cư và xem xét chân thông vậy. Ý thổ cường thịnh có thể tiêu tán thuỷ cốc (đồ ăn thức uống), chứa đồ ẩm thực (ăn uống) rồi biến hoá nên nói không đói khát. Thần Lục đinh danh gọi là nữ, là âm thần. dương thần ở ta có thể sai khiến lục đinh, truyền đến yết kiến, đạo trường sinh là như vậy, tóm lại chủ yếu là bế (đóng) đường tinh vậy.
Chương thứ mười
Thần ở bên trong chánh thất, tẩy tâm tự sửa không vấy bẩn. quan sát ngủ tạng là tiết độ, lục phủ tu trì tinh khiết như tơ trắng. hư vô tự nhiên là gốc của đạo.
Chánh thất là trung ương thần thất (nhà giữa của thần) , không thiên không lệch. Tẩy tâm thoái tàng (tẩy rửa và cất dấu tâm), tự siêng năng tu trì, không cảm thấy nhơ bẩn. do nội quan nên thấy ngủ tạng rỏ ràng như soi đuốc, một thân tiết độ là tất cả đều có thể xét đoán vậy. Do nội quan lục phủ nhất nhất tu trì, tự nhiên tinh khiết như tơ trắng, đều không trọc uế (dơ bẩn), đạo hư vô tự nhiên theo người xưa là như vậy nên gọi là nguyên cố (gốc).
Chương mười một
Vật theo tự nhiên thì muôn sự không phiền nhọc, ai chắp tai vô vi thì thân tự an. Thể mà hư vô thì tâm tự nhàn hạ, yên lặng sáng láng miệng không một lời. tu cho hoà với cung chân nhân vốn độc lập.điềm đạm vô dục vui đức vẹn tròn. Thanh tịnh hương thơm thanh khiết tồn tưởng ngọc nữ, tu môn đạo đức minh thiện.
Vật thì có vật âm, vật dương, phân làm kiền (trời), khôn (đất), nội (trong), ngoại (ngoài). Xem xét vật ấy tự nó có lời nói bên trong. Phàm tu nội vật cũng có lý tự nhiên bên trong, không cần nhiều việc, sự ấy vốn là không gây phiền. Thân an thì tinh bất động, tâm nhàn thì thần không rối, miệng không nói thì khí không tán. Chỉ chắp tay ngay thẳng vô vi, trong thân thể không có vật, yên lặng sáng láng, tu đạt cái lý của thái hoà, thủ độc lập bên trong, Đó gọi là chân nhân cung. Điềm điềm đạm đạm, không có dục niệm bên trong, vui ở cái đức vẹn tròn, mầm ngọc rực rỡ. lúc ấy thì thanh tịnh không nhiễm, hương thơm thanh khiết không bụi trần là trường tồn ngọc nữ. ngọc nữ là ví dụ của nội hống, đức là người đắc ở thiên (trời) cái hư linh bất muội (không mê muội). Tất cả đều trình bày các đạo lý ứng với vạn vật; sở dĩ tu là để phục lại hư linh cho thân thể yên. thiện do trời phú cho người, một điểm tối sơ là cái gốc của tính là cái nền của tâm; sáng suốt sở dĩ thấy bổn lai (gốc) là do đạt chân yên tĩnh. Đại đạo môn trước dạy người hiểu tận tường tính, cũng ở tu cái đức minh thiện (sáng, lành) như vậy.
Chương mười hai
Tác đạo vui nhiều sống riêng lẽ, giúp dưỡng mệnh hạ thủ ở hư vô. Điềm đạm hư vô suy nghĩ gì, cánh chim là sự nâng đở chính, trường sinh xem xét lâu bèn phi khứ (bay đi).
Tác đạo là nói đến tu đạo. người tu đạo, hoặc tại nhân gian hoặc đã xuất thế, cần quan trọng ở vui hơn và do tự thích, giữ thân mà sống riêng yên tĩnh. Trong thân có tính mệnh, cái nhất ngày ngày giúp giử lấy, thời thời dưỡng dục. trước tu luyện ngọc để minh tính, sau đó tu luyện kim để lập mệnh, bí mật chính yếu là nội thủ ở hư vô. Khoảng trời đất mà con người sinh ra, nhiều suy nhiều nghĩ, nếu có thể thủ ở hư vô thì điềm nhiên đạm nhiên, vô vi nhi vi (không làm mà làm), có gì để suy để nghĩ. Tiên gia lấy việc luyện khí gọi là luyện vũ dực (cánh chim), khi thần đầy đủ khí vẹn tròn thì vũ dực thành. Phù sơ là thần khí như cành non tốt tươi. Theo đó mà vẹn toàn tính mệnh bên trong, bên ngoài hình thể bền chắc, ẩn hiện trong nhân gian, sống trường sinh lâu dài. khi chán ghét cõi trần, bèn thoát xác bay đi.
Chương mười ba
Ngủ hành tham soa cùng một gốc, tam ngủ hợp chính yếu là bổn nhất (gốc một). ai cùng sao bắc đẩu nhật nguyệt, ôm châu mang ngọc hoà tử thất. con có thể thủ được một thì vạn sự xong, con tự có nó mà giữ vô thất. con muốn bất tử thì dấu đi kim thất.
Tham soa là dùng lẫn lộn với nhau. Theo thứ tự ngũ hành thì kim mộc thuỷ hoả thổ tương sanh tương dưỡng (sinh nhau và dưỡng nhau). Ngũ hành lẫn lộn với nhau thì kim mộc thuỷ hoả thổ khắc chế lẫn nhau. Khoảng ấy có mộc hàng (đi xuống) kim thăng (đi lên), dùng thuỷ làm chủ hoả làm khách. Đạo thì không thể cùng thứ bậc nên nóingũ hành tham soa. Như thế nhất khí ấy cùng thành thì đồng căn cộng tiết (cùng gốc và thứ bật). tam cùng ngũ hợp lại, đếm nó là tám, phân âm phân dương, chính lúc sau bảy ngày lai phục (trở về). Nhớ lại gốc là từ hư vô sinh nhất khí, nhất khí sinh âm dương nên nói chính yếu là ở bổn nhất (gốc một). nhất khí ấy dưỡng ở hư vô. Ai cùng hợp với nó thì bắc cực nhị diệu (có mặt trời mặt trăng ở bắc cực) là như vậy. đầu đuôi sao bắc đẩu (đấu khôi đấu tiêu) tinh thần động tĩnh là lúc xét đoán bám vào nhật khảm nguyệt thuỷ hoả cùng một cung mà luyện, ta chỉ ôm minh châu, nhớ mĩ ngọc (ngọc đẹp) mà tu hoà tử thất. tử thất là hư vô . có thể thủ hư vô nhất khí, đợi đến mà bắt giữ nó, thì tính mệnh tại ta, vạn sự đều thành. Nhất là vật mà thân tự có đều chính yếu là phải kiên trì chớ để mất, mất nó thì chết, không mất thì không chết. con muốn bất tử thì phải đưa nhất ấy dấu đi trở vào trong hoàng kim thất, vĩnh viễn không rời, thì đại đan thành tựu vậy.
Chương mười bốn
Xuất nhật nhập nguyệt là đạo của ta, thiên thất (trời bảy) địa nhị (đất hai) cùng giữ. Lên xuống tới lui nhất hợp cửu, ngọc thạch lạc lạc (lạc: có lẽ một loại ngọc) là vật quý của ta. Con tự có nó sao không giữ? Tâm hiểu căn đế (nền gốc) của nó thì dưỡng hoa để thái thủ, tùng thiên thuận địa dấu tinh hải (bể tinh), trong vòng bảy ngày đó trở về tương hợp, tính của côn lôn là không mê hoặc.
Xuất nhật nhập nguyệt là đường âm dương qua lại nên nói là ngô đạo (đường của ta). Thiên thất là hoả mà được tính theo thuật số. hoả thành ở thiên (trời), từ trên xuống dưới là quẻ vị tế. hai quẻ ký (đã) vị (chưa) cùng giữ lẫn nhau, ấy là việc của kim thuỷ. lên xuống tới lui là thượng hạ vậy. nhất hợp cửu là kim thuỷ không thể rời nhau vậy. tiến thì kim trong thuỷ thăng (đi lên), lui thì thuỷ trong kim hàng (đi xuống) , tăng giảm ấy thật kỳ diệu. ngọc thạch lạc lạc là so sánh với kim dịch (nước dãi) tròn tròn như cái trứng tròn, đi xuống cổ họng mà thành chí bảo (vật cực quý) của thân ta. kim dịch hoàn đan ai ai cũng có. có thể không hạ thủ mà đắc nó hay sao?. Công phu hạ thủ ở đó là do nó đã thâm căn cố đế (gốc sâu nền vững) rồi vậy. mà hiểu đạo ấy thì tuyệt không phải là kỳ diệu ở tâm. Tâm biết rỏ ở căn đế (nền gốc) thì hợp kim thuỷ để dưỡng hoàn đan thì sang tỏ, dần dần có hoa để thái thủ, công pháp ở bậc ấy chủ yếu phục theo kiền thiên (trời), thuận theo khôn địa (đất), hành sự theo thiên thời, thu vào và cất dấu tinh hải. tinh hải là nguyên hải ( biển nguồn). trong bảy ngày lai phục (trở lại) thì tinh tú khắp nơi sẽ trở về bên trong nội viện cùng ta kết nên đan, cả hai hợp lại, dưỡng ở trung côn lôn, điều (điều hoà) ở thượng côn lôn, một mảnh không thanh ( trống không trong sạch), bổn tính tròn sáng nên nói là tính côn lôn không mê hoặc.
Chương mười lăm
Núi Cửu nguyên (chín nguồn) tại sao đình đình (dong dõng), bên trong có chân nhân có thể sai khiến. che đậy tử cung (cung màu tím) thì đan tạo thành lâu (nhà lầu), dùng xem nhật nguyệt như minh châu. Vạn năm vẫn chiếu sáng, bên ngoài bổn (gốc) tam dương tự đến, bên trong nội dưỡng tam thần có thể trường sinh. Hồn muốn lên trời phách muốn nhập sâu vào, hoàn hồn phản phách (hồn phách trở về) là đạo tự nhiên, tiếp đến là kết châu làm vững linh căn.
Cửu cung là cửu dịch nguyên (chín nguồn dịch) mà <nội cảnh> nói. Cửu là kim, nguyên là thuỷ. Lời trên dùng kim thuỷ, câu ấy là gốc kim thuỷ. Cửu nguyên tại hạ côn lôn nên nói là núi cửu nguyên. Đình đình là dáng núi cao. Trong núi có chân nhân hiệu (tên hiệu) là Huyền minh đồng tử còn gọi là Đào khang, có thể sai khiến được. tế dĩ tử cung đan thành lâu, hiệp dĩ nhật nguyệt như minh châu là nói che dấu bí mật nghiêm ngặt. che dấu bí mật thì nội hoả tinh thuần, có thể hiểu tiên đạo. vạn năm vẫn sáng láng. Trường minh cửu thị là không tính được năm. ấy là khúc nhạc đại hoàn vậy. lúc ấy trước tu đan bên trong rồi mới tu ở bên ngoài đỉnh, kiền tam dương và khôn tam âm, thiên địa điên đảo, khách chủ lẫn lộn, lấy kiền nhập khôn thì tam dương ở ngoài chỉ trong một thoáng tiên thiên nhất vật chẳng hẹn mà tự đến, tên gọi là thuỷ trung diên. Lấy diên chế hống, do ngoại hoàn nội (ngoài trở về trong), tụ tinh dưỡng thần, lấy tam dương bổ tam âm, phục (trở về) thành kiền thể, nối tiếp trường sinh. Tam thần là tam âm. Nội dưỡng tam thần, ngoại đan phục nội đan vậy. nội đan đã phục thì an định rỏ ràng, có thể trường sinh. không trường sinh thì đến lúc phảI chết. hồn dục thượng thiên, phách dục nhập uyên là hồn phách không còn gần, các đạo diên hống. hoàn hồn phản phách là hồn muốn đi lên để sai khiến bên dưới, phách muốn vào để sai khiến xuất ra, hồn phách đều câu thúc, <ngộ chân > nói“địa phách giữ chu hống (hống đỏ), thiên hồn chế thuỷ kim”. Đại đạo ấy là sự tự nhiên. Tu đan đến đấy, tiếp đến sẽ kết tựu thành minh châu, muôn đời bền chắc linh diệu chi căn (gốc linh diệu) mà làm tiên nhân vậy.
Chương mười sáu
Toàn cơ huyền châu hoàn (trở về) không có đầu mối, ngọc thược (khoá ngọc) [7] kim thược (khoá vàng) làm thân trở về bền vững. đất che chở trời trở về khắp cả kiền khôn, tượng lấy bốn thời sắc đỏ như đan. Trước xem sau xét các pháp môn khác vận dùng hoàn đan cùng huyền tuyền (suối diệu huyền). hình tượng là quy (con rùa) dẫn khí đến linh căn.
Toàn cơ là tiến dương hoả mà toàn cơ vận đó vận chuyển lên trên. Huyền châu là thối âm phù mà ngọc châu (ngọc trai) đi xuống dưới. hai cái ấy như một cái vòng không có đầu mối. khi nhập vào trong như thế dương đan cùng âm đan giao kết ngưng tụ, ngọc thược [8] (khoá ngọc) kim thược (khoá vàng) cả hai mà được đóng chắc chắn thì thân ta sẽ bền vững. Lấy địa là hoàng đình khôn thổ để che chở cho nó. Trở về ở thiên là bạch dịch kiền kim vậy. một vòng chu thiên bên trong là hết cả cái diệu của kiền khôn âm dương. Ấy là Mộc dục mão dậu, là doanh (đầy tràn) hư (trống rỗng) sanh thành, lại phân làm tượng của tứ thời, đến lúc tứ thời không còn vận hành cùng hoa tứ thời thật thì mười tháng sương bay, cánh hoa vàng quả chín, màu đỏ ấy như đan sa (chu sa), đó gọi là nơi phản bổn hoàn nguyên gọi là đan, nơi dưỡng đan tiền ngưỡng hậu ti, tiền là nhâm mạch dừng lại ở tiểu phúc (bụng), cái tượng ngưỡng, hậu là chỉ đốc mạch khởi ở vĩ lư, hình ấy là ti (thấp). nhất ngưỡng nhất ti là cửa xuất nhập (ra vào) của kim đan. Vãng lai (sự qua lại) ấy có các khác biệt là xuất ra ngoài là đi, nhập vào là hoàn (trở về). hoàn đan (đan trở về) thì hạ thủ, giao phó cho huyền tuyền. huyền tuyền là một khiếu thâm sâu trong hư không. Thông thường nghe nói bên dưới lưỡi là liêm tuyền bèn làm theo lời nói bên ngoài. Tóm lại của câu ấy là hình tượng quy (rùa) dẫn khí đến linh căn, nếu không phải thâm sâu thì yên sẽ đắc linh căn vậy.
Chương mười bảy
Bên trong có chân nhân vận một chiếc khăn màu vàng kim, cầm phụ giáp phù (cái thẻ) khai thất môn (7 cửa). đó không phải là lá mà thật là gốc, đêm ngày tồn tưởng có thể trường tồn.
Trung là bên trong thâm sâu, không phải bên trong trái tim máu thịt. thất môn là so với thất khiếu. trái tim máu thịt có bảy khiếu, linh minh tâm (tâm sáng suốt) cũng có bảy khiếu. có thể lấy chương hai mươi tám của <nội cảnh> mà tham khảo.
Chương mười tám
Tiên nhân đạo sĩ không phải tự có thần, tích tinh luỹ khí mà thành chân. Người đều ăn lương thực cùng ngũ vị, riêng chỉ ăn thái hoà âm dương khí nên có thể cùng trời đất bất tử.
Khí thái hoà do âm dương hợp thành đã tận. Cùng trời mà tận thật ra là không tận (kết thúc) vậy.
Chương mười chín
Xét thử thuyết ngũ tạng mọi người đều có,tâm là quốc chủ là vua ngũ tạng. một ý động tĩnh làm cho khí vận hành, đạo tự thủ là thần minh quang (ánh sang thần minh) của ta, thông hoa tinh của ta mà điều hoà âm dương, cả ngày sáng sáng đêm tự hạ thủ. Khát tự được uống, đói tự sẽ no, đi qua lục phủ ẩn dấu mão dậu. chuyển dương âm ấy ẩn ở cửu, xét có thể làm nó thì không biết già lão là gì.
Ngủ tạng lấy tâm làm chủ, người lấy thân làm quốc (nước của mình), nên tâm có danh hiệu là quốc vương. Ý do chân tâm sinh ra, tĩnh thì cùng khí nương tựa lẫn nhau, động làm cha sinh của khí. Thấy hai là một nên nói là đại thành. Muốn đắc chân ý thì dùng đạo thủ (coi giữ) thần minh. Có thể thủ thần minh thì có thể xuất chân ý, thông hoa tinh của ta, điều hoà âm dương. Hoa tinh là chân diên vậy. diên hống cùng hợp thì âm dương hoà hợp, theo đó thì sáng khó khăn tối thì mù mờ, ban ngày hành hoả sáng rỏ, đêm thì yên lặng hành phù (cái thẻ như thẻ bài). Kim thuỷ lại thêm hơn, khát thì như được uống còn đói thì tự no vậy. kinh lịch lục phủ là (trải qua sáu phủ) nguyên khí sung mãn (đầy tràn) trong thân, ẩn dấu đan trong mão dậu môn (cửa). tàng là chuyển dương thành âm như giấu long (rồng) ẩn ở hào sơ cửu, tất cả nhất ý động tĩnh là nó vậy. xét có thể làm như vậy vĩnh viễn không biết đến già lão vậy.
Chương hai mươi
Gan do khí điều hoà nuôi dưỡng, đầy cả ngủ tạng sinh ra tam quang. Trên nối vớ tam tiêu bên dưới là ngọc tương, thần hồn phách của ta thì ở trung ương. Tân dịch lưu chuyển như dòng suối thì xua đi mùi hôi, được tạo ở huyền ưng [9] hàm chứa trong minh đường. lôi điện (sấm chớp) đánh thình lình cùng theo. Mão bên trái cùng dậu bên phải là bảo vật của ta. ẩn nấp ở huyền môn dò ngóng thiên đạo, gần ở thân ta trở về tự giữ lấy. Thanh tịnh vô vi thì thần lưu lại, tinh thần trên dưới phân mở ra đạo lý. Thiên đạo hanh thông là loại cỏ trường sinh, bảy lổ mà thông thì không biết đến già lão. Trở về giữ thiên môn dò ngóng âm dương, bên dưới cổ họng thông với thần minh, qua hoa cái (phổi) đi xuống thanh (trong) và mát lạnh, vào sâu trong lạnh sẽ thấy hình của ta. Đó là thành hoàn đan có thể trường sinh, bên dưới có hoa trì làm động thận tinh. Tạo ra ở minh đường soi xuống đan điền, sẽ khiến chư thần khai mệnh môn. Hanh thông từ thiên đạo đến linh căn, âm dương phân bố như sao lưu chuyển.
Một gốc có khí gan chu lưu không có đầu mối kết thúc là câu có thể chấp nhận, như đại chỉ chương ấy . hay lời giải thích hiền nhân sau này, do bảy chử đưa vào câu văn hỗn tạp nên bất nhẫn mà bỏ nó đi rồi thêm vào cái khác.
Can là khí điều lý mà lưu chuyển, tự hợp mà lưu chuyển, cái chân có thể che chở thân. bên trong như lục phủ, ngủ tạng, tạng phủ tất cả đều là nơi mộc dịch làm thấm nhuận. ngủ tạng bày ra, tạng tạng được duy trì, hợp với tam tiêu mà xuống ngọc tương, là cùng chân nguyên nhất khí chu lưu không dừng. gan chứa hồn, cái ấy đều nói ta biết tâm là thần, phế là phách, cùng ở trung ương, lấy tam tính hợp ở hoàng cung. Mộc sanh tân dịch (nước miếng), hoá làm lưu tuyền (dòng suối chảy), có thể lấy mà xua đi mùi hôi mà giữ lấy thanh hương (hương thơm trong trẻo). lập vu ư huyền ưng [10] là tân dịch ấy muốn xuống mà không xuống được , khí ấy sớm đã hàm chứa minh đường, trong thời gian ngắn, chảy như suối xuống bên dưới, rót vào tam cung, bên trong dạ dày như tiếng sấm chớpđánh thình lình, thì bám minh đuờng cùng tiến. Xuống giáng cung mà quay về nguyên hải. nơi đó là cửa của mão dậu, xuống trở lại thì khí xuất, mà chuyển đi thì dịch chạy vào, đó là chí bảo của thân ta. Là khoảng tuất hợi, trở về huyền môn, lại dò ngóng đại đạo trở về. người nói thiên đạo ở xa, ta nói thiên đạo gần, chu thiên đúng số, thì ở thân ta trở về cần có pháp tự thủ. Thanh tịnh vô vi, thần bên trong không lưu chuyển thì tinh thần trên dưới phân khai điều lý, qua qua lại lại, sơ thông quan tiết, làm hanh thông nhất thân đại đạo ấy là trường sanh tiên thảo vậy. do ân cần quán khái (tưới rót) vậy, Tâm rỏ ràng, bảy lổ thông suốt, mãi vẫn không biết đến già lão. Đắc hồng phúc ấy vẹn lành hai khí âm dương. Khí thăng lên trên thiên môn là thanh, khí giáng xuống bên dưới thiên môn là huyền. <nội cảnh> nói“xuất thanh nhập huyền hai khí sáng rực”là như vậy. Nên tất nhiên ngưng đọng lại là thần còn tức (hơi thở) là khí, trở về giữ thiên môn, chờ đợi âm dương phân chia, đến khi thanh thăng huyền hàng ( khí thanh đi lên huyền đi xuống) mà sau đó hàn tuyền (suối lạnh) nhỏ giọt giọt xuống cổ họng mà thông thần minh, qua hoa cái (phổi) mà trong mà mát, nhập vào sâu bên trong mà trong trong lành lạnh, tẩy tâm quét sạch suy tư, thấy ta điềm đạm vô dục mà chân hình yên. Đó gọi là hoàn đan. Khi hoàn đan thành có thể trường sinh. Trước khi kim đan chưa hoàn (trở về), dưới có hoa trì có tên là khí hải, tinh trong thận ấy sinh động, ta lập minh đường lấy mà xem xét nó, chiếu xuống đan điền, tức là nuôi quân thành quan, là lúc toan tính chủ tể (ngôi chúa tể). lấy ý nuôi quân là muốn khiến sai chư thần khai mệnh môn, hanh thông từ thiên đạo đến linh căn, mà âm dương bày bố, nhanh như dòng sao chuyển động.
Chương hai mươi mốt
Phổi là do khí tam tiêu sinh, ẩn ở thiên môn dò xét đạo xưa. Thanh dịch lễ tuyền (suối rượu) làm thông lục phủ, theo trên dưới mũi nhận biết được ở hai tai. Xem xét thiên địa, tồn tưởng đồng tử, điều hoà tinh hoa làm nhuận răng tóc. Nhan sắc sáng láng mà không phải do uống thuốc, bên dưới cổ họng sao mà lành lạnh, chư thần đều hội cùng cầu xin, bên dưới có giáng cung tử hoa bày ra. ẩn tàng hoa cái (phổi) thông thần lư (nhà của thần), chuyên thủ thì tâm thần chuyển thành tương hô (có cảm có ứng). Xem xét thân ta thì thần minh sẽ xua đuổi chư tà ma, tỳ thần trở về nương theo thân. chí ở dạ dày thông hư vô, ẩn dưỡng linh căn không bị khô lại. bế tắc mệnh môn như ngọc đô, truyền đến vạn năm vẫn thừa thải đầy đủ
Câu đầu thấy có chú giải bên trong. Tu sửa phế khí là ắt hẳn trước tiên phải ẩn ở thiên môn, cùng dò xét đạo xuất nhập xưa, khí sẽ hoá thuỷ, thì thanh dịch lễ tuyền rót vào làm thông lục phủ. Khí ấy thuận trên dưới của mũi. Nối liền thước kiều thì trên là khí dưới là dịch. Trong hư không nghe tiếng lưu tuyền, biết nó là do hai tai. Lại lấy công pháp nội chiếu, dòm ngó thiên địa đi lên xuống, lấy tồn tưởng bạch nguyên đồng tử, khiến sai giúp đở lục khí, điều hoà tinh hoa trong thân, dưỡng nhuận răng tóc, nhan sắc sinh quang, mãi mãi chẳng cần dùng thuốc. dịch xuống cổ họng tự nhiên lành lạnh, nhiều như mưa đầu mùa, chư thần tương tác, các tạng đầm thấm mỹ vị. bên dưới có giáng cung, thuận nhỏ giọt vào tử hoa phu vinh (hoa tím đang nở rộ), ẩn tàng bên dưới hoa cái mà thông đến nơi ở của thần minh. Ôi tâm cùng thần tuy hai mà lại là một, chuyên thủ tâm thần khiến tâm gọi thần, thần gọi tâm, lúc thì ở tâm,lúc thì ở tỳ, thần đều sáng mà không tối, xem xét thần minh của ta, chân có thể đuổi chư tà ma. ở tỳ là tỳ thần, đến rồi mà như trở vềthường nương nhờ tỳ là đại gia, đến giữa dạ dày, dưới thông cảnh hư vô, ẩn mà dưỡng linh căn. Không làm nó lại bị khô héo, tất cả phế khí được tưới trồng, suy cùng là như vậy. chỉ là ẩn mà nuôi dưỡng nó, cần cốt yếu là bế mệnh môn (đóng mệnh môn), thanh khiết như ngọc đô, nhất trần không nhiễm, vạn suy tư trong sạch. Do linh căn ấy kiên cố, truyền đến vạn năm, chỉ dư chứ không thiếu vậy.
Chương hai mươi hai
Thần bên trong tỳ làm chủ ở trung ương, triều hội ngủ thần hoà vào tam quang. Trên hợp thiên môn hội ở minh đường, làm thông nhuận lục phủ điều hoà ngủ hành. Kim mộc thuỷ hoả thổ là vua, nhật nguyệt đầy đủ sẽ nuôi lớn âm dương. [11], mồ hôi làm thông lợi huyết mạch, tu giúp thất khiếu bỏ qua cái không rỏ. đắc được hai thần thì hạ xuống ngọc anh, ở trên bẩm nguyên khí làm tuổi thọ kéo dài thêm.
Tỳ thuộc thổ, nên thần ấy làm chủ trung ương. Triều hội ngủ thần là ý hợp lại ngủ hành. hoà tam quang là vận hành nhật nguyệt vậy. thượng hợp thiên môn hội minh đường câu ấy là điểm xuất phát của 2 chương trên. Huyền môn hậu thiên đạo là tỳ thần; thiên môn hậu âm dương cũng là tỳ thần; thiên môn diệc cố đạo cũng là tỳ thần. hội minh đường không phải là cung minh đường giữa hai chân mày cũng không phải giáng cung mà là ở giữa hư vô. Thông lợi lục phủ, điều hoà ngủ hành, kim mộc thuỷ hoả lấy thổ làm vua, nhật nguyệt lưu lại bên trong có âm dương, lấy gì mà phân chia nó?. Tỳ thần chủ về trương (làm chủ ở sự căng), thông lợi huyết mạch, hoá mồ hôi thành nước, tu giúp lấy thất khiếu làm tâm, quét đi ý nghĩ không rỏ ràng, tất cả nhờ vào việc lập tỳ thần bên trong, vì ý do tâm sanh. nhị thần là tỳ thần và tâm thần. tương đắc là biết hai là một vậy. hạ ngọc anh là ngọc dịch quán tâm (dùng ngọc dịch tưới tâm), thổ cũng sinh mầm vàng. thượng bẩm nguyên khí là lấy khí bổ thần, thần nhờ vào khí, khí túc (đầy đủ) thì thần trở về, tăng thêm tuổi thọ vậy.
Chương hai mươi ba
Ngủ tạng làm chủ lấy thận làm làm chính, ẩn thái âm mà chứa cái chân. Ra vào hai khiếu hợp với huỳnh đình, hô hấp hư vô thì thấy hình dáng của ta. Làm mạnh gân cốt làm hưng thịnh huyết mạch, hoảng hốt sẽ không thấy được thanh linh. Ngồi ở lư gian quán tiểu đồng, tồn tưởng đến nội tức làm sáng thần minh. Xuất ở thiên môn nhập vào vô gian, điềm đạm vô dục dưỡng hoa căn. Phục thực (ăn uống) huyền khí có thể trường sanh, trở về thất môn mà uống thái uyên. Thông huyền ưng đến thanh linh, ngồi ở lư gian mà thấy tiểu đồng. hỏi ta tiên đạo cùng phương pháp, phục thực (ăn uống ) là thảo tử (cỏ tím) hoa anh (hoa đẹp). đầu đội bạch tố cách đan điền, mộc duc hoa trì quán linh căn (dùng phép tắm gội hoa trì sẽ rót vào linh căn. Đạt dược ngủ tạng mệnh môn sẽ khai, ngủ vị chí thiện khí sẽ hoàn. Hành theo như vậy có thể trường tồn.
<ngoại cảnh> lấy thận làm kết thúc của ngủ tạng, trở về nhất là vậy. nhất là thuỷ, thận làm chủ, nên ngủ tạng lấy thận làm chính. Thái âm thuộc phế, phục vu thái âm là chân kim sinh chân thuỷ, chân thuỷ ẩn giấu chân kim. Xuất nhập nhị khiếu là cửa của kiền khôn là nhà của âm dương, nhất kim nhất thuỷ một qua một lại bên trong ấy gọi huỳnh đình, là nơi kim thuỷ tàng, nơi ra vào cùng hợp. Trung là hư, hư là vô, hô hấp thủ trung là lấy khoảng thiên địa làm thác thược (khoá), linh linh động động, đông động đặc đặc, luôn như bí mật, làm thành một mảnh, hơi tròn tròn, sáng tỏ. Khí đầy đủ thì thần cũng đầy đủ mà ta có thể thấy hình ảnh chân thật của mình. Sau là có thể làm gân cốt ta cường tráng, làm hưng thịnh huyết mạch. Lúc hoảng hốt, không thấy hình dáng của ta là do bay qua cảnh thanh linh, lên trung đan, nơi ấy là nhà thần minh. Ngồi ở nhà quan sát bên dưới thấy một tiểu đồng nhỏ giống như dung mạo của ta. Tuyệt không để tâm đến việc khác mà chính phải thủ nội tức, nghĩ đến nó, tồn tưởng nó thì cái trí thiên quang sẽ phát, thần minh làm tăng trường thọ. Do vời thần lên thượng đan, xuất ở trên thiên môn, cùng kiền khôn nhất khí tương thông, mênh mênh mông mông, thanh thanh không không, là ta mà không phải ta, là hư nhưng không phải hư, lấy đạo hợp thiên, nhập vào vô gian, điềm đạm vô dục, lấy dưỡng hoa căn. Hoa căn là tiên chủng vậy. tiên có thể tịch cốc (ngừng ăn), chỉ để phục khí huyền môn, có thể trường sinh bất tử. thực huyền khí là cần điều thần nhập nội, trở về thất môn, ngày uống thái uyên. Trở về thủ đạo ở huyền ưng, đi qua thanh linh nhưng ngồi ở lư gian, thấy một đồng tử nhỏ an nhàn hỏi ta đạo tu tiên có một pháp nhỏ kỳ diệu. Ta nói với nó rằng, không phải kỳ lạ, chỉ là có thể phục thực (ăn uống) hoa của thảo tử hoa, đầu đội khăn trắng, đan điền đầy đủ, mộc dục hoa trì (phép tắm gội trong ao hao), rót vào linh căn, ngũ tạng cùng đắc một khí hoà hợp thì khai mệnh môn. Ánh sáng của đan ra khỏi lô đỉnh, ngủ vị đều đến cùng cực, khí lành trở về thân. Chiếu cho phát ra mà hành nó, đắc dược trúc cơ (nền), luyện kỷ hoàn đan (luyện đan trở về với mình), triều nguyên phản bổn ( trở về nguồn cội), trở về cái minh thiện(sáng lành) ban đầu, tất cả đều trong lời nói. Đó là ở ngay cạnh phép tiên, có thể trường tồn vậy.
Chương hai mươi bốn
Đại đạo mênh mông tâm chớ chứa đầy, lời ta tất cả là đừng vọng trần.
Lão tử làm kinh đến đấy, ở hai câu tóm gọnngười miễm cưỡng viết: xem lời ở trên là đại đạo, tự nhiên mênh mông, cực rộng cực chánh, không có lối tắc quang co. hành nó thì chớ để tâm chứa đầy mà lầm lạc. lời ta đã hết, con không vọng trần không phải chỉ trước mặt người ta, tự xem tội lỗi mà quý nó nhớ nó.
<thanh tĩnh kinh > giải thích.
Lão quân nói : đại đạo vô hình mà sinh dưỡng thiên địa.
Vô cực sinh thái cực
Đại đạo vô tình mà vận hành cả nhật nguyệt.
Vô vi mà cũng vô bất vi ( không làm mà cũng không phải không làm)
Đại đạo không có tên gọi mà trường dưỡng vạn vật.
Vô vật sinh hữu vật ( không có vật mà sinh có vật)
Ta không biết tên nên tạm gọi là“Đạo”
Chợt đến chợt đi là đạo, có trước trời đất mà vận hành sinh ra nó vậy. tuy miễn cưỡng gọi tên nhưng tất cả là do tự nhiên.
Ôi đạo có thanh có trọc ( có trong có đục), có động có tĩnh. Vô thanh địa trọc (hư vô thì thanh trong còn đất thì nặng đục), thiên động địa tĩnh, nam thanh nữ trọc, nam động nữ tĩnh. Xuống gốc lên ngọn mà sinh vạn vật.
Thanh cùng động là chung gốc (bổn) còn trọc cùng tĩnh là ngọn. nhất hàng (một xuống), nhất lưu ( một chảy), nhất thi (một thay đổi), nhất thụ (một nhận). thanh trọc cùng chứa lẫn nhau, động tĩnh giao cấu thì vạn vật ở đó càng sinh thêm vậy.
Thanh là nguồn của trọc.
Vô sinh hữu (không sinh có).
Động là nền của tĩnh.
Hữu phản vô (có trở về không)
Người có thể thường thanh tĩnh thì thiên địa tất cả đều trở về.
Thiên thanh địa tĩnh đều trở về nhập vào hư vô vậy.
Ôi nhân thần tốt sạch mà do tâm nhiễu loạn nó.
Nhiễu loạn thần là tâm, là cái vọng tâm vậy.
Tâm người tĩnh tốt thì có thể sai khiến nó.
Cái tâm tĩnh tốt, ắt hẳn trước hết là bỏ mọi việc. tĩnh tâm thì trước phải điều khiển được dục, lắng trong cái tâm ấy thì thần sẽ tự thanh.
Lắng trong tâm là tẩy tâm thoái tạng (tẩy rửa và cất giấu tâm). Tâm như nước dừng thì thần ấy tự thanh.
Tự nhiên lục dục không sinh,
vô nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý từ vô sắc, thanh, hương, vị, súc, pháp.
Tam độc tiêu diệt
Tam độc là âm thần hại nhân tính, âm tinh hại nhân mệnh, âm khí đánh chiếm ngũ tạng người gọi là tam thi. Tam thi cùng âm tặc trong thân người hoặc gọi là tam bành, tam cô là tất cả các vọng tưởng.
Sở dĩ không thể là tâm chưa lắng trong, muốn mà chưa khiển được vậy.
Thần nếu không thể thanh, trước là do dục (ham muốn) nên không thể khiển.
Có thể khiển nó là nhìn trong tâm ấy mà trong tâm không có tâm ấy.
Biết tam tâm là không thể đắc vậy.
Quan sát hình bên ngoài, hình mà không có hình. Xem xét kỷ vật ấy, vật không phải vật thì biết cả bốn đều mất vậy.
Tam là đã ngộ, chỉ thấy ở không.
Phản chiếu nhập không vậy.
Quán không cũng không, không không ở nơi không.
Quán không đến nơi vô, không thì lớn vậy. nếu có hữu thì không thành không.
Nếu không đã vô, vô vô cũng vô.
Quán không đến phía sau của vô thì không cùng vô vậy. nếu có không thì không thể vô. Vô lại có vô, vô cũng bất lập.
Vô vô đã vô, tự nhiên thường chìm sâu trong tĩnh lặng .
Vạn pháp đều là không vậy.
Tĩnh lặng không có chốn thì dục có thể sinh sao?
Tĩnh lặng lại có tĩnh lặng. sao phải suy phải nghĩ?
Dục đã không sinh thì là chân tĩnh.
Nơi của tĩnh ấy trước nên khiển được dục vậy.
Chân tĩnh mà thường thì gọi là chân thường. thầy ta nói rằng:“chân thường có thể ứng vật, ứng vật thì tự không còn mê, không mê thì tính tự sẽ trụ”. Đều chỉ ý ấy vậy.
Thường ứng thường tĩnh thì thường thanh tĩnh vậy.
<định quán > nói rằng:“có sự hay vô sự, thường nếu vô tâm. Xử lý thanh tĩnh và huyên náo, chí ấy chỉ có một”.
Thanh tĩnh như vậy, dần dần sẽ nhập vào chân đạo, đã nhập vào chân đạo thì được gọi là đắc đạo.
Người không vọng tâm thì có chân tâm.
Tuy nói đắc đạo thật không có nơi mà đắc.
Lấy trống rỗng mà dùng thì không tự mãn.
Hoá làm chúng sinh gọi là đắc đạo.
Đã qua khỏi vọng tưởng mà trở về chân thì có thể xưng là đạo nhân vậy.
Có thể ngộ nó thì có thể truyền thánh đạo.
Tính công đã ngộ, mệnh công bèn truyền. nghi nghờ hỏi rằng:“theo trên thì thật không có chổ đắc, lời ấy có thể truyền thánh đạo. tự nhiên thì kinh <thanh tịnh> trên còn chưa nóilà đạo sao?”hàm hư nói : không phải vậy, đã lầm lẫn ở chổ“vô sở đắc ( không có nơi mà đắc) rồi”. sự ấy nên nhập đạo phản quang sẽ giảng giải đến cùng của bổn lai diệu quyết (diệu quyết của cái gốc).
Lão quân nói:
Tâm thường trọng lời nói nên trở về mà được chỉ bảo mở nó.
Thượng sĩ không tranh đua, hạ sĩ thích tranh. Thượng đức là không có đức, hạ đức nắm giữ đức. chấp trước thì không thể gọi là đạo đức.
Vô tranh thì vô dục. thích tranh thì chắc có nhiều dục vọng. bất đức bèn là hữu đức. chấp đức thì vô đức. người không có đức ở cùng cực. đạo cùng cực không dừng lại. chấp đức thì không thể hoằng (mở rộng) vậy, yên lặng thì có thể là đại đức ở trong hư linh rộng lớn. lấy ta hợp với đạo hư linh rộng lớn sao?
Chúng sanh sở dĩ không đắc chân đạo là do có vọng tâm, đã có vọng tâm thì thần sẽ kinh sợ. thần ấy đã sợ thì bám vào vạn vật. đã bám vào vạn vật thì sinh tham cầu, đã sanh tham cầu thì sẽ phiền não. Phiền não vọng tưởng làm ưu khổ thân tâm. Tiện gặp trọc nhục (nặng đục nhọc nhằn) mà trôi nổi trong sinh tử. thường trầm luân trong khổ ải, vĩnh viễn mất chân đạo.
Đoạn ấy phản lại ý của phần thân đoạn văn thanh tịnh nhập chân đạo trên. Uất ức có thể than là lấy vọng tâm không tĩnh, chân thần phản hoá thành vọng tâm, an tĩnh có thể đắc đạo ư?
Đạo thường của chân, người ngộ tự đắc. đắc ngộ đạo thì thường thanh tĩnh vậy.
Người ngộ đạo, kết cuộc là không ngoài thanh tịnh. Cái pháp thanh tịnh kết cuộc không phải khiễn dục bên ngoài. Khiển dục ở chương một đã bàn. Huống chi tâm tĩnh thì hoả sẽ giáng xuống, thần thanh thì khí lanh lẹ. định bên trong thì sinh trí sáng, bổn mệnh tự đến. cần phải tự nhiên nhi nhiên, không biết nơi ấy là nhiên vậy.
<ngọc xu kinh (sách về khoá ngọc)>giải tóm tắc
Huyền duệ hàm hư chú
ở trong mà vận, thì gọi là xu (cái then). Sao bắc đẩu gọi là thiên xu, lấy mà vận hành trung ương vậy. thân người lấy thần làm xu (then), một hạt bụi trần cũng không nhiễm thì như ngọc kia trong sáng nên gọi là ngọc xu. Kinh ấy đại chỉ bao trùm cách dạy người luyện nguyên thần vậy.
thiên tôn nói :“chư thiên quân muốn nghe chí đạo. chí đạo thâm sâu, không ở bên ngoài. Mà đã muốn nghe cũng không có lời giải bày. Không nghe cũng không thể thấy thì là chân đạo. nghe thấy đều mất, chỉ có người vậy thôi, trên người còn không có huống gì là phảI trái? không nghe mà nghe, sao đạo có thể đàm đạo được?”
tuyết sáng băng trong, không cần dùng lời giải phiền hà.“huống gì là phải trái”, phải tự nó phải, chỉ nghe thấy mà nói.
Thiên tôn nói:“đạo lấy chân thật mà nhập vào, lấy yên lặng mà hạ thủ, lấy nhu mà dùng. Dụng thành rồi thì giống như người ngu dốt, dùng yên lặng tự nhiên chậm chạp, dùng nhu sẽ tự vụng về. ôi như vậy thì có thể cùng quên hình, có thể cùng vong vong (quên).
Đó là tất cả công phu trong hư vô
nhập đạo biết dừng lại, thủ đạo biết cẩn thận, dùng đạo cần biết sự mầu nhiệm. có thể thấy mầu nhiệm thì huệ quang sinh, có thể biết cẩn thận thì thánh trí toàn vẹn. có thể biết dừng thì thái định an. Thái định an thì thánh trí vẹn toàn, thánh trí toàn thì tuệ quang sinh, tuệ quang sinh thì cùng đạo hợp làm một, gọi là chân vong (quên thật sự). chỉ có vong mà không vong, vong không thể vong. Vô khả vong (không thể quên) là chí đạo. đạo ở thiên địa, thiên địa không biết. hữu tình vô tình chỉ là một không phải hai”.
Có thể nhập thì cần có thể thủ, có thể thủ thì có thể dùng. Biết dừng thì không biến đổi, biết cẩn thận thì không xuất ra ngoài, biết mầu nhiệm thì tạo nên thâm sâu mờ mịt, mờ mịt sinh hoảng hốt, linh giác bám là huệ quang vậy, bất xuất thì thần yên, không biến đổi thì khí tĩnh. Khí tĩnh thì thần yên, thần yên thì bên trong thái hư nhất linh độc vận, chỉ biết có đạo mà không biết có những cái khác nên nói :“tên là chân vong”. Chân vong là vong mà không vong, vong mà không thể vong vậy. chân vong là chí đạo vậy.
Thiên tôn nói:“ta hiện nay lấy gì mà sinh? Là chư thiên nhân biểu diễn diệu bảo, đắc thì sẽ ngộ. có thể lên ngôi tiên. Người học đạo tin có khí số. ôi phong thổ không đồng thì bẩm thụ tự khác nên gọi là khí. Trí ngu không đồng thì thanh (trong) trọc (đục) tự khác nên gọi là số. số nối với mệnh, khí nối với thiên. Có được khí số, thiên mệnh chỉ bảo ( chỉ bảo, rối loạn), không đắc chân đạo. ngu có thể lấy khôn trọc có thể lấy thanh, chỉ có mệnh khiến nó. Ngu tốI thì tối, trọc minh thì minh, cùng phong thổ bẩm thụ nó, biến đổi nó. Cơ thiên địa thần kỳ, khiến người không biết, nên nói tự nhiên. Khiến biết không biết thì cũng nói tự nhiên. Tự nhiên thật là tuyệt diệu, tuy diệu ở biết, mà sở dĩ diệu là như không biết. tự nhiên ở đạo gọi là ban đầu tự làm ngu nó, trọc nó”. Chư thiên nghe lấy mọi người đều đẹp lòng.
<hộ mệnh kinh> tóm tắt
Một thưở nọ nguyên thuỷ thiên tôn ở trong rừng thất bảo trong cung ngũ minh, cùng vô cực thánh chúng đều phóng vô cực quang minh, chiếu vô cực thế giới, quán xét vô cực chúng sanh thọvô cực khổ não, chuyển trong thế gian, luân hồi sinh tử, nổi trôi trên sông ái (yêu), trôi giạt trong biển khổ, chìm trong thanh sắc, mê hoặc bởi hữu vô. Vô là không mà hữu cũng không, vô là sắc mà hữu cũng là sắc. vô vô có vô, hữu hữu không hữu. chung thuỷ (kết thúc bắt đầu) mờ mịt, không thể tự rỏ, xét đến cùng cũng là mê hoặc.
Vô thuỷ là tổ khí. Tổ khí hoá sinh thì sẽ thấy chân thần. thần ấy ở trong thiên tâm, ở trong hoàng cung. Nhất thần chánh vị, vạn thần triều tông. Nếu không phải vô cực chúng sinh tận hết nhất phái thức thần, thọ vô cùng khổ vui. Chúng sanh kia đều do chấp mê vậy. chấp không không phải mà chấp sắc cũng không phải. trong vô chấp hữu cũng không phải, trong hữu chấp vô cũng không phải. vất bỏ hết thì thật đáng thương thay!
Thiên tôn bảo rằng:“chúng sanh các người theo có trongkhông có,vô trong bất vô, sắc trong bất sắc, không trong bất không. Không phải hữu là hữu, không phải vô là vô, không phải sắc là sắc, không phải không là không. Không tức là không, không không định không. Sắc tức là sắc , sắc không định sắc. tức sắc là không, tức không là sắc. nếu có thể biết không bất không, biết sắc không phải sắc, gọi là chiếu hết, trước đạt diệu âm. Biết vô không pháp, đỗng quan (xét hang sâu) vô ngại, nhập chúng diệu môn, tự nhiên giải ngộ. rời mọi nghi ngờ, không bám vào không kiến (thấy không).
Đoạn ấy là chúng sanh thuyết để phá mê muội về không sắc vô hữu. nếu chúng sanh ngộ thì có thể rời được những mê hoặc. PHÁP THÁI LINH THUẦN DƯƠNG CÔNG
Thái linh thuần dương công thuộc pháp môn tu luyện thất chân huyền môn, không phải lấy phương vị thái linh phối hợp đặc tâm pháp. Luyện tựu nội khí thuần dương. Sau khi công phu thành có thể đang lúc ngồi song bàn ( thế ngồ hoa sen hay kiết già) có thể làm khí trong thân bay lên không nhẹ nhàng.
Thái linh thuần dương công pháp:
Công phu này lấy tĩnh tọa điều tâm quán quang làm chủ. Xem xét vận dụng từ trường, năng lượng cùng quang năng .
(tư thế) tĩnh tọa ngồi tư thế song bàn hay ngồi đơn bàn hay ngồi kiểu thư giản. ngồi ngay ngắn có hiệu quả dễ kiểm tra tư thế sai. Lúc tĩnh tọa nhắm hai mắt lại, hô hấp tự nhiên, làm đến hàm hung bạt bối, lưỡi cong lên hàm trên 2 tay tự nhiên mở ra, lòng bàn tay hướng lên thả lỏng hai cánh tay trên.
Thứ nhất: nhất khí hỗn nguyên
Tiếp theo là tư thế tĩnh tọa, hai tay từ hai cánh tay trên từ từ đưa lên, lật long bàn tay lại theo chính thân từ từ đi lên. Đến trước huyệt đản trung, ý niệm huyệt đản trung cùng khoảng giữa hai tay xuất hiện một quả cầu, ôm quả cầu ý niệm chính yếu ở bên trong. Lúc này ý niệm từ thân giữ ở trong quả cầu. dưỡng khí 10 phút.
Thứ 2: linh quang nhập thể
Tiếp động tác trên, hai tay phía trước cơ thể đi lên đến đỉnh đầu, hai lòng bàn tay đối nhau, lật lòng bàn tay hướng áp xuống. Lúc này có ý niệm ánh sáng trắng đến nhập vào bộ đầu. toàn bộ đầu tràn ngập ánh sáng trắng. hai tay từ đầu hạ xuống lúc đến bộ vị hầu ý niệm toàn thần tràn đầy ánh sáng đỏ. Lúc hai tay hạ đến đan điền. tách hai tay ra hai bên thân để xuống. đặt xuống cùng ý niệm hai lòng bàn tay phóng ra ánh sáng màu xanh lam. Làm lại như vậy 10 phút.
Thứ ba: linh thể phi thăng
Tiếp động tác trên, lúc hai tay từ đỉnh đầu hạ xuống đến 2 bên thân. Ý niệm hai lòng bàn tay xuất lam quang trùng với địa từ (từ trường đất). ý ra lệnh thân thể hướng ra không trung hay nhẹ nhàng đằng không (bay trên không). Như vậy thì linh thể sẽ phi thăng. Muốn tu đến cảnh giới này. Cần chờ lòng bàn tay nắm giữ tốt vận hành từ trường từ thân cùng địa từ. chính yếu nằm ở xảo diệu của địa vận. dung trường năng lượng vũ trụ gia trì từ lực tự thân. Khiến đắc năng lượng tự thân xuất ra năng lượng mạnh. Dẫn đến linh thể phi thăng. (điều này ngồi nhất bàn hay song bàn là 3 đến 10 ngày có thể chứng nghiệm).
Ca quyết của công phu này:
Tồn thần định chí nhập hoàng cung, bách mạch triều nguyên khí tụ trung
Thần nhập đan điền âm khí tẫn, khảm nam li nữ kiền thiên hành
Thải quán hành luyện tu cố khí (thái vận hành thông suốt chờ khí bền vững), bổn thị đạo gia bí trung bí ( đó là bí thuật trong bí thuật của đạo gia).
Vô đan vô hỏa tự nhiên tu, thế thượng tiên phật vô xử tầm ( trên đời tiên phật không nơi để tầm).
Hoàn ngã bổn lai chân diện mục (trở về với bộ mặt chân thực của chính mình). Vị sanh thân xử nhất minh luân (trong thân chưa sinh một vầng sáng).
Nhật nguyệt trong hợp thể trung sanh (nhật nguyệt trùng hợp trong thân sẽ sanh), thế thượng ngộ kì hữu tiên hậu (trên đời biết được có trước sau).
Miểu miểu mang mang nhập hư không (man mác mênh mông nhập hư không), phản phác quy chân bổn tính minh (trở về chất phát quy về chân thì bản tính minh).
Thoát thai hoán cốt hư trung không (thoát thai cốt đổi hư trung không), tam tài hợp vu vô cực trung (tam tài hợp ở trong vô cực). PHÉP GIÚP KHÔNG CẦN ĂN UỐNG
Cổ truyền phục tảo tịch cốc pháp
Gọi là tịch cốc tức là chỉ ý không ăn ngũ cốc. xưa nói rằng: ăn khí thì thần minh thọ; ăn lúa thì trí tuệ tự nhiên. Mục đích tịch cốc là ở thực khí mà không ăn ngũ cốc.
Cổ nhân tu tập tịch cố pháp, cần trước luyện khí. Luyện khí tức là dùng miệng bế trụ, lưỡi để trên hàm trên, dùng chân ý thủ trụ hạ đan điền. lúc luyện thì sáng chiều không ăn, mỗi ngày mỗi bữa ăn ăn ít, giờ khắc ngưng thần thủ hạ đan điền, hơi thở nên nhẹ. Như vậy sau bảy ngày mới chính thức tiến hành luyện tập tịch cốc.
Trước dùng táo đen 49 quả, phân làn số bảy bảy. Ngày thứ nhất đứng hướng hướng đông, lúc mặt trời mọc, sau đó lấy bảy quả táo 1 hơi ăn hết, tồn tưởng thanh khí nhập can. Ngày thứ 2 mặt hướng nam, thủ xích đế chu tước chi khí thổi trên 7 quả táo, ăn nó. Ngày thứ ba mặt hướng phương tây, thủ bạch đế bạch hổ chi khí thổi trên bảy quả táo rồi ăn nó. Ngày thứ tư mặt hướng phương bắc thủ hắc đế huyền vũ khi khí thổi trên bảy quả táo rồi ăn nó. Ngày thứ năm đứng ở trung ương, thủ trung hòang chánh khí thổi lên bảy quả táo rồi ăn nó. Ngày thứ năm ăn tất cả ba mươi lăm quả táo dư mười bốn quả táo, ngày sáu thủ trung ương chi khí thổi trên quả táo, mười bốn quả táo đó mỗi ngày một quả ăn hết thì dừng. Thường sau khi ăn táo, cần tu hành đứng nằm ngồi nguyên thần không rời hạ đan điền. cứ luyện tập theo lời đạo này, như vậy nung luyện bách nhật (trăm ngày) thì trong bụng hoàn toàn sung mãn tiên thiên chân khí, tự nhiên không đói không khát, có thể đạt đến bất bệnh bất tử, nhập cảnh giới trường sinh. Cũng nói rằng, sau khi luyện không thể ăn lại, như lúc cần ăn, đầu tiên cần uống, từ từ dạ dày bao tử thấm mở ra mới có thể ăn nếu không sẽ nguy hiểm tính mệnh.
Tiên sinh trần anh trữ từng nói qua, bất luận loại pháp ngừng ăn tịch cốc nào chỉ giải quyết một ít về vấn đề ăn gạo mà không thể đạt đến mục đích thành tiên. Như nếu sau khi sinh họat khó khăn không có phương cách thì mượn nhiều thuật này, tiêu dao ngòai vật, bỏ hết ngữa mặt cầu người. nếu muốn chuyên nhờ tịch cốc thuật làm cái thang cái thuyền cho tu đạo không phải là ý của cổ tiên vậy. làm mệnh công có thể kết nội đan, công hòan tất có thể nhập đại định, thì không cần cầu tịch cốc mà tự nhiên tịch cốc vậy. trung niên người người trên thân thể đều có ít nhiều khuyết tổn, nếu không tích tinh lũy khí hạ thủ, như vậy sao có thể kết đan?. Nếu không thể kết đan sao có thể xuất dương thần? nên tác dụng của tích tinh lũy khí cần ăn vật trong tư dưỡng luyện xuất tinh hoa, ví như từ trong gần mười cân sắt luyện ra một cân thép. Nếu hạ thủ hay dừng ăn là sắt trên chưa có thì thiết từ đâu đến? không phải vĩnh viễn không hy vọng kết đan sao? Tịch cốc pháp tuy quý, chỉ người không phải người mới có thể dùng. Nên chỉ có thể thuyết pháp cho hàng thượng trí, người trung trí trở xuống khó biết khó hành. Nếu tin trừ dục đầy đủ có thể giải quyết vấn đề tranh ăn của thiên hạ nhưng đó chỉ là một loại lý tưởng. chỉ số ít người tu tiên học đạo, ẩn cư thâm sơn cùng cốc, thực vật vận thâu (ăn vật xoay vần), ở sâu nên bất tiện, để dành thức ăn, thường lo thiếu lương thực. pháp thực chính là cần thiết cho loại này.
Tử dương chân nhân trương bá đoan <<ngộ chân thiên>> nói: ngừng vợ lừa đạo âm dương cách, tuyệt lạp (gạo) thì tràng vị không. Thảo mộc kim ngân đều chỉ là vật chất, sao mà nhật nguyệt lại lờ mờ; cần nhiều thổ nạp cùng tồn tưởng, tóm lại không đồng kim đan. Có thể biết tịch cốc không phải đại đạo vậy.
Các bậc bá di, thúc tề, trương lương, lúc tuổi gìa mới tịch cốc. chỉ là pháp môn khác không đúng không ăn ngũ cốc mà là không ăn hòang lương. Trở lại 1 chút về các tu sĩ tu luyện trong thâm sơn, thường lấy quả hòang tinh cùng dược vật mà ăn, cũng có thể gọi là tịch cốc.
Nhà thanh năm càn long tài tử kỷ quân ở <<kỷ hiểu lam gia thư…. Kí nghi nam thúc (mừng lễ người chú phương nam)>> phần giữa quyển sách có chuyện như sau. nói là thời minh triều chánh đức tại thanh đảo bạch vân động có một môn tu đạo ngồi khô giữa sơn mộc thạch, không ăn không chết, cũng không biết đã bao nhiêu tuổi chỉ thấy tòan thân đầy rêu, cùng mộc thạch đồng sắc. hô hấp hòan tòan đọan tuyệt, có thể thấy trên con mắt chói lọi. xét: người này lúc đó đạt thành tịch cốc bất thực chi cảnh, theo kỷ đại tài tử nói: “bất sanh bất tử sao quý như tu đạo được, lại không như người chỉ khóai lạc mà là tự do ma quỷ vậy. xét công phu tu đạo của người này quyết không thấu suốt nông cạn. chỉ vì sinh đạo cốt, nên kết tiên duyên, toại chí luyện thành linh nhân, không thể xuất khiếu hành không hoặc nói lấy bạch phá đỉnh thì đắc binh giải mà thành quỷ tiên, đây cũng là lời nói từ trong lòng. thừơng người ẩn tu thâm sơn tính đến trăm năm, mà không thể phi thăng đắc đạo tức là người ngu dốt. ở trong hồng trần, tay giữ mưu ni châu, miệng lẩm bẩm hướng nam tụng kinh chú, vọng đến đắc đạo trường sinh, thấy nhiều mà bất tri lượng”. có thể thấy đại tài tử tuy không phải luận mà kiến thức hàng tục quyết không thể so sánh. PHÉP TU LUYỆN CỬU DƯƠNG CHÂN KINH
Cửu dương chân kinh
Mục lục
Thức thứ nhất: Thái cực tụ khí pháp
Thức thứ hai: nhân uân tử khí (khí tím của trời đất hòa hợp)
Bộ thứ ba: Bàn long chân quyết
Bộ thứ tư: kim cương chi khu (thân thể kim cương)
Bộ thứ năm: ngoại công phụ trợ
Dùng : bát kích thiên
<cửu dương chân kinh> hoàn toàn không giống với <cửu âm chân kinh> riêng bản kinh thư này do võ đang phái sư phụ trương tam phong trương chân nhân Giác Viễn do ngẫu nhiên mà đắc nó. Tất cả không phải trương tam phong sáng tác, trong sách mới nhất của Kim dung đã sửa tác giả môn này. Sách ghi lại là Vương trùng dương cùng uống rượu một vị kỳ sĩ, sau đó vương trùng dương đưa ra cửu âm chân kinh cùng người ấy xem xét, người ấy giác ngộ đắc cửu âm chân kinh khí rất lớn mạnh, sau đó người này đến thiếu lâm sáng tác cửu dương chân kinh. công phu này, có thể xuất nhân uân tử khí (khí hòa hợp của trời đất màu tím), có thể tùy ý khuếch tán đến trong cơ thể, ngoài cơ thể thì đao thương không thể nhập, thủy hỏa bất xâm (lửa nước không thể xâm nhập), độc khí không sanh, vật hóa bất chi, cơ thể kim cương bất hoại tùy nó mà đến .
Thức thứ nhất: thái cực tụ khí pháp
Mặt hướng phương đông, đứng lâu,tự nhiên, đầu tiên ý thủ đan điền 3-5 phút. Sau đó thì dùng pháp hô hấp thuận. ý niệm dương khí trên trời từ bách hội hút vào và đi xuống, âm khí dưới đất do huyệt dũng tuyền ở hai chân thu vào đi lên trên hai luồng. chân khí đan điền hội tụ thành hình thái cực. thong thả chu chuyển, ý niệm hoặc rời hoặc tồn tưởng, đừng quên đừng giúp, mỗi thức luyện tập không ít hơn 2 giờ trong 1 ngày. sau 30 ngày thì có thể luyện tập ở hạ bộ.
Thức thứ hai: nhân uân tử khí (khí trời đất hòa hợp màu tím)
Dùng một luồng chân khí ấm áp, theo hướng đan điền trấn nhâm đốc mạch xung tam mạch. Lưu trú lại “cái kho âm khiêu”, rẻ nhánh tỏa ra hướng “vĩ lư quan”. Sau đó phân làm hai mà đi lên trên, kinh (kinh mạch) ở lưng, đốt sống thứ mười bốn. hai bên là lộc lô quan đi lên các kinh vùng vai, cổ mà đến ngọc chẩm quan. Cái này gọi là “nghịch vận chân khí thong tam quan”, sau đó chân khí hướng lên vượt qua đỉnh đầu bách hội, phân năm đường mà đi xuống, cùng khí mạch toàn thân hội ở trung đan điền, lại phân chủ thứ hai nhánh hợp lại ở đan điền, nhập khiếu quy nguyên (vào khiếu quay về nguồn), như vậy tuần hoàn 1 vòng thì thân như được rót cam lộ, trong đan điền chân khí có như làng hương phảng phất xung quanh, tiêu diệu tự tại, nhiều tựu thành “nhân uân tử khí”, công phu này luyện sau 1 năm thì có thệ luyện tập nhất bộ bên dưới. (bộ này dùng ngồi kiết già thì tốt hơn).
Bộ thứ ba: bàn long chân quyết
Đang lúc mặt trời mới mọc. mặt hướng phía mặt trời rồi ngồi xuống thĩnh tọa, giữ cái thức ngũ tâm triều thiên, ý thủ đan điền 3-5 phút, sau đó ý tưởng ánh sang thái dương hóa thành 5 con hỏa long phân biệt nhau theo bách hội, dũng tuyền ở 2 chân, lao cung ở 2 lòng bàn tay nhập vào. Ở đan điền hội tụ thành một quả cầu lửa. sau đó ý niệm hỏa cầu dần dần lớn lên đến bằng vũ trụ thì lại dần dần biến nhỏ rồi thu hồi ở đan điền, như vậy một lần lớn lên một lần thu lại, luân phiên luyện tập. thu công: ý niệm quả cầu lửa lại biến thành năn con hỏa long tử trên năm nơi bay ra hóa thành mặt trời treo ở vùng não của người tập sau đó hướng lên.
Lúc mặt trăng mới lên tiếp tục hành pháp trên. Chẳng qua là hỏa long biến thành thủy long, hỏa cầu biến thành thủy cầu, công phu cao nhất. năm con hỏa long hóa thành mặt trời thì thành năm con thủy long hóa thành trăng sang. Đó là đắc lấy dương biến âm làm chuẩn.
Bộ thứ tư: kim cương chi khu (thân thể kim cương)
Luyện pháp cùng bộ thứ ba cơ bản tương đồng, chỉ không nhất thiết mặt phải đối diện với mặt trời cùng trăng sáng, luyện hỏa long công phu nhất cực hàn chi địa (nơi lạnh nhất), luyện thủy long công phu nhất cực nhiệt chi địa (nơi nóng nhất). chú ý: “âm trung luyện dương (trong âm luyện dương), dương trung luyện âm (trong dương luyện âm), âm âm dương dương, chí âm chí dương”. Công phu này bay bảy bốn mươi chín ngày khổ tu.
Bộ thứ năm: ngoại công phụ trợ.
Chuẩn bị một cái bao cát (bao cát tập võ đong đưa qua lại) (chủ yếu là một điểm nhỏ), mỗi ngày tay, khuỷu tay, vai, đầu, lưng, xương sườn, đầu gối, chân cùng toàn thân các chổ, tất cả chủ yếu đánh đấm trên bao cát từ nhẹ đến mạnh, thu thân nhỏ lại chống lại lực đó đồng thời phối hợp hô hấp.
Tu luyện <cửu dương thần công> cần có ngộ tính, nại tính (tính chịu đựng), nhẫn tính cao. Tập thành công phu này cần 9 năm thì đại thành. PHÉP CÔNG PHU THU TINH HOA CỦA MẶT TRĂNG VÀ MẶT TRỜI
Tinh (ban) ngày là khí của mặt trời, hoa trăng là khí của thái âm. Hai khí giao cảm thì vật sinh lực, trai hấp thu được mà sinh ra ngọc, ngoãn thạch nung nấu ắt sinh ra đá quý. Hoài cổ nhớ người hiền, biết người mà hay chọn lấy phép “hành, vận, nạp” (hành công, vận khí, nạp khí) được lấy hoàn tất thân thể. Lấy nuốt tinh ngày, hoa của trăng, ắt được khí tinh của ngày làm cho ngu tối, dơ bẩn tiêu bằng hết, tinh thần trong trẻo, thoải mái mà đạt tới bệnh tật không nhiểm phải, thần khí ngày một tăng, ích lợi không đong lường hết được.
Phép luyện công
Phép “thái yết “ chia ra 2 giai đoạn tức thái pháp (phép thu) và yết pháp (phép nuốt).
A. thái pháp
phép thái pháp
còn có tên khác là “phép nạp khí thái cực”. Luyện công ở độ sơ cấp đa số kiểu đứng tập chủ yếu là đóng mở huyệt lao cung ở hai bàn tay, thu nạp tinh hoa của mặt trời mặt trăng.
Phương pháp thao tác
Chọn nơi sạch sẽ sáng sủa tỉnh mịch ngoài nhà, ngưng thần vận ngược vào trong, điều tức (đây là điều hoà hơi thở) cho đều, lặng lẽ giữ yên chốc lát đợi mặt trời ( mặt trăng) lên, khí trong lành tràn trề thì có thể luyện tập phép “thái nạp” thu nạp. Hai chân đứng dang bằng vai, đầu gối hơi chùng, đầu gối sóng đúng mũi bàn chân, mông hơi xệ xuống, huyệt vĩ lư sóng ngang gót chân, ba huyệt lớn bách hội, hội âm và dũng tuyền ý nằm trên một trục, co ngực, vươn lưng, hơi thu cằm vào, đầu lưỡi đặt lên hàm ếch, hai mắt cụp xuống hơi khép lại. Xong xuôi hai tay ở hai bên mình đưa lên cao khi tới ngang vai thì lật bàn tay ngửa lên, đưa lòng bàn tay cao ngang đầu 2 khuỷu tay hơi thu vào trong, trầm vai hạ khuỷu, xoè năm ngón tay mà hổ khẩu phải tròn yêu cầu là dùng ngón giửa cử động để mở đóng huyệt lao cung (đưa ngón giửa lên bịt chặc huyệt lao cung), hít khí vào nhịn hơi ngưng thần, thầm nghĩ tinh hoa của trời đất của mặt trời mặt trăng đang theo huyệt lao cung mà ùa vào mình ta tràn tre trong cơ thể. Khí tinh thuần từ trên đi xuống tẩy rửa toàn thân khí đến đâu moi uất tắt đều tan biến hết. Khi thở ra thì ngón giửa mở huyệt lao cung và hai tay từ từ đưa xuống trước ngực rồi đưa trở sang hai bên như tư thế ban đầu, cùng lúc mở to miệng từ từ thổ (thở) khí đục ra. Cũng có thể đồng thời thầm niệm hai khầu quyết xung, hưa giúp việc tẩy khí dơ bẩn trong người ra càng tốt hơn. (xem lại 2 bài khẩu quyết sáu chử và phép luyện sáu chử). Như trên vừa xong 1 thái ( một lần thu) làm đủ 27 lần thì đứng lặng một lát rồi có thể thu công xoa bụng, xoa mặt…cứ luyện cách này trong 1 đến 2 tháng nhất định cơ thể sẽ nhẹ nhõm sảng khoái, không còn sợ nóng lạnh bất chợt, hết cả trì trệ, sáng suốt linh lợi dần lên. Lúc đó chuyển sang phép yết khí.
B. yết pháp
còn gọi là sơn căn nạp khí pháp ( phép nạp khí ở góc mũi). Luyện phép này thường ngồi chủ yếu là hành công thu nạp tinh hoa của đất trời, mặt trời mặt trăng vào huyệt sơn căn (góc mũi) ở khoảng giữa 2 đường mày.
Phương pháp thao tác
Trong phòng chọn ghế có đệm hay phủ chăn dày, cởi thắt lưng mở rộng áo, ngồi thật ngay ngắn, hơi co ngực giữ khí thoải mái, ngồi xếp bằng tròn chân trái đè lên chân phải, ngữa lòng bàn tay trái đặt lên lòng bàn tay phải. Đặt cà 2 tay trước bụng dưới. Lưng cổ thẳng. Ba huyệt bách hội đản trung hội âm ý nằm trên một trục. Đầu lưỡi đưa lên hàm ếch, răng cắn khẽ vào môi miệng mím. Mắt mở hơi he. đợi lúc mặt trời mặt trăng lên thì ngưng thần giữ ở trong ngườ mềm mỏng như tơ. Điều tức đều đặn. Hai đường mày nhếch lên để mở linh khiếu sơn căn, hít nhè nhẹ tinh hoa của trời trăng, ngấm ngầm nhìn ngược vào trong, nín thở ngưng thần, nước dãi ứa ra đầy miệng thì từ từ nuốt đi, dùng ý mà nuốt xuống trử lại đan điền. Nếu là nuốt 1 ngụm khí thì há to miệng từ từ nhả khí đục ra, bụng điều đều đạn hơi thở. Thở đằng mũi bụng hít vào bụng nuốt (khí). Cứ thế nuốt 27 lần. Lặng lẽ giữ nguyên một lát rồi đứng dậy làm việc rửa mặt khô, gõ răng lia lưỡi nuốt nước dãi, gõ trống trời (2 lòng bàn tay úp vào tai dùng 10 đầu ngón tay chụm lại gõ mạnh vào 2 gân ở sau gáy thấy tai kêu ùng ùng như đánh trống là được) xoa bụng…rồi thu công.
Phép thái yết ( thu nuốt) tuy cách làm đơn giản nhưng làm lâu hiệu quả lại rất cao. Về lý là đưa chân khí (còn gọi là chính khí) của đất trời, mặt trăng mặt trời nạp vào cơ thể hoà trộn cùng hỗn nguyên chân tinh có sẵn , ngưng kết lại để thành đan. Mà đấy là sự trường thọ vượt ngưỡng bình thường. Thời kỳ mới tập luyện khí phần lớn tụ trữ tại trung đan điền ( tức huyệt đản trung ở vùng ngực giữa 2 vú). Sau 3 tháng cho đến khi thông 2 mạch nhâm đốc ( tức là khí đã đi thông suốt tiểu châu thiên ). Khi công phu đã thật là sâu. Ngưng thần ở khí huyệt là có thể đưa khí xuống hạ đan điền (tức huyệt khí hải ở dưới rốn ). Khi hành công 2 khí giao cảm, ngứa ngáy các khiếu, lòng thấy ngẩn ngơ cứ như vừa toát 1 trận mồ hôi lớn, thoát tới tứ chi, tưới toàn xương cốt mau lẹ vô cùng.ngừơi tập chưa đạt ắt không thể nào thể nghiệm qua được bước này. PHÁP THÁI THANH TỒN THẦN LUYỆN KHÍ NGŨ THỜI THẤT HẦU QUYẾT
(nguồn vân cấp thất thiêm)
Xuất xứ vân cấp thất thiêm quyển 3 thập tam tạp tu nhiếp bộ nhị
Thân là nhà của thần khí. Nếu thần khí tồn thân khang lực kiện, nếu thần khí tán thì thân suy. Nếu muốn giữ thân trước an thần khí. Tức khí là mẹ thần, thần là con khí. Nếu thần khí đủ thì trường sanh bất tử. Nếu muốn an thần thì tu luyện nguyên khí. Khí trong thân thì thần an khí hải. khí hải sung doanh, tâm an thần định. Nếu thần khí không tán, thân tâm ngưng tĩnh, tĩnh đến thì định, thân hồn niên vĩnh (lâu dài), thường trụ đạo nguyên tự nhiên thành thánh. Khí thông thần cảnh, thần thông tính tuệ, mệnh chú thân tồn. hợp ở chân tính. Nhật nguyệt trai linh. Đạo thành cùng cực. y theo luyện khí.
Muốn học thuật này trước tu tuyệt lạp (ngừng ăn gạo). an tâm khí hải, tồn thần đan điền, nhiếp tâm định lự. nếu thông khí hải tự nhiên sẽ bão. Chuyên tâm tu thì bách nhật tiểu thành, tam niên đại thành. Sơ nhập ngũ thì sau thông thất hậu, thần linh biến hóa. Xuất ẩn tự tồn, vách cao ngàn dặm. đi ở vô ngại, nếu khí bất tán thì khí hải sung doanh, thần tĩnh đan điền, thân tâm vĩnh cố, tự nhiên hồi nhan trú sắc, biến thể thành tiên, ẩn hiện tự do, thông linh bách biến. gọi là độ thế hiệu là chân nhân, sống bằng thiên địa, thọ ngang nhật nguyệt. pháp này bất phục khí bất yết tân, không tân khổ. cần chỉ có nhận, cần tốt lành thì tốt lành, tự tại tự do, vô ngại ngũ thì thất hầu. nhập thai định quan.
Ngũ thì
Thì thứ nhất, tâm động nhiều tâm tĩnh ít, tư duyên vạn cảnh, lấy bỏ vô thường,số lượng niệm lự như ngựa hoang, là tâm của thường nhân vậy.
Thì thứ hai, tâm tĩnh ít, tâm động nhiều, nhiếp động nhập tâm mà tâm tán mất, khó chế phục. lập kế bắt nó bắt đầu tiến đạo.
Thì thứ ba, tâm nữa động nữa tĩnh, tâm tĩnh tự nhiếp mà chưa thường tĩnh. Tĩnh tán một nữa. dụng tâm siêng năng, dần thấy điều phục.
Thì thứ tư, tâm tĩnh nhiều tâm động ít, nhiếp tâm dần thuần thục, động thì nhiếp nó, chuyên chú 1 cảnh, mất nó liền được.
Thì thứ năm, tâm thuần tĩnh, hữu sự cũng bất động, do nhiếp tâm thuần thục, kiên cố chuẩn định vậy.
Từ đây về sau sau khi nhập thất, việc tự vận hành không cần làm vậy.
Thất hầu
Đệ nhất hầu, bệnh tật đều tiêu, thân khinh tâm sướng, đình tâm bên trong, thần tĩnh khí an, tứ đại tự nhiên, lục tình trầm tịch, tâm an huyền cánh, bão nhất thủ trung, mừng vui ngày mới, gọi là đắc đạo.
Đệ nhị hầu vượt qua thường hạn, sắc phản đồng nhan, hình vui tâm an, thông linh triệt thị (nhìn suốt). dơ nơi ở khác chọn đất mà an, chớ khơi kiến thức củ với người láng giềng.
Đệ tam hầu, luyện thân thành khí, khí nhiễu thân quang, danh gọi chân nhân. Tồn vong tự tại, quang minh tự chiếu, trú dạ thường minh (đêm ngày thường minh), chơi nơi động cung, chư tiên đứng hầu.
Đệ ngũ hầu, luyện khí thành thần gọi là thần nhân. Biến thông tự tại, tác dụng vô cùng, lực động kiền khôn, di sơn đội biển.
Đệ lục hầu, luyện thần hợp sắc gọi là chí nhân, thần đã thông linh, sắc hình bất định, đối cơ thi hóa, ứng vật hiện hình.
Đệ thất hầu, cao siêu ngoại vật, huýnh xuất (ra xa) bậc thường, đại đạo ngọc hoàng cùng ở linh cảnh, hiền thánh tập hội, hoằng diễn chí chân, tạo hóa thông linh, vật vô bất đạt, tu hành đến đây sẽ đến nguồn đạo, vạn bước dừng lại gọi là cứu cánh.
Người ngày nay, học đạo ngày cang ít, chưa vào 1 hầu sao đắc thông linh, chỉ giữ ngu tình. Bảo trì uế chất, tứ thời thiên vận, hình theo sắc suy, thể trở về không mà nói đắc đạo, thật sai lầm. thai tức này định quán thì lưu thần trú hình, chân nguyên tổ sư tương truyền đến đây. Tối sơ chân nhân truyền thuật này, thuật ở khẩu quyết, sách phàm ở văn (bài văn), người có đức sẽ gặp pháp này, lưu ý rỏ ràng sẽ không còn nghi ngờ. người hiền trí sẽ gặp thánh văn vậy. LỤC MẠCH THẦN KIẾM Quyển 1 Thiên Long Thần Công Bí Điển
Lục Mạch Thần Kiếm
Thiên Long Thần Công bí điển tuyển lựa nhiều tinh hoa từ y học, đạo học, phật học, dịch học cùng pháp lý tinh hoa bách gia. Lấy thần làm căn bản, lấy khí làm nền, lấy lực làm phần phụ trợ, đồng luyện thần khí, kiêm tu nội ngọai. Về phương diện dịch học và y học hấp thu hết lý luận âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc. tức kim (phế: phổi) sinh thủy, thủy (thận) sinh mộc, mộc (can: gan) sinh hỏa, hỏa (tâm) sinh thổ, thổ (tì vị) sinh kim. Đồng thời lấy khí thổ nạp cùng lục tự quyết cổ điển làm cách trị liệu cường tráng và luyện nguyên khí ngũ tạng cho lục phủ ngũ tạng. Võ học lấy hạ đan điền làm chủ, luyện dưỡng tiên thiên nguyên khí, gồm thái (thu hái) thiên địa chánh khí làm bổ sung. Nội ngọai kết hợp, bồi luyện chân nguyên. Đạo học hấp thu đan đạo chu thiên đả thông thập nhị (12) kinh mạch, kỳ kinh bát mạch cùng huyệt đạo tòan thân, kích thích bách mạch vận hành thông suốt, khí huyết lưu thông, khí lộ thông mở. Ở phật học thì tinh tuyển pháp quyết tọa thiền tu tâm thông linh, lấy tâm tu thân làm cho công lực ngày càng tinh thuần.
Thứ nhất: Nội công tâm pháp.
Thiên Long lục mạch kiếm do đòan thị Vân Nam truyền.
Chọn từ y đạo võ đạo, lý pháp thông với pháp thiền của phật gia.
Tính mệnh song tu pháp, Thiên cổ tuệ quang viên (Ngàn xưa làm đầy đủ tuệ quang).
Tọa ngọa trạm hành thức (đi đứng nằm ngồi), ngọai luyện bì cân cốt (Bên ngòai luyện da gân cốt).
Mạch khai kiếm khí xuất (mạch khai sẽ xuất hiện kiếm khí), kích địch ngự thiên quân (chống địch chế ngự ngàn quân).
Chứng ngộ phật đạn ky (chứng ngộ cơ phật dạy), Đức tu vi quân hành ( tu đức là đang hành)
Thiên cổ bí tịch kỷ (kỷ thuật trong sách từ ngàn xưa), Thận vật khinh truyền nhân (cẩn thận chẳng khinh truyền cho người).
Nội công bao gồm hai phần mệnh công cùng tính công, mệnh công lấy tích khí, luyện khí, vận khí, hành khí đạt đến khí thông bách mạch cùng các huyệt ở bộ vị ngón tay tương ứng làm tu luyện lục mạch thần kiếm cùng các thần công đặc sắc có nội công cơ sở chuyên dùng để đánh. Tính công chủ tu luyện nguyên thần, đợi nguyên anh (anh nhi) ngưng kết, thần đạt lục thông, không ngừng tăng cường uy lực của khí lục mạch thần kiếm, có thể cùng lý thâm sâucủa vũ trụ phát triển, theo đó mà tiến nhập từ hữu vi đến vô vi, vô vi mà vô bất vi cảnh giới thông huyền biến hóa, đến cảnh giới này, trước sau lấy ngón tay xuất vô hình kiếm khí, đừng chờ khi động tác hữu hình bộ tay xuất phát, mà là lấy thần ngự khí, khí động thần tri (khí động thần biết), thần động khí phát, công lực cao thâm có thể đạt thiên lý phi kiếm (kiếm bay ngàn dặm(, chế địch ở vô hình).
Tu luyện nội công là gốc quan trọng trong tu luyện võ công. Yếu tố tu luyện nội công ở tại điều hình, điều tức, điều thần. Gọi là điều hình tức là hình thể động tác lúc luyện nội công. Gọi là điều tức đó là phương thức hô hấp lúc luyện nội công, gọi là điều thần tức là dùng ý niệm lúc tu luyện nội công.
Mệnh công tổng quyết (các pháp bí truyền về mệnh công)
Quyết viết:
Thụy tuyết địch cấu ý tiêu nhàn (Tuyết ngọc quét sạch dơ bẩn, ý tự do nhàn hạ),
Thu thị phản thính tổ khiếu gian (Thu sự nhìn ngó ở mắt, tai nghe ngược trở về tổ khiếu).
Mi quang ẩn thì tuệ quang hiện (lúc ánh sáng trước chân mày ẩn thì tuệ quang hiện), tâm quang hợp nhất quy hạ điền (tâm và ánh sáng hợp nhất quy về hạ điền).
Hữu trung diệc vô vô trung hữu (trong hữu là vô trong vô là hữu: trong có là không trong không là có),
Nhất dương sanh thì kiền khôn chuyển (lúc nhất dương sinh kiền khôn vận chuyển).
Khí hành nhâm đốc quán trung mạch (khí chạy theo mạch nhâm đốc đổ vào trung mạch),
Tả hữu mạch lạc khí sung điền (khí trong mạch lạc trái phải sung vào đan điền).
Thiên nhật hành công thông bách mạch (hành công ngàn ngày thông bát mạch),
Tủy cốt tinh khí hóa chân nguyên (tinh khí tủy cốt hóa chân nguyên).
Công hành nhất thiên bát bách chuyển ( công hành một ngàn tám trăm chuyển),
Dẫn khí hồi phản hạ đan điền (dẫn khí trở về hạ đan điền).
Tả chuyển hữu chuyển tam thập lục (chuyển trái chuyển phải ba mươi sáu lần),
Thu công dục diện hõan tĩnh nhãn ( thu công xoa mặt thong thả liếc mắt).
Lục mạch mệnh công thì thì hành (giờ giờ hành lục mạch mệnh công),
Thì chí thần tri công lực hiện (lúc đạt thần tri công lực hiện).
Trúc cơ công thành thể khang thái (Công phu trúc cơ thành cơ thể mạnh khỏe), kham vi nhân gian bất lão tiên (gọi là tiên bất lão của nhân gian).
Giải nghĩa:
Thụy tuyết là ẩn dụ chỉ khí linh quang của vũ trụ, tiêu nhàn là chỉ trạng thái ý tiêu diêu điềm tĩnh, câu này ý là thâm tâm thả lõng, trạng thái yên vui, điều động linh quang vũ trụ, linh khí, theo đỉnh đầu chảy vào bên trong cơ thể, tẩy đitạp niệm, bệnh khí, uế khí bên trong thân thể là công phu chuẩn bị trước khi luyện.
Tổ khiếu là tổ của các huyệt trong thân, bên trong có minh đường, động phòng, nê hòan, là cửa của thượng đan điền. thu thị là thu hồi lại tầm nhìn mà nhìn trở lại vào tổ khiếu, phản thính tứ lấy ý phong bế thính giác của tai, lấy tâm linh nghe diệu âm bên trong tổ khiếu.
Sau khi sơ bộ nhập tĩnh, trước mắt có ánh sáng động lấp lánh đó là mi quang, phản ánh khí thuộc tạng, nhập tĩnh cực sâu biến ánh sáng lấp lánh của mi quang dần ẩn đi, tự nhiên cảm thấy cơ thể ánh sáng thấu qua trong suốt, phóng ra đại quang minh, đó là tuệ quang hiện, lúc này lấy mắt ngay ngắn nhìn mũi, khẩu vấn tâm điền (có lẽ dung miệng hỏi tâm) , sau đó lấy tâm ý cùng tuệ quang tương hợp, quy trở về trong hạ đan điền.
Hữu trung vô, vô trung hữu, một cái hữu là hữu ý thức nghĩa là có ý thức thủ bám vào linh quang, linh khí trong hạ đan điền, Lúc mới tập hạ đan điền ít có động tĩnh đó là vô vậy tức là hữu trung diệc vô. Thời gian dài thêm một chút, lúc hỏang hốt cảm thấy như trong hạ đan điền có vật, đó là linh quang lấp lánh, trong hạ đan điền khiêu động (tức nhất dương sơ động), vô trung hữu vậy, đợi đến khi nhất dương sinh thì khí thông nhâm mạch, đốc mạch , tiểu chu thiên hình thành, tiếp theo cần tu khổ luyện đả thông thủ tâm âm kinh, thủ tam dương kinh, túc tam âm kinh, túc tam dương kinh, kì kinh bát mạch, đại chu thiên pháp luân vận chuyển hình thành. Từ nhất dương sinh đến lúc này gọi là tòan chuyển càn khôn.
Khí hành trong nhâm đốc mạch chảy vào trung mạch đến tủy cốt tinh khí hóa chân nguyên, tương đương công phu tinh hoa dẫn nhập của du già ấn độ, đặc điểm công pháp này chỉ có một tức lấy việc sau khi hình thành đại chu thiên, dẫn khí thông suốt nhập vào từ đỉnh tâm đến hội âm của trung mạch, theo mạch trái phải, thẳng đến chân khí thông suốt bách mạch cốt tủy, lúc này tòan thân thượng hạ nội ngọai chân khí tràn đầy, tự có tinh lực vô cùng. Công hành nhất thiên bát bách chuyển là hư số thật tế trong quá trình tu luyện không thể đếm số, nếu mà đếm số sao lại không gia tăng tạp niệm. bên dưới câu này đều là phương pháp thu công, đồng thời báo đó là thời khắc trọng yếu của mệnh công lục mạch thần kiếm. Tu luyện mệnh côngđi đứng nằm ngồi trong sinh họat thường ngày, thông quá tích góp ngày tháng tu luyện dần dần thâm sâu, từ khi bắt đầu đến thời kỳ nhất định khả năng cảm giác không lớn, khả năng có ít cảm giác, đó là từ lượng biến đổi đến chất biến đổi là một quá trình lâu dài, công phu tích lũy đến một trình độ nhất định thì tất nhiên sẽ phát sinh chất biến nhảy vọt. lúc này trong thân xuất hiện khí cảm chấn động mãnh liệt, tinh thần sáng sủa, cùng quá khứ so sánh y như hai người. đó thường gọi là đả thông sinh tử huyền quan, phạt mao tẩy tủy (tẩy lông rửa tủy), thoát cốt hoán thai. Công phu đến cảnh giới này trăm bệnh khó xâm nhập, ích thọ duyên niên (kéo dài tuổi thọ), không chỉ vậy, theo ý nghĩa giảng phía trên có thể xưng là bất lão tiên tại nhân gian vậy.
Tính công tổng quyết (các pháp bí truyền về tính công)
Quyết viết:
Tính công chủ luyện thần, tùng tĩnh tâm tự định .(tính công chủ luyện thần, thả lỏng tâm tự định).
Bế nhật thường dưỡng tâm, tồn thần thủ chân tĩnh. (Ngày thường đóng cửa dưỡng tâm, tồn thần thủ chân tĩnh).
Thông huyền biến hóa thành, siêu nhập nhân tiên cảnh. (thông huyền quan biến hóa thành, siêu nhập nhân tiên cảnh).
Hợp thích chí hư cực, phản phác hòan chân tính. (hợp với cùng cực hư vô, trở về chất phác hòan chân tính).
Tính công chủ luyện thần, tính công cùng mệnh công tu luyện không thể tuyệt nhiên tách ra, tương ứng kết hợp tu luyện. tu luyện mệnh công thì tính công đã tự ở bên trong, tu luyện tính công thì mệnh công cũng đã tự ở bên trong, nói tính công mệnh công giai đọan không đồng, chủ thứ bất đồng là chính do người thường không hiểu. ví như thả lõng cùng tĩnh định tập luyện, bất luận mệnh công hay tính công đều thập phần cường điệu, có thể nói thả thả lõng cùng tĩnh định là cơ sở pháp môn quan trọng của mọi người. chỉ là mục đích cùng yêu cầu không đồng. mệnh công thông qua thả lõng cùng tĩnh định đạt đến bồi luyện chân khí, đả thông tòan thân kinh lạc cho đến da thịt cốt tủy. mục đích và chứng nghiệm là khứ bệnh kiện thân, ích thọ diên niên. Tính công là bồi luyện nguyên thần, đạt đến thần câu lục thông (thần đạt lục thông), linh thông biến hóa, mục đích và chứng nghiệm là đắc đại thần thông, khai đại trí huệ, đạt đại viên mãn, cùng diệu đạo vũ trụ phát triển biến hóa.
Lúc chủ tu tính công, thông qua phương pháp tùng tĩnh, chủ yếu khống chế thức thần,đó gọi là tâm tức là thức thần hậu thiên. Thức thần là chủ tể thần họat động quan trọng, tính nó linh động, thường gọi là“tâm viên ý mã”là như vậy. tâm ý là thức thần hậu thiên. Viên là , thường gãy tai gãy má, thả ra là chạy nhảy. mã thường rung đuôi đạp chân. Chạy rong la hét. Cả hai đều động. động như vậy thì thức thần thống suất hết nhân thân. Nên nguyên thần bị che ở tận cùng thâm sâu vậy. thông qua tu luyện tính công bèn thu tâm cầu tĩnh, cầu tĩnh thu tâm thì theo tâm hậu thiên thức thần thu hồi, định tại bên dưới song lâm thụ, đó là“thu tâm viên, tỏa ý mã (thu tâm vượn, khóa ý ngựa)”. đó là bước thứ nhất của tính công. Tùy vào ngày tháng tích lũy. Công lực tăng cao, do thu tâm cầu tĩnh dần dần đến định cảnh. Lúc đó thức thần không bị kích họat trở lại. tất cả dần dần thóai vị. nguyên thần dần dần quy vị, đó là sơ bộ nhập định. Định là tĩnh thật thâm sâu. Cũng là ở trong giới hạn thời gian nhất định. Thức thần hoàn toàn đình chỉ hết họat động, lúc đó tư duy họat động của đại não hoàn toàn đình chỉ hết, đó là nhập định. Ban đầu loại định cảnh này rất ngắn tạm. chỉ có một sát na, thức thần lại phục lai. Tư duy họat động là tạp niệm lại khởi. đó là cái đích rất quý, lại chỉ có một sát na, cảm giác trong người rất thư thái, đối với điều tiết tinh thần có nhiều lợi ích nho nhỏ. Thông qua phản phục tu luyện tức là“bế mục thường dưỡng tâm”, dần dần thời gian quy vị của nguyên thần dần dần dài hơn rồi chiếm luôn địa vị chủ tể, lúc đó thần ôm ấp khí, khí dưỡng thần, nhập đại định, đó là chân tĩnh vậy.“tồn thần thủ chân tĩnh”chi thần là nguyên thần tiên thiên, thời gian nhập đại định có công phu sâu cạn không đồng, ít thì bảy ngày, nhiều thì số năm không đồng. đương nhiên cũng có căn cứ chuyên hạng công phápbất đồng mà định giờ tọa quan hay khai quan. Tọa quan là nhập đại định. Xuất quan là xuất đại định vậy. ở mức tịch tĩnh thâm sâu. Trong thân thể người đại định, bất động mà thần thanh minh. Nguyên thần trong tu luyện dần dần ngưng kết thành hình, hợp cùng hư, đắc được đạo. do định mà ngộ gọi là tuệ vậy.sơ thì đạt thiên nhĩ thông. Nghe đến âm thanh thường nhân không nghe đến, thính giác này không phải là phàm nhĩ mà là dung tâm là thiên nhĩ. Loại thính này thính lực thậm chí có thể dời hướng dời vị trí, định điểm nghe đến bí thất thâm sâu, hoặc xa đến những âm thanh tận chân trời. kế tiếp là thiên hạn thông, có thể nhìn thấy những sự vật thường nhân không thể thấy. một là thấu thị, diêu thị (nhìn xa). Thứ hai là có thể nhìn đến siêu linh giới hay đê linh giới (giới ở thấp), giới là sự vậy. thứ ba là thần túc thông, không phải là khinh công của phàm nhân. Mà là theo ý muốn của tâm thì thân tức đến. sao lại sợ xa cách vạn lý. Niệm động tức đến. tu luyện đến đây không thời gian không chướng ngại. thứ tư là tha tâm thông. Thứ năm là túc mệnh thông. Thứ sáu là lậu tẫn thông. Ba cái thông sau mà đắc được, có thể cùng người ở xa tâm linh đồng bộ, có thể tri quá khứ vị lai, đạt đến cùng vũ trụ thiên địa diệu đạo, tiến thêm một bước có thể thông huyền biến hóa, siêu phàm nhập thánh, luyện hư hợp chí cực, do vô vi mà vô bất vi, phản phát quy chân (trở về chân thật chất phát). Có thể chân chánh nhận thức đến bổn tính nhất nhất chân ngã.
Thứ nhất, tọa công (nhất)
Tọa công là tu luyện nội công cần thiết căn bản. bất luận mệnh công hay tính công, cũng không luận công pháp phái nào. Tọa thức tu luyện là đích tối cơ bản. từ sơ thừa đến người hạ thủ ở cao tầng. kế đến là luyện hư hợp đạo, tòan từ tọa thức mà hòan thành. Đương nhiên cũng có từ trạm thức (thức đứng) hay ngọa thức (thức nằm) mà hòan thành nhưng chỉ là số ít.
Quyết viết:
Tọa thức tu đương bàn, thần tĩnh thể tự nhiên. (tọa thức cần ngồi bàn tọa (thế hoa sen), thần tĩnh thể như bong)).
Song thủ như bão cầu, bế mục thủ đan điền. (hai tay như ôm cầu, nhắm mắt thủ đan điền.
Xuy hư a hô, bách bệnh giai hóa tán. (thôi ra hô âm a, bách bệnh đều tan).
Ngọc tạng thổ nạp thuật, liệu tật bảo bình an.( thuật thổ nạp cho tạng, trị bệnh bảo bình an).
Nhất bộ tu luyện thuật, nội tráng thể khang kiện. (bước một thuật tu luyện, nội tráng, thân thể kiện khang).
Lục thập thiên công thành, lục mạch đệ nhất quan. (sáu mươi ngày công thành, lục mạch là một quan (một cửa)).
Giải nghĩa.
Tu luyện tọa công toàn dung bàn tọa (ngồi hoa sen).
Bàn tọa là một lọai công phu, nên cần thông qua tu luyện nghiêm cách cho đến nhẹ nhàng tựa như, tùy tâm sở dục (tùy theo tâm muốn), du già ấn độ đối với huấn luyện hình thể thập phần hà khắc. để đạt đến những trình độ cao cấp. mục đích là đề cao sự nhu nhuyễn, linh mẫn của thân thể, cả lực lượng lẫn cơ năng. Nhẹ nhàng như song bàn (còn gọi là liên hoa tọa). thì cơ năng thân thể nhu nhuyễn, linh mẫn. lực lượng đạt đến khởi mã thủy chuẩn (đạt đến chuẩn) một tiêu chí trọng yếu. bên dưới giới thiệu một lọai công pháp tu luyện tuần tự tiệm tiến bàn tọa.
(thứ nhất) thân ngay ngắn ngồi trên đệm, hay chân để bằng nhau, tòan lực lượng thu đến trước hội âm, kế đến lòng bàn tay đè lên đều gối, một đè một thả lỏng tiến hành có tiết tấu, từ nhẹ đến nặng; đến khi đầu gối chạm đệm thì công thành. Bước kế hai tay nắm gót chân, lấy khủy tay đè đầu gối. đồng thời tòan thân hướng ra phía trước đà xuống đến khi trán chạm gót chân là thành công.
(thứ hai) thân ngay ngắn ngồi trên đệm, gót chân trái chạm hội âm, gót chân phải chạm bên ngòai đùi nhỏ. Hai tay giơ lên. Lòng bàn tay hướng ra trước. tòan thân hướng trước đè xuống tạo thành hình trạng khấu bái (lạy). trán hướng ra trước đè xuống đệm, buông bàn công thành. (chú ý hai chân thay đổi luyện tập).
(thứ ba) thân ngay ngắn ngồi trên đệm, hai gót chân để ởhội âm. Chân trái để bằng phẳng trên đùi nhỏ bên phải, hai tay giơ lên, lòng bàn tay hướng ra trước, tòan thân hướng ra trước đè xuốngthành hình dạng bái lạy. trán hướng ra trước đè xuống đệm, chân trái để ở trên đùi lớn bên phải như thức trước đè xuống thành hình dạng bái lạy.trán hướng ra trước đè xuống đến đệm, đan bàn công thành, (chú ý hai chân thay đổi luyện tập).
(thứ tư) thân ngồi ngay ngắn trên đệm, gót chân phải để ở hội âm. Hai tay từ chân trái hướng lên nắm vào cổ , hai chân thay nhau luyện tập.
(thứ năm) thân ngay ngắn ngồi trên đệm, lấy chân trái thả lên đùi lớn bên phải, lại lấy chân phải thả lên đùi lớn bên trái. Hai tay hướng lên lòng bàn tay hướng ra trước. tòan thân hướng ra trước đè xuống, trán chạm đệm. ngồi ngay ngắn nữa thì thần trở lên, thì song bàn công thành. Song bàn luyện thành công chỉ là tọa công bước một. đó là bước một tối cơ bản, tức là điều thân. Tiếp theo tiến hành điều tâm (thần) tu luyện. bí quyết tu luyện từ xưa đến nay chỉ ở một chử“tĩnh”chỉ có tâm (thần) an tĩnh, có thể tiến nhập vào trạng thái khí công, muốn đạt tâm thần yên tĩnh, cần tòan thân thả lỏng mềm dẻo như bông. Cái đó gọi là thả lỏng thân tâm cầu tĩnh vậy. hai tay bảo cầu (nam tay trái trên, nữ tay phải trên), ngưng thần bế mục (ngưng thần, mắt nhắm), thu thị phản thính (gom cái nhìn và nghe trở về), ý thủ ở đan điền. gọi là đan điền vì đó là nơi sinh đan. Đan điền có ba, thượng đan điền, vị trí bên trong nê hòan cung. Thứ hai là trung đan điền, vị trí ở tuyến nối hai nhũ (vú) bên trong huyện đản trung, thứ ba là hạ đan điền, vị trí ở bên dưới bụng rốn. bên trong bụng. Cổ ngữ nói hạ đan điền tu mệnh, thượng đan điền tu tính. Nơi ý thủ là hạ đan điền. pháp ý thủ, sơ học thì cần chấp trước truy cầu đều là đạt bên trong hạ đan điền có vòng khí vậy. đó gọi là“thiết đan”. mục đích là ngưng thần cầu tĩnh giảm thiểu tạp niệm. tiến thêm một bước, công phu sâu rồi, tạp niệm giảm ít rồi, chỉ là giờ giờ tập hợp lại, có thể bỏ khí chấp trước trong huyễn tưởng (ảo tưởng) lờ mờ tích chứa trong đan điền có một vòng khí nhiệt, như có như không, vừa chân vừa huyễn (ảo), đó là huyễn đan vậy. lại tiến thêm một bước, công phu đạt tĩnh định cảnh, tạp niệm tiêu hết. lúc này bên trong đan điền khơi động, nhiệt khí hợp lại thành hình, đó là nhất dương sơ sanh, là ban đầu của hòan đan. Đó là nguyên thần quy vị, lúc nội khí sơ sanh. Đó là điều thần. kế đó phụ thêm thở hà hơi“a”thở ra“hi”tiến hành điều tức lục tự quyết. đó là ngũ tạng thổ nạp thuật. tại sao gọi là thổ nạp thuật? đó là âm lục tự ứng với lục phủ ngũ tạng, chử“hi”đối ứng tam tiêu vậy.
Thận thuộc thủy dung thở khí nhẹ như mây để tiết (làm chảy ra) nó, lấy hấp khí (hít vào) mà bổ nó.
Can thuộc mộc dùng thở hà hơi nhẹ như mây để tiết nó. Lấy hấp khí bổ nó.
Phế thuộc kim dùng khí nhẹ như mây tiết nó, lấy hấp khí bổ nó.
Tâm thuộc hỏa dùng a khí tiết nó, lấy hấp khí bổ nó.
Tì thuộc thổ dùng hô khí tiết nó, lấy hấp khí bổ nó.
Tam tiêu thuộc khí dùng khí tiết nó , lấy hấp khí bổ nó.
Phương pháp luyện công lục tự quyết:
Đầu tiên xem tạng phủ nơi nào bị bệnh, sau đó lại quyết định dùng chử gì. Thật hỏa tiết nó, hư hàn bổ nó. Tiết là do miệng phát tự âm (âm chử) hô khí (thở khí ra) trước hô (thở ra) sau hấp (hít vào), thở khí ra thì căng miệng, phần nhọn của lưỡi tùy theo từ phát âm tự nhiên điều chỉnh, do đan điền mặc niệm (niệm thầm) từ đang dùng. Khí là âm, ý là thanh, (không phải âm thanh xuất ra), một mặt nhả khí ra, bụng hít hơi vào, lúc khí nhả ra hết thì dùng lưỡi hấp khí, hấp khí lâu làm hô khí (khí thở ra) phân làm một phần ba, đồng thời mặc niệm“nhị”tự (từ thứ hai), nhẹ nhàng ngậm miệng, nghiến răng, một hô một hấp là một lần, mỗi từ không quá sáu lần, bổ là ban đầu hít vào sau đó thở ra, lấy lưỡi hấp khí mặc niệm“nhị“tự, đồng thời đầu nhọn lưỡi để lên trên, bộ phân bụng, háng hướng ngòai , lúc hít khí xong lại dùng miệng thở ra, phương pháp cùng tiết hô hấp pháp tương đồng. phát sở dụng của tự âm, hô khí dài cùng hấp khí một phần ba, một hít một thở là một lần , mỗi chử không quá chín lần. một nơi có bệnh có thể luyện một chử , nhiều nơi có bệnh có thể luyện nhiều chử, cũng có thể luyện cả sáu chử. Phàm luyện lưỡng tự như trên thì cần thuận lấy chử ngủ hành tương sanh luyện, tức kim () tam tiêu (hi). Không thể đảo lộn, nếu không sẽ thành ngũ hành tương khắc, đối với thân bất lợi, đó là điều tức vậy.
Lục tự điều hình ca quyết như sau:
Can mộc hư khí tĩnh tự tình, phế kim khí song thủ kình. (gan mộc hư khí từ con ngươi, phổi kim hai khí tay giơ lên).
Tâm hỏa a khí đính xoa thủ, thận thủy xuy khí bảo tất bình. (tâm hỏa a khí tay bắt tréo, thận thủy xuy khí ôm đầu gối).
Tì thổ hô khí tu toát khẩu, tam tiêu hi khí hàn nhiệt trữ. (thì thở hô khí cần mở miệng, tam tiêu hi khí giữ hàn nhiệt).
Bài ca quyết này khái quát hết luyện công điều hình của lục tự quyết tòan bộ tư thế cùng động tác, luyện can kinh thì ứng hai mắt yên tĩnh. Luyện phế kinh thì hai tay giơ lên , lòng bàn tay hướng lên trên, tùy trước hấp khí mặc niệm“nhị”tự mà hai tay thong thả hướng lên đến đỉnh đầu, hấp khí mặc niệm“nhị”tự lúc nâng lên trên, a khí (tức hô khí) thì hai tay đến đỉnh đầu. luyện thận kinh thì tùy vào“xuy”khí hai đầu gối hạ xuống, hai tay ôm lấy hai đầu gối, lúc chuyển khí (hấp khí), mặc niệm“nhị”tự tự khởi thành. Luyện tì kinh thì tùy vào hô khí tương tự khỏi. luyện tam tiêu có thể ngồi hay nằm hay đứng, hi khí lấy điều chỉnh hàn nhiệt của thượng trung hạ tam tiêu.
Lấy bước một tu luyện lục mạch thần kiếm ở bên trên, chủ yếu là liệu thương trị bệnh. Đạt đến thân thể khang kiện, nỗ lực siêng tu lục tự mười năm thành công.
Tọa công (thứ hai)
Ngồi ngay ngắn, hai tay ôm quả cầu trước bụng, ý thủ hạ đan điền, lúc vòng nhiệt khí sinh ở hạ đan điền, hai tay ở trước bụng xoay quả cầu ba mươi sáu lần, tức hai tay mở rộng quả cầu ra bên ngoài, sau đó hai tay đối đẩy tựa như khí cầu bị đè xuống, một lần kéo một lần đẩycùng hai tay hướng lên đến huyệt đản trung, lật tay, long bàn tay hướng xuống, đè xuống trước bụng. đồng thời quán tưởng lỗ chân long toàn thân rất căng khai, thiên địa linh khí, linh quang cuồn cuộn không đứt tiến nhậo vào thân, tụ nơi hạ đan điền. một lên một xuống cùng tiến hành ba mươi sáu lần, đó là lục mạch thần kiếm tu luyện bước thứ hai, trước quan trọng bồi dưỡng đan điền chân nguyên khí. Nỗ lực siêng năng tu luyện ba mươi năm công thành.
Tọa công (thứ ba)
Ngồi ngay ngắn, thu thị phản tính (nghe nhìn trở về), thùy kiểm bế mục (dịu mặt nhắm mắt). ý thủ đan điền, hai tay mười ngón giao nhau để ở trên đan điền trước bụng, đợi đến đan điền đầy khí, một làn nhiệt khí xuống hội âm qua hạ thước kiều phá cửa ngõ đuôi đốc mạch lên thẳng đỉnh côn lôn (tức bách hội) lại từ trước trán qua thượng thước kiềutheo nhâm mạch hạ đến đản trung, thẳng tới hạ đan điền. đó là đả thông tiểu chu thiên vậy. mỗi lần luyện công, tiểu chu thiên pháp luân chuyển ba mươi sáu lần. đó là tọa công bước thứ ba. Dùng ngàn vạn lần tự nhiên đả thông tiểu chu thiên, không cần lấy ýmạnh dẫn khí, nỗ lực siêng năng tu trăm ngày công thành.
Tọa công (thứ tư)
Thân ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, thùy kiểm bế mục (mặt dịu mắt nhắm) ý thủ đan điền, hai tay mười ngón giao nhau, để lên trên đan điền, nữa khắc, tiểu chu thiên pháp luân vận chuyển, sau ba mươi sáu vòng, cùng khí thu nhập hạ đan điền, hai tay cùng khai, đè xuống, đổi lại, lòng bàn tay hướng lên, dẫn khí đan điền đến trung đan điền (đản trung). Lại đổi, lòng bàn tay hướng vào trong, mười ngón đối nhau, lao cung đối xéo xéo trung đan điền, ý thủ trung đan điền, thần chiếu trung đan điền, khâu tổ xử cơ nói:“kim đan đại dược bất nan cầu, nhật chiếu trung điền hạ thủ lưu, thủy hỏa tự giao vô thượng hạ, nhất đoàn sanh ky tại song mâu”(kim đan đại dược không khó cầu, chỉ chiếu trung điền hạ thủ thôi, thủy hỏa tự giao không thượng hạ, nhất đòan sanh cơ tại song mâu (hai con ngươi). Trong mắt là trung đan điền gọi là thần chiếu vậy. lúc đó là ý thủ hạ đan điền làm đầu. ở lúc hỗn loạn lặng yên thăng lên đến trung tĩnh chi trung (bên trong của bên trong của tĩnh) tự nhiên nhất đoàn (1 luồng) nhiệt khí từ gót chân đến đan điền, đó là thủ tam dương kinh, thủ tam âm kinh, túc tam âm kinh, trùng mạch, đới mạch, âm duy mạch, dương duy mạch, âm tề mạch, dương tề mạch, đều có khí lưu vận chuyển. não hải sấm vang, nhãn thổ kim quang (mắt phát kim quang), lục căn chấn động, thiên toàn địa chuyển ( trời xoay đất chuyển), đó là tượng đả thông đại chu thiên, kế đó khí lưu từ đốc mạch (bách hội) đổ vào trung mạch, mạch trái cùng mạch phải. đồng thời toàn thân khí lưu do kinh mạch nhập nội phủ, xuyên cốt tủy, phục đến da thịt, toàn thân trên dưới đều thông. Nổ lực siêng tu ba năm công thành.
Tọa công (thứ năm)
Ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, thùy kiểm bế mục (mặt dịu mắt nhắm), ý thủ đan điền, hai tay ôm vòng trước ngực, các ngón hai tay cách nhau nhất xích ( 1 thước), đầu nhọn bàn tay đối nhau, đợi sau khi đại chu thiên pháp luân vận chuyển một vòng, cùng khí thu đến hạ đan điền. sau đó từ hạ đan điền vận đến trung đan điền, từ trung đan điền cùng khí vận chuyển đến vai phải, chạy cánh tay trên bên phải mặt dương (bên ngòai), từ đầu ngọn ngón tay phát xuất, từ đầu nhọn ngón tay trái chạy đến cánh tay trên bên trái phía dương (bên ngòai) đến vai trái, lại từ mặt lưng đến vai phải, tuần hoàn đến đi, hình thành một cái phong bế khí lộ, toàn chuyển ba mươi sáu vòng, lại theo hướng ngược lại chuyển ba mươi sáu vòng. Lấy khí từ trung đan điền thu đến hạ đan điền, giữ yên lặng nữa giờ, lại từ hạ đan điền vận đến trung đan điền, vai trái, từ mặt âm tay trên (bên trong), từ phần nhọn ngón tay trái phát xuất, từ đầu nhọn ngón tay phải, cánh tay trên bên trái phía âm (bên trong) đến vai phải, theo mặt ngực đến vai trái, hình thành một cái phong bế khí lộ, toàn chuyển hai mươi bốn vòng, lại theo hướng ngược lại tòan chuyển hai mươi bốn vòng. Đưa khí từ trung đan điền đến hạ đan điền, nỗ lực siêng tu. Ba mươi năm nội khí ngoại phát, ngọai khí nội thu sơ bộ thành công vậy.
Tọa công (thứ sáu)
Ngồi thân ngay ngắn, thu thị phản thính, thùy kiểm bế mục (mắt dịu mắt nhắm), ý thủ đan điền, hai tay nắm tay không để ở trước bụng, công phu đến đây, trong vòng nữa giờ đan điền đầy khí, lúc này toàn thân đều thông sướng, khí không cần tuần kinh mạch lộ tuyến lại, mà là tùy ý điều động, tức đạt đến ý động khí hành. Tại nơi trước thân tam xích thuộc điểm nhất tịch, nâng nắm tay phải đối chuẩn tịch (điểm nhất tịch), như vậy thân thẳng năm ngón đồng thời phối hợp phát thanh“bộ khẩu chử mặc”, khí phát đan điền, nhanh như sấm, từ cánh tay trên phần dương tam dương kinh mạch đồng thời phát xạ mà xuất, đánh thẳng vào lửa. chú ý quyết không nghe theo những phong chi động tác (động tác gió). Toàn mượn nội lực đánh thẳng vào lửa. sau đó thu hồi khí. hai tay thay đổi luyện tập. đầu tiên luyện tam dương kinh thần kiếm, sau luyện tam âm kinh thần kiếm, mỗi lần luyện công không được ít hơn một thì thần. Tùy vào công lực tăng trưởng, chúc hỏa (đuốc hỏa) dần dần dời xa đến năm thước, bảy thước, chín thước, một trượng hay xa hơn. Một mực lấy một trượng làm tiêu chí. Siêng tu ba năm có thể đạt đến tự phát như ý là lục mạch thần kiếm sơ bộ thành công rồi.
Thứ hai trạm công (thứ nhất)
Trạm công (thứ nhất) là, chủ thái thiên địa vũ trụ linh khí, làm mạnh mẽ nội khí tự thân, tăng cường thể năng, khiến nội khí dạt dào như trường giang đại hà vô cùng vô tận.
Thanh thần (lặng thần), lúc mặt trời lên, phía đông có những đám ráng khắp trời. hai chân đứng mở ra, cùng với vai khoan thai, gót chân tạo thành cửa bát, hai tay hạ xuống hai bên cơ thể. Lòng bàn tay đối nhau, tòan thân thả lỏng, tâm thần an tĩnh, nhìn những đám ráng phương đông, sau đó thu thị phản thính, dùng thiên mục diêu thị (nhìn xa) đến ngòai biên đông phương, đồng thời quán tưởng hạ đan điền, đợi nhiệt khí tụ hợp sinh thành, bành trướng, toàn thân mười vạn lỗ chân lông đều căng, khí từ thân trãi khắp vũ trụ, cùng vũ trụ linh năng hỗn hợp tan thành nhất thể. Lúc đó có ý niệm là: ta là vũ trụ, vũ trụ là ta, chánh khí của ta tức là khí hạo nhiên của vũ trụ, khí hạo nhiên của vũ trụ tứ là chánh khí của ta. Đứng tĩnh nữa thì thần. Thu công pháp không cần động tác, toàn bằng quán tưởng, quán tưởng chánh khí vũ trụ hạo nhiên từ từ theo tứ diện bát phương hướng tụ tập trung tâm, cuối cùng ngưng tụ thành nhất điểm, làm thành một cái vòng quang cao năng lượng, vòng quang cao năng lượng đó chính ngưng tụ tại bên trong trung tâm hạ đan điền. tối đến, chọn đêm trăng tròn, đối trăng tu luyện, phương pháp giống như trên. Công pháp này khí phách rộng lớn, rộng thu vũ trụ hạo nhiên chánh khí.
Trạm công (thứ hai)
Sang sớm hay lúc chiều, ở trên đỉnh núi cao, hoặc bên bờ suối nước, trong không gian rừng cây hoa lá, chọn nơi bình thản luyện công.
Hai chân đứng mở ra, bên dưới tạo thành kị mã thung thức (thức cái cọc), y theo khả năng tình huống đầu tiên luyện cao vị thung (cái cọc ở vị trí cao), tiếp là bán mã thung, tiếp đến toàn mã thung, hai tay từ hai bên giơ lên bằng vai sau đó đổi tay, lòng bàn tay hướng lên trên hình thành bão thiên thức (thức ôm trời), đầu ngước lên. Mắt nhìn thiên căn, ý niệm cùng trời tạo thành một đại cầu bão trụ. Mỗi lần luyện công toàn dùng tồn kị mã thung được nữa giờ thìn trở lên là tốt. công phu này chủ luyện phần dưới, làm mạnh nội khí nhiều, thêm thái vũ trụ chánh khí.
Trạm khuyến (thứ ba)
Buồi sáng hay chiều, mắt đối mặt trời hay mặt trăng, sao, núi cao hay cây lớn luyện công.
Vô cực thức trạm thung, đầu tiên lấy ý niệm thu hái khí thái dương, núi cao hay đại thụ. Rồi điều động nội khí trong thân tụ ở hạ đan điền, sau đó chân phải liến lên một bước, hình thành hàm ky thung , tức trọng tâm bảy phần rơi vào chân trái, đầu gối trái cong, chân phải hư điểm ở phía trước, hai tay từ trước bụng bắt đầu nâng lên (lòng bàn tay hướng lên), dẫn khí từ hạ đan điền lên đến trung đan điền, hai tay hướng ra trước trở kim cương quyền thu về hai bên lưng, nắm tay không, quyền (nắm tay) bên phải bắt đầu phía trước thân, thân ngay thẳng một sát na năm ngón đánh thẳng, đùi biến thành cong bên phải tiến bước. đồng thời lấy ý dẫn khí theo tay trên bên ngoài (hay bên trong). Nhanh như ánh sáng lấp lánh từ ngón tay phát xuất. đánh hướng mặt trời (thái dương), núi cao hay đại thụ, đồng thời phát xuất một âm thanh ngắn thúc uy mãnh “bộ khẩu hắc”! lấy thanh trợ khí, dùng thanh làm khí mạnh, chú ý khí đánh xuất ứng theo hoán khí tức khắc thu hồi.
Hiệu ứng: tùy theo cương khí thần kiếm kích xuất, mặt trời mặt trăng hay sao hợp huyễn xuất các dạng tia sang khác nhau, núi cao không cốc phát xuất bôn lôi kêu ầm ầm, lá đại thụ phát xuất âm thanh hô khiếu (kêu hô), công lực thâm sâu, có thể khiến cây lay động, lá nhánh rối loạn.
Trạm công (thứ tư)
Buổi tối, ở phía sau một cây đại thụ mà đốt một cây nến, đứng trước cây khỏang năm trượng ngòai, trạm thức tùy công phuđến đây, dùng vô mà đạo dẫn, tùy ý mà đứng, tùy ý mà phát, diêu chỉ (chỉ xa), điểm, kích, phách (bửa ra), trảm (chém), lửa nến phía sau cây đại thụ theo tay mà diệt. sau đó bất luận đi đứng ngồi nằm, cương khí thần kiếm tùy ý mà phát thu, lục mạch thần kiếm trức cơ công thành vậy.
Thứ ba, phụ trợ công (thứ nhất)
Phụ trợ công là phối hợp tọa công cùng trạm công bồi luyện khí chân nguyên, khiến người tu luyện trong sáu nơi thường sinh hoạt ở trong thái độ khí công dưỡng khí luyện tính. Thật tế thì tính mệnh song tu, tính công thành phần lớn ở mệnh công. Công pháp chủ yếu quyết là “thủ trung”, tức bất luận ở lòng thành hay tình huống đều yếu thủ “trung tâm”. Cái trung tâm đó đều không chuyên chỉ đan điền, mà là chủ yếu “trung” trong trạng thái tinh thần. quá khứ gọi là “trung dung chi đạo” là nghiên cứu cái “trung”. Giảng nói cần rỏ ràng một chút, đó là khiến trạng thái tinh thần ở nơi tương đối ổn định, âm dương bình hành, tức bất hưng phấn cũng bất ức chế. Hưng phấn thì dương thịnh, ức chế thì âm thịnh. Cả hai đều bị lệnh rồi. “trung dung chi đạo” thì thủ trụ để hiểu cái “trung” đó, tức tiến nhập hiểu nội công cảnh giới cao, đó là “điềm đạm hư vô, chân khí tông chi” (chân khí theo nó), đạt đến cảnh giới này,công lực ngày càng thâm hậu không ngừng, lại tu dưỡng tính cách, đạo đức hòan mỹ. đó là danh ngôn nho gia thông qua “thủ trung”, trường dưỡng”hạo nhiên chánh khí của ta”. Dùng thuyết trên đã thấy công lý rồi, lại thấy công pháp. Vô luận hành (đi) (đường chạy hay đi) hay nằm, không câu nệ tư thức, đều lấy pháp trên. Lý nằm trong 6 cái thừơng trong sinh họat mà khiến nhân sĩ võ lâm nói. thông thường trong thái độ khí công đã ngụ ý tự vệ ở trong vô hình rồi. do thường có một vòng cương khí hộ thân phân bố bốn vòng, trách nhiệm làphải cảnh giác vật lạ đột phá xâm phạm đều khó. Nhiệm vụ đối với vật lạ đều tự cảnh giác đột nhập hộ thân cương khí. Có thể lập tức lựa chọn đối sách, lịch sử có truyền là na tam cầm ám khí phi đao ở xa sau lưng đạt ma tổ sư khoảng một trượng thì đột nhiên bị ba đóa kim lien hoa nâng lên ở trên đất. đó là một tầng thứ công phu chân thật tả lại.
Trụ trợ công (thứ hai)
Nội ngọai hợp luyện là một lọai phụ trợ công của lục mạch thần kiếm. thông qua nội ngọai hợp luyện có thể cường cân tráng cốt thêm một bước là tăng cường điều phát công phu cương khí thần kiếm.
Bước thứ nhất: mười ngón quơ đất, lưng đùi duỗi thẳng, gót chân điểm địa, lúc hấp khí (dùng miệng hấp mạnh phát xuất âm thanh),hai khủy tay cong, ngực bụng như muốn dính vào mặt đất, hô khí (thở khí ra) (dùng lưỡi phun ra, phát ra chấn hưởng) hai khủy tay duỗi thẳng, như vậy làm lại ba mươi sáu lần.
Bước thứ hai: mười ngón quơ đất, hông cong, gót chân điểm địa (dùng miệng hấp mạnh phát ra âm thanh), lúc hấp khí hai khủy tay cong, ngực nặng, tâm rơi vào ngón nhọn tay phải, hô khí (dùng lưỡi phun ra, phát ra chấn hưởng) hai khủy tay thẳng ra, tiến hành lại ba mươi sáu lần, sau đó lại theo hướng ngược lại tiến hành ba mươi sáu lần.
Bước thứ ba đến thứ sáu: động tác hô hấp giống như trên, chỉ là dùng các ngón tay chống, đồng thời các ngón tay của hai tay trái phải giảm một ngón, cho đến giảm đồng thời ba ngón, mỗi tay còn một ngón chống.
Từ bước một đến bước mười tám: động tác, hô hấp như trên, chỉ là gót chân đệm chuyên dùng có chân cao. Dùng trọng tâm phần lớn rơi ở đầu ngón tay, chia thứ mười hai bước mười chín như trên, hô hấp như trên, đảo lại, chỉ là dùng ngón tay chống, đầu tiên dùng bàn tay, lại dùng năm ngón, bốn ngón, ba ngón, hai ngón, một ngón, làm cong cong vận động toàn bộ.
Thuật tu luyện trên đều phải có nghị lực thường rất lớn, lại khó thành công, một khi tu luyện thành công tức thân đều có kim thương thủ, nhất chỉ thần công, xa rời tuyệt kỷ thần kiếm cương khí, đó là độc bộ võ lâm vậy.
Thứ tư, phật công
Phật công là nhìn tên nghĩ nghĩa, đó là phật gia công pháp, trên toàn nước ta, phật giáo từ ấn độ truyền qua rộng rãi là hiển tông và mật tông hai đại tông phái, ở nơi đó chỉ thật có pháp môn tu trì cơ bản hiển tông. Chương này giới thiệu là thiền tông tị tổ khai sang thiếu lâm võ công là đại tông sư đạt ma lão tổ là thiền diện bích.
Ở vùng Hà Nam là Thiếu thất sơn chân núi phía bắc thiếu lâm tự, tây bắc là ngọn núi ngũ nhủ trên đó có một thứ xưa nay nghe danh đó là đạt ma diện bích sơn động, tương truyền nơi động đó là tông tị tổ đạt ma năm đó diện bích tu thiền. quan hệ giữa thiền định cùng nội công trãi qua đều sự giải nghĩa sai lầm. đặc biệt là thứ nhất ít có nhân sĩ phật giáo phổ biến nhận là “thiền” cao ở “nội công”, môn khác nhận nội công là bồi dưỡng nguyên khí, công pháp khứ bệnh kiện thân, mà “thiền” tức truy cầu “minh tâm kiến tính”, khai phát trí huệ, phát hiện chân như (chân ngã), liễu thoát sinh tử. kỳ thật cái đó đối với “nội công”có thiên kiến hàm nghĩa bất minh. Nội công tức là tu luyện thân thể tinh khí thần bện trong. Lại dùng nó hợp phương pháp tu trì kiền đạo. pháp tu trì nội công rất nhiều, quy nạp từ xưa nay có phật gia, đạo gia, dân gian, võ công, y thuật ngũ phái. Do vì mục đích không đồng mà phương pháp tu trì (luyện) khác biệt. gọi là “nội công” (còn gọi là “khí công”) gần đây mục tiêu là khứ bệnh kiện thân, mục tiêu sau cùng là kỷ thuật kiện thân, minh tâm kiến tính, kích thích tiềm năng, khai huệ. Không có phần kiện thân nói trên, nói không như trên vậy đích sau cùng của nó là “minh tâm kiến tính”. Cuối cùng mục tiêu thật sự đã hiện, cần có thân thể kiện khang lại cần xúc tiến đề cao kiện khang thân thể. Thiền là phạn văn dịch âm của “thiền na”, nghĩa là “tĩnh lự” (tĩnh sự lo toan) hay “tư duy tu” (sữa chữa suy nghĩ). “viên giác kinh” viết: “vô ngại thỉnh tĩnh tuệ, giai vi thiền định sanh” (vô ngại cầu tĩnh tuệ, đều do thiền định sinh). Nói “thiền định”thuộc vềbộ phận tính công nội công. Đạt ma diện bích công pháp như sau:
(thứ nhất) lý nhập: ngồi ngay thẳng, điều tức êm nhẹ, tương chỉnh ý niệm đều ngưng (đọng lại) rót vào bức tường phía trên, vô tự vô tha (không ta không người), bền chặc giữ không rời. trạm nhiên tịch chiếu (tự nhiện lặng chiếu sâu), đuổi từ từ , quét đi phàm trần nghiệp chướng ở tâm đầu, phát trí tuệ tâm, hiện chân như định, kinh qua phản phục tu luyện, diện bích tọa thiền (mỗi lần một thì thần) đạt đến tình ý bất khởi, vọng niệm mất hết, thế giới phật cùng thân ta đều không tồn tại, chỉ có một mảng quang minh vĩnh hằng, mỹ diệu cùng vui đẹp.
Thứ hai: hành nhập: vì phối hợp tu luyện diện bích thiền, cần chú ý sinh họat thường ngày “hành nhập”. pháp này có bốn, - nhật báo óan hành: là nhớ chính yếuphần ngực rộng lớn, không phải “ân óan” nhân gian. “yêu ghét” là nơi tình phiền nhiễu, gặp chuyện vui mừng mà không vui, gặp khổ không óan. Hai là tùy duyên hành: người tu trì cần định lực không sợ yêu hay nhục, đuổi khí lo toanmà lo mất lý của tâm, đến nơi tùy duyên, xét duyên khởi của thân; tâm thể tịch tĩnh bất động.
Thứ ba vô sở cầu hành: xử thế trữ tình đạm bạc, bất chấp mê danh lợi vật chất truy cầu vô cùng tận. cần biết “hữu cầu giai khổ, vô cầu nãi nhạc” (có cầu đều khổ, không cầu liền vui).
Thứ tư gọi là phá hành tứ lấy “pháp tịnh chi lý” làm tu trì cùng chỉ đạo nhân sinh.
Phật công thực chất tứ thiền định, là thuộc phạm trù tính công trong nội công. Đời xưa cần xây dựng trên cơ sở mệnh công bền chặc. phật học sâu như biển, thiền định vô chỉ cảnh (thiền định không có cảnh dừng), tùy theo sự thâm hóa của tính công, liền nối đắc đại thần thông. Uy lực lục mạch thần kiếm tương đắc thêm rực rỡ vậy.
Thứ năm, thiên trúc thần công
Thiên trúc thần công thuộc nước thiên trúc là tu luyện bí pháp thượng thừa, còn gọi là nhật vô tướng du già. Đoạn này giới thiệu bảy loại thần công, chủ yếu tu ý niệm lực. lực lượng ý niệm là rất lớn, vô cùng, là cơ sở hiệu ứng tuyệt kỷ thần công cần thiết.
Thứ sáu, định thân thuật
Ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, hai tay để ở trước ngực, kết đại liên hoa ấn (mười ngón hướng lên trời, gốc bàn tay cùng lóng đầu tiên ngón út để phía ngòai, tạo hình trạng hoa sen đang nở). tĩnh tọa nữa giờ, mặc tụng (niệm thầm) “yểm” tự chân ngôn, quán tưởng vũ trụ linh năng hóa thành bạch quang từ luân xa đỉnh đầu nhập vào trong cơ thể, tiếp đó mặc tụng “ma” tự chân ngôn, quán tưởng bạch quang nhập vào luân xa yết hầu hóa thành hồng quang, kế đó mặc tụng “ni” tự chân ngôn, hồng quang nhập luân xa tâm hóa thành hòang quang. Kế tiếp mặc tụng “bá” tự chân ngôn, hòang quang nhập luân xa rốn. hóa hòang quang thành lan quang (ánh sang xanh da trời), tiếp đó mặc tụng “di” tự chân ngôn, lan quang nhập âm luân (hội âm) hóa thành tử quang (ánh sáng tím). Cuối cùng mặc tụng”ngưu” tự chân ngôn, quán tưởng tử quang từ truyến trong thân thể thẳng xông hướng lên đến luân xa đầu, lại mặc tụng tự âm “bột”, dẫn tử quang hạ xuống đến trong tâm khoang bụng nhỏ. Rồi lại tiến hành lại ba mươi sáu vòng, lại quán tưởng tử quang nở rộng , đầy kín tòan thân, khí cảm rất mạnh, kế đó hợp thiên cổ lôi âm phật ấn (hai tay mười đầu ngón đầu ngón đều hợp lại hướng ra trước, lòng bàn tay đối không), ý niệm tòan thân chân khí tụ tập ở đan điền, nhãn tình cùng đầu ngón tay. Đợi chân khí tụ tập sung túc, tự nhiên la mạnh âm thanh “a” (âm thanh ngắn nhưng mãnh liệt), lấy khí phát thanh, khí phát đan điền, quán tưởng thanh âm như sấm, thẳng đánh tâm điền của đối thủ, đồng thời cùng thiên cổ lôi âm phật ấn biến thành thật tâm hợp chưởng ấn, quán tưởng mười đầu ngón bắn ra mười đạo bạch quang đánh vào đối thủ huyệt tương thai, huyết lôn, đản trung, đỗ tễ, chương môn, khí hải, quan nguyên, trung cực, thập đại huyệt nội. đồng thời hai mắt lườm mạnh bắn ra hai đạo kim quang, như dây tơ, như lụa mềm, nhằm đối thủ trói thật chặc toàn thân. Như trên là trong một thời gian nhỏ mà “tam mật tương ứng”. sau khi luyện thành thục, đều có thể cùng niệm lực đồng thời phân tán tác dụng ở trên nhiều mục tiêu, theo mục tiêu định trụ. Đó gọi là “định thân thuật” vậy.
Thứ bảy, thân ngoại hóa thân thuật
Thân ngoại hóa thân là nguyên thần. nguyên thần xuất thể, có phân biệt âm thần cùng dương thần. dương thần là nguyên thần ngưng luyện, tụ mà thành nguyên anh, nguyên anh ngưng kết, có thể rời cơ thể mà chu du vũ trụ, tụ thì thành hình gọi là thân ngọai hóa thân, tán thì thành khí, ẩn ở vô hình vậy. âm thần là nguyên thần chưa ngưng luyện, không phải là hóa thân.
Ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, hai tay kết thiền ấn (đầu ngón tay hai tay tương để, tám ngón giao nhau), để ở trên khoang bụng nhỏ, như pháp trước tụng lục tự đại minh chú, tam mật gia trì ba mươi sáu biến. quán tưởng trong tâm bụng nhỏ có một kim sắc liên thai (thai sen kim sắc), chân thân của ta (nguyên thần) ngồi ở trên liên thai, mặc tụng “ngưu” tự chơn ngôn, liên thai chân thân thăng nhập tâm luân (luân xa tâm), hầu luân (luân xa hầu), đỉnh luân (luân xa đỉnh đầu), lại quán tưởng hiểu phật âm, dàn trận đàn hương, đại nhật như lai suất thập vạn chư phật thừa kim sắc liên thai đến. khai đỉnh môn, nguyên thần dần dần bay lên, cùng không trung chư phật hội hợp. nháy mắt những cảnh xem thấy biến mất, vũ trụ quan chỉ còn linh năng ấu hóa chân thân (chân thân mới vừa hóa), thập phương quang minh. Ban đầu nguyên thần li thể lập tức hồi về, sau đó dần dần thời gian li thể cùng cự li dần dần dài hơn. Sau trăm ngày, có thể ngao du vũ trụ, du hí phong trần, ẩn hiện mạc trắc, phổ tế chúng sinh vậy.
Thứ tám, ẩn hình thuật
Ẩn hình thuật có hai, một là chướng nhãn chi thuật, tức có thể tụ tập mây vũ trụ thái quang khí chận mắt người. thứ hai là dùng công lực cho thân tự nhạt hóa, hóa thành vô hình. ẩn hình thuật thật thể hiện công lực thâm hậu, không phải tha lực, đích cuối cùng là đề cao đạo đức công lực tự thân. ẩn thân thuật luyện thành công tức chứng quả nhục thân thành phật. có nhiều người dùng thuật ẩn thân phá hoại sự vật, do vì đạo đức tình thao thấp kém thì không thể đạt cảnh giới này.
Ngồi ngay ngắn (hay đứng) thu thị phản thính, hai tay kết ẩn hình ấn (thứ nhất) (tay trái hai đầu ngón cái và thực tương để, kết thành vòng, ba ngón còn lại thành hình thân cung mở, tay phải ngón cái sáp nhập tay trái loan trong, bốn ngón còn lại bao cổ tay trái, đặt ở trước ngực). mặc tụng đại minh thần chú. Tam mật gia trì tam thập lục biến. quán tưởng ngũ luân (đỉnh luân, hầu luân, tâm luân, tề luân, âm luân) phát ra bạch hồng hòang lan tử ngũ sắc quang luân hỗ tương dung hợp hình thành vòng tròn tia sắc quang quấn quanh tòan thân, làm thành ánh sáng chặn, ngoại thân chỉ thấy một tia sáng che thì chướng nhãnẩn hình thuật thành vậy.
ở mặt trước cơ sở luyện thành trên hai tay phân khai kết ẩn hình ấn (thứ hai) (hai tay ngón cái bấm gốc ngón vô danh để ở hai bên thân) quán tưởng củ tự đồ, từ thân hướng vũ trụ khoếch tán, mặc niệm tựquyết “a”, ở tam mật gia trì tác dụng xuống, nhục thể hóa thành khói trắng nhạt, hóa thành hư không, ẩn ở vô hình, tùy theo công lực nâng cao, đi đứng ngồi, nằm, đề có thể ẩn hình trong chớp mắt.
Thứ chín, hàng ma thuật.
ma phân thành nội ma ngọai ma. Nội ma là người tu luyện kỷ bất thuần, còn vọng niệm, tạp niệm, tà niệm, ác niệm mang nhập vào trong tu luyện. ở cao tầng, huyễn hóa xuất nhiều cảnh tượng, như khiến người tu luyện sản sinh chấp trứơc truy cầu, khiến tinh thần trạng thái xuất hiện âm dương thiên lệch, theo sẽ dẫn đến tẩu hỏa nhập ma. Gọi là “ma do tâm sanh” đó là như vậy. ngọai ma là tinh thinh quỷ quái trong vũ trụ, bao quát tu luyện có con rắn trắng, trùng độc vật, hoặc thể phụ nhân, lúc khiến người sản sanh thấu thị, diêu thị các công năng, đó là “quỷ thông” vậy. hoặc khí đạo nhân, khiến người tu luyện công lực hủy trong một sớm. một khi đến thời gian, ma phụ thể ra đi, bị người phụ thể công năng tiêu hết, tinh khí bị thái đạo nhất không. Trở về không còn như thường nhân vậy.
Ngồi ngay ngắn, thu thị phản thính, thủ kết định ấn ( hai tay chồng nhau, long bàn tay hướng lên trời, đầu ngón cái tương để, tay trái để ở trên tay phải), mặc tụng lục tự đại minh thần chú tam thập lục biến, đạt đến vọng niệm bất sinh, huyễn cảnh cùng thiền định quang minh cảnh vô. Nếu lúc vọng niệm khởi, các huyễn cảnh tụ tập lại, nội ma đến vậy. ngoại ma thừa hư mà nhập. nên tu luyện đến lúc này, các nguy nan quanh thân, nếu không thể giải thoát, nhập vào ma đạo vậy. lúc đó tay trái lôi ấn (ngón cái bỏ đi đốt đầu ngón trung, thực chỉ, vô danh chỉ điểm trước trung chỉ, tay trái ngón út đáp ở trên ngón vô danh). Bên phải thủ kiếm ấn (thực, trung hai ngón thân thẳng, ngón cái áp ngón vô danh, trên lưng ngón út). Niệm thầm khẩu quyết” “tâm định như chỉ thủy, chánh niệm pháp lực cao, thần kiếm cương khí chí, nội ngọai ma đầu tiêu”. (tâm định như nước dừng, chánh niệm pháp lực cao, thần kiếm cương khí đến, đầu nội ngọai ma tiêu”. Tưởng tượng chim phượng, củ tữ đồ hát mạnh một thanh “a” tự chấn lay tương tự vạn ma. TỐI THƯỢNG NHẤT THỪA THIÊN KHẨU QUYẾT Khẩu quyết tối thượng bật nhất tu thiên tiên (bản chú giải)
Xem chân tâm là chủ, xem chân khí là dụng, xem tam bảo là nền tảng. ngoại tam bảo (nhĩ, mục, khẩu) không lậu (rỉ ra) thì nội tam bảo (tinh, khí, thần) tự hợp, trước đắcthiên nhân(nội ngoại)cảm ứng, tiên thiên nhất khí tự nhiên sẽ thu nhập vào bên trong thân thể. Thân thể máu thịt của con người vốn là vật chất tất cả đều thuộc về hậu thiên âm đục nên không thể siêu phàm nhập thánh mà chỉ khí của tiên thiên thuần dương chí linh chí diệu, yểu minh mạt trắc (mờ mịt không lường), hỏang hốt nan đồ ( như bức đồ hình khó thấy đích xác) là có thể. Tuy nói từ ngoài đến nhưng thật ra thai nghén ở bên trong. Tiên thiên (động lực ban đầu) nếu không mượn nơi hậu thiên (vật chất) sẽ lấy gì mà thu nhập? hậu thiên nếu không đắc tiên thiên cũng không thể khởi biến hóa. Ấy là trong vô sinh hữu, trong hữu chứa vô. Hữu mang nhân vô mà thành hình, vô có gốc hữu mà thông linh.
Tiên gia diệu dụng, tuy chỉ chú trọng thái thủ tiên thiên nhất khí được xem là mẹ của kim đan mà có thể điểm hóa phàm thân thành thánh thể, nên tri đạo pháp tự nhiên mà không miễn cưỡng được gọi là trí vậy.
Phương pháp tối thượng thừa tu luyện thiên tiên.
Bộ thứ nhất
Thần không rời khí, khí không li thần. hô hấp tương hàm (hàm chứa lẫn nhau).
Không để tâm loại bỏ mà cũng không để ý ánh sáng. Giao phó tâm ý cho thanh hư, thường chiếu trong vắng lặng
(giả thích: tiên thiên nhất khí từ trong hư vô đến, hai khí tương giao tự nhiên thần ôm ấp khí, khí ôm ấp thần. khí tiên thiên và hậu thiên tương giao tương đắc thì hồn như say mộng, tự nhiên nhi nhiên, vô nhất hào tác vi (không làm chút gì). thần hô khí hấp, thượng hạ qua lại, trở về bổn nguyên luyện kết thành đan gọi là thai, thân tâm đại định vô vi mà thần khí tự nhiên sẽ giúp. Phó mặt tâm trí hư vô, không thể tồn tưởng. Giống như thiên địa đều định tĩnh thì tự nhiên dương thăng âm giáng, nhật nguyệt qua lại mà tạo nên vạn vật. khi công phu lâu ngày tĩnh sẽ sinh định, thần nhập vào trong khí, khí thần hòa hợp thì ngũ hành tứ tượng tự nhiên (toàn thốc) hòa hợp, tinh ngưng khí kết, ấy là khảm ly giao cấu. công phu tĩnh lúc đầu, khí thuần âm bên dưới cần dùng dương hỏa nung luyện vừa đắc là chân khí sẽ phát sinh, thần minh tự đến, luyện tự nhiên thuần thục, công phu tĩnh lâu ngày, tự nhiên thần khí giao hợp. thần thuộc phương nam hỏa, hỏa ở quái là ly. Tinh thuộc phương bắc thủy, thủy ở quái là khảm, hồn thuộc phương đông mộc, mộc ở quái là chấn, phách thuộc tây phương kim, kim ở quái là đoài. Ý thuộc trung ương thổ, thổ ở quái là khôn là trung cung hoành đình. Tiên thiên huyền quan là kiền, khi thần khí đã hợp thì thần nhập khí trung, tự nhiên ngũ hành tứ tượng toàn thốc (hòa hợp), ấy là khảm ly giao cấu. thuần âm dụng hỏa là ngưng thần hạ chiếu khôn cung, yểu yểu minh minh ( mờ mờ, mịt mịt) mà đắc chân khí phát sanh, thần minh tự đến đó là nhất dương lai phục.
đệ nhị bộ
thần thủ thần (khôn) cung, chân khí tự động, hỏa nhập vào trong thủy, thủy tự hóa khí, dùng nhiệt lực chưng cất bay lên, yểu yểu minh minh (mờ mờ, mịt mịt), tự có hình trạng.
ấy là dược vật sơ sanh, không thể thái vội, ví như có chút niệm khởi thì chân khí liền tan.
(giải thích: khôn cung là trung hoành đình trong thân người, là khiếu của hư không, là nơi chân khí phát sinh. Nhất khiếu ấy là cung của tổ khí nên gọi là khôn cung.Khôn bèn theo đó mà tạo thành vạn vật vậy, đầy tràn sẽ sản dược xuyên về nguồn là nơi âm dương giao cấu. thần thủ khôn cung quan trọng là trưa tối không rời, nguyên thần hạ chiếu, hồi quang tĩnh định, nghịch thi tạo hóa (nghịch lại sự sắp đặt của tạo hóa), bạt (lấy được) chuyển thiên quan, đại dược từ đấy mà sinh, kim đan do đó mà kết. hỏa của khôn cung gọi là hỏa của chân nhân vậy. Thường lấy thần chiếu khôn cung nung luyện âm dương, tinh sẽ hóa khí. Chuyên tâm trì chí, lấy thời gian đi đứng nằm ngồi, tất cả tùy theo ý mà thủ, không cho tán loạn. lâu ngày không thấy có công hiệutất cả là do trong tâm tạp loạn. Nếu nung luyện lâu ngày, tinh được hỏa luyện tự nhiên hóa khí. Lâu ngàyba tiếng vang làm chấn động thượng nê hoàn, hóa thành cam lộ, giáng hạ trọng lâu, ngưng thành tinh dịch, trở về khôn vị. phôi thai nguyên khí, dần dần tráng vượng, thần hô khí hấp, tự nhiên nuôi dưỡng, chu lưu không ngừng, khí mạch dừng mà nhập tĩnh định, trong đại định hốt nhiên sinh động là tiên thiên nhất khí phát sinh. Từ khôn cung mà đến như mẫu luyến tử, tự nhiên cảm hàm (cảm nhận được), thần biến mạt trắc (thần biến đổi khôn lường), nghe theo tự nhiên không được dục tốc thì khí đến sẽ biến hóa tự nhiên sẽ thấy công hiệu vậy. thiên quang là thần quang vậy. Công phu tĩnh lâu ngày thần quang chiếu soi, tĩnh thì thần linh, thấu hết trong ngoài, phát hiện hình tướng ngoại sắc ấy không thể gây trở ngại, ái dục không thể che lấp, tự nhiên cách tường thấy vật, biết được tiền kiếp. thiên là thanh nhẹ tại thượng, địa là trọng trọc ở hạ. khi khí hóa cùng cực, thanh khí thăng lên là thiên, trọc khí hạ xuống ngưng là địa, nhị khínhân uân ( hai khí trời đất hòa hợp), hóa sanh vạn vật. tiên thiên chân dương cùng hậu thiên chân âm, âm dương hỗn nhất. hốt nhiên trong định sanh động, tạo hóa tự hiện, như thiên địa phân chia lần đầu, biệt lập kiền khôn như thế vậy. Nếu nhất vật hoặc minh hoặc ẩn, ấy là huyền châu đã thành hình. Huyền châu ấy như ở bên ngoài, nhắm mắt lại rất phân minh như là ở bên trong, mở mắt ngay có thanh bạch tượng. Người khác không thấy. vô hình chỉ mình mình thấy phân minh gọi là vô tượng huyền châu. Đó là mầm đại dược vừa mới sinh, dược còn non nên không thể thái. Nếu có vọng niệm thái là mất huyền châu, tan mất thiên chân chí bảo, phản thành ma cuồng, hô hấp lọan không thể cứu. tính mệnh quý giá không thể xem nhẹ là điều ấy)
bộ thứ 3
thần thủ khôn cung, chân khí tự tụ.
đầu tiên là ngưng thần ở khôn lô (bếp lò), nung luyện âm tinh, hóa thành dương khí thượng thăng. kế là ngưng thần ở càn đỉnh, dương khí dần tích tụ nhiều, trong suốt sáng láng, thượng hạ thông sáng, ấy là nội chân ngoại ứng, tiên thiên nhất khí từ tronghư vô tự nhiên đến.
tồn tưởng không giới hạn, không nhờ vào động tác. Hỏa hầu của Tiên thiên nhất khívừa đến thì nê hòan sinh phong, đan điền hóa lửa cháy mạnh. chu du thân thể, quan khiếu đồng khai, các đốt xương tán ra, xốp nhuyễn như bông, hồn dung (hòa tan) như say.
(giải thích: khôn cung thuộc địa là âm, ứng với người hậu thiên có hình hữu chung (có kết thúc). Kiền cung thuộc thiên ứng với thần tiên thiênvô trước, kiền cung là hư vô huyền quan nhất khiếu, thật là nguồn của tạo hóa, từ vô mà tạo hữu, từ hữu mà hóa vô, vì có tạo mà có hóa. Khởi đầu do tụ khí ở hư vô nhất khiếu mà sinh ra, kết thúc vì tinh tán nơi ý ảo vọng, lục hại mà chết, tạo hóa tuần hoàn không biết bao nhiêu vạn kiếp, người bẩm (có được) thiên địa âm dương hai khí mà sinh, khí chân dương tại thân là diên là tinh là khảm, khí chân âm tại tâm là hông là thần là li, về hình tượng là người cùng thiên địa đồng thể khí. Người tu chân đã đắc đại dược ban đầu, huyền châu thành hình mà tinh thần tráng vượng, đang giao nhau như vậy, tinh trong thần hạ giao ở khảm, thần trong tinh thượng giao ở li. Nội thì tinh thần giao hợp ở trong. Ngoại thì âm dương giao hợp ở bên ngoài, trong ngoài minh triệt (thông suốt), chiếu diệu thượng hạ, hóa thành một hạt minh châu, hơi tròn tròn sáng rực, tam quan thăng giáng, thượng hạ tất cả chuyển động như luân (bánh xe), chu lưu không ngừng. thấy cảnh tượng như vậy là bên trong tinh thần đã hòa hợp, kim mộc giao hợp, thủy hỏa bắt đầu giao nhau. Đó là bên trong chân thật nên ứng với cảnh tượng bên ngoài. nếu khôngphải tự thân tạo chân cảnh, lẽ nào có khả năng thế ấy. khí của tiên thiên là mẫu khí, khí của hậu thiên là tử khí, tự nhiên cảm hợp, phản lại tạo hóa kỳ diệu, lúc đầu đắc dược từ ngoài đến. mẫu khí, thiên khí; tử khí, nhân khí, nếu người thường thanh tịnh, thiên địa tất cả đều quay trở về. trước khôn sau kiền còn có tên là dời đỉnh hoán lô, ấy là chân khiếu diệu của kim đan, là bí quyết tiên thiên hỏa hầu. lúc mới luyện đan, trước tiên đợi thần chiếu khôn cung, lấy hỏa luyện dược, lấy thần chế khí. Đợi chân khí phát sanh, sau thủ kiền cung, bên trong huyền thai đỉnh (lô đỉnh), kết thành huyền châu, luyện thành đại dược, nuốt vào trong bụng, điểm hóa hết âm khí thành thể kiền dương, ấy là Diệu dụng của không trung. người bây giờ không ngộ diệu dụng của không trung, không ngộ sự truyền thụ của chí nhân, nghe đạo theo thuyết, mù mờ tu luyện, tiện hướng vào trong thủy cầu nó, thủy là mờ mịt, quên niệm quên thể ở trong yểu minh (mờ mịt), há không lạc ở hư không mờ mịt sao, tất cả kết lại là đan không thành. Lấy dùng dương toại (đồ lấy hỏa thời xưa) mọi phương, nhờ lý cảm thông của thủy hỏa, tự đắcđược đầu mối là dương toại hỏa châu ở thái dương chánh cung, lấy hỏa châu hướng đến mặt trời thu hỏa. hướng củahạt thủy châu là thái âm chánh cung, lấy thủy châu hướng nguyệt châu. thiên địa huyền cách chi viễn (xa) nhưng chỉ trong một khắc mà tự nhiên đắc thủy hỏa vậy. vật đấy thụ khí của thiên, trên có thể cảm thông nhật nguyệt, đắc thủy hỏa trong khỏanh khắc. huống gì người là vạn vật chi linh, tĩnh định bên trong, há không cảm thông trong thân diệu hóa mà kết thành kim đan sao?. không biết như đang say, ấy là cảnh tượng đắc dược.đang lúc huyền châu thành hình, nhật nguyệt giao quang, là chánh thời kỳ thái dược (hái thuốc), chính là hỏa hầu tiên thiên, đương lúc đang giao ấy, nê hòan tự giác sanh phong, từ thiên thổi xuống hạ, quán nhập vào huyền quan ở giửa hai mắt, bèn thông toàn thân, quan khiếu đều mở, các đốt xương như đoạn lìa, mềm mại như bông, tâm lạnh như băng tuyết, đan điền như hỏa, thân tâm sảng khoái, cẩn thận chớ sợ hải, đó chính là thời gian kích phát chưng nấu thủy hỏa, long hổ thủy hỏa giao hội, sau ít phút ba cung khí tràn đầy, hai khí hòa sâu vào nhau, hết tuyệt trần tình, thần khí thái định, hỏang như say mơ, giống như vạn thủy vạn mộc hỗ tương cảm kích, không biết đến cái ngã của thiên địa nhân. Than ôi chỉ nghe ngàn tiếng chuông như sấm sét, vạn đạo hào quang linh minh nội ngoại, tiếng ngọc tràn cả không gian, tiếng sấm điện vang lừng, lay thông cả kiền khôn. Thái dược trở về, cái ấy diệu dụng, như cái máy nửa thốn bắn ra ngàn nỏ đồng lọat, nhất thủy trở lại quay vần cái chu vạn học. kinh sách nói rằng người phát sát ky, thiên địa phản phúc (lật lại), ấy là cái dụng chân diệu, ví như nguyệt đến vị trí thiên tâm là lúc phong lai thủy diện (phong đến, thủy ngỏanh về). ví như dương liễu gió đến thổi bên trên, ngô đồng nhớ hướng nguyệt chiếu. có câu gió thanh của cung nê hòan hạ xuống cung nguyệt lãng (sáng), gió non giữa rừng, một dòng nước thiên âm giáng xuống thì tất cả hình dung tiên thiên nhất khí bên ngoài sẽ tự đến).
bộ thứ tư
nhất thần quyền biến phân hai tác dụng, thượng thủ huyền quan, hạ đến mẫu phủ.
Bên trong cái yểu yểu minh minh (mờ mịt) đó ánh hồng chớp sáng, do não bộ giáng xuống hạ đan điền. nội chân khí trong thân lập tức khởi hấp dẫn. ba phiên triều dũng ( như sóng nhỏ hợp lại vọt ra), hà úy vân chưng (như những đám ráng kết lại nhiều thành mây bay lên), cam lộ quỳnh tương , giọt giọt vào bụng. ấy là thấy kim dịch hòan đan.
Cốt là đợi thân như bàn thạch, tâm tựa băng hồ, không bị tẩu thất.
(gỉai thích: huyền cung là huyền quan, là luyện thử mễ chi sở (nơi luyện gạo). ví như huyền thai đỉnh, chu sa đỉnh, kiền khôn đỉnh tất cả đều do khác danh xưng mà thôi. Xưa nói kiền khôn, là nơi luyện đan ban đầu, lấy kiền khôn làm đỉnh khí. Đầu tiên ngưng thần tụ ở khôn, trong tĩnh sanh động, thái (hái) âm trong dương là thỏ tủy (tủy của con thỏ). Chân khí bay lên trên đến kiền cung, động nhưng sau tĩnh mà hợp với dương trong âm, có tên là ô can (gan của quạ). Hai vật bao dung lẫn nhau luyện thành như ý châu, gọi là khảm ly giao cấu, quý hoa phát hiện, chân duyên (diên) sơ lộ, tiên thiên sơ hiện, lúc nhất dương sơ động. như canh ba thấy tượng nhật nguyệt ấy đúng họat tý thời. thời thứ nhất phân tác lục hầu, ví như nhị hầu đắc dược, tứ hầu có diệu dụng khác biệt, đó là thời đắc dược sơ nhất hầu. đã đắc dược sơ nhất hầu thì nên nhập tĩnh thất, vận thiên thiên chi hỏa, nhập lại đỉnh đoài nửa vầng trăng hiện, đó là lúc có âm thanh củalong ngâm hổ khiếu. Diênhống tròn vẹn tẩy tâm địch lự (tẩy rửa cái tâm lo nghĩ), mộc dục (phép tắm gội) đề phòng. Dần dần qua mười ba ngày thì sanh kiền giáp, khoảng năm mươi ngày ấy là lúc kiền khôn viên mãn, ngân ngạc đã thành, huyền tẫn đã lập, kim hoa đã hiện, là lúc tam dương đã đủ. Nguyệt viên mãn ở giáp phương, ứng với tượng của quẻ kiền, chỉ e ngại khi gặp kim thì mong vận chuyển, chính là nhật nguyệt trọng minh chi tế ( nhật nguyệt nặng sáng giao nhau), tái đắc hỏa hầu của dược, nhị hầu đắc dược. tứ hầu có các pháp diệu dụng riêng, là tượng hình bán nguyệt trước mắt, một nữa minh nguyệt bên trong, có âm thanh long ngâm hỗ khiếu, cốt lo phòng nguy hiểm diệu dụng. hỏa hầu của tiên thai thành, như trăng 18, dùng nhất âm thủ thành ở tốn phương, là dã chiến chi diệu dụng. kế luyện nhị âm, hạ huyền nhị thập tam, dùng cấn địa tẩy tâm mộc dục, luyện hết tận tam âm, dương thần xuất hiện, đề phòng cố tể chi diệu dụng là tiền tam tam hậu tam tam, diệu dụng của tứ hầu là lý đắc hầu của nhị dược. thần thủ huyền cung, ý nghênh tẫn phủ, ấy là câu khẩu quyết thái dược. đang lúc bên trong huyền cung, chí tinh phát sanh, chân diên là khí, phát hiện tượng hình nhật nguyệt trước mặt, chân hống là thủy, phát hiên hình tượng mặt trời hồng. bên trong nhật nguyệt đều phát ra hai đóa kim hoa, mạnh mẽ như núi đan, sắc đỏ hồng kim (vàng). ấy chính là không già không non, cấp cấp thái thủ, thái thủ ra sao?. Quyết nói chỉ là ý nghênh tẫn phủ, thần ý tương hợp, tiên thiên tự đắc. hỏang hoảng hốt hốt, yều yểu minh minh (mờ mịt khôn lường), nhất điểm hồng quang, lấp lánh nhập vào hạ nguyên, giao hội với chân âm, âm bèn tự nhiên thấu hợp, âm bèn ôm ấp dương, dương bèn kích âm, âm dương kích phát, hải lãng phiếm dũng ( sóng biển tuôn trào), từ thái huyền quan đến vĩ lư giáp tích, qua ngọc chẩm hóa thành kim dịch, quỳnh tương nhập vào trong bụng, thơm ngọt, trong trẻo, sảng khóai,tai nghe tiếng trống, tiếng vạn khỏa lôi ô (vạn hạt sấm sét), quân (bằng) thiên diệu dược, phi cầm phi sắt (không phải tiếng đàn cầm, sắt), phi địch phi tiêu (không phải tiếng địch tiêu), mà là một diệu âm bật nhất khác, như tiếng hàn tuyền (suối lạnh) làm tan ngọc, như tiếng kim khánh lay động hư không, như tiếng ve mùa thu không ngừng, tựa như gió đánh vào trống thanh tùng, thật khác thường, tiếng ngọc chấn hưởng, có tiếng của bầy quạ đồng kêu, như lòai chim hòa vận, khẩu hàm mục kinh (miệng ngậm mắt thấy sợ), tâm yêu ý thích, thành ban nhạc lớn, thật đó là thiên cung diệu cảnh, khách phàn trần như mù như điếc. thân tâm thanh tịnh, trăm quan thông suốt, vạn lổ sinh xuân, biến thành vạn đạo hào quang, hiện lên một viên quang, bên trong có tượng hình anh nhi, đó là dương thần xuất hiện vậy. tròn vẹn nên phòng ngừa nguy hiểm, không nên rời xa.)
bộ thứ 5
thần thủ hùynh đình, tiên thai thự kết,sớm sớm tối tối, đi đứng nằm ngồi không thể rời nó.
Mười tháng thai vẹn tròn, huyền châu thành tượng, ba năm đủ hỏa, âm phách tiêu hết, thân ngoại hữu thân, hiện là thần gom thu khí, trong hình không có vật chất , ẩn là khí thu vào thần. cửu tái công hòan, hình thần câu diệu, bách thiên vạn kiếp, đạo thể trường tồn.
(giải thích: hoàng phòng là hùynh đình cung, vẫn là kiền thì hạ, khôn thì thượng, trở về khuôn phép đúng. Kim thai tức tiên thai, kim là vật cứng không bị hủy hoại, đó là nguyên thần của người, không hư không hoại, là thể thanh tịnh diệu dụng, như kim bền bĩ, như sắt cứng bền, tịnh như lưu li, sáng như trăng rằm, không giảm đi độ sáng, nếu có một niệm sai, là nhân tạo huyễn hóa (ảo hóa). Đắc phản hoàn đan đạo cốt luyện hữu hợp vô, đầu hắc kết hồng mà thành tiên thai, phản lại chân thương của bổn lai, hợp diệu dụng của nguyên thủy. kim thai tự thành, quy trung chi diệu, lấy thần thủ khí. Bên trong hòang đình, nhất ý không tán, 12 thời đều thủ trung, cốt niệm có ích, hàm quang tàng diệu, thu lại tai mắt, luôn luôn tồn tưởng, không rời một chút, như gà ấp trứng, như long dưỡng châu. Long dưỡng hạng hạ châu, tâm ý không quên, tinh thần cảm hóa, châu này có quang, đã sanh quang lâu, châu thành tiểu long, phi lên thái không, hoặc thu hoặc phóng, lúc người thấy nó đó là long tượng, long ấy là thần, thần vẹn biến hóa, lên mây gọi mưa, thóat cốt bay lên thì là thần long. Sở dỉ có thể lớn nhỏ, có thể ẩn hiện, động thì xé thái sơn phát ánh sáng hồng, tạo nên mây mù, kích phát sấm sét, tĩnh thì thần tàng ở uyên tuyền (suối sâu), là vật dương linh. Là đạo Kim đan, học tiên thiên cũng đồng lý ấy, ban đầu là bảo nguyên thủ nhất ( bảo vệ chân nguyên thủ nhất), dưỡng tiên thiên thử mễ (hạt gạo là màu vàng luyện được), nguyên thần diệu châu tồn tưởng lâu ngày, tự nhiên nguyên thần và hạt gạo vàng ấy tương hội kiếp kiếp, dần dần biến hóa lẫn nhau, trăng non đẹp đẽ trước mặt , rồi đến nửa vòng thượng huyền (trăng nửa vòng của ngày 7, 8 âm lịch), dần dần đến trăng rằm tròn tròn trước mắt. tự phát ra kim quang, nhật nguyệt hợp bích, duyên hống tương đầu (nương tựa lẫn nhau), kết thành tiên thai, dưỡng ấm ba năm, anh nhân (anh nhi) lão thành (trưởng thành), đến chín năm, công thành viên mãn, âm đục tiêu hết, một thần có thể hóa thành trăm vạn thần, hình thần câu diệu, xuất hữu nhập vô, luyện thần cùng thái hư đồng thể, phản hồi vô cực chân đạo, hợp với nguyên thủy diệu cảnh vậy, quán thiên địa tại huyền diệu cung như hạt gạo thái thượng ấy, nghe rằng một mảnh thái hư, do đâu mà ngũ hành nối liền, do đâu mà âm dương biến hóa, đó là do thiên địa, do ta bày ra, âm dương do ta nắm lấy, vĩnh vô chung vô thủy ( mãi không có mở đầu, không có kết thúc), muôn kiếp vẫn tồn tại, cùng đạo hợp chân, thần tiên thay, thần tiên thay.
Bài trên không quá năm trăm bốn chục chữ mà bao quát tòan bộ đan pháp bên trong. Bất luận Nam phái, Bắc phái, Đông phái, Tây phái, Trần Hi Di phái, Trương Tam Phong phái tất cả không nằm ngòai phạm vi trên. Chỉ có những loại hạ phẩm khác, bàng môn tiểu thuật, giang hồ tà giáo vân vân, tài liệu những pháp ấy không được ghi ra. Ta xem người xưa soạn đan kinh, dùng nhiều ngôn ngữ ẩn dụ, dùng tòan tên lạ làm độc giả mờ mịt khó hiểu. lời văn không rỏ nghĩa, trình tự rối loạn, người sử dụng không thể theo đó mà hạ thủ công phu. Suốt năm xem xét qua (đạo tạng) năm ngàn bốn trăm tám chục quyển. cùng các sách khác ngoài sách đạo, đạo thư số lên đến ngàn quyển, cộng tính lại lên đến vạn quyển. chưa hiểu hết được tất cả, trình bày đơn giản lại như vậy.
Khẩu quyết trên do sư phụ viết thành, từ trước đến nay, phàm đồng chí với ta để bổ túc cho duyên thế nhân. có thể sẽ ngộ. là may mắn nên chớ khing thường. nên suốt đời yêu quý sách và hay giúp đở người. Cần thiết là không nên truyền sai cho người.
Năm ất 1995, chưa lập thu, nhật trần anh sao chép lưu trử ở y thất từ hải CÔNG PHÁP CHỈ RÕ PHÁP QUYẾT VỀ TÍNH MỆNH “Pháp quyết chỉ rõ về tính mệnh” là do truyền nhân đời thứ 11 giáo phái long môn đạo gia Triệu Tỵ Trần sáng tạo ra mật truyền bên ngoài. Sách này hun đúc cả Đạo, Phật (Thích), Nho, y vào 1 lò và giới thiệu tỉ mỉ công pháp dưỡng sinh “song tu tính mệnh” đầy đủ, trọn vẹn. Toàn bài do phái Long Môn Toàn Chân giáo truyền dạy. Sách này phân biệt rõ thật giả trong công phu tu đạo thời đó, đồng thời đi sâu nghiên cứu kỹ lý luận và phương pháp luyện công “song tu tính mệnh” cả đến sự nghiệp phát triển khoa học khí công cũng có ý nghĩa cực kỳ trọng yếu. Nay xin đem phương pháp luyện công này giới thiệu vắn tắt như sau:
1.Tư thế luyện công
Ngồi xếp bằng tròn là chính, ngoài ra còn thức nằm “năm rồng cuộn thân”.
Hai chân ngồi xếp bằng gối chân trái ở ngoài, chân phải ở trong. Tay trái ngón cái đè chặt ngón giữa, tay phải ngón cái xỏ vào giữa lổ vòng bên tay trái(vòng ngón cái và trỏ bên trái) còn ngón giữa bên phải thì nắm chặc gốc ngón vô danh(đeo nhẫn) bên trái, ấn quyết này có tên gọi là “tý ngọ bát quái liên hoàn quyết”. Đồng thời môi răng mím chặc (răng cắn vào môi) đầu lưỡi chạm nhẹ trên hàm ếch (vòm họng), hai mắt cụp xuống, hít thở nhẹ đều, yêu cầu thoải mái tự nhiên.
Tư thế nằm kiểu: “năm rồng cuộn khúc”: nằm nghiên trái phải đều được; gập 1 cánh tay, lòng bàn tay che mặt, còn tay kia úp trên rốn; một chân duỗi một chân co, như rồng cuộn khúc như chó nằm co.
B.phép luyện công
1.an thần tổ khiếu
tổ khiếu nằm ngay ở phía ngoài hai mắt là nơi để luyện tính, là gốc để giữ mệnh. Nghỉ tâm(tức không nghĩ ngợi gì) ngồi mò (tối) dùng 2 mắt lặng chiếu khiếu này, không siêng năng không uể oải, vị chi là an thần tổ khiếu. Luyện cho đến khi cực trống rỗng, cực tĩnh lặng. Phòng trống sinh trắng, tính quang phát hiện là công thành. Lã Động Tân trong sách “Thái thượng kim hoa tôn chỉ-khuyến thế ca”(tôn chỉ hoa vàng thái thượng-bài ca khuyên đời) có câu: “Quang hồi tổ khiếu vạn thần an, dược sản xuyên nguyên nhất “khí xuất” (sáng về tổ khiếu vạn thần yên, thuốc sinh (cao) nguyên xuyên một khí xuất). Qua đó có thể thấy “an thần tổ khiếu” là phương pháp luyên công hàng đầu của môn “song tu tính, mệnh luyện dưỡng chân tính”.
2.ngọc đỉnh kim lư
(đỉnh ngọc lò vàng) lò, đỉnh là trên hết, đó là tên gọi khác của hạ đan điền. Đem tính quang (ánh sáng của tính) hiện ra khi luyện bước trước của công pháp cho chiếu vào “khôn phúc” (bụng ví như đất, là khôn trong bát quái), trong cơn phản phất dương khí dưới rốn phát sinh mà lò đỉnh tự hiện trong vắng lặng tăm tối. Mà sau “chân tinh” bày ra, xông phá cửa tinh. Tất phải lấy phép cùng thổi địch không có lỗ (địch còn có nghĩa cái sáo, còi) thu nạp chân tinh về dưỡng trong đan điền. Chú ý không để tai nghe mắt thấy hình tượng sự vật tới “ý thủ đan điền”, ngoài ra đối với người tuổi cao tinh suy khí hư, có tình hình khó phát động được dương khí, sử dụng phép “gõ trúc gọi rùa” làm cho chân dương phải được gọi lên tiếp với gió tốn tiên thiên luyện hoá tinh cho ngũ cốc để bổ khuyết cho âm tinh bị thiếu hụt, dựa vào đó mà giữ mệnh kéo dài tuổi thọ
3. khai thông bát mạch
phép này chuyên tiêu trừ sự tê dại tay chân xuất hiện do ngồi tĩnh toạ quá la6uma2 sinh ra. Bát mạch có huyệt hội âm là khiếu (lỗ) sinh tử (còn gọi là sinh tử huyền quan-cửa quan huyền diệu giữa sống và chết) chính là then chốt chung của 8 mạch phân bố khắp thân người và bốn chân tay với các vị trí âm dương. Khi luyện thì cho dương khí kết hợp với hít thở, xông mở lỗ sinh tử, làm thông bát mạch, hoạt lạc và khí huyết.
4. chọn luyện thuốc ngoài
tinh khí con người nhận sự biến hoá của tinh ngũ cốc. Tuy là do phát từ trong thực ra lại từ ngoài mà tới, đó là thuốc từ ngoài của dạ dày (vị), luyện thành hoàn đan là bắt đầu thuốc bên trong của vị mà còn là “đại” thuốc cho vị. Lần thứ 2 khí dương phát sinh dưới rốn, ngọc hành (tức dương vật, do được hô hấp thu liễn (“khí”) nên không “xỉu” khi đúng giờ tý tới, đó là do đầy đủ thuốc ngoài nên mới nghiệm. Mau lẹ vận chu thiên dương hoả âm phù, tuần hành nhâm đốc, chuyển bánh xe đại pháp tiếp luyện thuốc ngoài. Cực tĩnh trở lại động, tùy động tùy luyện cho tới khi châu thiên đủ số nên ánh dương xuất hiện lần 2, ngưng hỏa tiếp đại thuốc. Trong đó phép tắm gội (giờ) mão dậu do tự thân muôn duyên cũng bằng không, một hạt bụi chẳng bám hai mắt nhìn ngược vào trong rọi chiếu đan điền , không chạy hít thở có lửa gió, nhận ánh dương ở giờ mão, dậu thấy ấm áp, bao hàm, bốc dậy là đúng.
5. lửa văn võ ngoài
cách này là cho lửa hậu thiên, dẫn ra khỏi tiên thiên. Khi luyện thì giờ tý đốt hương lửa đặt ngay trước mặt. Trợn mắt mà nhìn, mắt có cay xè cũng không được nhắm, làm cho lệ ứa ra dàn dụa, đó là lửa võ ngoài (lửa văn là lử đốt cháy lom dom, lửa võ là lửa đốt cháy ào ạt cao ngọn). Nước mắt chảy cạn thì nhắm mắt lại mà dưỡng thần đó là lửa văn từ ngoài. Ba thành lửa võ, 7 phần lửa văn.
6. chu thiên mão dậu
bươc này là phép tinh hoá khí, tiếp luyện thuốc ngoài, càn đỉnh gần đầy, tinh của tiên thiên sục sôi. Cần phải hành công châu thiên mão dậu làm tinh toàn bộ hoá khí. Phép này lấy mắt xem rốn, chầm chậm đưa mắt từ trái đi lên, thẳng tới đỉnh càn. Lại từ phải đi xuống trở về rốn. 36 vòng vị chi “tiến dương hoả”. Hơi định chốc lát, lại chuyển mắt từ rốn bên phải đi lên tới đỉnh càn rồi lại từ mé trái đi xuống trở về rốn. 24 chu (vòng) vị chi “thoái âm phù”. Hành công đều một loạt, tinh của tiên thiên đã có thể hoá hết thành khí, cảnh trống rỗng trước mắt mới có thề tiến nhìn thấy ánh sáng thần, đó là khí tổ.
7. thu tụ tổ khí
thần quang, thoạt đầu nhất, phảng phảng phất phất, lúc tỏ lúc mờ, cứ như ánh sao. Phải sóng cả đôi mắt, khẽ khàng lặng chiếu, bồi dưỡng thêm ánh sáng. Nếu người tập thấy vành trăng lưỡi liềm tức là tự thân tinh khí không đủ đó là kiểm nghiệm. Lại phải bồi bổ thêm thuốc ở ngoài, rồi lại hành công theo châu thiên mão dậu. Thần quang bỗng nhiên động như muốn rời xa, phải cấp tốc chuyển hai mắt thuận theo chiều kim đồng hồ, co tụ tổ khí lại nhìn trở xuống, thu cất tổ khí quay trở về khôn phúc (tức bụng, trung đan điền).
8. cất giấu khí huyệt
tổ khí thu quay trở về bụng trung đan điền, thấy nước dãi trong miệng thơm tho vô kể, ở trong bụng tiếng sấm ầm ầm là nghiệm (dùng lưỡi quét trong miệng, nước dãi ứa ra nhiều, chia ra mấy ngụm mà nuốt kêu thành tiếng òng ọc qua họng, xuống đến bụng có tiếng bụng sôi réo ùng ục mới là đạt yêu cầu). Lại tiếp tục thực hiện công phu “nhìn ngược” mắt rọi chiếu vào trong, tổ khí trong bụng sôi réo không ngơi, dùng tâm ý điều khiển cho tới giữa thận. Bụng sôi lâu lặng lại, hít thở kiểu thở thai.
9. hít thở thật là tỉ mỉ đến tận gót chân-gót chân là gốc, tổ khí là cuống cành
thở thai liên miên không dứt, hít vào là gốc, thở ra là cành. Cứ thế dẫn động đan điền phát động chân khí bên trong làm sao cho khí cứ tự nhiên như vốn là như vậy vận hành trong nhâm đốc.
10. bế tinh thu khí
phép luyện này dự phòng cả việc ban đêm mộng mị bị ra chân tinh (tức tinh khí). Đối với thận hư, cửa tinh không vững chắc, các chứng liệt dương, mộng tinh, di tinh…chửa cách này hiệu quả rỏ rệt. Gốc của ngọc hành (tức dương vật) máy động là triệu chứng báo trước đêm sẽ tổn thất chân tinh. Trước khi ngủ hai bàn tay điểm lẫn nhau vào 2 huyệt long, hổ, lưỡi đưa lên vòm họng để tốn phong (gió ở cung tốn) đưa chân ý hít vào thì đưa lên, thở ra thì hạ xuống, co chặc các cơ bao quanh cửa tinh lại. Khi ngủ nằm theo kiểu năm rồng cuộn mình để khỏi lo nghĩ, vô tư lự, ngưng thần hạ xuống dấu ở đan điền, khí tức đều đặn, thần khí ôm ấp lẫn nhau, dựa dẫm nhau, quyến luyến nhau.
11. linh đan vào đỉnh
linh đan cũng tức là hoàn đan, do thuốc ngoài (đây chỉ thức ăn thức uống, thuốc vào cơ thể) luyện hoá mà thành. Luyện công gần tới bước này thì ngày thường làm việc không được quá độ vất vả. Đem bước luyện công thứ 10 ở trên luyện tới độ tinh thuần, nguyên tinh trong tinh nan đầy đủ (tức tinh trùng trong ngọc hành). Lại luyện tiếp công phu nhìn ngược soi rọi vào trong để cho nguyên tinh ngưng tụ thành khối để chuyển thành linh đan. Linh đan luyện có tròn vẹn hay không còn do giữ lửa, dùng phép khơi lửa lên để xem xét. Nếu không được trọn vẹn lại phải dùng thuốc ngoài bồi bổ cho đầy đủ.
12. dưỡng ấm linh đan
linh đan tròn vẹn, nguồn gốc của dục vọng co lại, ngựa âm dấu tướng. Sau đó ánh dương xuất hiện, đưa các phép gắn bó với nhau, nẩy ra của cải ở đất. Là phép, khí cụ làm phép là pháp quyết ngừng lửa đưa “đại” thuốc qua cửa quan, cả đến việc phòng ngừa việc rò rỉ mất mát từ 2 khiếu trên dưới. Của cải là tiền bạc cung dưỡng thức ăn thức mặc. Gắn bó như bạn bè là tâm hợp với chí, gắn bó như bạn đồng đạo, giúp nhau vượt qua 3 cửa quan (ải) . đất ư, đất vắng lặng không có sự quấy nhiễu của người. Bốn thứ trên đều phải chuẩn bị cùng đủ (tức phép, của cải, sự gắn bó và đất). Vào phòng tĩnh dưỡng hàng ngày không được rời phép, nhìn ngược soi rọi ở đan điền. Nuôi dưỡng như thế lâu ngày, ánh dương xuất hiện lần 2, cảnh lớn lần thứ 2 lại xuất hiện trước mắt. Đó là đại thuốc đã đủ cả 3 hiện tượng.
13. đưa đại thuốc qua cửa quan
bước này là khí đã thông 2 mạch nhâm đốc, là công phu luyện khí hoá thần. Công phu trước đó ánh dương xuất hiện lần thứ 2 là đang lúc mong ngừng lửa. Ngừng lửa tức là ngừng phong hỏa (gió lửa) của tiểu châu thiên, lấy việc luyện thuốc ngoài mà không dùng đến khí của hít thở (điều tức), bên trong dùng tâm, thần, ý tuần hoàn qua nhâm đốc một lượt. Sau đó ánh dương xuất hiện lần 3, dùng lục căn chấn động khẩu quyết dẫn động đại thuốc. Vận dụng hít (thở vào) , chăn, nhúm, nín, bốn chử đó là chân quyết phải nhớ ghi. Xe dê, xe hươu, xe trâu là 3 xe chuyển vận để đưa đại thuốc thông qua 3 cửa quan, dâng lên đến càn đỉnh sau đó thoát ra rơi xuống miệng hoá thành ngọc dịch huỳnh tương nuốt trở xuống qua 3 thập nhị trùng lâu rơi thẳng xuống khôn phúc đan điền. Khí tiên thiên (lúc đo) mới có thể hoá hoàn toàn thành dương thần. 14. anh nhi (trẻ con) hiện hình
dương thần tức là anh nhi (trẻ sơ sinh). Thần mà khí luyện ở bước trước hoá ra được dưỡng trong hạ đan điền, lâu ngày thai nghén một bào thai thiêng. Sau đó dùng một trong 3 phép di dời, di dời bào thai lên phong cung ở trung đan điền (huyệt sau tim). Mười tháng nuôi dưỡng ấm êm trở thành thai nhi, lúc này sẽ có lục thông để nghiệm (6 điều thông do lục căn 5 giác quan với thần, để kiểm nghiệm và hiểu mọi thứ ở đời. Muôn vàn xin chớ có mê mẫn vì việc này hoặc thâm dùng vào điều ác để khỏi đắm chìm vào ma đạo. Lại dùng phép di dời thứ 2 dời thai nhi dương thần lên cung nê hoàn thượng đan điền, ba năm bú móm mà có cảnh hao hao tuyết bay phơi phới là triệu dương thần đã tới ngày viên mãn.
15. xuất thần nội viện ( thần ra trong viện) nội viện tức cung nê hoàn
trên cơ sở phép luyện bước trước đây, phải niệm khẩu quyết để xuất dương thần hướng lên thái không (ý chỉ vũ trụ ngoài tầng không gian của con người) là phép ngũ khí triều nguyên ( tức là ngồi kiểu kiết già, lòng bàn tay bàn chân và đỉnh đầu đều hướng lên trời cao). Lại từ huyệt vĩ lư qua giáp tích (tức là huyệt mệnh môn trở lên ), từ ngọc trụ (tức dương vật) đến nê hoàn đều vì thần mà thông (hai mạch) nhâm đốc xông mở tổ khiếu, di dời ra khỏi đỉnh môn (tức đỉnh đầu, huyệt bách hội) hiện ra 1 vầng sáng vàng (kim quang) mà dương thần ngồi ngay ngắn trong ánh kim quang. Dùng phép mão dậu hoá âm, hóa bằng hết âm khí còn ở chung quanh dương thần, âm đã sạch tức dương thành thuần khiết, lập tức thu lại về tổ khiếu.
16. hiện hình hư không
dương thần thu vào trong tổ khiếu rồi phải dùng một cảnh thủ pháp giả chết buộc mọi cơ quan, khiếu lớn nhỏ của bản thân phải luyện cho đạt thấu triệt quang minh. Sau 3 năm gánh nặng vất vả, vọt ra từ trong tổ khiếu, hoá thành muôn đạo hào quang, ngập tràn cả không gian đất trời, nguyên thần bản tính hợp với thái hư mà thành thiên tiên, tan ra là hư, tụ lại thành hình. Công phu “luyện thần trở về hư đến đây là trọn vẹn. PHÁP CỦA TÔN BẤT NHỊ NGUYÊN QUÂN Giải thích phương pháp của Tôn bất Nhị Nguyên quân hiện nay.
Giải thích bảy phần đứng đầu trong công phu nữ nội đan.
Chú thích Hàm chân tử kỳ Phong.
Thứ nhất
Bất thừa bạch hạc ái thừa loan (Không cởi bạch hạc mà thích cởi chim loan), nhị thập tràng phiên tả hữu bàn ( hai mươi cờ hiệu bay lượn hai bên trái phải).
Hạc thì đậu nơi núi rừng, chơi nơi đầm trạch, đơn độc khéo léo như vậy, đến loài loan phượng cũng vậy. minh vương tương là ngọc thuỵ (tên chung của ngọc khuê, ngọc bích) ứng với cờ hiệu, lễ nghi. ấy là 2 câu học chủ yếu của người phát tâm rộng mở. không phải đơn độc là lành mà tất nhiên phải độ lượng lớn và có tình. Đều dựa vào dao thai (dao là tên loại ngọc dao, một thứ ngọc đẹp, thai có lẽ là đài).
Ngẫu nhập thư đàn tầm nhất tiếu (Ngẫu nhiên vào thư đàn tìm một nụ cười), hàng chân hương nhiễu bích lan kiền (làm rơi lại chân hương quanh lan can ngọc bích).
Tôn tiên cô lúc đương thời độ người vô số, lại nghĩ nữ giới đời sau học không biết bí pháp khôn đạo bèn soạn sách khôn đạo đầu tiên, bố thí rông rãi trong thiên hạ, nếu nữ nhân sau này tài năng hơn người nhờ hiểu sách tu luyện thì đạt giải thoát.
Thứ hai
Tiểu xuân thiên khí noãn phong xa (Đầu xuân thiên khí ấm gió xa), Nhật chiếu giang nam xử sĩ gia ( mặt trời chiếu giang nam tại nhà của người luyện).
Hán luật có chép rằng: thiếu dương là phương đông, phương đông thì động vậy. dương khí động ở vậtlúc đi là xuân vậy, chính là lúc tiên thiên khí bắt đầu manh nha, xem xét tiên thiên khí sanh nhân sanh vật ở Đạo trời ấy nên (sách, đại truyện ) nói rằng: xuân là sinh ra, là nơi vạn vật sinh ra vậy. gió ấm và tiên thiên khí đến phía sau. Ôi vạn vật tuyệt nhiên không phải do một khí biến hoá mà thành. Sách nói: nguyên thuỷ lấy nhất khí bắt đầu tạo hoá sanh gốc vạn vật, thái nhất chỉ dẫn vạn vật thu tạo hoá mà trở về nguồn nhất khí. Như Lão thánh nói: ôi vạn vật tất cả đều trở về gốc. tuy gọi vạn vật thật ra kết cuộc vẫn trở về nhất nguyên, ấy là nói xa xôi, xem người tu sáng suốt đến cùng cực ấy bất quá là cùng đạo hợp chân, đồng với thái hư, đó chính là niết bàn, là thiên nhân hợp nhất của nho gia, tuyệt nhiên không ngoài lý ấy vậy. lấy trên mà nói, người học tốt nhất nên trở lại bám kịp thời lý luận, ở thực tế tu trì nhằm không quan hệ. nếu không có câu dưới thì không khỏi làm quỷ âm linh vậy. Nhật (mặt trời) là tinh của dương, giang nam xử sỉ (người học ở giang nam) là nguyên thần vậy. xử sỉ gia ( ở nhà người học) là thần xá (nhà của thần) vậy. chúng ta đưa thần khí hội hợp một nơi cho thần khí nâng đở lẫn nhau thì tiên thiên khí từ trong hư vô đến, huyền quan đại mở. Thơ ấy phách đầu tòng bổn nguyên nhập thủ( đúng ở đầu theo bản nguyên nhập vào), phi đại lực lượng nhân bất khắc thừa đương (Không dùng hết sức như người không hay là đang làm). hoặc hỏi thần xá (nhà của thần) ở đâu?. Nói là sau tâm trước giáp tích vậy. Lòng không tin hỏi: thầy tôi dạy người ngưng định thần quang thủ trung bảo nguyên tại bên trong cung huỳnh đình. Tại sao ở đây lại viết sau tâm trước giáp tích vậy?. nói rằng: kiền đạo (càn đạo) tồn thần vào trong cung không sao nhưng Khôn đạo mà làm như vậy không khỏi băng huyết vậy (huyết hư). Gần đây có một ít nử tử tu hành, vào hạ thủ tồn tưởng hạ đan điền, điều ấy là sai lầm lớn.
Thôi đắc tịch mai tiên bính nhuỵ (Theo đuổi được hoa mai tháng chạp cònphong nhuỵ). Tố tâm nhân đối tố tâm hoa (Tâm người trong trắng đối diện tâm hoa trong trắng).
Mai là cảm nhận dương khí đầu tiên nhất của mộc vậy. hoa mai bính nhuỵ là lúc nhất dương lai phục (trở về). Ấy là chìa khoá cơ trời đất vậy. cơ thể của mọi người hể tĩnh cực thì sinh động, là tượng phục sanh mở ra đến cùng cực. lúc ấy quan trọng nhất là tâm không sanh vọng niệm nhỏ nào. Nếu người học luyện mình chưa thuần thục, tà niệm không ngừng thì bảo vật tiên thiên thanh linh không khỏi hoá thành vật chất hậu thiên nặng đục. nếu người học không phân thanh trọc, lại vọng niệm thêm thái thủ thì không nghi ngờ gì là sẽ kết thành ảo đan. Có thể bất cẩn như vậy sao!. muốn đạt bảo vật thanh linh để kết kim đan thì toàn dựa vào luyện tâm thuần thục. như trang tử đã nói: điểm then chốt của tâm tồn trong ngực là thuần bạch bất bị (trắng tinh khiết chưa được chuẩn bị), thuần bạch bất bị thì thần sinh bất định, thần sinh bất định thì nơi đạo không thành.
Thứ ba
Tư sanh tư thuỷ tổng âm dương (Tư chất ban đầu lúc mới sinh ra có âm dương hợp nhau), vô cực năng khai thái cực quang (Vô cực có thể khai ánh sáng thái cực).
Kinh (sách)nói rằng: đạo từ hư vô sanh nhất khí, theo nhất khí đó mà sinh âm dương. Ôi tiên thiên khí là tổ của vạn vật. là gốc của thiên địa. là bản nguyên của đại đạo. âm dương là nơi khởi đầu của vạn vật, là cái dụng của đại đạo. Ôi nguồn gốc của đạo không thể nhìn thấy nếu nhìn thấy thì có thể sử dụng vậy. cho nên kinh dịch có nói: nhất âm nhất dương là đạo. người ta nếu khéo dùng âm dương có thể trả hậu thiên về tiên thiên. Đổi phàm thân thành thánh thể. Có thể làm như vậy được là do đưa thần nhập khí vậy.
Tâm kính cần ma minh tự nguyệt (Gương tâm cần lao chùi sẽ sáng như trăng), Đại thiên nhất túc nhâm ngang tàng (hơn ngàn một hạt gạo gánh thật hiên ngang.
Tích xưa thần tú có nói: thân như cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, giờ giờ siêng lau quét, sao vướng bụi trần ai. Ngũ tổ trách chưa kiến tính, nghe cái học của tuệ năng vui lắm nhưng chỉ nói là đốn ngộ. lại liên luỵ sau này môn đệ thiền của Hoà tử bao nhiêu câu cuồng ngôn tiên thể tự nói là ngộ. nói đùa là ngu dốt. chỉ sau khi ngộ thì sẽ thành phật quả vậy. công phu chân thật thì ít người hành (làm). Không tu thiền định mà có thể đắc phật tính sao?. Tuy là Huệ năng nói lên thuyết đốn ngộ nhưng ông cũng ở nhà trong núi tu định hơn 10 năm. Thiền sư đại đức hiện nay chỉ nghe một hai loại kinh bèn nói ngộ liểu phật tính, thật là đáng cười vậy!.
Thứ tư
Thần khí tu như dạ khí thanh (Thần khí đợi thanh như khí ban đêm), tòng lai chí nhạc tại vô thanh (niềm vui lớn cùng đến với vô thanh).
Một từ dạ khíban đầu nhất do Mạnh tử thuyết ra. Nghĩa ấy chỉ là giác ngộ giấc mộng trưa tối. nhất niệm hồi quang, chiếu kiến bổn lai (soi thấy nguồn gốc), lúc ấy thần khí thanh hoà, chính là do then chốt trời đất phát ra. Có người ở lúc ấy giữ được thì đắc trụ. Tự nhiên đạo thành, ấy là lúc thiên cơ phát sinh. Không chỉ ở thời gian đêm là có, nếu giờ giờ hồi quang, niệm niệm ở đạo, cuối ngày đều có thiên cơ phát sanh. Cho nên Thôi công nói: trong một ngày, mười hai giờ, ý đến thì tất cả có thể làm. Vậy chí nhạc là gì? Như Quả nhĩ xưa hỏi mọi ngườitrong xã hội cùng câu trên, đáp án ấy ước lược như tiền tài, địa vị, sắc đẹp, điều ấy tất nhiên thấy vui thú, nhưng khổ lại không ít. Cái gọi là chí nhạc là bỏ nhân tước để lấy thiên tước vậy.
Huyễn trung chân xử chân như huyễn (Nơi ở thật của huyễn trung thật như ảo), thả hướng ngân bồn lộng hoá sanh (cùng hướng ngân bồn (chậu bạc) ngắm hoá sinh).
Tiên thiên khí bên trong thân là cùng khí thái hư đồng nhất vậy, nên nói huyễn trung là thật. Ôi nhất khí ấy bao la trong trời đất, bao quát kiền khôn, không vật nào không ở trong khí vậy.nên nói là chân trung huyễn, ngân bồn, nguyệt vậy. nguyệt (trăng) vốn không có quang (ánh sáng), mượn ánh sáng mặt trời mà sanh quang, từ ngày mùng một đến mười lăm thì tròn. Dần dần khuyết đến hết tháng thì mất hết. ấy chính là nơi thiên cơ phát hiện, ở người tuệ tâm thì tự ngộ.
Thứ năm
Bồng đảo hoàn tu kết bạn du (Trở về Bồng đảo (đảo bồng lai) chờ kết bạn vui chơi), nhất nhân nan thượng bích nham đầu (một người khó lên đỉnh bích nham).
Mấy vần thơ hạnh phúc ấy do Tôn tiên cô sáng tác, nếu do người vô danh làm chắc không khỏi lại phải làm giải thích âm dương pháp rồi. Tu tri chân toàn gia (Chờ biết cả nhà thật sự) là kết bạn, ấy là kết bạn bên trong, chứ không phải bên ngoài vậy. như vậy nội lữ là gì vậy? là diên hống, long hổ, thần khí vậy. Lã tổ nói: chỉ tu tính mà không tu mệnh vạn kiếp âm linh khó nhập thánh. Ôi, người tu hoặc chỉ hành khí vận tinh lấy hoàn đan, hoặc ngồi cả ngày không suy nghĩ, không bỏ các khiếm khuyết, tu mệnh khó thoát trọng trọc (nặng đục) ở cơ thể, luyện tính thì thân thể biến đổi thành khô héo. Nếu tính mệnh song tu thì thần thanh thể kiện, đến năm nào đó chim hạc quay về, đắc khỏi phải ngày sau tai nạn vậy.
Nhược tương khô tịch vi tu luyện (Nếu khô khan, yên lặng mà tu luyện), nhược thuỷ doanh doanh thiểu tiện chu (dòng nước yếu nhỡn nhơ ít có lợi cho thuyền)
Người luyện xưa nay không được chân truyền, chỉ biết ngồi khô, dùng chí không phân, định trung xuất thần, tự rằng đắc đạo, thần ấy chưa đắt chân dương phối hợp, không khỏi vướng tại quỷ thú, tuy gọi là quỷ tiên nhưng thật là âm linh, quỷ viết tên tuổi, sách tiên khó lên. Bồng đảo, phương trượng là nơi tiên gia thánh địa, âm linh bên kia vô duyên có thể lên chỉ có thể là không gian của trời đất là lãng tích.
Thứ sáu
Dưỡng thần tích khí tự trì doanh (Dưỡng thần gom khí tự giữ đầy tràn), hỉ truỵ dương hề nộ tổn tân (vui giảm dương giận tổn âm).
Có nghe chân nhân xưa nói rằng: suy nghĩ là hậu thiên, cùng với suy nghĩ tự có gọi là tiên thiên vậy. Thông minh là hậu thiên cùng với thông minh hiểu trước là tiên thiên vậy. nếu không dùng suy nghĩ thông minh thì tổn hại nhiều đến thần tiên thiên vậy. chân nhân rằng: khí làm thêm dược, cái khí có thể sinh tinh, tinh có thể làm nhuận thân thể, tinh kiệt thì khí vong, tiên đạo khó thành. Nên dưỡng thần khí cần giữ khí tràn đầy, không cảm thấy vọng động. chấm dứt thất tình lục dục sanh bởi tạng phủ. Thánh nhân biết như vậy bèn lập pháp mười hai cái tốt, mười hai cái xấu để bảo vệ và nuôi dưỡng loài người. nếu làm theo pháp, có thể già nua sao.
Lưỡng mục nội minh tuần hổ vĩ (Hai mắt chiếu rội vào trong theo hổ vĩ (đuôi hổ)), mông mông song nhĩ thính huỳnh đình (hai tai mờ mịt nghe trong huỳnh đình).
hai câu ấy chứa công phu chân thật. ôi mắt là mầm của tâm, là nơi thể hiện của thần vậy. nếu mắt theo đuổi ngoại vật thì thần đi vậy. do vậy nên chúng ta hạ thủ công phu chủ yếu nhắm mắt buông mi. hổ vĩ là khí động ở khoảng thận là khí nhất dương vậy. Do thận khai khiếu ở tai, tai theo đuổi bên ngoài thì chân dương không sanh, nên có công phu nội thính huỳnh đình (nghe bên trong huỳnh đình), là thu thần khí vào trong cung huỳnh đình. Văn tự có nói rằng: tam bảo nhĩ mục khẩu bền chắc thì vật phát thông. Lại nói: chân nhân ẩn rất sâu, vật nổi trôi bên ngoài thủ về bên trong. Đều chỉ đoạn công phu ấy vậy.
Thứ bảy
Kinh cức tu giáo sản tẩn nha (Đường đi hiểm trở cần dạy đến tận mầm), tính trung tự hữu diệu liên hoa (trong tính tự có hoa sen kỳ diệu).
Nhất triêu hốt hiện quang minh tượng (Một ngày đột nhiên hiện lên tượng hình rõ ràng), thức đắc cừ thì tiện thị tha (biết đắc thời lớn tiện lợi cho các cái khác).
Thơ ấy nếu không chú giải, e ngại cơ hổ đầu xà vĩ (đầu hổ đuôi rắn), nếu chú giải chủ yếu lại thêm không có nơi hạ thủ. Ta chỉ có vài ba lời có thể nói: tĩnh ở bên trong nếu thấy vọng niệm phân tâm thì có công phu tĩnh định thiết yếu là cầm lái trong biển phiền não, đương đầu với cuồng phong sóng lớn. Ta chỉ một niệm chân như, lâu ngày nối liền với chân như nhất niệm tất cả đều dứt thì trần tục nhơ bẩn đều trừ hết, hiện ra bản lai diện mục, nguồn tới ngày ngày tương hội mà không biết, ngày nay vừa biết từ người nhà.
Phần chú giải công phu khôn đạo tiếp theo phần thơ
Hàm chân tử kì phong chú
Bài tựa Hàm chân tử kì phong chú
Lời tựa
Thầy tôi là kỳ Phong, lúc nhỏ trí tuệ hơn người., nhìn thấy khí vật đạo giáo thì yêu thích chẳng rời tay; gặp đạo sĩ làm phép thì theo sau quan sát và tán thưởng, vui chơi quên về. năm mười bảy tuổi mới gặp sư gia. Thầy nói sư gia thân rất dài, tóc dài vạch ra vai, chờ dài xuống lưng, chờ tóc đen nhiều hơn trắng, răng đầy đủ trắng tinh, mặt không còn một nếp nhăn, tướng mạo cực kỳ thanh tú, đông hay hạ chỉ một chiếc đạo bào, không ăn khói lửa nhân gian (có lẽ cơm nhân gian), mất tinh thần hán, khói mây khí khái, vào năm chín mươi sáu tuổi. sư gia bỏ cái đang luyện để thái nhật tinh nguyệt hoa pháp là bàng môn tả đạo, bèn lấy toạ thiền chỉ thầy,miệng lưỡi hô hấp đoạn tuyệt, tâm loạn nhịp mạch đều dừng. thầy bèn ngộ “ lục mạch toàn không, không phải tiên tức là phật”, vui thích khấu lại xin độ. Hầu sư ba năm, nhất ý khổ luyện mà đắc bế dương quan, thêm đắc đạo sư gia là kiến bổn lai diện mục. thầy nói, lúc đang thấy bổn lai nhân, nguyên lai ngày ngày là bạn không rời. thật có thể cười! nhưng muốn khóc lớn ngay một tràng! Lúc ấy mới hiểu ơn thầy mênh mông bèn hướng sư gia khấu tạ không thôi. Sư gia vui vẽ trở về tứ xuyên lão gia thăng tiên là năm chín mươi chín tuổi.
Thầy tự đắc chân truyền cho người đời sau, than thở trên đời nhiều đạo dối trá, nghĩ muốn tế độ người hữu duyên, bèn làm ( tôn bất nhị nguyên quân khôn đạo công phu chú giả tiếp theo thơ), bổ xung bí quyết của Trần anh Tử tiên sinh chưa lộ ra ngoài. Có duyên sẽ được, cả hai chú giải này có thể tham khảo lẫn nhau vậy.
Công nguyên năm 25-12-2000, môn hạ đệ tử tương chân điên cẩn tự (trân trọng giới thiệu)
Phần thứ nhất thu tâm
Thân ta vị hữu nhật (Thân ta chưa có mặt trời), nhất khí dĩ tiên tồn ( nhất khí trước dùng tồn tưởng).
Da người bên ngoài xương thịt, bên trong chứa tinh thần, nếu không có tiên thiên nhất khí lấy làm vận dụng, không thể gọi là người sống vậy. Lão tử nói: “ vạn vật cõng âm bồng dương, khí trống không lấy làm hoà”. Bởi vậy nên biết khí ấy là bổn căn(gốc) của thân ta vậy. nhất khí ấy thật là cơ sinh nhất điểm, lại gọi là Đạo. Đạo thể ấy tự nhiên yên lặng bất động, là chân không, là nhất, dụng cái ấy thì sẽ cảm ứng mà toại thông, là diệu hữu, là tinh khí thần.
Tự ngọc ma du thuận (Tựa ngọc được mài mà nhuận hơn), như kim luyện khở hôn ( như kim loại được luyện há tối sao).
Tâm ta vốn tự linh minh, chỉ từ thân còn sống mà đến, mặt trời bị bụi trần làm dơ nên tối mờ không thể soi vật. cần mài sát thêm cho sạch hết, bỏ đi lẫn lộn của nhật nguyệt thực thì có thể đến gần với thiên tiên.
Tảo không sanh diệt hải (Quét hư không biển sanh diệt), cố thủ tổng trì môn.
Sanh diệt hải được gọi là khởi tâm động niệm chính là thức thần. (kinh sách) nói rằng: “ tâm người tốtlà yên tĩnh nếu mà muốn dẫn nó”. Nên người học đạo, hạ thủ chủ yếu luyện tâm. Thế thời luyện tâm không thể bám vào nhớ công phu bộ đầu hay trên dưới. lấy thần ôm khí, lấy nhất niệm thay vạn niệm, mới có thể buộc trụ tâm viên ý mã (tâm nhảy nhót như vượn, ý chạy như ngựa). xưa thầy Nhật trang nói rằng: “luyện tâm tu mệnh vốn là một, lúc nghỉ hưu làm ra hai dạng có thể xem hiểu. như nhà khí công hiện nay có điều thân, điều tức, diều tâm thuyết, tuy điều thân điều tức làmệnh công ở trên, điều tâm là tính công ở trên. Lại há có thể xem cả hai cắt đứt sao? “ lại nói : phái ta hạ thủ công phu ngưng thần nhập khí huyệt, ban đầu cố nhiên là lấy thần hậu thiên làm dụng, sinh các phép mạnh, lâu ngày tự nhiên thần khí hậu thiên tuyệt mà tiên thiên thần khí sanh là xét thật tính mệnh song tu. Trang sư lại nói: “ nếu biết tính tức là mệnh, mệnh tức là tính, cam đoan một bước lên mây”.
Bán hư linh xử (Nơi nữa hạt lúa hư linh), dung dung hoả hầu ôn (dùng hoả hầu rực sáng giữ ấm).
Quản tử nói rằng: “ muốn hư (trống rỗng), thần sẽ vào nhà; quét hết những thứ không thanh khiết, thần bèn lưu lại”. Trang sư nói rằng: “ người tu đạo, vào hạ thủ lấy luyện tâm làm chính yếu.tâm nếu an thái thì tại cung thanh sáng, đạo tự đến ở”. Trì tâm như thế không thể vọng cầu tốc hiệu, nên thong thả mà làm. Chẳng thế thì lo sợ có tật cuồng nóng. Câu ấy chính là chỉ thần khí ôm ấp nhau, là trạng thái không dừng không rời.
Phần thứ hai dưỡng khí
Bổn thị vô vi thuỷ (Vốn vô là thuỷ), hà kì lạc hậu thiên (làm sao rơi vào hậu thiên)
Trang tử nói rằng: “ người ta sinh ra do khí tụ vậy”. (nan kinh) nói rằng: “khí là căn bổn (gốc) của con người vậy”. ôi khí ấy là mầm linh của tiên thiên, ở thánh không tăng, ở phàm nhân không giảm, thánh phàm chỉ có một thể, không có khác biệt vậy. hoặc hỏi rằng: thánh phàm một thể, tại sao lại có khác biệt giữa người hiền và ngu?. Nói rằng: thánh phàm nhất thể là từ nguồn gốc trên nói. nếu xem xét hàng ngày dùng mà làm theo thì không khỏi gần với cái gọi là : “tính tương cận tập tương viễn (tính sinh ra như nhau nhưng do thói quen mà trở nên khác nhau)”.
Nhất thanh tài xuất khẩu (nói ra một lời tài hoa), tam thốn dĩ ti quyền (ba thốn lấy chủ quyền)
Trẻ trong bào thai thuận theo hô hấp của mẹ, tuy nói là hô hấp, thật ra không hô hấp, lại là tiên thiên nhất khí lưu hành vậy. mười tháng thai tròn vẹn, đã sinh rồi thì là hậu, một tiếng khóc ra, tiên thiên khí bèn ẩn về bên trong mà dùng sự hô hấp hậu thiên vậy. ra ngoài đến mười năm, làm việt phóng túng ở bên ngoài, riêng một trở về nhất khiếu ấy, thân sống nhận khí, rời bào thai cha mẹ là nơi cứu tử hồi sinh mà không chút lưu ý, kết thúc của nhất sanh ấy chỉ nghe mũi miệng hô hấp là chủ; một mai khí tuyệt; thân trầm dưới suối có lẽ suối vàng), mà phó thác cho thiên mệnh, chắc sẽ than như vậy. lý ngữ nói rằng: “khí ở trong ba thốn thì sử dụng được ngàn trí tuệ, một mai vô thường đến vạn việc đều yên”. Thương thai!
Huống bị trần lao háo (Càng bị trần tục làm lao lực suy kiệt), na kham tật bệnh triền ( thì càng chụi tật bệnh quây quanh).
Ôi tiên thiên khí, ở bên trên thì dưỡng thần, ở bên dưới thì hoá tinh, cứu tử hồi sanh, thật là chí bảo của thân người. từ khi sinh ra đến sau này, thường bị ngoại vật dẫn dụ làm hao tán tinh thần, lâu tháng lâu ngày chân khí suy yếu, tà khí nhập vào bèn bị tật bệnh, chỉ có chết thôi.
Tử phì năng ích mẫu (Con đầy đủ thì lợi ích cho mẹ). hưu đạo bất hồi toàn (đạo nghĩ nghơi không trở lại).
Tử là khí hô hấp hâu thiên, mẫu là nguyên khí tiên thiên vô hình. Người học đạo đưa thần nhập khí huyệt, lấy hơi thở phàm hậu thiên dẫn động chân tức, gọi là “ hậu thiên hô hấp khởi là phong, dẫn động chân nhân tạo hoá công”. Trở về trẻ con thì sao lo mệnh không kéo dài và đạo không thành vậy?.
Phần thứ ba hành công
Liễm tức ngưng thần xử (Liễm tức ngưng thần về), đông phương sanh khí lai ( đông phương sinh khí đến).
Liễm tức là điều tức vậy. (tiểu chỉ quán) nói rằng: “ không thanh cũng không khô, vào ra liên tục, như còn như mất, nhờ thần an ổn, tâm tình an vui, ấy là hình trạng của hơi thở”. Ngưng thần là yên lặng như thế không động, nhìn vào trong thân thể vậy. hàm hư tử nói rằng: “ ngưng thần điều tức, không phải là hai phần công phu”. Trang sư nói rằng: “người ta chỉ cần làm minh tâm trở về bên trong, mượn ngoại hô hấp dẫn động nội hô hấp; nội tức (hô hấp trong) đã sanh thì có dể dẫn dụ tiên thiên khí từ trong hư vô đến”. gọi tiên thiên khí là sanh khí, là cơ sinh nhất điểm vậy. đó cũng là nội hô hấp. hỏi: nội hô hấp cùng khí trong thái hư có đồng hay không? Đáp rằng: gốc là nhất khí thì sao không đồng?. chính vì tương đồng nên “ đồng loại có thể thay đổi công việc cho nhau”, nếu không thì “không phải đồng loại thì khó mà làm tốt được”.trong thân khí ấy chỉ ít thôi, nên cần ở trong thái hư nhiếp thủ (thu lấy) nó.
Vạn duyên đô bất trứ (không bám vào vạn duyên) . Nhất khí trở về thai
Lúc ban đầu tập tĩnh, vọng ý phân vân, đã mong cầu như là không được vậy. hoặc hỏi: như thế nào là phép trừ vọng niệm?. nói rằng: Lão tử nói: “ suy xét đến cùng cực của hư vô, giữ yên lặng thuần nhất không cho cái gì xen vào (trí hư cực, thủ tĩnh đốc), vạn vật đều tự làm, ta quan sát sự trở về ấy”. quan sát sự trở về yên lặng là diệu quyết trừ vọng niệm: đã không thuận theo vọng niệm cũng không khắc chế vọng niệm, chỉ là lẵng lẽ nhìn bàng quan (đứng ngoài mà xem xét) vọng niệm khởi lên, ẩn, đến và đi, mặc kệ vọng niệm tự sanh tự diệt, làm như vậy lâu ngày nguyên thần tự nhiên hiển lộ. có thể ngộ nó thì vạn niệm đều tuyệt, tiêm thần (thần nhỏ bé) không bám, như gánh nặng ngàn cân nhất thời buông vai, chính là huyền cơ sơ lộ (huyền cơ mới lộ), là lúc nguyên khí sinh phát, là cơ trường sinh do công phu đắp nền ấy vậy.
Âm tương nghi tiền giáng (khí âm nên đi xuống ở phía trước), dương quang hứa hậu tài (dương quang nên vun trồng ở phía sau).
Chỉ nhờ tiền hàng hâu tài bốn chử, câu ấy người gần đây xem ngộ nhiều mà tạo hà sa. ấy là theo giải thích của khẩu quyết Trang sư nói rằng: trong thân nguyên khí đã sinh, trải nghiệm chủ yếu là tâm an, giữ được tĩnh, mặc kệ nguyên khí trong khung tròn ấy tự thăng tự hàng (đi lên đi xuống), không thể thêm chút ý tưởng, chỉ thuần thục mặc kệ thì tự nhiên sẽ đầy tràn vậy. cũng không thể không thêm quan chiếu (xem , soi sáng), lệnh đến nguyên khí hoá thành hậu thiên thì đạo không thể thành vậy. an tâm thủ tĩnh là thể. Quan chiếu là dụng. quan chiếu nhưng quan chiếu trở về trong. Công phu lúc ấy không bút mực hay lời nói nào có thể truyền được. ở người tuệ tâm (tâm trí sáng) sẽ tự ngộ. Toạ thiền trực tiếp đến thanh tĩnh hư tịch thì thần khí hỗn nhất (hoà hợp làm một), chân dương đại sanh vậy. xét đại ý câu ấy, đầu tiên an tĩnh để dương thần khí, tiếp theo sau là thần khí hợp thì chân dương sanh. Thế nên Trang sư khẩu quyết nói rằng: “ yếu đắc chân dương sanh (chủ yếu muốn đắc chân dương sanh), tiên mịch huyền minh cảnh (trước phải tìm huyền minh cảnh)”.
Sơn đầu tịnh hải để (đỉnh núi hợp với đáy biển), vũ quá nhất thanh lôi ( mưa qua để lại một tiếng sấm).
Sơn đầu là giáng cung. Hải để là biển khí huyết. cái nội tức là hạp tích ở tâm xuống thận rồi lên bên trong khang tử (chổ rổng không trong ngực), cho nên để sơn đầu, hải để yên như thế thì nghe được. hợp thần khí ở trung cung, nhân uân bất dĩ ( khí trời đất hoà hợp không thôi), như mưa móc nhuận trạch (thấm nhuần) là hiệu nghiệm ấy vậy. ở lúc ấy trải nghiệm chủ yếu là tâm sáng, giữ được yên lặng, mặc cho thần khí kia tự lên xuống (tự thăng tự hàng), ta tự lặng lặng yên yên mà quan chiếu, lâu ngày tự đến đất hư cực tĩnh đốc (thuần tĩnh). Mục đích là một sự rung động là cơ chân dương phát động. thần khí tại trung cung tự lên xuống. Sao mà trở về thì chủ yếu là quan chiếu?. cái tự thăng tự hàng ấy là do thần không rong ruổi bên ngoài mà sản sanh, nếu không thêm quan chiếu, thần một khi tán thì hô hấp miệng mũi lại khởi lên, lạc vào hậu thiên vậy.
Phần thứ tư trảm long
Tĩnh cực năng sanh động. âm dương tương dữ mô.
(Tĩnh cực thì sinh động. âm dương đều như vậy).
Công phu ban đầu của nử và nam vốn không khác vậy. đều ở trừ vọng niệm, phục trần tâm (cất giấu tâm trần), bão nguyên giữ nhất để dưỡng hoà (nuôi dưỡng cho hoà hợp với nhau). Và ôi ! tĩnh cực dương sinh thì lại thêm giết tâm giữ tĩnh để dưỡng nó, như động tĩnh của âm dương đều theo thời ấy vậy. cho nên người tu đạo chẳng ai là không bắt chước ở âm dương, hoà ở thuật số. chỉ một câu âm dương tương dữ mô ấy, tiện đưa ra bày tỏ hết tiên đạo bí chỉ. Ta nghe Trang sư nói rằng: “ người tu hành ngưỡng xem cúi xét, hiểu cái dụng của âm dương để mà sau này có thể hiểu gốc của đan đạo”. Trên hết của tu đạo là đầu tiên chờ minh âm dương động tĩnh khởi vậy, nhất âm nhất dương là đạo, hết thảy sanh tử khởi phục (nổi lên hay ẩn nấp) đều do nhất khí co duỗi. gọi tên là âm dương, thể ấy là đạo, là cơ sinh nhất điềm vậy thôi. Như thế là thấy đạo trước mắt, cần theo âm dương động tĩnh khởi để lấy phản hoàn hay còn gọi là tiên thiên nhất khí.
Phong trung cầm ngọc thỏ, nguyệt lí tróc kim ô.
(Trong gió bắt thỏ ngọc, trong trăng nắm chặt quạ vàng).
Phong là ngoại hô hấp vậy. ngọc thỏ là chân tức trong thân. Nguyệt là quái khảm, là khí. Kim ô là quái ly, là thần. người học đạo đưa thần nhập khí huyệt. lấy hô hấp hậu thiên dẫn động hơi thở chân nhân. Nguyên khí một khi động, nguyên thần tất cảm ứng. nên ở lúc ấy chủ yếu lại là đưa thần trở vào trong khí, không thể có chút liên hệ với ngoại cảnh vậy. thần trở vào trong khí, bảo lấy khí vun trồng thần thì chỉ là mặc cho khí tự động, thêm lấy nguyên thần quan chiếu. (trung dong) nói rằng: “đạo không thể rời một chút vậy”.
Trứ nhãn nhân uân hậu, lưu tâm thuận nghịch đồ
(Trước mắt khí hậu trời đất giao hoà. Lưu tâm đường thuận nghịch).
Thần khí giao hội, nhất điểm chân dương nhanh chóng tự nhiên sinh, thuận thì sinh người, nghịch thì hoàn đan, có thể bất cẩn sao?. Trải nghiệm bên trong ấy là thiên cơ bí diệu, không dám khinh nhẹ. Vừa trải nghiệm không tiện dùng lời nói rõ ràng phân biệt. Trang sư nói: “chủ yếu là biết đắc chánh cơ sinh âm dương sẽ có thể thành đạo vậy”. lúc chân dương sinh thân thể hoà sướng (hoạt tí thời), tâm cảnh minh lãng (sáng) (hoạt ngọ thời).
Thước kiều trong quá xử, đan khí phục quy lô
(Xem trọng việc qua thước kiều, đan khí trở vào lò luyện đan)
Thước kiều có phân ra thượng hạ, một tại vị trí sơn căn, một ở đểm giao hội âm. Chúng ta chỉ đưa thần khí hợp ở bên trong, nhất dạ tồn nó lâu ngày tích luỹ dần dần nhiều, tự có cơ sinh phát. Nếu khí ấy ở trong bụng trên thông xuống dưới bị xung đột mà không thể thông khai vĩ lư là nguyên khí chưa đầy vậy. người học đạo xưa nay, lúc ấy nhiều người dùng ý riêng tồn tư đạo dẫn để hành hà sa. Trang sư nói rằng: “ là hành vô ích, không thể làm vậy. ở lúc ấy chỉ nên tồn thần dưỡng khí, bão nguyên thủ trung, cả thảy giao phó cho mọi phép ngoài, đợi lúc nguyên khí tích luỹ hậu tự nhiên thông khai quan khiếu mà vận chuyển hà sa, hà sa vận xong rồi là khí trở về bên trong vậy”.
Phần thứ năm dưỡng đan
Phược hổ quy chân huyệt, khiên long tiệm ích đan.
(Trói hổ về chân huyệt, dẫn long dần thêm đan).
Hổ là khí mà long là thần. hai câu ấy tiếp theo đoạn văn trên mà đến. Người ta chờ ha sa vận xong, khí trở vào trong, bèn ngưng thần ở trong hàm dưỡng nó. (khế) nói rằng: “chân nhân dần dần uyên thâm, giữ phù du (khí trôi nổi bên ngoài) trở về trong”. Vận hành hà sa, có người nhằm chuyển chu thiên, người nhằm trực tiếp thấy trong huỳnh đình. Đạo môn ấy là pháp môn thượng thừa, nhưng vẫn không dùng thức thần vận mà tiên thiên khí tự nhiên vận hành.
Tính tu trừng nhược thuỷ, tâm dục tĩnh như sơn
(Tính cần trong như nước thuận, tâm muốn tĩnh như núi).
Trang sư nói: “người học đạo luyện tâm phải gắng sức không rời. Tâm nếu không luyện thì nguồn thuỷ không thanh, đan thành là huyễn đan, vậy sao có khả năng thoát sanh tử mà triều thượng đế?”.lai nói rằng: “ tâm nếu không tĩnh, buông mất cơ âm dương sanh sản, cũng không thể thái nó”.
Điều tức thu kim đỉnh, an thần thủ ngọc quan.
Điều tức là điều chân tức, mượn cái dụng của câu huyền vậy. gốc của chân tức (nội hô hấp) tại bên trong rốn, là nơi cơ nhất điểm sinh, gốc thân sốngthụ khí, sau khi nội tức sanh, ở quy trung (bên trong) trên dưới co duỗi lên xuống, do vì nhu hoà nên đối với thân người không thương hại, gọi là chân âm, đó là tiên thiên nhất khí bên trong thái hư. Do tiên thiên nhất khí có tính cương mạnh, như nội tức chân âm bên trong thân chưa qua nung luyện thì lúc tiên thiên khí đến thân, chân âm không thể hoà hợp hoá thành chân dương mà phản thành chân dương thì hai cực lớn thương hại thân thể, đến cùng cực tự đốt mà chết. cho nên hể lấy thần ôm khí, lấy khí vun trồng thần, thì thần khí hợp nhất và cơ sinhnội tức ấy sẽ có chủ tể, dùng lấy dẫn dụ tiên thiên khí đến thân thì tự mất trí, đốt thân thành tật, với chân âm chân dương hợp làm một, tiện thể luyện hoá sắc thân. Bên trong chổ trống của ngực tồn tại bổn lai, không phải luyện sinh ra đích đến mà huyền quan cũng do tự nhiên. Tâm ấy thanh, khí ấy tịnh lấy thần ôm khí, tâm tức (tâm và hơi thở) hợp nhất, tự nhiên nhân tâm mất mà đạo tâm sinh, ngoại tức ẩn mà nội tức hiện. đợi tiên thiên khí từ trong hư vô, thu vào trong đỉnh nấu luyện nó, bất quá một giờ nửa khắc, tự thành đan ban đầu vậy. Trang sư nói; “ người tu không thể để tâm ấy trống không, định được thần ấy thì không thể đắc tiên thiên tổ khí. Có thể bất cẩn sao?. Điều tức là mệnh công, an thần là tính công, không làm gì chỉ xem hình dạng hai cái này, chủ yếu là làm nhất quán, sẽ là tính mệnh song tu”.
Nhật năng tăng thử mễ, hạc phát phục chu nhan.
(Mặt trời có thể làm tăng thêm hạt mễ. tóc trắng phục hồi dung nhan đẹp đẽ).
Tiên thiên khí là chí bảo cứu tử hồi sinh. Tuy người sắp chết đạt chút ít lại ít nghe theo cũng có thể nối lại sinh cơ. Khâu tổ nói rằng: “một ti (một phần trong mười vạn phần) dương khí chưa tuyệt thì không chết”. Trang sư nói: “pháp ấy biến đổi đơn giản, sao mà thế nhân lấy thay đổi ấy hiểu sự vận hành của biến đổi mà xem kỹ thì như bỏ xót, lại ở trong hư vọng, khoa trương , nói dối mà cầu nó, ngày ngày hao tán khí nguyên hoà, chưa thể đắc hơn một nữa tinh tường của cơ sinh điểm, chỉ chờ khí tuyệt, than ôi một mệnh, nhập lại luân hồi, vào thai trâu bụng ngựa, sao không xét cùng nghĩa lý, muốn có lại thân người mà không được huống chi nghe đạo vậy!”. Do chử mã (từ ngựa) đó mà tự nhiên nói rằng: “thân ấy không hướng kiếp này độ, đợi đến kiếp nào mới độ đây?”. Lại nói rằng : “trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày, một ngày sanh tử biết bao người”. phải cố gắng thôi!
Phần thứ sáu thai tức
Đắc đan thành tốc, tiên tương huyễn cảnh trừ. Tâm tâm thủ linh dược, tức tức phản kiền sơ.
(Đắc đan nhanh chóng, trước phải trừ huyễn cảnh. Tâm tâm thủ linh dược, tức tức phản lại kiền ban đầu).
Trang sư thường hỏi Dư rằng: huyễn cảnh là gì? Dư đáp rằng: tâm người khi tu hành sanh mọi giống phiền não đều là huyễn cảnh. Sư nói rằng: sự ấy là chuyện nhỏ. Cất tay giơ chân chẳng ai là không huyễn. thế gian cả thảy đều là huyễn vậy. suy nghĩ về nó cổ nhân nói rằng: “ tâm chết thì thần sông”. Nếu có thể trừ vọng tâm, nguyên thần có thể thấy vậy. giả sử nguyên thần an thủ về bên trong, cùng khí hoà hợp thì khí vun trồng thần mà thần thì ôm khí, cả hai tự lên xuống, ta tự không chứa khoảng tâm ấy. lâu ngày hành trì, hơi thở mũi miệng ẩn mà thai tức sanh vậy.
Khí phục (trở về) thông tam đảo, thần vong (quên) hợp thái hư.
Hơi thở mũi miệng tuyệt thì chân tức tự động, khí trời đất hoà hợp ở tam điền, tam điền là chỉ ba đoạn thượng trung hạ của thân thể, không chỉ khiếu huyệt, thật ra là chỉ toàn thân trên dưới. người học lúc ấy hết thảy phó mặc mọi thứ không nghe không hỏi, y theo tam vong quyết ( quên hình để dưỡng khí, quên khí để dưỡng thần, quên thần để hoàn hư) mà hành trì, tự có chân cảm ứng. hoặc hỏi ứng tại nơi đâu?. Đáp rằng: ứng tại huyền tẫn, ôi trở về trong ấy là cầu ở nơi huyền diệu, ngưng thần là cầu phép huyền diệu, tiên thiên khí là thể của huyền quan vậy. Trang sư nói rằng: “khí huyệt như cái trống, thần tựa cái chuỳ đánh trống. đánh trống tìm âm thanh, khấu đầu quan để cầu huyền”. các câu ấy là thiên cơ, ta xem xét lai muốn nói hoàn hưu (trở về nghỉ ngơi), hôm nay trình bày hết, xem xong không khinh nhe vậy.
Nhược lai dữ nhược khứ, vô xử bất chân như
(Tự nhiên đến cùng tự nhiên đi, không phân biệt được không là chân như). Triêu thực tầm sơn dụ (sáng tìm ăn khoai nước trên núi), hôn cơ thái trạch chi (tối đói hái linh chi dưới đầm).
nhược tương yên hoả hỗn (nếu hoà trộn được khói lửa), thể bất lí dao trì (thân thể không cần đến dao trì)
Cái gọi là sơn dụ trạch chi không phải vật ngoài thân mà là chí bảo vốn có trong thân vậy, ấy là cơ sinh nhất điểm bên trong cơ thể,hoặc theo trong hư không hấp thụ, tự nhiên càng nhuận sắc thân, không cần thức ăn được nấu bằng khói lửa nửa vậy. người tu đến đây sớm tuyệt ẩm thực, sao lại nói khoai nước và linh chi có thể xua cơn đói?. Tiên cô sợ người mờ mịt bởi ví dụ kia nên lại nói: nhược tương yên hoả hỗn (nếu hoà trộn được khói lửa), thể bất lí dao trì (thân thể không cần đến dao trì).
Phần mười hai diện bích
Vạn vật giai vân tất (tất cả mội việc đều xong), ngưng nhiên toạ tiểu kham (ngưng như thế ngồi dưới tiểu kham).
Khinh thân thừa tử khí (thân nhẹ cỡi tử khí (khí tím)), tĩnh tính trạc thanh đàm (tĩnh tính rửa đầm nước trong)
Công phu đến đấy, đã là không còn làm nữa, tuyệt không nói long hổ diên hống, lúc ấy thân tâm đã không còn nhiễm bám nữa rồi. Trang sư nói : “ chỉ tìm vô lợi danh, tuyệt trần cảnh để đi về an thân, không phân trưa tối nóng lạnh, chỉ có thủ trung bảo nguyên, một mặt tĩnh định, mặc kệ thần ma quỷ quái, hết thảy đáng ghét đáng yêu, tôi chỉ phó mặc không nghe không thấy”.
Khí hỗn âm dương nhất (khí trộn âm dương làm một), thần đồng thiên địa tam ( thần đồng với trời đất và tam tài )
Lúc ấy thần khí hợp nhất do phản hoàn đã đến cơ sinh tiên thiên nhất điểm, sách tử mất họ, sách tiên đăng tên. Âm dương không thể bắt giữ, quỷ thần không thể đo lường, chúng ta trái lại nặn đúc âm dương, trách mắng quỷ thần. Đang ở lúc ấy, người có thể cùng thiên địa xếp vào tam tài. Chính là lúc đại trượng phu công thành danh nên. Nhìn những người câu nệ danh lợi vẫn yên ổn không mỉm cười.
Công hoàn triêu ngọc khuyết (công phu vẹn toàn về chầu tại ngọc khuyết), trường khiếu xuất yên lam (khiếu lớn lên xuất khói lam)
Ngọc khuyết đế kinh là người học công thành hành mãn, phi thăng ngọc thanh, lễ thiên tôn và yết kiến đạo quân, làm bạn cùng đại la tiên mãi mãi, hãnh diện ra ngoài trời, qua kiếp kiếp không huỷ hoại. câu ấy thật chỉ dương thần theo nê hoàn cung thoát thể mà xuất ra ngoài, tổ Thuần dương nói rằng: “ cay đắng hai ba năm, sống sung sướng ngàn vạn năm”.
Phần mười ba xuất thần
Thân ngoại phục hữu thân (Ngoài thân lại có thân), phi quan huyễn thuật thành ( không quan làm ảo thuật), viên thông thử linh khí (linh khí ấy viên thông), hoạt bát nhất nguyên thần (tự do nhất nguyên thần).
Bên ngoài thân có thân sinh ra là dương thần cùng thân thể máu thịt của mình là một không phải là hai, ấy chính là đường lối thiên tiên, chánh tông huyền môn. Nguyên khí cùng nguyên thần là một vậy. Lấy lưu động ấy gọi là khí, lấy linh thông ấy gọi là thần, thần khí thật sự là một vật vậy, tên gọi là kim đan. Cha tử dương nói: “ học tiên cần phải học thiên tiên, chỉ có kim đan là đích tột cùng”. Kim đan đại đạo khó gặp nhưng dễ thành. Chủ yếu là phải biết đại đạo thiên tiên ấy, là ra khỏi yếu quyết sanh tử, không tích công phu lâu ngày không thể đắc nó. Pháp rất giản dị, không có pháp khác hay hơn, chỉ cần thần khí làm nguyên liệu. cho nên Tào hoàn dương nói : “ tiên đạo đơn giản dễ dàng, chỉ thần khí mà thôi”. Một lời nói ấy lộ hết thiên cơ.
Hạo (sáng) nguyệt ngưng kim dịch, thanh liên (hoa sen xanh) luyện ngọc chân. Phanh lai ô thỏ tuỷ (nấu lại tuỷ quạ thỏ), châu kiểu bất sầu bần (ngọc châu sáng không còn lo nghèo hèn).
Hạo nguyệt thanh liên là nguyên thần vậy. kim dịch, ngọc chân là nguyên khí vậy. ô thỏ là chân âm dương. Châu là kim đan. Đạo tu hành chẳng qua là thần ôm khí, khí vun trồng thần, đến khi thần khí hỗn nhất không rời, thì công thành vậy. số câu ấy đưa ra toàn bộ trình “ hoà , bàn, thác , xuất, đại tiết lộ huyền cơ, dùng tâm có thể đến vậy.
Phần thứ mười bốn trùng cử
Giai kỳ phương xuất cốc (Đến kỳ hạn quý báo ấy sẽ xuất cốc), chỉ xích thượng thần tiêu (chỉ khoảng thước tất là lên đến thần tiêu), ngọc nữ tham thanh phượng (cởi phượng xanh), tiên đồng hiến giáng đào (dâng đào đỏ).
Cốc chỉ thiên cốc nê hoàn, nơi thần nghỉ, chỉ xích ẩn dụ là gần. người tu thành đạo, cùng đạo đồng thể hợp chân, thái hư là ta, ta là thái hư, không tồn tại đích xác vấn đề xuất thần hay không xuất thần. người học đạo ba ngàn hạnh vẹn, tám trăm công tròn, bèn đắc nguyên hoàng chiếu mệnh, thoả thích thân trùng cử (thân trống không cử động), thẳng lên cửu trùng, yết kiến ngọc thanh, lễ ngọc hoàng, thọ cáo phong. ở lúc này, động là có quần chân ủng hộ, ngọc nử kim đồng theo hầu. hoặc nói: kim đồng ngọc nữ đều là thần tiên, sao lại hầu người? há thiên thượng cũng có câu thúc sao?. Nói rằng:kim đồng ngọc nữ theo thân là quyến thuộc, đều là tam bộ bát cảnh các bật âm thần thọ nhận đan khí thuần dươg ta luyện cho nên hoá thành chư thần hộ pháp, há là bật ngoài thân sao?
Hoa tiền nguyệt hạ (hoa trước mặt, trăng lặng), lời nói cùng cực của tiên gia là vui vẽ vậy. một mai tiên phàm cách biệt, thì hại tâm thế nhân không tin tiên đạo chân thật, trái lại mơ mộng trong xa xôi hỗn độn, chìm nổi trong biển khổ, lấy khổ làm vui, chấp vọng làm chân. Nếu gặp một hai người phụng đạo, đối lại thêm cười. cho nên Trang sư nói rằng : “ không nói huyền diệu, không đàm đạo, ngậm miệng không cùng phàm phu tranh cải, nói thì kiền thần lại tiều tuỵ mà không có một người bằng lòng thọ giáo”.
Khôn đạo có mười bốn chương, khoảng nào hay một câu đều tổng quát trước sau, hoặc lấy một chương thuật lại trình tự, cho nên trước sau có liên quan với nhau. Người học tinh tế tâm thể ngộ (hiểu), lấy các chương trước sau tham khảo lẫn nhau, có thể thấy toàn bộ pháp quyết.
Công nguyên năm 2000. hàm chân tử kỳ phong NỮ ĐAN HỢP BIÊN Ngô thái Loan tiên cô
Tâm như nhất phiến ngọc hồ băng
vị hứa tiêm trần bán điểm xâm
mai khước ngọc hồ toàn bất quản
dao thai trực thượng tối cao tằng.
Tâm như miếng băng trên hồ ngọc, chưa từng bị một điểm trần xâm, gió thổi bụi mù hồ ngọc vẫn mặc kệ, thì lên thẳng tầng cao nhất của Dao đài
Sủng nhục vô kê hà dụng tranh
phù vân bất ngại nguyệt quang minh
nhâm hô ngưu mã câu kham ứng
khẳng phóng tiêm ai nhập ý thành 。
Vinh nhục chẳng có căn cứ, cơ sở, cớ sao còn tranh đấu. Phù vân không thể cản được mặt trăng sáng. Dốc lòng thành gọi ngưu mã đều chịu ứng, khá xuất trần ô mà nhập vào thành ý.
Thân cư thành thị tính cư sơn
khôi lỗi tràng trung sự đẳng nhàn
nhất tọa hư di tàng giới tử
đại thiên văn tự tổng kham san 。
Thân ở chốn phồn hoa đô thị còn tính ở trên núi, dù có ở giữa đám Tượng gỗ cũng đựoc nhàn hạ. Một khi tàng Chủng tử ngồi trọn trong hư không, ngàn vạn sách vở không còn cần nữa
Phàn vân Kiều tiên cô.
Kiền tượng cương hề khôn đức nhu
công phu tiên hướng định trung cầu
triệt thanh nhất chước dao trì thủy
minh nguyệt hà tu thất bảo tu 。
Kiền tượng cương còn khôn tượng cho đức nhu, công phu ban đầu phải cầu ở Định, một chước ( một phần trăm của một thưng)thủy Dao trì trong vắt, muốn minh nguyệt (trăng sáng) sao cần phải tu thất bảo.
Viên xương mã quyến phí lao lung
lược phóng phi đằng nghiệp chướng mông
chí tịch như như chân diệu pháp
cầm lai hóa tác nhất thiên phong 。
viên (vượn) dữ, mã (ngựa) nóng nảy làm phí chuồng lồng.
buông thả quá thì nghiệp chướng tối tăm; chí tịch (cực yên lặng) như như (nguyên chân tính không nhiễm trần), bắt giữ lại hoá thành một ngọn thiên phong (gió trời).
Dưỡng tính hoàn tu tiên tĩnh tâm
hà lao khất xảo canh xuyên thiết
thiết ngưu khiên đắc tùy thân chuyển
phương hiển vô biên tuệ nghiệp thâm 。
dưỡng tính trước cần phải tĩnh tâm, sao phải lao nhọc để xin khất xảo (ngày mùng bảy tháng bảy làm cỗ cúng hai sao khiên ngưu và chức nữ để xin tài khéo léo cho đàn bà con gái) lại thêm xuyên được sắt thép. Dẫn được Thiết ngưu theo sau thân mà chuyển vận,
sẽ hiện vô biên tuệ nghiệp (nghiệp do trí tuệ sinh) thâm sâu.
Hà tu bái đảo khất trường sanh
đoan đích nguyên thần triệt để thanh
phấn toái hư không hồn tự tại
ma ni xá lợi tổng hư danh 。
Sao phải lạy cúng cầu trường sinh, ngay thẳng thì nguyên thần triệt để thanh trong, tán ra hư không hồn tự tại, ma ni xá lợi tất cả đều là hư danh.
Nhất gian kim ốc trụ song xu
tổng hữu nghi thái ý bất phu
nhược đắc nguyệt trung sanh cá nhật
li long thổ xuất dạ quang châu 。
Một gian kim ốc ở giữa song xu (hai cô gái đẹp), đều có phong thái ý chẳng tin, nếu đạt trong nguyệt sinh cá nhật (trong trăng sinh một mặt trời). Li long (có lẽ tên một loại rồng) thổ ra (ối ra) dạ quang châu.
Ái hà ba lãng khởi tằng tằng
nùng tắc trầm hề đàm tắc thăng
cổ tiếp nhược năng thi dũng đoạn
bồng lai nhược thủy khởi nan bằng 。
Sông yêu ba sóng khởi lớp lớp. nồng nàn thì trầm còn đạm bạc sẽ thăng, dũng cảm bẻ đi vùi trống. bồng lai nhược thuỷ sao khó nương tựa được.
Thôi thiếu huyền tiên cô
Sơ tam tài kiến ảnh như nga
tương đối dương quang kiểu khiết đa
yếu đắc nhân ôn ngưng ngọc dạ
tiên tham tiêu tức tróc kim ba 。
Ban đầu thấy ảnh tam tài tốt đẹp, đối cùng nhật nguyệt thì trắng trong tinh khiết hơn.
Chủ yếu đắc nguyên khí đầm ấm ngưng đọng trong đêm ngọc.đầu tiên là xét tiêu tức (làm mất hơi thở) để tróc kim ba (bắt giữ tia sáng vàng trong mắt)
Tính tông minh xử mệnh cơ kiên
cửu chuyển hà xa cửu đỉnh toàn
kim hổ ngọc long tương hội hợp
tam hoa phủng xuất tiểu thần tiên 。
Tính chủ nơi sáng mệnh cơ yên (nền mệnh yên). Cửu chuyển hà xa cửu đỉnh vẹn tròn, kim hổ ngọc long cùng hội hợp, tam hoa xuất tiểu thần tiên.
Tâm như chỉ thủy tự du du
thường tịch thường tinh hảo tiến tu
dưỡng đắc ô phì bồi thỏ sấu
linh chi tú xuất bích phong đầu 。
Tâm như nước dừng sẽ tự dằng dặt, thường tỉnh thường tinh (sáng) tu tiến tốt, dưỡng đắc ô phì (ô quạ mập mạp) bù thỏ ốm yếu, linh chi đẹp đẽ xuất ở bích phong đầu (ngọn núi bích phong).
Địa hạ tu tri diệc hữu thiên
chuyên tâm cầu kỷ tức cầu tiên
nhất triêu ngộ triệt âm dương chỉ
duy tại sanh sanh nhất khí tiên 。
Dưới đất nên biết cũng có trời, chuyên tâm cầu mình tức cầu tiên, một mai ngộ triệt âm dương, chỉ ở sinh một khí tiên.
Lục tấn chu nhan tằng kỉ thì
tu di hạc phát loạn như ti
khai liêm miết kiến mai hoa phát
nhất đoạn xuân quang mạc phóng trì 。
Tóc xanh cùng dung nhan xinh đẹp được bao lâu, đợi đến tóc bạc rối như tơ, mở rèm liếc thấy mai hoa phát, một ánh sáng xuân chưa phát ra còn trì trệ.
Bất cầu ngoại hộ bất tham thiện
nhãn để thương tang nhâm biến thiên
đan kinh tu tri tòng trực thượng
huyền châu chích tại ngã hung tiền 。
Không cầu giúp đở cũng chẳng tham thiền, đáy mắt xanh biếc dốc lòng biến đổi, đan kinh cần biết theo thẳng lên, huyền châu chính tại trước thân ta.
Đường nghiễm chân tiên cô
Huyền ky địch diện phí sưu tầm
trứ nhãn phương tri chí lí thâm
tính học nan tương văn tự chỉ
nghiệp duyến liễu đương kiến chân tâm 。
Phí công tìm gặp huyền cơ, trước mắt sẽ hiểu lý thâm cùng cực, học tính khó dùng văn tự mà chỉ rỏ, hiểu được nghiệp duyên sẽ thấy chân tâm.
Tâm tính nguyên lai tối dịch minh
đãn tùy phong đính mộ vân tình
đông tây nam bắc giai kham trụ
tiện khả bồng sơn bích hải hành 。
Cái gốc của tâm tính rất dễ minh, chỉ theo đỉnh núi tối mây dừng, đông tây nam bắc đều có thể dừng, tiện thể du hành đến núi Bồng lai cùng Bích hải.
Bất thức tính hề bất thức mệnh
phẩu phá kiền khôn phân lưỡng đồ
đãn giáo tương hợp thành đan nhật
túy đáo hồ trung bất dụng phù 。
Không biết tính thì không hiểu mệnh, phá vỡ kiền khôn phân làm hai đường, chỉ khiến tương hợp ngày nào đó thành đan, say vẫn đến được hồ trung (bên trong hồ) mà không cần đến sự giúp đở.
Vô sân vô hỉ khí hòa huân
ứng sự tùy ky phong trục vân
hổ phục long tuần tâm tự tĩnh
bích thiên minh nguyệt bạch phân phân 。
Vô sân vô hỷ khí hoà hợp, ứng sự tuỳ cơ gió đuổi mây, hổ phục long thuần tâm tự tĩnh, trời xanh nguyệt sáng phân phân.
Chuhuyền Tĩnh tiên cô.
Khôn quyết tu tòng tĩnh lí cầu
tĩnh trung khước hữu động ky lưu
nhược giáo không tọa tồn khô tưởng
hổ tẩu long phi đan chẩm đầu 。
quyết của khôn đạo cần cầu cái lý tĩnh bên trong, tĩnh bên trong tức có động cơ lưu lại, nếu dạy ngồi không cùng tồn tưởng khô khan thì hổ tẩu (hổ chạy) long phi (rồng bay) hợp đan thế nào.
Nhất điểm linh thai bàn thạch an
nhâm tha vinh lạc thái thiên bàn
dương quang bổn thị ma ni bảo
cá lí thu tàng kết đại hoàn 。
Một điểm linh thai an như bàn thạch, mặc vinh lạc khác xung quanh ngàn trạng thái, dương quang chính là bảo vật ma ni, lý ấy thu vào kết đại hoàn (sự trở về).
Tâm tự tào khê nhất phiến thu
hảo tòng tử ngọ hạ công tu
ngư long bát thứ ba hoàn tĩnh
chích hữu trường không nguyệt ảnh lưu 。
Tâm như một mảnh Tào khê mùa thu, nếu giờ tý ngọ hạ công tu tốt thì cá rồng hung tợnsóng vẫn hoàn tĩnh. Chỉ cần giữ tâm không lâu dài thì nguyệt ảnh lưu lại.
Khinh yên bạc vụ chướng không hư
khước sử linh minh vô xử cư
tăng ái vinh khô giai lợi nhận
dư như thương tử chẩm tầm dư 。
Khói nhẹ sương mỏng ngăn sự trống rỗng, thì khiến linh minh không nơi cư trú, ghét yêu tươi hay khô đều lợi nhuận, ta như thương con trẻ tìm ta thế nào.
Tính mệnh tiên tu nguyệt quật tham
cầm long phược hổ mạc trì duyên
dương sanh chi hậu chân dương lậu
thử mễ như hà đắc bảo toàn 。
Tính mệnh trước cần tham gia vào nguyệt quật (hang mặt trăng), cầm long buộc hổ tuyệt không kéo dài, sau khi dương sinh thì chân dương lậu (lò rỉ), vậy hạt mễ (gạo) ấy như thế nào mới được bảo toàn.
Tôn bất nhị tiên
Phần một thu tâm
Ngô thân vị hữu nhật
nhất khí dĩ tiên tồn
tự ngọc ma du nhuận
như kim luyện khởi hôn ?
Tảo không sanh diệt hải
cố thủ tổng trì môn
bán thử hư linh xử
dung dung hỏa hậu ôn 。
Thân ta chưa có mặt trời, nhất khí ấy trước tiên phải tồn; Quét hư không biển sanh diệt, cố thủ tổng trì môn, Nơi nữa hạt lúa hư linh,dùng hoả hầu rực sáng giữ ấm.
Phần thứ hai dưỡng khí
Bổn thị vô vi thủy
hà kì lạc hậu thiên
nhất thanh tài xuất khẩu
tam thốn dĩ ti quyền 。
Huống bị trần lao háo
na kham tật bệnh triền
tử phì năng ích mẫu
hưu đạo bất hồi toàn 。
Vốn vô là thuỷ, làm sao rơi vào hậu thiên, nói ra một lời tài hoa, ba thốn lấy chủ quyền,
Càng bị trần tục làm lao lực suy kiệt, thì càng chụi tật bệnh quây quanh.
Con đầy đủ thì lợi ích cho mẹ. đạo nghỉ nghơi không trở lại.
Phần thứ ba hành công
Liễm tức ngưng thần xử
đông phương sanh khí lai
vạn duyến đô bất trứ
nhất khí phục quy thai 。
Âm tượng nghi tiền hàng
dương quang hứa hậu tài
sơn đầu tịnh hải để
vũ quá nhất thanh lôi 。
Liễm tức ngưng thần về, đông phương sinh khí đến.
không bám vào vạn duyên.
khí âm nên đi xuống ở phía trước, dương quang nên vun trồng ở phía sau.
đỉnh núi hợp với đáy biển, mưa qua để lại một tiếng sấm.
Phần thứ tư trảm long
Tĩnh cực năng sanh động
âm dương tương dữ mô
phong trung cầm ngọc hổ
nguyệt lí tróc kim ô 。
Trứ nhãn nhân ôn hậu
lưu tâm thuận nghịch đồ
thước kiều trọng quá xử
đan khí phục quy lô 。
Tĩnh cực thì sinh động. âm dương đều như vậy
Trong gió bắt thỏ ngọc, trong trăng nắm chặt quạ vàng
Trước mắt khí hậu trời đất giao hoà. Lưu tâm đường thuận nghịch
Xem trọng việc qua thước kiều, đan khí trở vào lò luyện đan
Phần thứ năm dưỡng đan
Phược hổ quy chân huyệt
khiên long tiệm ích đan
tính tu trừng tự thủy
tâm dục tĩnh như sơn 。
Điều tức thu kim đỉnh
an thần thủ ngọc quan
nhật năng tăng thử mễ
hạc phát phục chu nhan 。
Trói hổ về chân huyệt, dẫn long dần thêm đan
Tính cần trong như nước thuận, tâm muốn tĩnh như núi
Mặt trời có thể làm tăng thêm hạt mễ. tóc trắng phục hồi dung nhan đẹp đẽ
Phần thứ sáu thai tức
Yếu đắc đan thành tốc
tiên tương huyễn cảnh trừ
tâm tâm thủ linh dược
tức tức phản kiền sơ
Khí phục thông tam đảo
thần vong hợp thái hư
nhược lai dữ nhược khứ
vô xử bất chân như 。
Đắc đan nhanh chóng, trước phải trừ huyễn cảnh. Tâm tâm thủ linh dược, tức tức phản lại kiền ban đầu
Khí phục (trở về) thông tam đảo, thần vong (quên) hợp thái hư
Tự nhiên đến cùng tự nhiên đi, không phân biệt được không là chân như
Phần thứ bảy hoả phù Thai tức miên miên xử
tu phân động tĩnh ky
dương quang đương ích tiến
âm phách yếu phòng phi 。
Đàm lí châu hàm cảnh
sơn đầu nguyệt thổ huy
lục thì hưu thiểu túng
quán khái dược miêu phì 。
Thai tức luôn luôn yên, đợi phân cơ động tĩnh, dương quang đang tiến thêm, âm phách yếu phòng bay lên
Trong đầm ngọc châu chứa cảnh, sơn đầu trăng nhả ra ánh sáng rực rở
Sáu thời nghĩ ít buông thả, xem xét tưới dược thì mầm đầy tròn
Phần thứ tám tiếp dược
Nhất bán huyền ky ngộ
đan đầu như lộ ngưng
tuy vân năng cố mệnh
an đắc luyện thành hình
Tị quan thuần dương tiếp
thần duyên thấu thể linh
bộ hàm tu thận trọng
hoàn mãn tức phi đằng 。
Ngộ một nửa huyền cơ, đan đầu như lộ ngưng, tuy rằng có thể yên định mệnh, đắc an luyện thành hình
Dùng mũi xem xét thần quang hợp, thần diên thấu thể linh. ngậm miệng chờ thận trọng, vẹn tròn thì phi thăng
Phần thứ chín luyện thần
Sanh tiền xá lợi tử
nhất đán nhập ngô hoài
thận tự trì doanh khí
nhu như phủ ấu hài
Địa môn tu cố bế
thiên khuyết yếu tiên khai
tẩy trạc hoàng nha tịnh
sơn đầu chấn địa lôi 。
xá lợi tử trước mặt, một mai nhập lại vào ta
Cẩn thận như giử khí tràn đầy, mềm mại như vuốt ve trẻ thơ
Địa môn nên đóng chắc, thiên quan cần khai trước. tẩy rửa hoàng nha (mầm vàng) sạch sẽ, sơn đầu bị địa lôi làm rung động.
Phần thứ mười phục thực
Đại dã thành sơn trạch
trung hàm tạo hóa tình
triêu nghênh nhật ô khí
dạ hấp nguyệt thiềm tinh
Thì chí đan năng thải
niên hoa thể tự thanh
nguyên thần lai vãng xử
vạn khiếu phát quang minh 。
đúc lớn thành núi đầm, trong Chứa tình tạo hoá
sớm đón khí mặt trời, đêm hấp thu tinh mặt trăng
lúc đan có thể thái thủ, năm tháng ăn uống tinh hoa này thì thân thể sẽ tự nhẹ nhàng
Nơi nguyên thần lai vãng, vạn khiếu phát quang minh
Phần mười một tịch cốc
Kí đắc xan linh khí
thanh linh phế phủ kì
vong thần vô tương trứ
hợp cực hữu không li
Triêu thực tầm sơn dụ
hôn cơ thải trạch chi
nhược tương yên hỏa hỗn
thể bất lí dao trì 。
Đãđắc ăn linh khí, kỳ lạ là phổi lạnh trong.
quên thần không có hình tướng để bám vào, hợp cực thì rời khỏi có với không.
sáng tìm ăn khoai nước trên núi, tối đói hái linh chi dưới đầm.
nếu hoà trộn được khói lửa, thân thể không cần đến dao trì
Phần mười hai diện bích
Vạn sự giai vân tất
ngưng nhiên tọa tiểu kham
khinh thân thừa tử khí
tĩnh tính trạc thanh đàm
Khí hỗn âm dương nhất
thần đồng thiên địa tam
công hoàn triêu ngọc khuyết
trường khiếu xuất yên lam 。
tất cả mội việc đều xong, ngưng như thế ngồi dưới tiểu kham.
thân nhẹ cỡi tử khí (khí tím), tĩnh tính rửa đầm nước trong.
khí trộn âm dương làm một,thần đồng với trời đất và tam tài
công phu vẹn toàn về chầu tại ngọc khuyết, khiếu lớn lên xuất khói lam.
Phần mười ba xuất thần
Thân ngoại phục hữu thân
phi quan huyễn thuật thành
viên thông thử linh khí
hoạt bát nhất nguyên thần
Hạo nguyệt ngưng kim dịch
thanh liên luyện ngọc chân
phanh lai ngọc thỏ tủy
châu kiểu bất sầu bần 。
Ngoài thân lại có thân, không quan làm ảo thuật), linh khí ấy viên thông, tự do nhất nguyên thần).
Hạo (sáng) nguyệt ngưng kim dịch, thanh liên (hoa sen xanh) luyện ngọc chân. nấu lại tuỷ quạ thỏ), ngọc châu sáng không còn lo nghèo hèn.
Phần thứ mười bốn trùng cử
Giai kì phương xuất cốc
chỉ xích thượng thần tiêu
ngọc nữ tham thanh phượng
kim đồng hiến bích đào
Hoa tiền đạn cẩm tỳ
nguyệt hạ lộng quỳnh tiêu
nhất đán tiên phàm cách
linh nhiên độ hải triều 。
Đến kỳ hạn quý báo ấy sẽ xuất cốc, chỉ khoảng thước tất là lên đến thần tiêu, ngọc nữcởi thanh phượng (phượng xanh), tiên đồng hiến bích đào (dâng đào ngọc bích).
Trước hoa đánh đàn cẩm tỳ bà (tỳ bà tím), trăng lặng ngắm ngọc huỳnh và thổi tiêu; một mai tiên phàm cách biệt, như gió thoảng qua hải triều.
Lại thêm bảy công phu nữ nội đan đứng đầu.
bất thừa bạch hạc ái thừa loan
nhị thập tràng phiên tả hữu bàn
ngẫu nhập thư đàn tầm nhất tiếu
hàng chân hương nhiễu bích lan kiền 。
Không cỡi bạch hạc mà thích cởi chim loan, hai mươi cờ hiệu bay lượn hai bên trái phải.
Ngẫu nhiên vào thư đàn tìm một nụ cười, làm rơi lại chân hương quanh lan can ngọc bích.
Tiểu xuân thiên khí noãn phong xa
nhật chiếu giang nam xử sĩ gia
thôi đắc tịch mai tiên bính nhị
tố tâm nhân đối tố tâm hoa 。
Đầu xuân thiên khí ấm gió xa, mặt trời chiếu giang nam tại nhà của người luyện.
Theo đuổi được hoa mai tháng chạp cònphong nhuỵ, Tâm người trong trắng đối diện tâm hoa trong trắng.
Tư sanh tư thủy tổng âm dương
vô cực năng khai thái cực quang
tâm kính cần ma minh tự nguyệt
đại thiên nhất túc nhâm ngang tàng 。
Tư chất ban đầu lúc mới sinh ra có âm dương hợp nhau, Vô cực có thể khai ánh sáng thái cực.
Gương tâm cần lao chùi sẽ sáng như trăng, hơn ngàn một hạt gạo gánh thật hiên ngang.
Thần khí tu như dạ khí thanh
tòng lai chí nhạc tại vô thanh
huyễn trung chân xử chân trung huyễn
thả hướng ngân bồn lộng hóa sanh 。
Thần khí đợi thanh như khí ban đêm, niềm vui lớn cùng đến với vô thanh.
Nơi ở thật của huyễn trung thật như ảo, cùng hướng ngân bồn (chậu bạc) ngắm hoá sinh.
Bồng đảo hoàn tu kết bạn du
nhất thân nan thượng bích nham đầu
nhược tương khô tịch vi tu luyện
nhược thủy doanh doanh thiểu tiện chu 。
Trở về Bồng đảo (đảo bồng lai) chờ kết bạn vui chơi, một người khó lên đỉnh bích nham.
Nếu khô khan, yên lặng mà tu luyện, dòng nước yếu nhỡn nhơ ít có lợi cho thuyền.
Dưỡng thần tích khí dĩ trì doanh
hỉ trụy dương hề nộ tổn âm
lưỡng mục nội minh tuần hổ vĩ
mông mông song nhĩ thính hoàng đình 。
Dưỡng thần gom khí tự giữ đầy tràn, vui giảm dương giận tổn âm.
Hai mắt chiếu rội vào trong theo hổ vĩ (đuôi hổ), hai tai mờ mịt nghe trong huỳnh đình.
Kinh cức tu giáo hoa tẫn nha
tính trung tự hữu diệu liên hoa
nhất triêu hốt hiện quang minh tượng
thức đắc cừ thì tiện thị tha 。
Đường đi hiểm trở cần dạy đến tận mầm, trong tính tự có hoa sen kỳ diệu.
Một ngày đột nhiên hiện lên tượng hình rõ ràng, biết đắc thời lớn tiện lợi cho các cái khác.
Tào văn dật tiên cô Linh nguyên đại đạo ca.
Ta nói đích thực cho mọi người là gốc của mệnh đến cùng với chân tức, chiếu sáng thân thể trường sanh tuy không mà không phải không, thần soi rọi chứa cả trời đất và bao dung vạn vật.
Thái cực phân bố thần diệu người đắc nhất (được một), đắc nhất ấy phải cẩn thận chớ để mất, cung thất (cung điện, nhà) hư nhàn (trống rỗng an nhàn) thần tự nhiên sẽ đến ở. Linh phủ ( phủ của thần linh) đang bị khô huyết dịch, một buồn, một vui, một nghĩ ngợi, một buông thả, một lao nhọc làm cho thân hình hư hao, sáng đau tối tổn (tổn hại) mê mà không biết, rối loạn tinh thần không nơi trú. Từng chút từng chút mất đi dần dần suy kiệt, nguyên khí hao kiệt thần bèn đi, chỉ đạo đi thiền ngồi cũng thiền, thánh cũng như phàm không có khác, mầm còn non yếu cần dung dưỡng, căn thức hôn mê liền biến đổi. Lần lựa không giải đi khó khăn thì chưa nghe lúa tốt đã thấy ruộng hoang tàn.
Chín năm công phu viên mãn hoả hầu đầy đủ, đối vật vô tâm thì thần hoá nhanh chóng, vô tâm thì tâm ấy chính là chân tâm, động tĩng đều quên là rời dục.
Thần là tính khí là mệnh, thần không ở ngoài khí sẽ tự định, gốc của hai vật giúp thêm được gì, mất đi sao gọi là quyền của ta.
Hỗn hợp làm một trở về quên nhất (cái một), có thể cùng nguồn gốc đồng sinh ra một, nhìn thấu qua kim loại hay đá không khó, ngồi rời đứng mất như chớp nhoáng.
Đạo ấy dễ hiểu không dễ hành (làm), quên hành thì hành đạo ấy hoàn tất, tuyệt không cẩu thả lấy bế tức (giữ hơi thở) làm việc chính, sổ tức theo đồ tất cả chưa.
Gần đây buông thả chốn trần lao, thì tâm loanh hoanh bên trong có khác sao, chỉ có trẻ con lúc còn trong thai, làm sao những kiến giải có tâm mà tính kế.
Chỉ khí nhu đến cùng cực thì thần sẽ lưu lại lâu, chân tức tự qua lại lâu dài, liên tục quanh co để trở về nguyên mệnh, không múc nước linh tuyền (suối linh) mà nó tự lưu chảy, ba vạn sáu ngàn là đại công, âm dương thời tiết ở bên trong, nung chảy quan mạch làm biến đổi gân cốt, nơi nơi quang minh mọi nơi thông.
Tam bành chạy sinh ra mồ mả, vạn nước đến triều ở cung xích đế (vua đỏ), hỏi chân nhân ở đâu đến, theo cùng tiền nguyên (gốc trước) ở linh thai.
Lâu năm mây sương sâu dày che phủ, hôm nay tương phùng (gặp nhau) đạo nhãn khai ( mắt đạo mở), Ấy không phải một sớm một chiều, là chân bản ngã chứ không phải thuật.
Mùa lạnh vẫn bền chặc như kim thạch, chiến đấu làm lui âm ma sẽ gia tăng tuệ lực, tất cả là do hư đạm (trống rỗng, đạm bạc) mà phục hồi lại tinh, gọi là hoa tư thanh tịnh quốc.
Ban đầu lấy gì mà lập căn cơ, đến nơi vô vi là làm tất cả, trong niệm cảnh tương chờ trừ bỏ, trong mộng tinh thần nhọc công giữ.
Không động không tĩnh là chủ yếu, không vuông không tròn là chí đạo (đạo cùng cực), nguyên hoà (nguồn hoà hợp) thì tức (hơi thở) thành chân, hô hấp ngoài mong hết là xong.
Nguyên khí không trụ thần không an, mọt cây không rể cành lá mà bám, lại luận nước mắt nước bọt cùng tinh huyết, đạt bản (gốc) cùng cực thì cùng nguyên (nguồn) một bực như nhau.
Vật ấy ở từng nào có định vị, tuỳ lúc biến hoá theo tâm ý của người, ở thân thể thấy nóng thì đổ mồ hôi, ở mắt thấy buồn thì rơi lệ.
Tại thận thấy niệm (nhớ đến) thì là tinh, ở mũi thấy gió thì có nước mũi, lưu chuyển ngang dọc làm nhuận khắp thân, đến đầu không ra là thần thuỷ.
Thần thuỷ khó nói ra lời, người biết nó thì ít, sinh ra vốn hết thảy là do chân khí, chỉ biết điềm đạm không suy nghĩ, trai giới để yên tâm và dè dặt lới nói.
Uống rượu ngọt hồng mờ mờ, đói khát tiêu trừ hiện ra chân tố (sự mộc mạc), đến lúc nào đó công phu viên mãn tự nhiên tiêu diêu (tiêu dao tự tại), những ngày đầu nung luyện thật cần khổ công siêng năng.
Trong siêng năng khổ công lại không phải siêng năng, nhàn nhàn hạ hạ là chính yếu của dưỡng nguyên thần. tại sao lại không thể làm tâm an nhàn, do buông thả hay nắm giữ toàn do người.
Xưa ta trong khổ khổ càng thêm khổ, ăn cây mặc y phục cỏ cô đơn yên tĩnh, tâm hiểu đại đạo mà không thể thực hành, dấu vết tên cùng thân là đại bệnh.
So với dùng công phu nhàn hạ, toạ thiền đại định mà tranh giành với đại tự nhiên, hình thần tuy nói khó toàn vẹn cả hai, chưa hiểu mệnh có thể trước tiên nên hiểu tính.
Không bỏ theo đuổi danh cùng trục lợi, tuyệt không hiểu nhân tình đều là vô, quyết liệt ở người sao mà trì trệ, ở ta dạy dỗ ai chế ngự. Nhấc lên trời xanh như thế nào, dựa vào văn chương chưa đầy đủ cao quý, vinh hoa áo quần ăn uống đều vô tâm, gom ngọc bồi đắp vàng trở về nên ra sao.
Khéo văn chương cùng ca phú, nhiều tài làm trở ngại đường tu hành, vừa như sương mỏng cùng khói nhẹ, nhàn hạ bên hoa rơi theo bông liễu.
Vui chơi an nhàn trong khoảng thiên địa, đến hiểu không thể thành mưa mốc, danh cùng thân trọn thân cận ai, không rỏ nguyên nhân lớn mà năm tháng cứ tiếp nối.
Tu luyện nhờ thần khí, thần khí không an thì rỗng, đắng và chua, chỉ tiếc một cái nền tốt, cung vàng điện ngọc không chủ nhân.
Khuyên có chủ nhân trú lâu dài, để trống rổng nhàn hạ không sử dụng, trong vô có diệu (thần diệu) nắm giữ khó, phải hiểu nuôi dưỡng anh nhân (đứa bé) cần có mẹ.
Dấu đi tài hùng biện bỏ thông minh, thu lại tinh thần làm như ngu dốt, bền tâm nhất chí nhận quá trình phía trước, kết cuộc không phụ đại đạo ở người. HUYỀN QUAN ĐAN PHÁP BÍ QUYẾT Kim đan đại đạo, tính mệnh song tu, ban đầu là lý thiên địa thăng giáng, giữ số sinh thành nhật nguyệt, trong thân dùng năm tháng, trong ngày gùng giờ khắc. Trước cần biết long hổ, kế cần phối khảm ly, biện thủy nguyên (nguồn) thanh trọc (trong đục), phân khí hậu sớm muộn, phối hợp âm dương, tụ tán thủy hỏa, giao cấu long hổ, thiêu luyện đan dược. Lý pháp trong đó tinh thâm, công quyết tinh diệu, nếu không có thầy chỉ thì không thể biết. Nay thấy hậu học nhiều người chưa đắc chân quyết nên khó mà hạ thủ tu luyện nên lấy huyền quan đan pháp nội luyện mật quyết nghiên cứu nhiều năm chỉnh lý đem ra cho người yêu thích khí công đan đạo tham khảo.
Huyền quan đan pháp do tôi căn cứ theo thanh tu đan pháp thầy truyền cùng 10 năm luyện công thể nghiệm, lấy lý đạo gia nội đan pháp làm chủ thể, thông qua tu chứng không ngừng hoàn thiện mà chỉnh lý soạn biên thành 1 bộ dưỡng sinh đan công. Công phu này có khí cơ phát động tự nhiên, xuất công tăng trưởng công ổn định, an toàn không sai lệch với đặc điểm tính mệnh song tu, tu luyện trăm ngày thì tiểu thành. Toàn công phu phân làm 7 bộ, Đầu tiên giới thiệu nội dung công pháp bộ thứ nhất đều lấy phương thức truyền công truyền thống của đạo gia lấy phân làmcông quyết pháp lý nghiệm5 bộ phận tiến hành giới thiệu rỏ ràng. Trong công bộ giới thiệu phương pháp chủ thể luyện công của huyền quan đan pháp, quyết bộ truyền thụ tâm ý khiếu môn và bí quyết luyện công, pháp bộ lộ ra chân cơ nội luyện tâm pháp, lý bộ giảng giải công pháp pháp lý và yếu điểm luyện công, nghiệm bộ đưa ra 1 ít thể nghiệm luyện công.
Bộ thứ nhất: tụ thần quang, luyện vô cực, giao kiền khôn, dưỡng tam bảo.
Công bộ:
Chọn tư thế đan bàn, 2 tay kết định ấn (2 lòng bàn tay hướng lên, trái trên phải dưới chồng nhau để trước rốn, 2 ngón cái chạm nhẹ), hư linh đỉnh kính, lưỡi để hàm trên, hư tâm thật phúc, toàn thân thả lỏng, hô hấp tự nhiên, tâm không tưởng gì, ngưng thần tĩnh dưỡng, đợi tâm cảnh thanh tịnh, khí tức bình hòa thì có thể bắt đầu luyện công.
Trong tĩnh quán tưởng trong tổ khiếu hiện ra 1 hạt châu sáng màu trắng, tròn sáng. Quang châu chiếu sáng thượng đan điền, thông suốt, hư thất sinh bạch, mặc tưởng sau 3 phút, ý tưởng quang châu giáng xuống trong đan điền hóa thành một ánh quang, quang minh sung mãn đan điền, rồi dùng ý nhẹ nhàng quán chiếu nội cảnh ánh quang minh như mặt trời hồng mới mọc chiếu trên biển khơi mênh mông, như sương như khói, chợt ẩn chợt hiện, như thấy như không, rồi đợi huyền quan khai khiếu, chân dương phát động,
Quyết viết: thân như thái hư, chân không diệu hữu, mỗi lần tọa tu nữa tiểu thì trở lên (1 thì = 2 giờ).
Thu công: nhãn cầu chuyển trái phải 7 vòng, xoa 2 tay nóng chà lưỡng thận, ý chú mệnh môn, tĩnh dưỡng nữa khắc rồi hô hấp 3 lần là được.
Quyết bộ:
Công là thể, quyết là dụng, có công không quyết đạo nan thành.
Thứ nhất, hư tự quyết:Lúc quán tưởng quang châu cần giữ tổ khiếu, quán tưởng đắc hư không 1 chút quang châu tụ thanh hình tượng trong hư không phóng quang chiếu sáng ở đan diền. Tốt nhất là không bám vào ý để thể hội khí cảm, cũng không cần chuyên chú khiếu ở trên, Việc này có thể đồng thời hội tụ tiên thiên linh năng, cần phòng đừng để ý thủ đầu bộ tạo thành vòng khí đầu đỉnh thì sai lệch.
Thứ hai tụ quang quyết:Trong lúc luyện công, nếu trước mắt sinh ánh sáng, lúc nhìn thấy ánh sáng đợi ánh sáng ổn định rồi lấy ý dẫn quang minh tụ ở trong tổ khiếu kết thành 1 đan châu bằng quả chu quất chớp sáng. Lúc bắt đầu luyện công, ánh sáng hiện ra nhiều tia, quang vòng quang vân nhiều hình thức xuất hiện phiêu lãng bất định. Theo tụ quang quyết không ngừng thái luyện, rất nhanh ngưng tụ thành 1 đan châu tròn sáng, tiến đến đạt tính quang trắng sạch thanh khiết, cảnh giới viên mãn của linh thai không minh (rỗng sáng).
Thứ ba ý thủ pháp quyết:Lúc quán chiếu quan minh nếu như xuất hiện khí lạnh ở đan điền, tình huống tạp niệm nhiều thì có thể dùng ý niệm thủ ở đan điền, ý khí tương tùy. Lúc đan điền khí ấm lúc tâm cảnh thanh tĩnh thì giữ niệm chuyển thủ ở trên hư không quang minh, quán quan thủ không. Đó là hữu dục quan khiếu, vô dục quán quang linh hoạt vận dụng ý niệm. Có thể điều tiết quá trình thai tụ khiến ngưng luyện ra đan khí không lạnh không nóng, không non không già, hợp với hỏa hậu.
Thứ tư luyện tân hóa tinh quyết:Lúc luyện công, lúc trong miệng sinh tân dịch, không cần nuốt xuống ngay mà đợi lúc tích tụ đầy miệng phân làm 3 lần từ từ nuốt xuống, đồng thời phôi hợp quán tưởng tân dịch hóa thành 1 dòng suối ấm theo nhâm mạch vào trong đan điền hoặc hành đến mệnh môn nhập vào trong lưỡng thận, tĩnh dưỡng đan điền, bồi bổ chân tinh.
Thứ năm điều tức quyết:Lúc quán chiếu đan điền sáng rỏ cần lấy ý dẫn hơi thở mũi chuyển nhập đan điền khí cơ trong hạp tích, tưởng bám hô hấp là đan điền nguyên khí không phải không khí ngoại giới. điều chỉnh hô hấp nhỏ mịn đều dài.
Pháp bộ
Tu luyện không biết huyền huyền quan thì như đi vào phòng tối, tọa thiền không hiểu thiền cơ đến cuối cũng như hồ (loài cáo) thiền. Đạo luyện bên trong tri cơ mà nhập, tri quan mà qua. Luyện chân dương ở hư không pháp độ, dưỡng nguyên tính ở trạm uyên (sâu). Đan kinh có nói: “Biết nó mà tu siêu phàm nhập thánh”. Gọi là huyền quan chân cơ là chỉ trạng thái quá độ trong tiên hậu thiên cảnh giới. Đạo gia công cũng gọi là lúc thiên tâm lai phục. Nếu như người luyện công có thể đạt tốt thì giữ nó giờ khắc tiến hành tu luyện, đề cao công cảnh hội trong thời gian ngắn đắc đến tầng thứ trên. Tôi lấy 1 bộ công phu trong quá trình tu luyện hiển hiện chân cơ và tu trì tâm pháp tương ứng chỉnh lý giới thiệu hi vọng người luyện công trong quá trình thật tu có thể vận dụng linh hoạt.
Thứ nhất luyện hư pháp: Sau khi luyện công nhập tĩnh sâu thường xuất hiện 1 loại thể nghiệm không (trống rỗng), trong thể nghiệm này người luyện công cảm thấytự mình trống rỗng, mất đi, tất cả đều hóa thành không. Đó là nhất linh chân tínhhư minh tịch chiếu. Lúc này người luyện công giữ tâm niệm trên cảm giác không này, trụ cảnh giới không này, vạn vật giai hư, nhất linh độc diệu (riêng có nhất linh là diệu). Đó là người luyện công đã dần dung nhập vào cảnh giới dục giới định (là 1 tầng thứ trong nhập định). Do tác dụng 7 thức của người (ngã chấp, chấp trước, tự ngã), nhiều người luyện đến cửa này đột nhiên “tỉnh giác” đạt tự thân “bất kiến” rồi từ đây mà sinh cái niệm tìm kiếm tự ngã trong đầu mãnh liệt. Lúccảm giác “tự ngã” trở lại thì cảnh giới không cũng mất hẳn nên người luyện công ở cửa này cần khởi chánh niệm, dùng tâm pháp luyện hư và tâm thức để đến tầng thứ sâu trong định cảnh. Đừng để ảnh hưỡng của 7 thức mà khởi tạp niệm làm gián đoạn công phu tăng trưởng.
Thứ hai thai tức pháp: Lúc luyện công đến 1 giai đoạn nhất định, Trong công phu xuất hiện hiện tượng huyền quan khai khiếu, lúc đó người luyện công cảm giác trong đan điền đột nhiên có hiện tượng khai “khiếu”, một chân khí thuần dương ấm nóng chảy từ trong khiếu vị cuồn cuộn không ngừng vọt ra, toàn thân giống như ngâm mình torng suối nóng, ấm nóng thư thái. Lúc này người luyện công cần phải tâm vô tạp niệm, tĩnh thủ (yên lặng mà giữ) khí khiếu đổng khai (mở rộng), rồi lấy ý niệm dẫn hơi thở mũi trở ngược lại nhập vào trong đan điền, làm vậy cho đến tâm tức tương y, thần khí tương tùy. Như vậy ngưng luyện trong nữa khắc thì có thể tự nhiên nhi nhiên làm xuất tiên thiên chân tức, tiến nhập hô hấp nguyên khí trong cảnh giới thai tức.
Thứ ba Luyện quang pháp: Tùy vào độ nhập sâu trong luyện công mà xuất hiện 1 loại quang, trong thể nghiệm này người luyện công nội thị được trong thân thể, xuất hiện quang minh vô hạn, rồi cảm giác ánh sáng này dần dần cùng ánh sáng vũ trụ hòa làm một, toàn bộ hóa thành một đại dương ánh sáng vô biên. Lúc này người luyện công giữ tâm niệm chuyên chú trên quang minh,đó là ánh sáng của người luyện công dần nhập vào trong cảnh giới quang minh định (là 1 loại tầng thứ trong nhập định).
Lý bộ
<<Huỳnh Đình Kinh>> viết: “Thần tiên đạo sĩ phi hữu thần, tích tinh lũy khí dĩ thành chân (Thần tiên đạo sĩ không phải là có thần do tích tinh lũy khí mà thành chân)”. Tu luyện đan đạo lấy tinh thủy, hỏa, ý thổ làm vô thượng tam bảo. Trong tu luyện phân làm trúc cơ luyện kỷ, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, luyện hư hợp đạo là 5 bước, bước 1 của công phu này thuộc phạm trù tu luyện luyện kỷ trúc cơ.
Gọi là luyện kỷ trúc cơ luyện kỷ nhưng thực chất là dưỡng chân tính, hộ bổn mệnh, an lô lập đỉnh, tụ luyện toàn chân. Cơ là nơi an thần định tức, kỷ là tâm, lúc tĩnh gọi là nguyên tính, động thì gọi là chân ý. Đạo trúc luyện phân làm pháp luyện nội ngoại đại tiểu. Tiểu trúc cơ là hành nhiếp nguyên quy đỉnh, là công phu nội luyện sản dược, lấy quang kiền nguyên tịch chiếu ở khôn âm, trí hư cực thủ tĩnh đốc (đến cùng cực hư vô giữ thuần tĩnh), lúc chân dương sinh nhiếp quy vào đỉnh nội, dùng văn hỏa đoán luyện hợp nguyên tinh thành linh chất đan tài. Đại trúc cơ là dưỡng linh châu, công phu sinh ngoại diên, lấy tính nhập vào trong mệnh, thần thủ cảnh giới thanh hư vô cực, giờ khắc quang tụ âm dương giao, luyện đắc kim thủy mênh mông, ngoại diên ấm nóng. Nội luyện kỷ là sơ tinh ích khí, là công phu vận hà sa luyện dịch nên ngọc trì thường tích âm dương tủy, kim đỉnh thì phanh nhật nguyệt tinh (kim đỉnh là nơi nung nấu nhật nguyệt tinh), lấy nước bọt ngọt ở ngọc trì luyện thành hoàn đan chân tinh rót vào tam điền mà chu lưu bách mạch làm kiên cố bổn mệnh bảo dưỡng chân hình. Ngoại luyện là nhất trần bất nhiễm, là công phu quán không luyện tính. Thần thủ thái hư, quang thấu vô cực, nhất nhiệm bất sanh, gội rửa thư thái, trước quy căn sau phục mệnh.
Đan kinh nói: “trường sinh vô diệu dược, chỉ một tĩnh bên trong”. Tu đan luyện đạo lấy thanh tĩnh làm bổn, hư không làm cơ, có thể tĩnh thì kim đan tự nhiên mà đến vậy. Trong chỉ quyết công phu này đã chọn thái cực định ấn của bí truyền đạo gia, ấn này làm khai mở tâm mạch, có tác dụng đặc thù gia trì định cảnh. Thông qua phối hợp tư thế luyện công bàn tọa (ngồi kiết già), từ trên thể hình điều tiết khí mạch trong cơ thể đạt đến trạng thái cân bằng khiến người luyện công nhanh nhâp vài trong cảnh giới thanh tịnh, lại gia tăng quang minh quán chiếu. Hư tự quyết, tổng hợp vận dụng luyện hư quyết cùng luyện quang pháp dần dần có thể nhập đến thanh hư vô cực của cảnh giới tiên thiên chân tĩnh, luyện dưỡng lâu ngày, đan quang hiển lộ, tinh mãn thần toàn, hoàn đan không lâu sẽ thành.
Bàn tọa là tư thế luyện công chỉ định trong đan gia, trên nguyên lý công hiệu nó có điểm độc đáo, Tư thế 2 đùi hỗ tương đè lên nhau trước là giữ khí lộ phần bên dưới được phong tỏa làm cho khí bên trong không vào phần trên có tác dụng tụ khí tốt, lại thông qua tọa công quyết lưỡi để hàm trên, hư linh đỉnh kính, hàm hung bạt bối, điều tức vận khí có thể làm khí cơ trong cơ thể có tác dụng thăng giáng khai hợp làm khí hô hấp trong cơ thể thổ nạp được tịnh hóa, khí thanh dương tự nhiên chu lưu toàn thân chính là do bàn tọa có tác dụng lọc khí, tụ khí và phong cố phòng lậu (lò rỉ). nên thường được đan gia chọn dùng.
<<Tâm Ấn Kinh>> cũng nói: “thượng dược tam phẩm, thần dữ khí tinh”. Công phu đan đạo trọng thái dược luyện đan. Dược là tinh khí thần là tam bảo. Đạo thái luyện lấy thần thủ kiền cung, dẫn vào chân hỏa trong ly phanh luyện tam bảo ở trong kim đỉnh ngọc lô. Tam điền phản phục diên hống tương đầu, tự nhiên thái cực tĩnh mà sinh động, dược sản ở tây nam khôn phương, lại hành châu thiên hỏa hầu pháp độ, văn vỏ dưỡng luyện, đại đan tự kết vậy. hệ thống công pháp này cho là tổ khiếu (kim đỉnh) là kiền dương chánh vị, là nơi của nguyên thần, đan điền (ngọc lô) là khôn âm nơi nguyên tinh tàng, ngưng thần tụ khí, thần quang mặc mặc (lặng yên) phản chiếu đan điền thì khí miên miên (không ngừng), thần quy khí huyệt, khảm ly tương giao, lô trung tụ hỏa, dương quang đằng đằng (bốc lên), rồi quái thiên căn hiện, thái cực động sinh âm, bên trong có viên châu như hạt gạo rơi vào trong hoàng đình là điểm linh hống trong ly của ta kết thành kim dịch đại đan. Như bài thơ viết trong huyền cơ: “âm dương tạo hóa đạo, kiền khôn giao thái công, thái tụ tiên thiên linh, thấu nhiên biến hư không, thiên địa sanh chân dịch, đan sản thanh tĩnh trung (Âm dương là đạo tạo hóa là công càn khôn giao thái, chọn hợp tiên thiên linh, thấu suốt cả hư không, thiên điạ sinh chân dịch, đan sản trong thanh tĩnh)”.
Nghiệm bộ
Ban đầu luyện công phu này sẽ thấy ấn đường âm ấm, giữa chân mày có chân khí nhẹ động, đan điền xuất hiện khí cảm ấm nóng. Sau 1 tuần khí cảm rỏ ràng hơn, đan điền có chút nhiệt khí thăng lên tâm oa (trong tâm), đi xuống lưỡng thận. Trình độ nhập tĩnh thêm sâu có thể nội kiến quang minh, đa số chỉ là sáng lấp lánh thiếu ổn định, sau 10 ngày đan điền kết thành khối khí lớn như trứng gà liên tục chiếu sáng, trước mắt cũng dần sinh quang minh nhiều hình trạng xuất hiện. Sau nữa tháng thần khí sáng rực, tĩnh cảnh xuất hiện tiểu phi dược, khí đan điền lớn khoảng nắm tay, nguyệt dư thần quang nội hiện, tam bảo toàn chân, đan điền khí vận như sấm, lưỡng thận như lửa nóng nước sôi. Đến đây công phu sơ thành.
NGUỒN: Khí Công Trung Hoa THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN THUYẾT THƯỜNG THANH TỊNH KINH 大道无形,生育天地;大道无情,运行日月;大道无名,长养万物;吾不知其名强名曰道。夫道者 : 有清有浊,有动有静;天清地浊,天动地静;男清女浊,男动女静;降本流末,而生万物。清者浊之源,动者静之基;人能常清静,天地悉皆归。
Đại đạo vô hình, sanh dục thiên địa; đại đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt; đại đạo vô danh, trường dưỡng vạn vật; ta chẳng biết gọi là gì, chỉ tạm gọi là đạo. Phàm Đạo ấy : có thanh có trọc, có động có tĩnh; thiên thanh địa trọc, thiên động địa tĩnh; nam thanh nữ trọc, nam động nữ tĩnh; giáng gốc giữ ngọn, mà sanh vạn vật. Thanh là nguồn của trọc, động là cơ của tĩnh; người thường hay thanh tĩnh, thì Đạo trời đất đều gồm đủ nơi thân.
夫人神好清,而心扰之;人心好静,而欲牵之。常能遣其欲,而心自静;澄其心,而神自清;自然六欲不 生,三毒消灭。所以不能者,为心未澄,欲未遣也,能遣之者 : 内观其心,心无其心;外观其形,形无其形;远观其物,物无其物;三者既无,唯见于空。观空亦空,空无所空;所空既无,无无亦无;无无既无,湛然常寂。寂无 所寂,欲岂能生;欲既不生,即是真静。真常应物,真常得性;常应常静,常清静矣。如此清静,渐入真道;既入真道,名为得道;虽名得道,实无所得;为化众 生,名为得道;能悟之者,可传圣道。
Phàm thần của người ưa thanh, mà tâm thường bị quấy rối; tâm của người ưa tĩnh, mà bị dục kéo lôi. Thường chế ngự được dục, thì tâm tự tĩnh; lắng được tâm, thì thần tự thanh; tự nhiên lục dục chẳng sanh, tam độc tiêu diệt. Chưa được như thế, vì tâm chưa lắng, dục chưa chế ngự vậy. Phải thường chế ngự : trong xem xét tâm, tâm không thật có gì để gọi là tâm; ngoài xem xét thân, thân không thật có gì để gọi là thân; xa xem xét vật, vật không thật có gì để gọi là vật; Cả 3 đều không, mà còn cái thấy cả 3 đều không. Cái thấy là không cũng không, không không chỗ không; chỗ không đã không, không không cũng không; không không đã không, trạm nhiên thường tịch. Tịch không chỗ tịch, chẳng sinh khởi dục; dục đã chẳng sanh, tức là chân tĩnh. Chân thường ứng vật, chân thường được tính; thường ứng thường tĩnh, thường thanh tĩnh vậy. Thanh tĩnh như thế, dần dần nhập chân đạo; đã nhập chân đạo, gọi là đắc đạo; tuy gọi đắc đạo, thật không chỗ được; vì dạy chúng sanh, tạm gọi đắc đạo; ngộ được như vậy thì có thể truyền thánh đạo .
上士无争,下士好争。上德不德,下德执德,执着之者,不明道德。众生所以不得真道者,为有妄心,既有妄心,即惊其神,既惊其神,即着万物,既着万物,即生 贪求,既生贪求,即是烦恼,烦恼妄想,忧苦身心,便遭浊辱,流浪生死,常沉苦海,永失真道。真常之道,悟者自得;得悟道者,常清静矣!
Thượng sĩ chẳng tranh, hạ sĩ hay tranh. Bậc thượng đức không để ý đến kẻ khác coi mình là có đức hay chê mình là không có đức, còn bậc hạ đức chấp đức, do vì bám chấp, nên đạo đức chẳng trong sáng. Chúng sanh sở dĩ chẳng được chân đạo bởi vì có vọng tâm, đã có vọng tâm, thì kinh động đến thần, đã kinh động đến thần, tức là bám chấp vạn vật, đã chấp vạn vật, thì sanh tham cầu, đã sanh tham cầu, chính là phiền não, phiền não vọng tưởng làm ưu khổ thân tâm, tạo ra vinh nhục đổi dời, nổi trôi sanh tử, đắm chìm bể khổ, mất hết chân đạo. Đạo chân thường này, ngộ mà tự được; ngộ được đạo thì thường thanh tĩnh vậy.
——————————————————————
仙人葛翁曰 : 吾得真道,曾诵此经万遍。此经是天人所习,不传下士。吾昔受之于东华帝君,东华帝君受之于金阙帝君,金阙帝君受之于西王母。西王一线乃口口相传,不记文 字。吾今于世,书而录之。上士悟之,升为天仙;中士修之,南宫列官;下士得之,在世长年。游行三界,升入金门。
Tiên nhân Cát ông nói : Ta được chân đạo, thường tụng kinh này vạn lần. Kinh này là chỗ thiên nhân góp lại chẳng truyền cho kẻ hạ sĩ. Ta nhận được từ Đông Hoa Đế quân, Đông Hoa Đế Quân nhận từ Kim Khuyết Đế Quân, Kim Khuyết Đế Quân nhận từ Tây Vương Mẫu. Tây Vương chỉ theo một cách là khẩu khẩu tương truyền, chẳng ghi văn tự, ta nay ghi lại thành sách cho đời. Kẻ Thượng sĩ gặp được sẽ biết đường để thăng lên thiên tiên; trung sĩ tu được có thể đến bậc liệt quan ở nam cung; hạ sĩ học được cũng được sống lâu trên đời. Du hành ba cõi, lên đến kim môn.
左玄真人曰 : 学道之士,持诵此经者,即得十天善神,拥护其身。然后玉符保神,金液炼形。形神俱妙,与道合真。
Tả Huyền chân nhân nói : người học đạo trì tụng kinh này thì được thiện thần ở 10 cõi trời ủng hộ thân mình, mà về sau được ngọc phù bảo thần, kim dịch luyện hình. Hình thần đều diệu, cùng đạo hợp chân .
正一真人曰 : 人家有此经,悟解之者,灾障不干,众圣护门。神升上界,朝拜高真。功满德就,相感帝君。诵持不退,身腾紫云。
Chánh Nhất chân nhân nói : nhà nào có kinh này, ngộ giải được thì tai chướng chẳng ngại, chúng thánh bảo vệ ngoài cửa. Thần thăng thượng giới, chào hỏi cao chân. Công mãn đức tựu, tương cảm đế quân. Đọc giữ chẳng ngừng, mây tím sẽ rước thân này bay lên.
Cảm Ứng Thiên
1. MINH NGHĨA
Thái Thượng nói:
Họa phúc không có lối mà do người tự triệu.
Báo ứng thiện ác như bóng theo hình.
2. GIÁM SÁT
Cho nên, trời đất có thần ghi tội, xét người lỗi nặng nhẹ mà giảm Toán*.
Toán giảm thì nghèo khổ mất mát, hay gặp hoạn nạn, mọi người ghét bỏ, hình họa theo sau, tốt lành lánh xa, ác tinh gieo họa. Hết Toán thì chết. Lại có Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân ở trên đầu, ghi chép tội ác,để trừ Kỷ** Toán. Lại có Thần Tam Thi ở trong thân người, tới ngày Canh Thân,lên thẳng Thiên Tào,báo cáo tội lỗi. Đến ngày cuối tháng,Táo Thần cũng vậy. Phàm người có tội,lớn thì giảm Kỷ, nhỏ thì giảm Toán.
Tội lỗi lớn nhỏ phải đến vài trăm. Muốn cầu trường sinh, trước tiên nên tránh.
3. TÍCH THIỆN
Hợp đạo thì tiến, trái đạo thì thoái. Không theo tà đạo. Không khinh nhà tối. Tích lũy công đức. Từ tâm với vật. Trung, hiếu, hữu, đễ. Sửa mình dạy người. Thương giúp cô quả.Kính già yêu trẻ. Côn trùng cây cỏ, cũng không đả thương. Thương người gặp nạn. Mừng người gặp thiện. Cứu tế người gặp nguy cấp. Thấy người được như mình được.Thấy người mất như mình mất.Không nêu điều người kém, không khoe điều mình giỏi. Ngăn ác khen thiện.Cho nhiều giữ ít. Chịu nhục không oán. Được sủng ái nên lo. Thi ân chẳng cầu báo. Cho rồi không hối tiếc.
4. THIỆN BÁO
Nếu là người thiện, mọi người kính trọng, thiên đạo giúp đỡ, phúc lộc theo sau, tà ác tránh xa, thần linh hộ vệ, cứ làm là thành, có thể thành thần tiên. Muốn cầu thiên tiên,cần làm một nghìn ba trăm thiện. Muốn cầu địa tiên, cần làm ba trăm thiện.
5. CHƯ ÁC (THƯỢNG)
Ví như làm điều phi nghĩa, đi ngược đạo lý, hay làm điều ác, nhẫn tâm tàn hại, ngầm hại lương thiện, khi quân bất hiếu, khinh khi thầy dạy,phản bộitổ chức, lừa người không biết,chê bai bạn học, dối trá lật lọng công kích tộc họ, cương cường bất nhân,hung ác tàn nhẫn, bất phân phải trái,tráo trở ngược xuôi, ngược đãi cướp công kẻ dưới, nịnh bợ đón ý bề trên, chịu ơn không nhớ, oán hận chẳng quên, khinh trời miệt dân, gây rối phép nước, thưởng kẻ phi nghĩa,phạt người vô tội, giết người cướp của, hại người chiếm quyền, giết kẻ đầu hàng, phế người ngay, bỏ người hiền, ức hiếp cô quả, ăn hối lộ phạm pháp, cong thành thẳng, thẳng thành cong, tội nhẹ thành nặng, thấy chết giận thêm, biết lỗi không sửa, biết thiện không làm, tội mình hại người, cản trở tài năng, báng bổ thánh hiền, phá hỏng đạo đức, săn chim bắt thú,phá ổ rung cây, lấp hang lật tổ,phá thai hại trứng, mong người thất bại,huỷ người thành công, hại người để cầu an, thiệt người lợi ta, lấy xấu thay tốt, vì việc riêng bỏ việc công, trộm tài của người, che lấp việc thiện, phô chỗ xấu, bới móc việc người khác, làm người hao tài, chia rẽ cốt nhục, chiếm thứ người yêu thích, giúp người làm càn, khoái chí tác oai, hạ nhục người để cầu thắng, làm hỏng giống má, phá hoại hôn nhân, chớm giàu sinh kiêu, chạy chọt vô sỉ, nhận ân chối tội, gieo hoạ gán tiếng ác, mua bán hư danh, tâm địa hiểm độc, phá sở trường của người, bảo vệ sở đoản của mình, cậy quyền bức hiếp, dung túng ác sát, vô cớ chặt bỏ, tự nhiên giết mổ, phung phí ngũ cốc, lao nhiễu chúng sinh, phá gia đình người chiếm đoạt tài bảo, khơi thuỷ phóng hoả làm hại dân cư, làm loạn phép tắc huỷ công người khác, phá hỏng đồ vật để bức dụng người,thấy người vinh quý mong bị vùi dập,thấy người giàu có mong người phá sản,thấy người mỹ lệ thì sinh tà tâm, thiếu nợ người ta mong cho họ chết, mong cầu không được thì sinh oán chửi, thấy người mắc lỗi còn nói móc thêm, thấy người hình tướng bất toàn thì cười chê, thấy người tài năng nên khen ngợi lại chèn ép ..
6. CHƯ ÁC (HẠ)
Chôn bùa hại người, dùng thuốc giết cây,oán giận sư phụ, xung đột cha anh, tham lấy tham cầu, thích chiếm thích đoạt, cướp mà giàu có, xảo trá thăng quan, thưởng phạt bất công, dục lạc quá mức, ngược đãi thuộc hạ,đe dọa hống hách, oán trời hận người, mắng gió chửi mưa, tranh đấu kiện tụng, kết bè làm càn, nghe lời thê thiếp trái lời cha mẹ,có mới nới cũ, nghĩ không nói có,thấy lợi làm liều, dối lừa bề trên,nói lời độc ác, gièm siểm người khác,chửi thần, hại người mà xưng chính, trực,bỏ thuận theo nghịch, bỏ người thân theo người dưng, chỉ thiên địa chứng lòng xấu xa, gọi thần linh giám điều bỉ ổi, cho rồi hối tiếc, vay mượn không trả, cầu quá phận mình,ra sức tính toán, dâm dục quá độ,khẩu phật tâm xà, đồ thiu cho người, tả đạo dụ người, thước ngắn đo thiếu, đấu nhỏ cân điêu, lẫn lộn thật giả,thu lợi gian trá, bóc lột lương thiện, khinh gạt người ngu, tham lam vô tận, nguyền rủa (lời) cương trực, ham rượu quậy phá, cốt nhục tranh giành, nam không trung lương, bỏ bê nhà cửa, nữ không nhu thuận, bất kính chồng mình, chỉ thích khoe khoang, thường hay đố kỵ,vô hạnh với vợ con, thất lễ với nhà chồng,khinh mạn tổ tiên, làm trái thượng lệnh,làm điều vô ích, thầm sinh lòng khác,rủa mình rủa người, yêu ghét thiên lệch, bước qua giếng, bếp lò, nhảy qua người, đồ ăn,phá thai hại con, làm điều mờ ám, cuối năm ca múa, đầu năm giận hờn, sỉ, nhổ, tiểu tiện về hướng bắc, rên, hờ, khóc lóc hướng ông Táo, lại lấy bếp lửa đốt hương, củi bẩn nấu ăn,đêm xuống lõa lồ, ngày lành hành hình,mắng sao băng, chê cầu vồng, thường chê tam quang***, nhìn lâu nhật nguyệt, mùa xuân đốt rừng săn bắn, hướng bắc rủa độc, vô cớ đánh rắn giết rùa.
7. ÁC BÁO
Những tội như vậy, Chủ Mệnh tùy theo nặng nhẹ, đoạt lấy kỷ toán. Toán hết thì chết. Chết chưa hết tội, tai ương đến đời con cháu. Lại còn cướp tiền của người, thì vợ con gia đình phải chịu lây, dần cho đến chết,nếu mà không chết, ắt có thuỷ hoả đạo tặc, rơi đồ mất vật, bệnh tật, điều tiếng miệng lưỡi, là cái giá cho sự cướp giật. Còn giết oan người khác, đổi lạicũng bịbinh đao giết lại. Giữ của phi nghĩa, ví nhưthịt thối cứu đói, rượu độc giải khát, đã chẳng tạm no, cận kề cái chết.
8. CHỈ VI
Hễ tâm khởi thiện, thiện tuy chưa làm,thiện thần đã theo.
Hoặc tâm khởi ác, ác tuy chưa làm,ác thần đã theo.
9. HỐI QUÁ
Đã từng làm điều ác, sau tự hối cải,mọi ác không làm, hành mọi điều thiện,
lâu lâu ắt có điều lành, gọi là chuyển họa thành phúc vậy.
10. LUẬT ĐỊNH
Cho nên, người tốt nói thiện, thấy thiện, làm thiện, mỗi ngày có ba thiện, ba năm ắt trời ban phúc.
Người xấu nói ác, thấy ác, làm ác, mỗi ngày có ba ác, ba năm ắt trời giáng họa.
Sao không cố gắng đi? Đạo Đức Kinh
Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.
(Ta gọi tiếng “trâu” để chỉ con trâu là do quy ước từ xưa đến nay, tiếng “trâu” không phải là tên bất biến. Nếu từ xưa ta quy ước gọi tiếng “bò” để chỉ con trâu thì ta sẽ gọi con trâu là “bò”. Đạo thì không như vậy. Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu).
Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự chuyển động, bình thản vô tâm mà khéo sắp đặt mọi việc. Đạo trời không thiên vị ai, luôn giúp đỡ cho người lương thiện. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó lọt (Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất).
Không tên là gốc trời đất, có tên là mẹ vạn vật. Đạo trời ví như cánh cửa khép mở, vạn vật từ đó đi ra rồi lại trở về đó. Đạo có tính chất trừu tượng, nó không có hình thù cụ thể, không thể nắm rõ, không sáng ở nơi rực rỡ, không mờ ở nơi tối tăm và cũng không có tiếng động. Đạo vĩnh viễn không có tên gọi. Vạn vật chuyển động theo một vòng tròn khép kín. Tất cả bắt đầu từ “có”, có lại bắt đầu từ “không”. Lời nói hợp đạo nghe như ngược đời.
Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu thảo, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung. Đạo ức chế vật cao, nâng đỡ vật thấp. Đạo trời lấy chỗ thừa mà đắp vào chỗ thiếu hụt. Đạo người thì lấy của người nghèo mà thêm cho người giàu, đây chính là nguồn gốc của sự hỗn loạn. Người khôn ngoan chỉ muốn một điều là không muốn gì cả.
Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ.
Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật. Người thiện thì không mắc lỗi nên không cần phải biện bạch, người nào phải biện bạch cho mình là người “không thiện”. Người biết thì không nói, người nói là người không biết [tri bất ngôn, ngôn bất tri].
Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng lại. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng. Cho nên cứng rắn, cáu giận là biểu hiện của chết, mềm yếu, khiêm nhường là dấu hiệu của sống. Binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì lại bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên.
(Răng cứng thì chóng gãy, lưỡi mềm thì bền lâu – Lão Tử)
Mạnh về dám làm [can đảm, cương cường] thì chết, mạnh về không dám làm [thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái quả cảm, cương cường ? Danh dự với sinh mệnh, cái nào mới thật sự quý ? Người khôn ngoan không bao giờ vì trọng cái danh hão mà xem nhẹ tính mạng mình.
Lời hứa dễ dàng thì khó tin, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó. “Không” có nghĩa là “không có gì” nhưng phải “có cái gì” thì mới có cái “không có”. Trong tự nhiên, ngay cả những việc khó khăn nhất cũng có thể thực hiện theo cách dễ dàng, việc lớn thành tựu từ những hành động nhỏ hơn. Người khôn ngoan đạt những thành tựu vĩ đại là nhờ biết chia nhỏ hành động của mình.
Cái gì ở yên thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình. Cây lớn sinh ra từ một cái mầm nhỏ; tháp cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân. Thường gần tới lúc thành công thì lại dễ thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc.
Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách “vô vi” (taking no action), luôn giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên người đắc đạo trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Người đắc đạo làm việc mà không tư lợi.
Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh thần bất nhân, coi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn…].
Khoảng giữa trời đất như cái ống bễ lò rèn; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự yên tĩnh.
(Người giản dị nhất thì không phải là người giản dị.
Người khiêm tốn nhất thì không phải là người khiêm tốn – Lão Tử)
Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng cương cường.
Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước. Người chiến đấu giỏi không giận dữ, khéo thắng địch là không tranh với địch, khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Đó là cái đức của sự không tranh, đó là cái khéo của sự dùng người, đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời.
Ngũ sắc làm người ta mờ mắt; ngũ âm làm người ta ù tai; ngũ vị làm người ta tê lưỡi, hưởng thụ làm cho người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta xấu xa. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà không cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng. Trời đất vĩnh cửu. Trời đất vĩnh cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
Người đắc đạo đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì họ không tư lợi mà thành được việc riêng của mình ư?
Người cực khéo thì dường như vụng. Người nói giỏi thì dường như ấp úng. Cử động thì thắng được lạnh. Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng. Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi vật sẽ đâu vào đấy.
Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất. Người tốt thật sự không ý thức được tính thiện trong việc làm của mình, trái lại kẻ dại dột (the foolish) luôn cố gắng tỏ ra là mình tốt.
Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gợi ham muốn để lòng dân không loạn.
Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương thì mạnh.
Khiến cho dân không biết, không muốn, bọn thông minh, mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách “vô vi” thì mọi việc đều yên ổn.
Không học thì không phải lo. Đem cái hữu hạn xét cái vô hạn, há chẳng phải là ngốc lắm sao? Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, lòng “hữu vi” càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, lòng “vô vi” càng tăng.
Con người có ba vật báu mà tôi ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ.
Nếu không nhân ái mà mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn giúp ai thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp người đó.
Người sáng suốt nghe đạo thì cố gắng mà thi hành, người thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tối tăm nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa ?!
Vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực mềm, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. Đạo cũng ví như nước vậy.
Yếu thắng được mạnh, mềm thắng được cứng, ai cũng biết như vậy nhưng không ai thực hành được.
Vật bén nhọn thì dễ gẫy. Giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén thì lại không bén lâu. Nghèo hèn chính là gốc của giàu sang. Vàng ngọc đầy nhà [kim ngọc mãn đường], sao mà giữ nổi ? Nên biết khi nào là đủ [tri túc]. Giàu mà kiêu căng, khoe khoang là tự rước họa vào thân.
Ba mươi nan hoa cùng qui vào một cái bánh xe, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được.
Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà cửa nhà mới dùng để ra vào được, nhờ có cửa sổ mà nhà không tối.
Vậy ta tưởng cái “hữu” [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái “vô” mới làm cho cái “hữu” có ích.
Vinh hay nhục thì lòng cũng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng rối loạn nữa ?!
Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.
Người nào giữ được đạo thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được. Khi xem xét sự vật, không được quên mặt đối lập của nó. Nghĩ đến cái hữu hạn thì đừng quên cái vô hạn.
Đứng một chân thì không thể đứng được lâu, giang chân ra thì không thể đi được, tự biểu hiện thì không bao giờ chói lọi, tự kể công thì không có công, tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường tồn. Thái độ đó được ví như thức ăn thừa, ung nhọt, người người đều ghét. Thiên bất dung gian.
Cho cái đẹp là đẹp do đó mới có cái xấu; cho cái thiện là thiện do đó mới có cái ác. Là vì “có” và “không” sinh ra lẫn nhau, “dễ” và “khó” tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại.
Biết người là khôn, tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Biết thế nào là đủ là người giàu; biết gắng sức là người có chí. Kẻ nào không rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ. Người hiểu đạo làm việc tuân theo quy luật tự nhiên, chỉ làm những việc cần thiết cho bản thân.
Hồn nhiên vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý. Đứa trẻ mới sinh độc trùng không chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu không vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hòa.
Tuyệt thánh, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân trở nên hiếu hòa; dứt trí khôn, bỏ lợi lộc, không còn trộm giặc.
Ba cái đó (mưu trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì chỉ là cái vẻ bên ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự đơn giản, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.
Đạo trời không thiên vị ai, luôn ban ơn cho người có đức – Lão Tử
Giọng kính trọng khác với giọng xem thường bao nhiêu ? Thiện với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Vũ trụ thật rộng lớn, không thể nào hiểu hết được.
Mọi người hớn hở như dự bữa tiệc lớn, như mùa xuân dạo chơi; bậc đắc đạo điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết gì, thản nhiên mà đi như không có nơi để về. Mọi người có thừa, riêng bậc đắc đạo như thiếu thốn, trong lòng thì trống rỗng! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng bậc đắc đạo luôn bảo thủ. Người hiểu đạo khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo).
Vạn vật tuần hoàn, trong dương có âm, âm cực dương sinh, có sinh ắt có tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở về với đạo. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được vạn vật ? Là nhờ đạo.
Có câu: “Khiêm tốn là gốc của cao quý”. Người khôn ngoan giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được.
Có câu: “Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn”, há phải hư ngôn! Nên chân thành giữ lấy đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái vĩ đại là Đạo, tự nhiên, trời đất và con người. Luật con người nên bắt chước tự nhiên, luật tự nhiên bắt chước luật của trời đất, luật trời đất bắt chước Đạo.
Ít nói thì hợp với tự nhiên. Cơn gió lớn không thể thổi suốt buổi sáng, cơn mưa lớn không kéo dài suốt ngày. Ai làm ra những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống chi là con người ? Người hiểu đạo biết rằng không ai có thể đoán trước những gì tương lai nắm giữ.
Vũ khí là vật gây lo sợ, ai cũng ghét cho nên người hiểu đạo không dùng binh khí. Chỉ dùng đến nó khi bất đắc dĩ, khi bảo vệ hòa bình, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Chiến thắng mà vui mừng tức là thích giết người. Thích giết người thì không trị được thiên hạ. Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy. Sau cuộc chinh chiến tất có mất mùa.
Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng thương tiếc mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử. Thắng mà không bức người, vì vật mạnh thì có lúc suy. Nếu không như vậy thì là trái Đạo. Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt. Trị nước phải được tiến hành cẩn thận, giống như việc nấu cá nhỏ. Người khôn ngoan làm việc mà không bao giờ xảo trá, tư lợi. PHÉP NHẬP ĐỊNH THÀNH CÔNG Thanh Tịnh Kinh ngày đọc 10 lần, rồi dần dần tăng. Thái Thượng Cảm Ứng Thiên ban đầu ngày đọc 1-2 lần, sau thì 3-5 lần, sau thì 10 lần. Sau này thì thêm Đạo Đức Kinh Côn Lôn ngày 1 lần, đọc hán việt là được, không cần hiểu nghĩa, lâu dần tự có sở ngộ.
CHÂU THIÊN NGHỊCH CHUYỂN CÔNG PHU
Mục đích:Thanh lọc bản thể, khai mở hệ thống kinh mạch, gia tăng sức khoẻ, đẩy lùi bệnh tật, đưa tâm dần dần trở nên vi tế bước vào cảnh giới nhập định.
Thời gian:Tập vào giờ tí (23h đêm – 01h sáng), công phu lâu mau tùy theo sức .
Không gian:Phòng hoàn toàn tối, không lọt một chút ánh sáng nào.
Điều thân:Ngồi bán già, chân phải để trên chân trái, bàn tay phải nắm bàn tay trái đặt trước bụng. Không được nhắm mắt, hai mắt lim dim nhìn xuống dưới, mới đầu công phu chỉ cần hơi khép mắt lại, sau khi đã nhập định thì tự nhiên sẽ lim dim, không cưỡng ép, miệng ngậm, lưỡi để tự nhiên ở hàm dưới, công pháp này không yêu cầu phải cong lưỡi vì ảnh hưởng tới nhập tĩnh.
Chỉ cần đầu lưỡi không đụng vào hàm trên là được rồi, bàn tay này nắm lấy tay kia, mục đích là khi hít thở có thể hai tay hơi nắm chặt lại để tập trung, không phải là huyệt lao cung úp vào nhau như thế bắt tay mà là lòng bàn tay phải úp lên mặt ngoài tay trái, nếu biết cách nắm tay theo ”Tí Ngọ liên hoàn bát quái thủ” của đạo gia thì cũng được.
Điều tâm:Ngừng tạp niệm, không tập trung vào bất cứ điều gì, theo ánh mắt nhìn xuống khoảng đen tối trước mắt.
Điều tức:Yêu cầu phải thở được kiểu bụng ngược, hít vào thì phần bụng dưới rốn thót lại, thở ra thì phình ra, các bạn nào chưa rõ thì tìm cách sách khí công để tham khảo cho biết chính xác cách hít thở. Hiện nay các sách khí công thường đưa thêm hướng dẫn cong lưỡi và co rút hậu môn nhằm nối thượng, hạ thước kiều, công phu này không dùng tới, yêu cầu bỏ phần đó, chỉ cần chú ý tới phép hít thở ngược thôi. Tập điều tức khi nào thuần thục thì hãy bắt đầu công phu Châu Thiên Nghịch Chuyển.
Châu Thiên Nghịch Chuyển:
Sau khi đã điều thân, điều tâm, điều tức vài ba hơi để tập co giãn bụng dưới thì bắt đầu chuyển pháp luân.
Theo phép thở bụng kiểu ngược thì khi hít vào bụng dưới từ từ co lại, đến đây thay vì thở ra hành giả tiếp tụchít vào, hít vào.. (thời gian tối thiểu phải đạt được là 1 phút), bụng dưới vẫn tiếp tục co lại đến khi cảm thấy ngộp thởkhông thể tiếp tục hít vàođược nữa thìtừ từ thở ra bằng mũi, nhưng không cố gắng phình bụng hết sức như kiểu thở ngược mà chỉ thở ra từ từ, bụng dưới chỉ hơi phình như đang giãn ra mà thôi, không thở ra hết không khí trong phổi, đó là một hiệp.
Tiếp tục thực hiện hiệp hai, ba đến khoảng chín hiệp thì ngừng, có thể tự nhiên nhập vào đại định. Có nhiều người khi thực hiện khoảng ba hiệp thì thấy tự nhiên nhập định, thì cứ để nhập định như vậy, tạm thời ngưng pháp luân, đến khi xuất định lại tiếp tục pháp luân, nếu thấy nhiều tạp niệm thì dùng thần chú ‘Ôm Mani Pát Mê Hum” vài ba lần sẽ hết.
Công phu xong thì nằm xuống ngủ luôn, lợi dụng giấc ngủ để cho nội khí tự động vận hành.
Chứng nghiệm:
Sau khi nằm xuống có thể thấy điện giật, bên tai có gío bão nổi lên, mắt nhìn thấy những đốm sáng như sao, đó là nội khí vận hành không có gì đáng ngại, thường người mới tập luyện do kinh mạch chưa thông thoáng dễ thấy hiện tượng trên, sau một thờ gian cơ thể được thanh lọc sẽ hết.
Ghi chú về thở:Tạm nói như thế này cho dễ hình dung, ta ví thân mình làm ba phần, phần trên từ cổ tới ngực, phần giữa từ ngực tới rốn, phần dưới từ rốn tới bụng dưới. Như vậy 3 kiểu hô hấp chính được tạm thời mô tả như sau( các bạn đừng hiểu theo kiểu chẻ chữ ra làm đôi nhé):
1.Kiểu ngực: Khi hít vào chủ yếu là phần trên căng lên.
2.Kiểu thở bụng thuận: Khi hít vào thì chủ yếu phần dưới căng lên
3.Kiểu thở bụng nghịch: Khi hít vào thì phần giữa căng lên, trong khi đó phần dưới thì thắt lại.
Khi tập luyện các bài hít thở, thì tuân thủ cách thở theo bài tập là tự nhiên nhất.
Những lưu ý để tập tốt Châu thiên nghịch chuyển:
– Muốn nhập định thì phải Châu Thiên Nghịch Chuyển đạt chất lượng.
Vậy thế nào là đạt chất lượng? đó là:
– Châu Thiên Nghịch Chuyển đạt 9 hiệp thì phải cảm thấy rất mệt, hết sức lực.
– Nguyên tắc của Châu Thiên Nghịch Chuyển là khi hít vào mặc dù biết không thể hít thêm vẫn cố gắng hít thêm tối đa đến khi không thể cố gắng được nữa mới thở ra, một hiệp tối thiểu đạt 1 phút.
– Làm Châu Thiên Nghịch Chuyển đạt chất lượng, thì sau mỗi hiệp hơi thở sẽ dồn dập, phải nghỉ điều hoà hơi thở 3-5 hơi (điều hoà bằng thở thuận) rồi lại tiếp tục hiệp 2, nếu có thể làm liện tục hiệp 1, 2, 3.. 9 mà không cần nghỉ là chưa đúng nguyên tắc.
– Làm Châu Thiên Nghịch Chuyển đạt chất lượng thì sẽ tự nhiên nhập định, hơi thở tự nhiên chứ không phải thở nghịch nữa, thở nghịch chỉ dùng khi làm Châu Thiên Nghịch Chuyển thôi.
Điểm quan trọng:vì chúng ta sử dụng “‘phong“‘ để khai thông kinh mạch, nên Châu Thiên Nghịch Chuyển quan trọng nhất là động tác hít vào, hít vào, hít vào nữa, không thể hít vào nữa vẫn tiếp tục hít vào, khi này chắc chắn một phần không khí sẽ bị đẩy ngược ra ngoài để có chỗ trống cho phần không khí mới tiếp tục vào, và cứ thế đẩy ra cứ thế hít vào , đây là yếu quyết chính để Châu Thiên Nghịch Chuyển thành công, khi đó các bạn có thể sẽ nhận thấy là phần bụng dưới bị nén chặt cũng có thể bị rung động nhào nắn mạnh, thấy như vậy là bạn đã hoàn thành Châu Thiên Nghịch Chuyển trọn vẹn.
THIỀN ĐỊNH
(Sau khi tập CTNC được 6 tháng thì bắt đầu tiến hành thiền định.)
Châu Thiên Nghịch Chuyển là phép luyện Tinh hoá Khí, thiền định là phép luyện Khí hoá Thần, cho nên sau khi Châu Thiên nghịch chuyển (PLNC) thì chân khí sẽ tiến sang Đốc mạch, thì bắt buộc phải thiền định để chân khí vượt Ngọc Chẩm nhập vào Nê Hoàn Cung hoá thần. Đây là công pháp truy nhiếp nguyên thần về Nê Hoàn Cung mà cổ tiên giấu kín, nay sư huynh đem ra công truyền. Người luyện thiền định này coi như đã đặt một chân vào đại đạo, cho nên khi thực hành nếu có gặp nhiều trải nghiệm huyền ảo cũng không nên lo sợ.
Nguyên tắc của phép thiền định đạo gia là ”tâm tức tương ỷ”, đó là phép làm cho thần khí quyến luyến lẫn nhau không rời ra, nói theo thế tục thì thần khí cũng như âm dương, nam nữ, dùng chân ý làm người mai mối khiến cho thần khí giao kết thì sẽ tiến vào cảnh giới nhập định, có thể khiến cho hô hấp ngừng lại, đạo gia gọi là thai tức, phép này được chỉ rõ trong ”Lục diệu pháp môn” của nhà Phật và ”Thái ất kim hoa tông chỉ” của Lã Tổ, Chỉ có điều người xưa khi truyền công pháp đều muốn người ta phải phát huy ”ngộ tính” thì mới có thể chứng nghiệm hiệu quả. Vì thế mà phép này truyền ra đời cũng ít thấy ai hiểu mà tu luyện hiệu quả. Nay tôi đặc biệt chỉ ra chỗ ”ngộ” này cho các bạn hiểu.
Nếu thiền với tư thế ngồi thì sau khi Châu Thiên nghịch chuyển, thì bước sang thiền định, về tư thế thì có thể hai tay vẫn ôm nhau như khi châu thiên nghịch chuyển, hoặc là hai tay tách ra đặt xuống hai đầu gối, tư thế nằm thì nằm ngửa hay nghiêng cũng được miễn sao cho thoải mái. Tùy theo từng người thấy phép nào hợp thì theo
Yếu quyết:Miệng ngậm, hai mắt nhắm kín, hai tròng mắt ngước nhìn lên khoảng đen tối phía trên trán, im lìm như mèo nằm rình chuột, tuy nhiên không được quá tập trung căng thẳng, đầu óc không suy nghĩ gì cả, ngưng mọi tạp niệm. Nếu thấy tạp niệm khởi lên thì dùng tâm tức tương ỷ mà thâu nhiếp, tuyệt đối không thủ ý vào bất kỳ huyệt đạo nào trên đầu. Thời gian thiền định tối thiểu là 30 phút.
Thông thường sau khi Châu Thiên nghịch chuyển thì tự nhiên nhập định rồi, được một lúc sẽ thấy mức độ nhập định không sâu nữa gọi là sắp xuất định thì thực hiện pháp ”Tâm tức tương ỷ” này, từ từ hít vào, trong lúc này tâm theo dõi quá trình hít vào, sau đó lại từ từ thở ra, tâm theo dõi quá trình thở ra, nguyên tắc là hít vào 8 phần hơi, thở ra 6 phần hơi, không được hít đầy, cũng không được thở ra cạn hơi, một lần hít vào thở ra là một hiệp, thực hiện 3 hiệp như vậy rồi ngưng, tiếp tục nhập định, ngưng mọi tạp niệm, khi đó sẽ cảm thấy trí giác ngày càng lịm đi, đến khi nào thấy sắp sửa xuất định thì lại thực hiện ”Tâm tức tương ỷ”. Làm tốt pháp này thì có thể ”siêu phàm nhập thánh”, chứng nghiệm được mọi ấn chứng được nói tới trong ”Toạ thiền chỉ quán” của nhà Phật.
– Lưu ý: Khi ”Tâm tức tương ỷ”, tiến hành hô hấp bụng kiểu thuận, hít vào bụng căng lên, thở ra xẹp xuống.
– Giải thích: Tại sao chỉ hô hấp 3 hiệp trong một lần ”Tâm tức tương ỷ”?
Vì chân ý như bà mai mối cho thần khí vậy, khi tâm theo dõi hơi thở chính là đang mai mối cho thần và khí, nếu chân ý cứ theo dõi liên tục mấy chục hiệp thì cũng như nam nử đến gặp nhau mà có bà mai đứng đó ngó hoài thì làm sao kết hợp được, đây là điểm mấu chốt của pháp này. Vì thế nhiệm vụ của bà mai chỉ là dẩn dắt đoạn đầu rồi sau đó phải đi chổ khác thì thần khí mới phối hợp được, do đó mà mỗi lần “tâm tức tương ỷ” chỉ làm 3 hiệp thì ngừng.
Hỏi:
Mới tập vài hôm, mình quan sát thấy : khi phần bụng dưới thắt lại, thì vùng chứa khí hít vào sẽ bắt đầu từ phần cơ hoành (tương ứng với phần giữa cơ thể như HuyenQuangTu vừa nêu), nhưng do hít vào từ từ đến mức đầy, nên từ phần cơ hoành trở lên sẽ dần dần đầy chỗ chứa : phần giữa đầy, phần ngực đầy cũng phải căng lên, phần ngực đầy rồi sẽ tới phần cổ đầy, phần cổ đầy rồi vẫn còn chỗ chứa nữa là các hốc xoang, khi các hốc xoang đầy rồi thì sẽ không hít vào được nữa.
Tới giai đoạn thở ra, thì ngay khi thở ra sẽ không thể phình bụng ngay được, mà hơi ở vùng trên được giải toả hết rồi thì vùng dưới mới phình ra được. Tức là quá trình phình phải lần lượt từ trên xuống dưới, khi hơi ở xoang ra hết sẽ đến cổ, đến ngực, khi hơi ở ngực ra hết thì mới bắt đầu có thể phình phần giữa và khi hơi ở phần giữa ra hết thì mới bắt đầu có thể nới lỏng dần đai bụng dưới rốn từ từ.
Như vậy quá trình phình bụng khi thở ra cũng phải nương theo quá trình không khí thoát ra một cách tuần tự, chứ không cố ý ngay từ đầu được.
HuyenQuangTu có thể nói rõ hơn về phạm vi chứa khí được không ? Vì nếu đã hít đầy hơi thì phần ngực sẽ căng hơn phần giữa vì thể tích nó lớn hơn nhiều (có chỗ nào chứa được sẽ tự nhiên chứa bằng hết).
Đáp: Ban Tienkyanh mô tả cách hít thở bụng kiểu nghịch như vậy là chính xác và khoa học, tuy nhiên chúng ta không nên quá quan tâm đến chuyện không khí sẽ vào ra như thế nào, vì thực sự chúng ta không sử dụng không khí để khai thông kinh mạch, mà sử dụng một lực lượng gọi là “phong”, nó nương theo không khí vào cơ thể khi ta hít vào, phạm vi hoạt động của nó vượt ra ngoài không khí, vì thế nếu quá chú tâm vào không khí sẽ chứa ở đâu thì sẽ bị máy móc, các bạn chỉ cần biết rằng mình đang hít thở vào sâu dài từ từ theo kiểu bụng nghịch thì không khí sẽ tự biết vào đúng chỗ của nó, dĩ nhiên như bạn Tienkyanh đã mô tả, thì quả thật không khí sẽ vượt lên chứa đầy cổ và cả các xoang, khi thở ra cũng vậy, ta cũng chỉ chú ý vào chuyện thở ra từ từ và tập trung vào động tác dãn bụng dưỡi cho đến khi phình ra. Những gì bạn Tienkyanh mô tả là hoàn toàn chính xác.
Điểm quan trọng:vì chúng ta sử dụng ”phong” để khai thông kinh mạch, nên PLNC quan trọng nhất là động tác hít vào, hít vào, hít vào nữa, không thể hít vào nữa vẫn tiếp tục hít vào, khi này chắc chắn một phần không khí sẽ bị đẩy ngược ra ngoài để có chỗ trống cho phần không khí mới tiếp tục vào, và cứ thế đẩy ra cứ thế hít vào, đây là yếu quyết chính để PLNC thành công, khi đó các bạn có thể sẽ nhận thấy là phần bụng dưới bị nén chặt cũng có thể bị rung động nhào nắn mạnh, thấy như vậy là bạn đã hoàn thành PLNC thành công trọn vẹn.
PLNC chính là phép luyện đả thông mệnh môn ( là phần đối diện với rốn ở sau lưng).
Tu luyện sai lệch phần nhiều do các nguyên nhân thủ ý, dẩn ý, cong lưỡi, nay PLNC không dùng tới tất cả những phép luyện đó, nên không thể có sai lệch, hoàn toàn phù hợp nếu kết hợp với các môn khác (khí công, nhân điện…), và hỗ trợ chữa trị nếu do tập các môn khác phát sinh sai lệch, nếu kết hợp với các môn khác thì nên tập PLNC sau cùng, rồi sau đó ngồi thiền định nhập tĩnh luôn.
Lưu ý, sau khi tập PLNC thì phải dành khoảng 30 phút thiền định, vì PLNC là để hỗ trợ thiền định.
-Trạng thái nín thở là trạng thái thanh quản bị đóng lại, nên sẽ có hiện tượng đỏ mặt
-PLNC hoàn toàn không có trạng thái đóng thanh quản, thanh qủan lúc nào cũng mở nên không có trạng thái nín thở, mà thực sự khi bạn hít vào đầy hơi , vẫn tiếp tục hít vào thì sẽ có một phần không khí ở phía trên cổ và các xoang sẽ bị đẩy ra để không khí mới vào, bạn hãy hình dung không khí trong cơ thể bạn và bên ngoài vẫn thông suốt với nhau chứ không có hiện tượng ngăn cách trong và ngoài khi làm PLNC
-khi bạn thở ra, thì phần không khí ở phía trên sẽ ra trước, khi phình bụng bạn sẽ có cảm giác là không khí vừa ra đằng mũi làm ngực trống mà vừa đi sâu xuống bụng dưới khi phình bụng.
Khi thở ra bạn hãy chú ý vào chuyện thở không khí ra và phình bụng dưới.
Hô hấp Đạo gia:Cũng gọi là hô hấp nghịch được dùng để chuẩn bị cho khí lưu thông, và sự phát triển đúng đắn của nó có ý nghĩa quyết định. Cử động bình thường của bụng dưới bị đảo ngược. Thay vì phình ra khi hít vào , đạo gia thót lại, và ngược lại. Ta không bao giờ giữ hơi lại hoặc cưỡng ép nó. Hít vào từ từ bằng mũi , giữ cho hơi thở được êm dịu và dễ dàng, co bụng dưới lại, nâng nó lên. Khi phổi đầy hơi, bắt đầu thở ra nhẹ nhàng. Hít vào được coi là âm , thở ra là dương. Chúng phải hoạt động chung như vòng tròn Âm dương, cái này trở thành cái kia một cách êm dịu và không cố gắng trong một động tác buông lỏng. Khi thở ra, từ từ đẩy Đan Điền và bụng dưới ra. Vùng Đan Điền là nơi khí sinh ra và tích tụ để khởi vòng Tiểu Chu Thiên. Vì vậy , cơ bắp quanh Đan Điền phảI được luyện tập sao cho có thể co lại và phình ra vừa đủ khi người tập hít vào và thở ra. Trước hết phình bụng dưới khi thở ra có lẽ khó khăn , nhưng với thực hành các cơ bắp sẽ tập càng lúc càng to hơn đến khi toàn thể bụng dướI căng từ rốn đến xương chậu khi thở ra. Ta không nên cưỡng ép Đan Điền phình ra, mà phải làm nhẹ nhàng đến khi thành công.
Toàn thể tiến trình là một hình thức hô hấp sâu, không phải vì hô hấp nặng nề, mà vì nó làm cho phổi gần đầy. Nhiều người tập các bài đòi hỏi nhiều cố gắng phải hô hấp vất vả, họ không tất yếu thở sâu. Thở sâu làm cho nội tạng rung động nhịp nhàng với hơi thở, làm kích thích và luyện tập chúng. Nội tạng không có tiếp thu loại nội luyện này mà không có thở sâu. Ta có thể thấy rõ nhiều hình thức tập luyện hung bạo chỉ ảnh hưởng cơ bắp bên ngoài, tác dụng ít ỏi tới nội tạng.
CÁC BÀI TẬP PHỤ TRỢ
TIẾN DƯƠNG CÔNG
1.Đứng thẳng, hai chân rộng hơn hai vai, hai tay mở chưởng buông xuôi theo thân mình.
2.bắt đầu hít sâu vào bụng, xuống trung bình tấn, hai chưởng xoay ra sau lưng, tưởng tượng hai chưởng đang hổ trợ lưng đẩy một tảng đá lớn đang tiến tới áp sát lưng, vẫn tiếp tục hít sâu vào.
3.Vẫn tưởng tượng kết hợp hít sâu vào, đến khi nào không thể chịu đựng được nữa thì từ từ đứng thẳng dậy, hai chưởng xoay ngửa theo hai bên thân đẩy thẳng lên trời, đồng thời kết hợp thở ra từ từ bằng mũi.
THOÁI ÂM CÔNG
– Đứng thẳng, hai chân rộng hơn hai vai, hai tay mở chưởng buông xuôi theo thân mình.
– Bắt đầu hít sâu vào bụng, xuống trung bình tấn. Hai chưởng đẩy thẳng tới trước măt. Tưởng tượng hai chưởng đang đẩy một tảng đá lớn đang từ từ tiến đến áp sát ngực. Tưởng tượng hai chưởng không thể chống đỡ nổi tảng đá vẫn đang tiến tới áp sát vào ngực, hai chưởng bị tảng đá đẩy phải co về trước ngực, vẫn tiếp tục hít sâu vào.
– Vẫn tưởng tượng kết hợp hít sâu vào, đến khi nào không thể chịu đựng được nữa thì bất ngờ đẩy mạnh hai chưởng về trước, tưởng tượng tảng đá bị đẩy bật văng ra xa, đồng thời kết hợp thở ra thật mạnh bằng mũi.
Thời gian: Tập hai buổi chính là sáng tiến dương và chiều thoái âm.
NGOẠI CHÂU THIÊN
Hai chân đứng bằng vai, quay 2 tay từ sau ra trước, khi 2 tay sau lưng thì bàn tay ngửa lên, khi 2 tay qua đầu đi xuống thì úp bàn tay lại, khi qua đỉnh đầu khoảng cách 2 tay nhỏ hơn vai, không để hai tay chạm nhau, quay tốc độ vừa phải sao cho khi tay đi lên hít vào khi tay đi xuống thở ra.
Bài này luyện phần phách bao quanh thân và đồng thời cũng có tác dụng thông mạch (có tác dụng thông mạch tương tự bài phất tay Dịch cân Kinh nhưng khó tập hơn vì mau mỏi tay mỏi vai ,tuy nhiên tập tốt và chăm chỉ có thể gây tự phát động công và tay quay tự động hàng nghìn vòng không mỏi).
BÀI TẬP NỘI CÔNG
– Bài tập này các bạn tập vào buổi sáng, có tác dụng hấp thu địa khí, làm khí huyết lưu thông, giãn gân cốt do ngồi thiền lâu, ổn định nhịp tim và huyết áp bất thường.có thể chữa được bệnh đau thần kinh toạ, hoặc những ai do luyện khí công bị đau chân thì cũng công hiệu tốt.
– Đứng thẳng, hai chân dang rộng hơn vai, hít vào, bụng căng ra, nâng hai tay (mở chưởng) lên ngực, bắt đầu nín thở, hai chân rùn xuống tấn mã bộ, hai chưỡng hướng xuống đất, gồng cứng hai chân và hai tay, tưởng tượng mặt đất đang nâng lên còn mình thì đang dồn toàn bộ sức lực xuống chân để ấn mặt đất xuống, tùy theo khả năng nín thở rồi bắt đầu thu thế, từ từ thở ra bằng miệng, hai chân từ từ đứng thẳng như cũ, hai tay nâng lên ngực rồi hạ xuống hai bên thân về tư thế ban đầu.
BÀI NỘI CÔNG TRỤC TÀ
Âm tà vào người theo đường xương sống từ dưới đất lên, những người có căn âm bẩm sinh, hoặc là tập thiền ngồi trên nền đất có âm khí nhiều dễ bị nhiễm.
Bài nội công trục tà :
Tương tự như 2 bài tỉến dương thoái âm nhưng hai tay nắm chặt 2 quả đấm buông dọc theo thân mình hướng xuống đất, bắt đầu hít vào bụng , gồng cứng 2 cánh tay và 2 chân tưởng tượng mình nặng như một quả tạ, sức ì nặng ngày một tăng dần đè xuống mặt đất, hai chân rùn xuống tấn mã bộ vững chắc, đầu cúi nhìn xuống mặt đất, gia tăng quán lực, khi nào không thể hít vào được nữa thì thở ra đồng thời thư giãn toàn bộ cơ thể, hai tay mở ra tự nhiên, hai gối đứng thẳng dậy, tiếp tục làm hiệp 2.
Tại giường ngủ hoặc chỗ tập thiền vẽ quẻ dịch ‘phong địa quan’ , thường nhìn vào hình quẻ dịch quán niệm, khi thấy hiện tượng xấu thì quán tưởng và niệm tên quẻ dịch.
TÂM TỨC TƯƠNG Y
Đây là một công pháp rất nhiều huyền diệu.
Từ từ hít vào, trong lúc này tâm theo dõi quá trình hít vào, sau đó lại từ từ thở ra, tâm theo dõi quá trình thở ra, nguyên tắc là hít vào 8 phần hơi, thở ra 6 phần hơi, không được hít đầy, cũng không được thở ra cạn hơi, một lần hít vào thở ra là một hiệp.
Tâm theo dõi hơi thở. Thở nhịp nhàng khoảng 3 lần vào ra như vậy thì dừng để nội khí tự vận hành, thần khí tự quyến luyến nhau, khoảng vài phút lặp lại một lần.
Chăm tập TÂM TỨC TƯƠNG Y và nhận thấy nó rất tuyệt, nó thúc đẩy nội khí vận hành rất mạnh, thần khí quyện vào nhau, tâm trí như say, như mơ. Lúc tập nên thả lỏng tâm trí, buông lơi tất cả, bám vào hơi thở thật nhẹ nhàng, không nên dùng sức mà thật nhẹ nhàng ta sẽ thấy tất cả như quyện chặt vào nhau…. rất khó tả
ĐỘNG TÁC THU CÔNG
Mọi người tu tập CTNC khá lâu rồi mà chưa thấy sư huynh nói gì tới thu công chắc cũng có người thắc mắc, bây giờ sư huynh mới nói rõ tại sao. Trong các bài quyền thuật khí công thường khi kết thúc có động tác thu công, vậy động tác này dùng làm gì? Xin trả lời động tác thu công dùng để đưa hệ thống kinh mạch trở lại bình thường, như vậy CTNC chưa dạy thu công chắc là có thiếu sót hay sao? Không phải vậy, thực ra động tác thu công chỉ thực hiện khi nào hệ thống kinh mạch đã khai mở mà thôi, và không những thu công chỉ dùng sau khi tập mà bất kỳ lúc nào cũng có thể sử dụng vì mục đích của nó là giúp cho sư vận hành khí điều hoà bình thường. Do đó nếu kinh mạch chưa khai thông thì thu công không có ý nghĩa gì cả. Đối với khá nhiều bài quyền thuật khí công, sư huynh thấy chỉ là một động tác quy tắc mà thôi. Động tác thu công được thực hiện như sau: Hai bàn tay chắp lại như khi lễ Phật, nhưng từng cặp ngón tay tách rời nhau ra thoải mái chứ không khép sát nhau như khi lễ Phật.
Để hiểu tại sao phải dùng động tác thu công như trên sư huynh nhường lại cho mọi người tự tìm hiểu, sau khi kinh mạch khai thông thì sẽ tự có lời giải đáp. BÀI TẬP SỬ DỤNG CHÂN HỎA TAM MUỘI
Bài tập sử dụng chân hỏa tam muội rất đơn giản chỉ là động tác lim dim hai mắt, thuật ngữ đạo gia gọi là ‘buông rèm’, có tác dụng thu hút được ánh sáng của nhật nguyệt giao quang giúp thanh lọc cơ thể. Trong loạt bài trừu thiêm sư huynh đã giảng rõ dùng hô hấp thu hút âm khí từ hệ kinh mạch ngoài vào trong và dùng nội đan tiêu diệt. Tuy nhiên người không có nội đan thì dùng kỹ thuật thu hút chân hỏa tam muội này bổ khuyết. Không có gì phải ngạc nhiên tại sao các phái tu thiền Phật giáo như Thiên Thai Tông đều sử dụng kỹ thuật này, tuy nhiên có thể họ không hiểu rõ công dụng hoặc không muốn giải thích rõ ràng. Công phu này nếu sử dụng lâu năm có thể đạt tới những tầng thiền định rất cao, đồng thời có công năng tiêu trừ bệnh tật. Bài tập này có thể sử dụng trong khi thiền định, ngoài ra khi rảnh rỗi, khi muốn thư giãn, khi thấy trong người không khỏe, khi bị bệnh đều có thể áp dụng với bất cứ tư thế nào cảm thấy thoải mái.
Ghi chú:Các công phu khi đem công truyền đều đã được hạ bậc so với công phu chính thống, nói nôm na là công phu đã thủ công hóa, có một số công phu nghe rất đơn giản như trừu thiêm là hít vào thở ra thực chất lại rất cao không thể hạ bậc để công truyền, vì thế những gì có thể đem ra truyền dạy đều có hiệu quả và những công phu không thể công khai tức là không thể hạ bậc vì không hiệu quả, sư huynh giảng rõ như vậy để mọi người khỏi lăn tăn.
ĐẠO GIA TRÚC CƠ PHÁP
Trúc cơ pháp này là pháp sư huynh luyện đầu tiên từ thời kỳ mới lập diễn đàn đạo gia khí công này, mục đích để thu ngọc dịch, khai thông nhâm đốc dẫn tới hoạt tí thời sơ kết chân tâm. Tính ra từ khi bắt đầu trúc cơ pháp tới lúc hoạt tí thời phải mất khoảng 7,8 tháng, ngày nay với hỗ trợ của nước dưỡng sinh chúng ta hoàn toàn có thể bỏ qua giai đoạn này.
Yêu cầu của trúc cơ pháp là 2 bàn tay phải thông mạch, lấy giao kết thủ ấn đả thông huyền quan khiếu ở giữa 2 con mắt, qua đó thu được ngọc dịch hoàn đan, là pháp bảo chân truyền của đạo gia cổ truyền, có thể luyện bất kể giờ giấc.
Phương pháp ngồi tự nhiên, không gò bó về tư thế, ngày trước sư huynh thường ngồi dựa lưng vào tường, hai chân thả dài trên giường, mắt nhắm, hai hàm răng cắn lại nhưng hai môi lại tách ra, lưỡi đáp thượng kiều ngay dưới chân răng hàm trên.
Thủ ấn: 2 tay đặt dưới bụng, 2 lòng bàn tay xếp chồng lên nhau, quan trọng nhất là lóng thứ nhất của ngón cái này đặt trên lóng thứ nhất của ngón cái kia.
Ý thức nhẹ nhàng hướng xuống bụng dưới mục đích để đạo dẫn giáng khí.
Thực hiện đúng phương pháp như trên thì một lúc sau sẽ cảm thấy vùng sơn căn có cảm giác khí, có thể thấy hơi thốn và nước bọt sẽ tràn ra đầy miệng, chờ khi nào được 1 ngụm lớn thì nuốt xuống.
Với người dùng sản phẩm dưỡng sinh lâu ngày có thể huyền quan khiếu đã khai thông thì sẽ không thấy nước miếng tiết ra nữa mà chỉ thấy khí chuyển trên nhâm đốc. LỤC TỰ CHÂN NGÔN
Lục Tự Đại Minh là vua của tất cả thần chú trong các cõi. Xuất xứ của thần chú này xưa nay nhiều người thường tưởng lầm là thần chú của đạo Phật nhưng theo Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh thì chính Như Lai cũng thừa nhận đến ngài cũng chưa đủ khả năng sở đắc, tức đến Phật cũng không biết. Thần chú này cũng không phải do ngài Quán Tự Tại Bồ Tát tuyên thuyết mà do ngài cầu được ở nơi một vị pháp sư không rõ nguồn gốc, do đó nó là thần chú chung của tất cả các cõi. Công năng của Lục Tự đại minh trong kinh đã nêu rõ không cần phải nghi ngờ, và chính các vị tổ sư đạo gia cũng phải nhờ nơi thần chú này mới có thể tìm ra đường tắt mà đắc đạo, biết thần chú này thì rút ngắn con đường 10 lần, không biết thần chú này thì kéo dài thêm 10 lần. Công năng thần chú này theo quan điểm đạo gia có thểphá bỏ mọi tắc nghẽn kinh mạch bất kỳ thuộc tầng lớp nào, từ nông đến sâu, từ thô đến vi tế, có thể thay thế ngay cả các bộ thủ ấn phức tạp và bí mật nhất cần phải sử dụng trong quá trình khai thông kinh mạch. Phật từng thọ ký sau này có ngài Đại Lực A Tô La sẽ thành Phật chỉ cần dựa vào duy nhất thần chú này có thể đủ tỏ rõ công năng.
Việc đọc hay nghe thần chú này đều có công năng như nhau. Do đó đối với đệ tử đạo gia cần phải nghe thần chú này bất cứ thời gian nào, thậm chí ngay cả khi thiền định, nghe 24h cũng như tụng 24h, không cần phải chăm chú lắng nghe mà cứ nghe một cách vô thức như khi nghe nhạc, bất kỳ tắc nghẽn nào cũng sẽ được gỡ bỏ mà không cần phải cầu học tới các bộ thủ ấn bí mật.
Om Ma Ni Pê Mê Hum
Om Ma Ni Pát Mê Hum
PHÁP CÀN KHÔN GIAO CẤU CỦA ĐẠO GIA
Pháp càn khôn giao cấu theo phương pháp của đạo gia đã được mã hóa bởi đại minh chú nhưng bởi có lẽ nhiều người muốn biết nó như thế nào mà lại được truyền thụ bí mật, để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mọi người nên sư huynh viết ra chứ thực tâm không muốn viết vì luyện theo phương pháp đạo gia chắc không mấy người thành công được rồi sinh tâm nghi hoặc đánh mất đạo căn. Đây là phương pháp đã hạ bậc, điều kiện luyện thành là chân tâm đã hỗn dung với ý thức, tức thông qua ý thức có thể điều động được chân tâm, đây chính là điểm khó nhất của phương pháp hạ bậc.
Định nghĩa một số thuật ngữ cần dùng:
1. Vũ hỏa: là động tác hít vào
2. Văn hỏa: là động tác thở ra
3. Càn cung: chỉ huyệt thiên cốc
4. Khôn cung: chỉ huyệt trung quản
Pháp Càn Khôn Giao Cấu
Pháp này chỉ luyện được nội trong giờ tí, đó là lúc nhị khí càn khôn xuất hiện.
Ở đây chọn dùng ngồi luyện.
1. Thu khí quẻ Khôn: Hai lòng bàn tay đặt ngửa trên đầu gối,trên cơ sở đã hỗn dung ý thức với chân tâm thì thủ ý là ngưng thần, ngưng thần chính là thủ ý, đem ý thức đặt vào Khôn cung, dùng vũ hỏa liên tục hít vào thật nhẹ nhàng, càng hít vào lâu chừng nào càng tốt, lúc này địa khí sẽ từ bên ngoài vào trong ta theo huyệt trung quản, theo đốc mạch tràn lên đầu não, thực hiện phương pháp này đến khi thấy khí tràn đầy không thể tiếp nạp thêm nữa thì ngừng.
2. Thu khí quẻ Càn: Hai lòng bàn tay đặt úp trên đầu gối. Đem ý thức đặt vào Càn cung, dùng vũ hỏa nạp thiên khí như trên tới khi tràn đầy thì ngừng, khí này được chứa trong mạch nhâm phần trước bụng ngực
lưu ý: tràn đầy là chỉ tình trạng khí của càn khôn thiên địa chứ không phải là trạng thái hít vào không nổi nữa.
3. Hợp nhất Càn khôn: Sau khi nạp khí càn khôn thì cơ thể chia làm 2 nửa, phía sau lưng chứa địa khí, phía trước bụng chứa thiên khí, ta bắt đầu hợp nhất càn khôn. Dùng văn hỏa liên tục thở ra, càng chậm càng tốt, ý thức không đặt vào đâu cả, lúc này nhị khí càn khôn sẽ phối hợp trong khoang não, khi tiến trình phối hợp hoàn tất chúng sẽ trở nên hợp nhất thành một dạng khí có trước khi càn khôn phân chia gọi tiên thiên nhất khí, khí này sẽ từ khoang não di chuyễn xuống thành một vòng theo mạch nhâm đốc, từ khoang não xuống bụng, vòng ra sau lưng , đi lên đỉnh đầu và chứa tại một chỗ ở đỉnh đầu, đạo gia gọi là nê hoàn cung, hoặc đơn giản gọi là “đỉnh”, cái đỉnh này nằm ở tầng lớp bên trên lớp khoang não nơi hợp nhất càn khôn chân khí. Sau đó hai mạch nhâm đốc trở lên trống rỗng và ta tiếp tục lặp lại 3 bước trên cho đến hết giờ tí.
Bổ sung về thủ ấn:
Trong pháp càn khôn giao cấu nếu mạch chưa thông sẽ dẫn tới việc khó tiếp nạp thiên địa chi khí, vậy cần phải kết hợp dùng thủ ấn, có một số vấn đề cần trình bày như sau:
Càn khôn giao cấu tức là quẻ địa thiên thái, nghĩa là thiên khí giáng xuống, địa khí thăng lên vậy khi nạp địa khí thì ngửa lòng bàn tay có tác dụng khiến địa khí thăng lên mạch đốc, khi nạp thiên khí thì úp lòng bàn tay có tác dụng khiến thiên khí giáng xuống mạch nhâm, ngoài ra nếu vì mạch chưa thông thoáng khó tiếp nạp khí thì cần kết hợp thêm thủ ấn
– Khi nạp khí càn khôn thì hai đầu ngón tay cái đụng nhau sẽ khiến mạch nhâm đốc thông suốt
– Khi hợp nhất càn khôn thì 2 đầu ngón cái và 2 đầu ngón giữa chạm nhau khâu thành một vòng tròn, hai đầu ngón giữa chạm nhau có tác dụng mở cửa ngăn cách 2 mạch nhâm đốc trong xoang não khiến thiên địa chính khí tràn qua nhau mà hợp nhất lại.
TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN
Châu thiên nghịch chuyển là bài tập được giới thiệu đầu tiên đối với mọi thành viên đạo gia và thông qua tập luyện mọi người đều được biết nó có tác dụng khai thông kinh mạch rất lớn. Trước đây sư huynh chỉ giải thích sơ lược rằng nó có tác dụng sử dụng luồng tốn phong trong hô hấp nhằm đả thông những bế tắc trong kinh mạch nhưng thực ra là chưa tiết lộ đầy đủ. Khi chúng ta luyện châu thiên nghịch chuyển là chúng ta nhóm lên ngọn lửa tịnh hóa thân tâm, những người có đôi chút khả năng có thể nhìn thấy một ngọn lửa bao trùm hành giả khi người đó thực hành châu thiên nghịch chuyển. Một bất ngờ là ngay cả bài tập này cũng được mật tông mã hóa thành mật chú và nó chính là tịnh pháp giới chân ngôn, phạn âm đọc là “Om Ram”. Như vậy khi thực hành châu thiên nghịch chuyển chính là ta đang tụng tịnh pháp giới chân ngôn theo phong cách đạo gia và ta cũng biết mật chú này rất quan trọng đối với hành giả tu mật tông. Tùy theo cơ địa của hành giả mà chúng ta có thể chọn lấy một trong hai cách tập sao cho phù hợp nhất.
THẦN THÔNG – KHAI MỞ TAM MẠCH
Đây là phương pháp tập luyện để phát sinh các khả năng đặc biệt, là chung nhất, tổng quát nhất của tất cả các đạo phái, không có phương pháp thứ 2. Điều kiện tập luyện là phải điều khiển được các nguồn năng lượng thế gian, tuy nhiên với một số người đặc biệt có sẵn năng lượng tiềm tàng thì phương pháp tập này có khả năng kích phát thần thông.
1. Bài tập khai mở tam mạch
1.1. Khai mở tả mạch: Không yêu cầu bất kỳ tư thế đặc biệt nào, chỉ cần hai tay đưa qua trái thực hiện giống như ôm chồng gạch xếp cao, lòng bàn tay phải ở trên, lòng bàn tay trái ở dưới, hai lòng bàn tay đối nhau hợp với vú trái thành một đường thằng.
1.2. Khai mở hữu mạch: Giống như khai mở tả mạch nhưng đổi vị trí hai tay trên dưới và hợp với vú phải thành đường thẳng.
1.3. Khai mở trung mạch: Hai lòng bàn tay đối nhau hợp với huyệt đản trung thành một đường thẳng, hai tay có thể luân phiên thay đổi vị trí trên dưới.
Lưu ý: Kết hợp bài tập với tư thế trạm trang cũng có hiệu quả dưỡng sinh cao.
2. Khiển vật: nhìn một đồ vật và quán tưởng có thể kéo vật dịch chuyển từ xa hoặc quán vật đó biến mất, tan vỡ,…vv..
3. Thiên nhãn: Nhắm mắt tưởng tượng nhìn thấy các đồ vật trong phòng, ngoài đường
4. Thiên nhĩ: Tưởng tượng cố gắng lắng nghe ai đó đang nói từ nơi rất xa ngoài đường
Các phương pháp tập 2,3,4 nhằm mục đích để các nguồn năng lượng thoát khỏi cơ thể di chuyển tới vị trí mà ta muốn tác động, quan sát, khảo sát và nhận phản hồi.
Bài tập khai mở tam mạch thực chất chính là phương pháp gỡ phong ấn hỏa xà hay còn gọi là đánh thức kundalini, bài tập này đối với sư huynh thì không có một chút nguy hiểm nào nhưng theo tài liệu Yoga thì nó có thể gây tác hại lớn đối với người luyện thông thường, vì thế sư huynh khuyến cáo mọi người nên ngừng tập bài này. CHÍNH TÔNG ĐẠO MẠCH TRUYỀN THỪA CHÂN QUYẾT
Tác giả: Áp Lãng Chân Nhân Tính trong tính mệnh song tu vốn chẳng xa rời thế gian. Thường nghe người xưa nay nói đến tính cách, thiên tính, tính khí. Mệnh công thì khó gặp, nếu không phải là kẻ đại đức đại duyên, lại có thêm lòng quyết tâm mạnh mẽ cầu đạo thì khó mà gặp được. Vậy chẳng lẽ người tu học cầu đạo khó khăn đến thế sao? Xin nói rằng chẳng phải vậy, đó là tại bởi người tu học không biết đường mà cầu nên nghĩ nó rối mà thôi! Thường nói đến mỗi một cá nhân đều trải qua vô vàn kiếp để đến với đại đạo. Có mấy ai khi vừa mới xuất hiện đã có duyên với đại đạo đâu. Có kẻ vô tình đến đất đạo, có kẻ vô tình gặp đạo nhân, có kẻ thì tình cờ đọc được một cuốn đạo kinh hay nghe người ta nhắc đến đạo, nhiều lắm. Tiểu đạo nhân ta ứng theo sư tổ nói rõ về tính công chân chính của đại đạo. Kẻ sĩ thiên hạ không biết đâu là đường đến với đạo thì đây là báu vật. Học trò tu học đạo gia hiểu thêm về bí quyết chân chính của cổ tiên mà sớm ngày lên trời.
Người thế gian thắc mắc tông ta có từ khi nào, ta liền bảo hãy đọc đạo kinh. Họ vẫn cứ chẳng hiểu, ta liền chỉ đạo kinh có câu: Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, rồi có nói “thượng đế chi tiên”. Tam ở đây là vũ trụ, đạo có trước cả thượng đế, có trước vũ trụ vạn vật, đạo của ta tồn tại trước khi có tôn giáo. Đại đạo là chung là duy nhất vốn chẳng hai, đại đạo không phải là tôn giáo, ấy vậy mà có tên đạo gia. Tính công của đạo gia nằm ở đạo đức kinh, nam hoa kinh, thanh tĩnh kinh, xưng hư chân kinh, thái thượng cảm ứng thiên vv. Người mới học thì ban đầu hãy tụng cảm ứng thiên, sau dần chuyển qua thanh tĩnh kinh và đạo đức kinh. Đồng thì đọc thêm nam hoa xung hư để hiểu thêm lý đạo, đó chính là chân quyết tổ tổ tương truyền. Kẻ tụng đọc đạo kinh giống như ngồi với đại đạo, lắng nghe đại đạo nói, nhìn ngắm đại đạo, có khác gì gặp được bậc trước cả thượng đế đâu ? Đạo của ta gần gũi với muôn loài chúng sinh.
Bàn về đại đạo công phu thì không nằm ngoài tính mệnh thần khí, thần thì ưa bay bổng có xu hướng đi lên, khí thì trầm nặng có xu hướng đi xuống. Mệnh công dùng khí điểm hóa thần mà thần khí ở trung, hay còn gọi là quy trung. Còn tính công chân chính của đạo gia thì tu thần mà sau này thần quyến luyến khí rồi cũng quy trung vậy. Học trò đạo gia chân truyền xưa nay ai cũng hành đủ hai điều trên. Kẻ sĩ cầu đạo thì nhờ kinh văn tính tu mà có thể gieo duyên, dưỡng tâm mà cũng bắt đầu chân chính tu đạo. Hai chữ quy trung cũng là bí mật nghìn đời chẳng tiết lộ, ta đặc biệt chỉ rõ về lý. Còn về hành, hãy cầu phúc đức mà chờ thầy truyền, không thể tự ngộ. Ấy đều là tính mệnh song tu, thần khí lưỡng hành, chẳng thiên về bên nào. Pháp tu tính công này chẳng đòi hỏi căn cơ, người người đều có thể hành trì.
Kinh đạo gia tàng ẩn lý đạo, hãy tham ngộ những câu đầu thanh tịnh kinh. Kinh văn đó là qui tắc đại đạo, chứa đựng khí cơ đại đạo, tụng lên tất có ứng. Tụng kinh thì tai nghe tâm thấy nguyên thần hiểu và tiếp nhận khí. Bởi nguyên thần vốn thể gần với đạo hơn cả, tính linh minh. Đây là trực tu nguyên thần, rồi từ nguyên thần mà có ứng thân. Người ta thường nghe tới sự mê hoặc quyến rũ của thần chú, là gốc của vũ trụ nhưng có hiểu đạo kinh là ẩn tàng khí cơ của đại đạo chăng? Tiểu đạo nhân ta gọi đó là đại đạo ngôn.
Người tu học xưa nay còn khá nhiều sai lầm nữa, đó là muốn từ bỏ nhân tâm. Đấy vốn bởi nghìn năm nay đan kinh không dám tiết lộ. Nhân tâm chính là ta, luyện kỷ cũng là từ nhân tâm. Trong quá trình tu đạo sư tổ thường bảo” nhanh hay chậm vốn ở nhân tâm của ngươi, luyện kỷ tối nan là vậy”. Đó là nói tới trong quá trình tu luyện, mức quyết tâm, sự chăm chỉ, nề nếp sinh hoạt đều là nhân tố quyết định thành công nhanh hay chậm của kẻ đó. Những việc đó đều là thuộc nhân tâm, ấy cũng là luyện kỷ.
Tới đây ta bàn thêm về luyện kỷ. Thánh nhân nói: Nhân chi sơ tính bản thiện. Nhân tâm trẻ thơ vốn trong trẻo sáng láng, khi lớn vì môi trường ăn uống cùng hoạt động mà dần xấu đi. Người học đạo thường muốn diệt trừ nhân tâm, ức chế nhân tâm, sai lầm lớn đó! Tu đạo là để nhân tâm thông với với thiên tâm. Nhân tâm không tốt, ưa tranh đoạt, ngại khó mà mong chờ, vô vàn cái xấu của người thế gian đến với đạo kể chẳng hết. Đó đều là chướng ngại đẩy nhân tâm ngày càng rời xa thiên tâm. Kẻ học đạo tự vấn tâm mình, sửa chẳng bao giờ là muộn. Thử hỏi các bậc tổ có ai là không quyết tâm cầu đạo lớn lao, đâu có thiếu kẻ lặn lội vài chục năm trời cầu tìm mà chí chẳng sờn. Đọc sách cổ tích cũ, học theo người xưa, dùng cái nhìn của ta mà xem nhân tâm ta, rồi lại dùng cái nhìn của thiên hạ mà quán xét ta, rồi lại lấy cái chuẩn của thánh nhân mà suy xét mình. Thầy ta có một cách rất hay: hãy suy nghĩ đơn giản thì nhân tâm cũng trong sáng hơn vậy! Nhân tâm trong sáng thì đường đến với đại đạo thênh thang rộng mở, chẳng có gì là khó cả!
Người học đạo thế gian hãy ghi nhớ câu về thể đạo sau đây “ đạo khả đạo, phi thường đạo”. Cái đạo mà bất biến thì chẳng phải là đại đạo. Đại đạo đã chẳng bất biến thì thế gian có gì là bất biến nữa đây? Theo đạo một ngày thì rời xa luân hồi khổ sở một ngày, hãy bắt tay càng sớm càng tốt. Việc trong thế gian này có gì nằm ngoài phúc đức công hạnh đâu, kể cả việc thành tiên đắc đạo.
Tính trong mệnh, mệnh trong tính, kinh văn chỉ phát huy tác dụng khi toàn thân thư thái, thanh thản.Muốn vậy, hãy vận động trước khi đọc kinh, và sau khi đọc kinh.Người biết gì thì tập đó, quan trọng là khí huyết lưu thông, không biết gì thì đi bộ cũng tốt.
Cái khó nhất đối với người thường chính là nhân tâm, muốn nhân tâm trong sáng mà thông suốt, hãy nhớ kỹ lấy 1 câu thông thường nhất, ”nhân chi sơ, tính bản thiện”.Sau khi vận động, tập trung đọc câu đấy 5 phút, sẽ cảm giác mình thanh thản và quay về thời còn là trẻ con, trong tâm chỉ có phản ứng trực tiếp chân thật, mà ko có sự vặn xoắn quanh co nào.Sau đó thì đọc kinh, vậy là được.
Người mộ đạo chỉ cần nhớ kỹ “Hạo Nhiên Chính Khí, Vạn Cổ Trường Tồn”, giữ lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà ko tự thẹn với lòng, thì tâm trung chính mà thanh thản vạn kiếp.
———
Thiên chi đạo lý
“Thiên chi đạo tổn hữu dư bổ bất túc”, tức là thừa thì bớt đi, thiếu thì thêm vào, tạo thành sự
vừa đủ, như lời cổ triết “cầu vừa đủ xài”, như huấn ngôn của tổ sư “tri túc bất nhục”. Tu đạo là
cần mẫn học tập “thầy thiên đạo” cách thức duy trì sự vừa đủ, chắc chắn nghiệm ra học theo
thiên đạo thì được ích lợi càng ngày càng nhiều, “ vi học thiên đạo nhật ích”, những điều bản
thân làm sai đạo trời càng lúc càng giảm, “vi thiên đạo nhật tổn nhân chi đạo”, không phạm
sai lầm nghịch thiên hành nhân chi đạo, đã thiếu càng thiếu, đã thừa càng thừa, cái cảnh kẻ ăn
không hết, người lần chẳng ra, “nhân chi đạo tổn bất túc nhi phụng hữu dư”.
Người sống có đức, người thiện rốt ráo, chung quy đi chung quy lại cũng là người hành theo
thiên chi đạo lý này mà thôi. Thiên hạ thiếu cái mình dư mà mình đem cái mình dư cho thiên
hạ, tức là hành thiện tích đức, lá lành đùm lá rách, thiên đạo tự nhiên gần gũi, thân cận, lâu
ngày tự nhiên chứng đắc thánh nhân. Tổ sư dạy người có dư, đem dư giúp đỡ cho sự thiếu
thốn của thiên hạ mà không đòi hỏi báo đáp thì người đó là thánh nhân.
Đạo lý này cực kỳ giản dị nhưng không mấy ai hành theo, để rồi tự rước phiền phức, tiếc hận
không nguôi, than ôi, chí đạo khó truyền.
Công phu cơ bản cho mọi người:
2 cạnh ngoài bàn chân song song,
2 cạnh trong bàn chân tự tạo thành chữ bát,
tấn xuống 1 chút,
gọi là nhị tự kiềm dương mã.
Cổ thẳng, mặt thẳng bình thường,
nếu cơ thể bị giật mà mặt tự ngước lên thì để nguyên.
Thân người trung chính, trục giữa thân người vuông
góc với mặt đất.
Chân này là bắt chước cây, hút ngũ hành của đất mẹ, mà bổ cho mình, đồng thời cân bằng cho
chính mình.
Phần tay, chính là vô cực, vì sao lại là vô cực. Vì 2 tay cong, đối xứng và bằng nhau, thể hiện
âm dương cân bằng, hòa vào nhau. Không gồng người khi tập, toàn thân trong trạng thái ổn
định bình hòa. Tập 20 phút, đi lại 1 chút, thì ngồi ghế, hoặc ngồi đất bán già chân trái đặt bên
trên, 2 tay thả lỏng, úp trên đầu gối, thả lỏng người, nhắm mắt, nghỉ ngơi 5-10 phút. Tránh
ngồi tê chân. Tập vào sáng sớm mới ngủ dậy, quay mặt về hướng đông. Tập lúc không no,
không đói. Có thể gia tăng thời lượng tập 1 cách từ từ. Tối đa là 40 phút. PHÁP VĂN VÕ HỎA HẦU CHU THIÊN CÔNG
Tác giả: ẩn danh
Văn hỏa chu thiên là nền tảng thuật thổ nạp của đạo gia chính tông. Công pháp cơ bản như sau:
Toàn thân phóng tùng, mắt quán mũi, mũi quán tâm (lý này chỉ chính là tâm oa, là bộ vị mũi không phải tâm tạng). hít khí nhẹ đều mặc niệm (ý niệm thầm) chử “hấp (hít)”. Quán tưởng khí hít vào đến ngoài tâm oa giữ trong đan điền. cảm nhận đắc tâm oa càng ngày càng lâu, phần ngực cũng bắt đầu cảm thấy khí cảm. Đợi sau khi có cảm giác như vậy, giữ ý niệm tập trung lúc thở khí ở trên. Lúc thở khí, mặc niệm từ “hô (thở)” từ phổi trầm xuống. Tưởng khí cảm trong ngực chạy xuống, đổ vào trong đan điền lại liên tục đổ vào. Sau khi chân khí trong đan điền đầy thì đi qua hội âm đến đốc mạch đi lên đỉnh đầu lên sau bách hội, lại đi xuống đến răng, sau đó qua nhâm mạch về lại hạ đan điền.
Dùng lọai phương pháp thổ nạp đặc thù này hỗ trợ khí vận hành gọi là văn hỏa chu thiên.
Võ hỏa chu thiên công
Phần giới thiệu này là địa long châu thiên, là 1 lọai võ hỏa chu thiên. Phương pháp cơ bản là tòan thân phóng tùng, mặc niệm chử “trầm”. tưởng tượng hai đùi cắm vào lớp vỏ quả đất, càng cắm càng sâu, cuối cùng cắm đến trong nhân trung tâm quả đất trong dòng nham thạch. Sau đó dùng lực chú ý tập trung vào hít khí, từ từ hít khí, tưởng bám vào việc hít địa khí âm ấm ở trên, nhẹ đi qua từ chân huyệt dũng tuyền rồi từ đùi tiến nhập hạ đan điền, lại đi lên đốc mạch, đến bách hội, sau đó mặc niệm “hô (thở)”, ban đầu thổ (thở) khí dùng khí hạ thước kiều, qua nhâm mạch đi xuống, trở về hạ đan điền.
Lọai này là phương pháp nương theo địa khí đả thông nhâm đốc nhị mạch gọi là địa long chu thiên.
Thông chu thiên là làm âm dương cân bằng, như người ta thường nói, tiểu chu thiên một khi thông trăm bệnh đều không sinh, đó là đạo lý này. Lúc một ngươi 2 trường âm dương hài hòa cũng như đạt nó tốt rồi thì khắp mặt hối khí (khí không may), khí khô họai không phát, thường phát sinh ý ngọai. NIỆM SỐ HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH Những con số kì diệu – chữa bệnh bằng niệm số chu dịch
Phương pháp chữa bệnh bằng niệm số theo chu dịch được giới thiệu trên 20 năm nay. Dựa trên lý thuyết của chu dịch ứng dụng tượng số của bát quái Gồm 8 quẻ là càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn.
Ứng với các số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 của tiên thiên bát quái đồ. Các con số trên cũng tương ứng với cơ thể con người từ da lông, tứ chi mình mẩy cho đến tạng phủ khí huyết kinh lạc và các khiếu… theo thuyết vạn vật đồng nhất thể, nhân thân tiểu thiên địa. Nghĩa là vạn vật trong vũ trụ đều đồng nhất như nhau, con người là một vũ trụ thu nhỏ. Khi ta đọc (niệm) các con số sẽ ứng vào các bộ phận cơ thể và sẽ điều chỉnh các bộ phận đó cân bằng, theo lẽ tự nhiên bệnh sẽ hết .
Nội dung của phương pháp niệm số chu dịch
Cách này còn có thể gọi là chữa bệnh theo(tượng số học) vì trong tượng có số. Cụ thể như sau:
Quẻ càn: tượng là đầu, não, xương sống, bàn tay, dương vật… ứng với số 1
Quẻ đoài: tượng là phổi, họng, đại tràng, miệng, đường đại tiểu tiện… ứng với số 2
Quẻ ly: là tim, mắt, máu, tiểu tràng… ứng với số 3
Que chấn: là gan, mật, ống chân. Ứng với số 4
Quẻ tốn: là gan, mật, đùi… Ứng với số 5
Quẻ khảm: tượng là thận, tai, thắt lưng, răng… Ứng với số 6
Quẻ cấn: tượng là vị(dạ dày), mông, vú, mũi… Ứng với số 7
Quẻ khôn: tượng là tỳ(lách, tuỵ), bụng , buồng trứng, cơ thịt, bàn chân…Ứng với số 8
Khi niệm số thì thêm số 0 vào trước hoặc sau dãy số
Tác dụng của con số không(0)
Số 0 là nguyên khí của vũ trụ theo thuyết từ không đến có.
Số không (0) là số chẵn thiên về âm (làm mát )
Số 0 là số lẻ thiên về dương (làm ấm)
Số 0 đặt trước dãy số thiên về âm. Đặt sau dãy số sẽ thiên về dương.
Ví dụ : ho do nhiệt niêm số là 002
Ho do hàn niệm số là 2000
Về cách niệm số
Có thể niệm thành tiếng. Có thể niệm trong ý nghĩ:
Ví dụ : để chữa ho do nhiệt niệm là (không không hai) 002.
Ho do hàn niệm là 2000(hai không không không).
Các bệnh khác cũng niệm cách như trên.
Thời gian niệm số từ vài phút đến vài chục phút
Thông thường chỉ niệm vài phút là đã có hiệu quả .
Có thể niệm số bất cứ lúc nào. Sáng , trưa, chiều, tối.
Đi, đứng nằm, ngồi hay khi nằm ngủ đều được cả
Có thể niệm số kết hợp với các phương pháp khác .
Như thuốc tây, thuốcc bắc, châm cứu, diện chẩn, khí công…
Sau 20 năm ứng dụng cho bản thân, gia đình mang lại hiệu quả hữu hiệu và bất ngờ. Sau này tôi có đưa vào giảng dạy trong các lớp diện chẩn và y dịch ở Hải Phòng, Hà Nội cũng như một số bệnh nhân, người thân ở các tỉnh xa và Nước ngoài mọi người ứng dụng đều mang lại hiệu quả tốt.
Một số công thức niệm số để chữa bệnh
Dưới đây tôi xin giới thiệu một số công thức đã ứng dụng có kết quả, dễ thực hiện để mọi người tham khảo ứng dụng. Nếu thấy kết quả thì phổ biến cho cộng đồng:
1: viêm họng, ho do lạnh . 2000
Viêm họng do nhiệt 002
2: đau dạ dạy ngừoi nóng. 0078
Đau dạ dày người hàn( lạnh) 780
3 : chướng bụng đầy hơi 8020
4: đau cột sốn , thoát vị đĩa đệm . 1000
5: các bệnh về gan , mật 0450
6: điềuu chỉnh về thận 0160
7: đau đầu 7010
8: đau răng 7020
9: đau vai gáy 7210
10: đau ống chân 4000
11: đau đùi 5000
12: đau bàn chân 8000
13: đau tay 7210
13 : đau mắt đỏ 003
14: tim đập nhanh 030
15: tim đập chậm, huyết áp thấp 53000
16: đau vùng tim 3000
17 : huyết áp cao ở người béo, nóng 0025
Huyết áp cao người gầy nóng 0026
18: cận thị 030
Viêm xoang 2000
19: dị ứng, ngứa 0002 nêu không bớt niệm 2000
20 : khó ngủ 00100
Trên đây là những công thức đã ứng dụng có kết quả trong thời gian qua. Còn nhiều điều phải bàn luận về phương pháp này.
Hai công thức niệm số đăc hiệu
1 : công thức niệm số để giảm đau trong mọi trường hợp. Bất kể do nguyên nhân gì gây nên.
007 nếu không bớt niệm 7000
Giải thích: số 7 là quẻ cấn tượng của nó là núi. Ý nghĩa( gặp núi sẽ dừng lại) đau sẽ dừng
2 : công thức đều hoà tạng phủ, kinh lạc, khí huyết toàn thân. Niệm dãy số này giúp tăng cường sức khoẻ và phòng bệnh rất tốt đã được nhiều người ứng dụng .
Đây là dãy số tổng hợp nên có nhiều con số. Đến mỗi dấu chấm ta ngừng lại 1 giây rồi đọc tiếp.
Công thức 650. 30. 820.
Niệm như sau. Sáu năm không . Ba không. Tám hai không .
Giải thích: đây là công thức lập theo thứ tự ngũ hành tương sinh. 6 là thuỷ, 5 là mộc, 3 là hoả, 8 thổ, 2 kim
Thuỷ sinh mộc , mộc sinh hoả , hoả sinh thổ , thổ sinh kim… Rồi kim lại sinh thuỷ. Ứng với 5 tạng. Tâm (tim) can(gan) tỳ( lách và tuỵ) phế( phổi) thận
Chúc các bạn khoẻ mạnh, hạnh phúc
Lương y Đồng Xuân Toán
Chủ nhiệm clb y dịch Hà Nội
PS:
Thời gian niệm số: Mỗi lần niệm vài phút với bệnh cấp. Vài chục phút với bệnh mãn tính. Ngày có thể niệm 3 lần. Sáng chiều tối
Một số công thức niệm số tham khảo:
Tiểu đường, huyết áp thấp 650.30. 82000
Sổ mũi, ngứa, sưng mắt do dị ứng phấn hoa, dị ứng thời tiết: 0002
Tê tay niệm1000 vào buỏi sáng . Buổi chiều niệm 540. 30
Sưng chân răng em niêm 002 nêu không bớt niêm 007
002 cũng chữa cả táo bón.
Đau tay phải từ trên vai xuống nặng trĩu tay 380. 210
Huyết áp không ổn định, mất thăng bằng, đi lại sa xẩm mặt mày 530.80.1000
Thoái hóa cột sống, bị thoát vị đĩa đệm e đọc 1000. Sau khi niệm xong có thể niệm thêm 650.30.820 để điều chỉnh ngũ tạng.
Mỏi và đau vai 380.210
Bị tiểu đục, ù tai, mắt mờ, khó tiêu, choáng váng: 650. 30820
đi hay say xe 530. 1000. Truoc khi len xe em hơ nóng bàn chân
Khí hư, đau vùng chậu lan xuống chân 530. 82000
Hen suyễn ở người nhiệt 00802
Ở người lạnh niệm 530. 82000
Viêm kết mạc dị ứng 0003000
Đau khớp gối nặng và bị suy giãn tĩnh mạch sâu kéo dài sau gối trở xuống 006. 0045.
Đau bụng. Cứ đau râm râm âm ỉ 780. 2000
LUẬN GIẢI GIÚP SỐ 030 VÀ 0025
030 là điêu chỉnh mắt và tim.
0025. 2 là quẻ đoài hành kim thuộc phế
sẽ khắc 5 hành mộc thuộc can (kim khắc mộc) làm cho can không bốc hỏa lên. 00 đứng trước có tính âm làm mát.
Cách này đông y gọi là .( thanh phế bình can) nói sâu hơn là( ích tây bình đông) phế thuộc phương tây. Can thuộc phương đông.
Trĩ ngoại 71000
Viêm hang vị dạ dày, thành tá tràng 30. 780
Vẩy nến á sừng ở hai bàn chân 80. 2000
Viêm xơ phổi, ho ra đờm 80. 2000
Cách niệm số trị bệnh hiệu quả
Qua thời gian chúng tôi chia sẻ phương pháp niệm số để chữa một số chứng bệnh thường gặp, đã được đông đảo quý vị và các bạn quan tâm thực hành. Sau khi tự chữa được bệnh cho mình, nhiều người đã thông tin tới chúng tôi để góp ý và động viên. Để đáp ứng yêu cầu của một số quý vị, nay chúng tôi xin bổ sung một số nhóm số mà chúng tôi đã áp dụng có kết quả. Rất mong được các bạn tiếp nhận và chia sẻ cho nhiều bạn bè thân hữu.
Lưu ý: Nhiều chứng bệnh có triệu chứng gần giống nhau, vì thế sẽ gây khó khăn cho việc xác định đúng bệnh để niệm số điều trị. Ví Dụ: Bị đau vùng lưng có thể do viêm thận, sỏi thận, viêm thần kinh tọa hoặc do thoái hóa cột sống… Gặp trường hợp này mà không nhờ được thầy thuốc để giúp cho việc xác định đúng bệnh thì phải thử. Khi niệm nhóm số nào mà thấy giảm bệnh thì tiếp tục niệm theo nhóm số đó.
Có những nhóm số có thể chữa được nhiều chứng bệnh khác nhau. Chúng tôi không ghép chung mà phân theo từng nhóm bệnh.
Niệm số trị bệnh là một trong những phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc rất hiệu quả, do Lý y sư nghiên cứu dựa vào thuyết Chu Dịch, thuyết Âm dương ngũ hành và triết lý y học phương Đông. Niệm số có thể chữa được hàng trăm chứng bệnh. Có bệnh chỉ cần niệm một vài lần là khỏi, có bệnh phải niệm vài ngày, cũng có bệnh phải niệm hàng tháng. (Sau mỗi lần niệm sẽ thấy bệnh giảm dần). Nhóm số: 820.650 có thể chữa khỏi bệnh hoa mắt, chóng mặt (Thiểu năng tuần hoàn não hoặc rối loạn tiền đình.)
Cách niệm: Niệm trầm (không cần ra tiếng). Niệm là: “Tám hai không. Sáu năm không”, lại tiếp “tám hai không. Sáu năm không”, niệm liên tục khoảng 5 đến 10 phút mỗi lần. Ngày niệm hai đến ba lần. Khi gặp dấu chấm thì tạm ngưng giống như đọc đoạn văn gặp dấu chấm. Khi niệm tiếp thì ngưng lâu hơn gặp dấu chấm một chút. Niệm từ từ, niệm đến số nào thì phải tưởng tượng ra số đó. Có thể niệm ở tư thế ngồi, nằm hoặc vừa đi vừa niệm. Nếu bị nhiều chứng bệnh thì niệm chữa chứng bệnh cấp kỳ trước hoặc có thể hôm nay niệm chữa bệnh này, mai niệm chữa bệnh khác. Niệm số không gây phản ứng phụ, không công phạt với các loại thuốc, có thể kết hợp vừa dùng thuốc vừa niệm số càng nhanh khỏi bệnh
MỘT SỐ CHỨNG BỆNH CÓ THỂ CHỮA KHỎI BẰNG NIỆM SỐ
A. CHỨNG BỆNH CẢM MẠO VÀ TAI MŨI HỌNG:
1. Cảm lạnh: 40.880
2. Cảm cúm: 20.30
3. Cảm gió, ho nhiều: 20
4. Họng đau, trong miệng sưng cục to không nuốt được đồ ăn: 050.070
5. Viêm mũi, viêm xoang, đau đầu nhức mắt: 60
6. Sưng đau trong họng, viêm sưng Amidal làm nổi hạch sưng đau hạch, nuốt nước bọt đau, cúi xuống càng đau: 5000.20
7. Ù tai, đau đầu, nhức nặng đầu, người bần thần buồn bực. Trong cổ họng như mắc hạt đào: 820 hoặc 80.20.650.30
8. Nấc, kể cả trường hợp đã bị nấc hàng tháng: 20.60.50.30
9. Ho viêm phế quản: 20.640
B. ĐAU ĐẦU, ĐAU MẮT.
1. Đau đầu: 60.50
2. Đau đầu, choáng váng, chóng mặt, buồn nôn (Thiểu năng tuần hoàn não hoặc rối loạn tiền đình): 820.650
3. Đau đầu, choáng không rõ nguyên nhân: 260
4. Đau một bên đầu, mắt căng, mờ mắt, chóng mặt, nôn ói: 260
5. Mắt đau mở ra khó khăn: 5.650
6. Mắt đau sưng đỏ, đắng miệng, trong lòng buồn bực: 003
7. Viêm giác mạc, đau đầu nhức mắt: 2000
C. TIM MẠCH HUYẾT ÁP:
1. Đau tim, đau vùng ngực trái: 380
2. Đau tim kèm theo huyết áp cao: 720.40
3. Huyết áp cao, xơ vữa động mạch, đã bị tai biến, liệt nhẹ: 260
4. Hạ đường huyết, khi đói bụng bị choáng: 40.30.70
5. Viêm đau tĩnh mạch, sưng chân, nhức chân: 650.070 hoặc 0007000.2650
D. TIÊU HÓA, TIẾT NIỆU
1. Tiêu chảy: 20.650 (Khi đang ngồi trên xe đò trong cuộc hành trình hoặc vì một công việc nào đó mà bị tiêu chảy hoặc quá mót đại tiện mà không thể đi đại tiện được thì niệm nhóm số: 20.650 sẽ không mót đại tiện nữa. Nếu không phải trong trường hợp như thế thì không nên niệm nhóm số: 20.650 bởi phân cùng độc tố sẽ tích trong ruột gây nhiễm độc.
2. Đau dạ dày cấp (vừa đau lần đầu): 4000
3. Đau dạ dày mạn tính: 70.40
4. Đau dạ dày (Uống rượu vào là đau): 820.40
5. Đau dạ dày (Khi đói bụng là đau): 650.000
6. Đau dạ dày (Không ăn được đồ nguội) ăn vào là đau bụng và có thể tiêu chảy: 40.70
7. Tiểu rắt buốt, tức nặng bụng dưới: 600.50 8. Tiểu nhiều, tiểu không tự chủ: 200.50
9. Tiểu rắt buốt, bụng dưới đau như cắt: 2000.30
10. Viêm túi mật: 40.60.3800
11. Sỏi thận, đau ngang lưng: 720.40.60
12. Sỏi bàng quang , đau bụng dưới: 60.2000
E. MỤN NHỌT, MẨN NGỨA, U BƯỚU:
1. Mụn nhọt ở mặt sưng đau: 2000
2. Mề đay, mẩn ngứa: 0002
3. Da dày cộm lên đen sần (Như da trâu): 650.7200
4. Vú nổi u cục to, đau, có thể phát sốt (Viêm tuyến vú cấp): 640.20
5. Vú nổi u cục (Viêm tuyến vú mạn tính): 640.000.720
6. Sau khi sinh con ít sữa hoặc mất sữa: 38000.40
F. CHẤN THƯƠNG, TRẬT ĐẢ (Bị tai nạn, bị ngã, bị đánh):
1. Trẹo bàn tay, đau khớp cổ tay: 70
2.Trẹo cột sống, đau không quay người được: 6000
3. Chấn thương ở đùi bầm dập đau đớn: 000.000.70
4. Chấn thương vùng sườn ngực đau đớn: 5000.80
5. Chấn thương từ hông xuống dưới gót chân đau: 720.60.430
6. Chấn thương vùng vai: 8000.70
G. VIÊM XƯƠNG KHỚP, THOÁI HÓA CỘT SỐNG, ĐAU LƯNG:
1. Viêm khớp, hai chân nặng nề vô lực: 00100.00700
2. Đau nhức lưng như có vật đè nặng: 640.720
3. Thoái hóa cột sống, đau ngang lưng: 1000.60
4. Thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm đau lưng: 7000.40
5. Đau lưng lan xuống hông đùi và bắp chân (viêm đau thần kinh tọa): 70.20
6. Đột nhiên đau lưng không cử động được: 6000.20
7. Đau một đốt sống (không rõ nguyên nhân): 60
8. Viêm sưng đau khớp gối: 1000.7000
9. Thoái hóa đốt sống cổ, đau đầu, đau vai gáy: 2650.380
Niệm nhóm số: 2650.380 còn giúp cho không háo đói và thèm ăn, có thể áp dụng cho trường hợp muốn giảm cân mà lại háo đói, thèm ăn, thích ăn nhiều. Nhóm số này còn giúp tăng thị lực.
H. ĐAU TÊ CHÂN TAY
1. Đau khớp vai, cánh tay không nhấc lên được: 650.000
2. Đau cánh tay: 20.640
3. Gót chân đau: 60
4. Gót chân đau, sưng tấy: 4000.370
5. Đau nhức ở đùi: 720.60
6. Cổ và hai cánh tay đau: 50.70
7. Chân, đùi đau tê: 650.30.80
I. MỘT SỐ CHỨNG BỆNH KHÁC:
1. Ngủ li bì (lúc nào cũng muốn ngủ). Bàn tay ra nhiều mồ hôi, run tay: 650.3820
2. Trĩ nội, trĩ ngoại, thoát giang: 00100.800
3. Phù nề, đau lưng, đau đùi: 650.000.3820
4. Viêm phần phụ, tử cung, nhiều khí hư bụng nhấm nhói đau: 6000
Cám ơn sự quan tâm của quý vị!
Nguồn : http:// khicongydao.com/ ky-la- phuong-pha p-chua-benh-ban g PHÉP LUYỆN TĨNH CÔNG “HỖN ĐỘN SƠ KHAI”
Phép luyện tĩnh công “hỗn độn sơ khai” được sinh ra theo nguyên lý trời động, đất tĩnh” và “đất động trời tĩnh”. Tĩnh (lặng) động là xác thịt tĩnh mà bản tính động. động tĩnh cùng gốc, cực động thì sinh tĩnh. Động tĩnh kiêm lẫn nhau, trong động có tĩnh, trong tĩnh có động để sản sinh ra “chân động chân tĩnh” (động thật sự, tĩnh thật sự) kết hợp với nhau mới có thể động và tĩnh ở cùng một thể, chẳng những có thể nối thông trong cơ thể người mà còn cùng vũ trụ hợp thành một khối, đó chính là chiếc cầu thang bằng vàng để bước chân lên công phu thượng thừa.
Phép luyện khí công tĩnh “ hỗn độn sơ khai” là cực nguồn của tính, mạng hóa hợp với giai đoạn cấu trúc cơ bản, căn cứ theo quy luật cực hóa của “sinh hóa trở lại” trong “ nguyên cực đồ” (hình vẽ tượng trưng nguồn gốc cực sâu xa của vũ trụ và con người theo Đạo giáo) rút ra từ ba nguồn cực (là) nguồn của vũ trụ: hỗn độn sơ khai, thanh dương hóa nhật ( trời xanh trong hóa ngày), thủy phân trú dạ (bắt đầu chia ngày đêm), ý nghĩa sáng sủa của trời đất hợp với “nguyên khí” (khí nguồn ban đầu) của cơ thể người mà quy về “tính, mạng” hóa thành “chân tĩnh chí bảo” (của cực báu của tĩnh thực sự) theo “túi đựng” (nguyên văn “thác thược” một kiểu túi) rồi theo ống dẫn trứng, ống dẫn tinh mà xuất ra. Nam nữ giao hợp, đó là lý luật của sự ngưng kết hai “vật” để thành thai. Mở ba nguồn đầu của vũ trụ do các khiếu huyệt lông tóc nối thông với cơ thể, đó là điều bí mật của con người. định ra âm để niệm chân kinh không có chử (theo truyền thuyết cổ được thể hiện trong “Tây du ký” khi hành giả lấy phải kinh phật không có chữ bèn thắc mắc. Phật tổ cười bảo: “kinh không chử mới là chân kinh” (kinh thật sự). đây là phép để dung hợp điều chế nguyên khí của vũ trụ hòa với nguyên khí của con người tụ tập tích trữ lại ở hạ đan điền, ở cửa quan vĩ lư (huyệt) và Hạ hòang đình khiến cho nguyên khí của con người (chân tinh của nam, chí bảo của nữ) hóa sinh cao độ, vận hành khắp trong ngoài cơ thể, đạt đến sự hỗn độn sơ khai của vũ trụ, đó là nơi chốn hợp lại ban đầu của tính mạng con người.
Phép tĩnh công “hỗn độn sơ khai” chọn cách thầm niệm chân kinh không chữ” vẫn giữ việc mở các khiếu huyệt, “nguyên âm” (các âm thanh ban đầu) thúc đẩy sự thông nối, khống chế và hít tích tụ nguyên khí của vũ trụ, điều hòa nguyên khí trong cơ thể người hóa hợp lại thành một thể, làm lại sự biến hóa trong nội bộ cơ thể căn cứ theo sự biến hóa giờ giấc của trời đất, đó là nguyên khí vận hành tương ứng với sự khai mở, nối thông tích tụ của khiếu huyệt theo các giờ Tý, Sửu, Dần là giờ giấc các khiếu huyệt hạ đan điền, vĩ lư quan, Hạ hoàng đình hoạt động để tụ hợp, sinh hóa và trên cơ sở đó thông qua khẩn quyết công phu mà vào khiếu (huyệt), kêu gọi linh tính trong khiếu (huyệt) hợp cùng khẩu quyết, hình thành nên công năng mới của khiếu huyệt, khống chế sự vận hành của khiếu huyệt trong các giờ Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi khiến cho “nguyên khí” trong cơ thể không bị phát tán ra ngoài cơ thể mà được tiếp tục dẫn đạo quay trở về nguồn đầu, về tới căn cứ để tích tụ, tiếp tục sinh sinh hóa hóa, vận hành đi lại nữa. hít tụ nguyên khí của vũ trụ, phát động nguồn khí của cơ thể để cải biến tố chất trong thân-tâm. Trong sách “Nguyên cực mật lục” (lời mật của nguồn cực) có viết: “nguyên khí cực hóa địa nhân thiên, địa chi thời vận cửu khiếu toàn, thân thiên hợp hòa vi nhất thể, phàm nhân tiện thị hóa thần tiên” (“Nuyên khí (tức khí từ nguồn đầu) cực hóa đất người trời. địa chi theo giờ vận chín khiếu xoay vần, người trời hòa hợp thành một thể, người thường bèn cũng hóa thần tiên”).
Phương pháp lưyện công này căn cứ vào quy luật cực hóa “ba nguồn đầu sinh hóa trở lại”, vũ trụ thông qua âm trở lại dương, có-không chuyển hóa, trời đất trong dâng lên đục hạ xuống, diễn biến sinh sinh không bao giờ dứt đoạn dẫn đến ba nguồn đầu tiên thiên với ba nguồn đầu hậu thiên hóa hợp với nhau mà thành hình hiện tượng rỏ ràng. Con người thừa hưởng ba nguồn đầu tiên thiêncủa cha mẹ mà ra đời, rồi hóa hợp ba nguồn đầu hậu thiên nước và thức ăn mà thành người, rồi hóa trở lại rò rỉ dần cho đến hết ba nguồn đầu tiên thiên lẫn hậu thiên thì chết đi. Tiên thiên chân khí con người ta cất giữ ở thận, tinh khí hậu thiên dựa vào tỳ vị (lá lách dạ dày) thu lượm ở thức ăn với nước, vào khí trong sạch dựa vào sự ít khí ở phổi từ giới tự nhiên. Chức năng của các tạng, phủ phối hợp cùng với nhau đem chân khí tiên thiên, tinh khí hậu thiên và khí (trời) trong lành ngưng hợp lại mà thành thân xác con người. “nguyên khí” (khí đầu nguồn) nạp vào huyệt mệnh môn, đồng thời vận hành phân bố khắp trong, ngoài cơ thể khiến cho con người sinh trưởng một cách thành thục, trong thận tạng có ống dẫn tinh (hoặc ống dẫn trứng) tiếp sự mệt nhọc của mạch thận (tức kinh túc thiếu dương thận) do đó con trai đến tuổi 16 vì đã có thận khí thực nên “chân tinh” mới rò rỉ ra, con gái 14 tuổi do thiên quý vận hành mà “chí bảo” (của cực báo) rò rỉ ra (tức rụng trứng hành kinh). Do “bẩy tình sáu dục vọng” thúc đẩy mà có khi rò rỉ ra ngoài. Biết tiếc mà để “chân nguyên, chí bảo” (tinh trùng và trứng) phát động nguồn “khí” tạm cắt đứt cánh cửa mở vào “địa ngục”.
Tu luyện bước công này là trực tiếp ra tay từ hạ đan điền cực kỳ cao xa khó hiểu, đây là nơi ống dẫn tinh (hoặc ống dẫn trứng) thông với tiền âm. “Chân tinh chí bảo qua đây chuyển hóa” thuận thì sinh người, ngược thì thành phật”. tu luyện hạ đan điền, dùng khẩu quyết luyện công để luyện hóa “chân tinh chí bảo”, cực hóa ra khỏi “dương trong âm”, lại phối lấy cửa ải vĩ lư cực phát khỏi “âm trong dương”, hội hợp ở hạ hoàng đình, xây dựng căn cứ đại của nguyên khí ban đầu ở tại đây. Người còn trẻ có thể thay đổi dung mạo, giữ mãi tuổi xuân, người già thì cải già thành trẻ. Thọ mãi không già.
Xây dựng căn cứ địa của nguyên khí ở tầng thứ tư là vận luyện “tam hòang cửu chuyển”. “tam hoàng cửu chuyển” là chỉ các giờ “Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân< Dậu, Tuất, Hợi” là thời khắc nguyên khí vận hành qua “cửu khiếu” (chín khiếu) cùng hạ đan điền, cửa ải vĩ lư, hạ hoàng đình là ba “căn cứ địa” trộn lại thành một thể, triệt để chặn tuyệt đường “chân tinh chí bảo” đi ra ngoài, mà đi ngược trở vào, trở lại nguồn đầu. kiên trì vận dụng tập luyện công phu “tam hoàng cửu chuyển”, con trai hết cái họa di tinh, trở thành cơ thể “không còn đường rò rỉ”, con gái thì có thể “đứt mạch sông núi”, thôi hẳn kinh nguyệt, không còn sinh nở nữa. đối với trai gái chưa thành hôn hay đã thành hôn mà chưa có con cái thì khỏi cần luyện “tam hoàng cửu chuyển” mà chỉ cần phân rò hạ đan điền, vĩ lư quan và hạ hòang đình trong lúc luyện công thì chẳng còn chút ảnh hưởng gì đến cái tệ công năng sinh nở mà còn có thể thu được hiệu quả lý tưởng không đạt tới điều đó. Đồng thời căn cứ vào quy luật vận động biến hóa “sinh hóa trở lại” của trời đất, cơ thể con người cũng có cơ hội đạt “lớn, hóa, thu, giữ”. Mùa hạ tới (hạ chí), mùa đông tới (đông chí) xong , 36 ngày sau đó là thời kỳ “giữ tinh”, cấm tuyệt giao cấu. hàng thánh ở người, trời, âm dương gặp gỡ (giao hội) vào ngày mùng một và ngày rằm cũng cấm tuyệt giao hợp. giờ giấc nguyên khí hóa hợp trong cơ thể người ta trong 12 giờ của ngày là các giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu cũng cấm chỉ làm tình. Trong người ta có chu kỳ biến hóa 60 năm thì trước 25 tuổi nên 6 ngày giao cấu một lần, trước 35 tuổi nên 12 ngày một lần, trước 45 tuổi nên 18 ngày một lần, trước 55 tuổi nên 24 ngày một lần, trước 65 tuổi thì nên thôi hẳn giao hợp để giữ tinh khí kéo dài tuổi trời.
A. khẩu quyết
“Mở đầu hỗn độn đạo đứng đầu
Sửu đất, người dần, tý sinh trời
Âm thuận dương ngược đương trường sinh
Điên đảo về nguồn trở (lại) thai tòan
Chín rồng lật chuyển, rượu cam lộ
Ba vòng xoay vầng khỏang hư không
Mầm thiêng mọc dài non sông đổi
Cây khô gặp xuân xanh ngàn đời ”.
Nguyên văn: “hỗn độn sơ khai đạo vị tiên, Mão địa, nhân dần, tý sinh thiên, âm thuận dương nghịch trường sinh lộ, điên đảo quy nguyên phải thai toàn. Cửu long phiên chuyển cam lộ tửu, tam hoàng bàn nhiễu hư không gian. Linh miêu phát trướng, sơn hà hoán, khô mộc phùng xuân vạn niên trường.”
(còn tiếp mình chưa đánh máy xong)
B.phương pháp niệm khẩu quyết
Ngồi xong dựa theo yêu cầu tập luyện mà “điều thân”: toàn thân thả lỏng, chót lưỡi đưa lên hàm ếch, chiếu ngược (tức nhìn ngược vào trong) các khiếu huyệt tương ứng. hít khí vào, thọat đầu hít bằng miệng, miệng hơi mở lưỡi đặt ngang, tự nhiên hít một ngụm (hơi) khí, miệng khép lại, lưỡi đưa lên vòm họng (hàm ếch) ý tưởng tượng khí vào tận các khiếu huyệt tương ứng (như chỉ dẫn ở phần lý luận đã dẫn).
Sau khi đã thuần thục thì dùng mũi tự nhiên hít khí vào khiếu huyệt. khí vào khiếu huyệt thì bắt đầu niệm khẩu quyết. theo khẩu quyết mà hít khí vào tận khiếu huyệt sao cho khí từ từ dung hợp với khẩu quyết (tức là từng bước, từng câu khẩu quyết đưa khí đi theo đúng trình tự của khẩu quyết), lấy khẩu quyết tới cực hóa khí hậu thiên (tức khí hít vào) trở lại sinh thêm khí tiên thiên (có sẳn trong cơ thể). Khi ý niệm đã tưởng tượng khí hít vào hoàn toàn dung hóa (tức khí hậu thiên hóa hợp trọn vẹn với tiên thiên) và sinh hóa trở lại thì nuốt tân dịch sinh ra (nước dãi trong miệng) đưa vào tận khiếu huyệt, rồi lại tự nhiên hít một ngụm (miệng) khí vào khiếu và tiếp tục niệm khẩu quyết mà hóa khí, lại nuốt tân dịch, trở lại hóa tụ ở khiếu huyệt và cứ tiếp tục như vậy không dứt đoạn, hậu thiên phát động; khẩu quyết công phu giúp (nuôi) dưỡng, tiên thiên sinh trưởng phát triển, cho tới khi hít một ngụm khí vào trong cơ thể niệm được bao nhiêu khẩu quyết thì tùy từng người cảm giác thế nào trong luyện công mà định (tức khí hít vào dẫn đi theo khẩu quyết niệm dài ngắn bao nhiêu là tùy theo công phu hàm dưỡng có thể cảm giác được mà quyết định, tránh gò ép phản tác dụng). yếu lĩnh là: hít khí tự nhiên, tự nhiên niệm khẩu quyết, tự nhiên tụ hóa “khí –quyết”, không nên miễn cưỡng ép khí và thở khí (ra), trong quá trình niệm khẩu quyết sẽ tự nhiên hình thành, còn sự không may bất ngờ thì không kể. Yêu cầu của niệm khẩu quyết là: “khẩu quyết công phu nổi trong tâm, khẩu quyết công phu xuất trong âm (thanh), khẩu quyết công phu nhập vào tai, khẩu quyết công phu qua trong mắt (tức nhìn trở vào nội chiều, tưởng tượng ra), khẩu quyết công phu rơi xuống (là) tâm”. Khẩu quyết thúc đẩy hoạt động, cứ từng âm từng âm (từ ngữ trong khẩu quyết) rơi xuống từng huyệt phải giữ “khí-quyết”, cũng từng âm, niệm quyết. huyền quan chiếu định, khẩu quyết luyện công tương ứng hòa hợp với khiếu huyệt. điều động nguyên khí phát nhiệt nhẩy động, tụ hợp thành châu. Người mới học không cần quá chú ý đến hàm nghĩa trong khẩu quyết luyện công để phải suy nghĩ nhiều, cứ tự trong niệm khẩu quyết luyện công mà dần dần hiểu ra và sẽ là : “cứ nổi trong mù mờ, rồi tự rỏ ràng tới!” phải ghi nhớ là: “ niệm (quyết) mà không niệm, không niệm mà vẫn niệm” và tự chuyển hóa.
B.yếu lĩnh để hiểu được khẩu quyết
Mỗi bước luyện của công phu này đều được diễn hóa dựa theo bức tranh “nguyên cực đồ” hợp với quy luật “sinh hóa ngược” của trời đất để đạt được tới sự đồng bộ của người và trời. yếu lĩnh để hiểu thấu được khẩu quyết chỉ có thể đề ra được sự gợi ý, người học có thể học một suy ra hai ba.
1.trước hết, xét về mặt ý nghĩa từ ngữ để hiểu biết một cách dễ hiểu thì “khẩu quyết luyện công” (nguyên văn “công quyết”) là phép tắc để tu luyện mà cũng là năng lượng vật chất. như câu “hám sơn điền hải bình ba lãng” nếu giảng theo phép tắc thì “sơn” (núi) tức “tâm”. “hải” (biển) là thận, “hám sơn điền hải” (lay non lấp biển) tức là “tâm thận thông nhau”. Khiến cho thận có “chân tinh, chí bảo” do sự khống chế của tâm mà tụ hợp lại ở hạ đan điền do đó có thể làm cho yên ý nghĩ lung tung cũng như tình dục quấy rối trong tâm, chiến thắng tình dục. xét về mặt năng lượng, niệm động câu này thì sẽ sinh ra được năng lượng “lay non lấp biển”, điều động “kim tân ngọc dịch” (chất dịch vàng ngọc) tức là thứ vật chất tinh vi tích tụ sự sinh trưởng có thể tính của tâm thận, công lực đạt tới uy lực chẳng những có thể “lay non lấp biển”, được ở trong cơ thể con người mà còn có thể thông suốt tới giới tự nhiên để sản sinh ra uy lực tựa như “lay non lấp biển ”.
2. hiểu được do bản tính. Ý niệm có thể sản sinh ra động lực, hoạt động của ý niệm phản ánh lên phạm vi của bản tính, ý niệm là sự biểu hiện sơ cấp của “nguyên âm” (âm đầu tiên). Đây là nơi bản tính trao tay, phải thường xuyên quan sát và để tâm tới ý niệm, không ngừng tự ta phải tích cực hóa, bổ xung nguồn năng lượng mới cho khẩu quyết luyện công, nâng cao giác ngộ hóa thành hành động của bản mệnh, thể hiện ra phép tắc “tiếp liên thiên địa tức hậu thiên” (nối liền trời đất tức hậu thiên). Khôi phục năng lượng cực phát của bản mệnh để bổ xung chổ chưa đủ của bản tính, đạt tới độ tương giao. Như câu “lay non dốc biển yên sóng lớn, tân vàng ngọc dịch dài mầm thiêng”, đây là phạm vi của bản tính để làm yên “bẩy tình, sáu dục vọng” (nguyên văn: “thất tình lục dục”) nằm trong thân xác con ngừơi để đối phó với làn sóng cuộc đời (nguyên văn “hồng trần”) trên trần thế do đó có thể sinh phát ra “tân vàng và dịch ngọc” (tức nước dãi còn được gọi là nước thần-“thần thủy”) hội tụ lại trong miệng, ngon ngọt thơm hương . đấy là sự chắc lọc vật chấttinh vi trong thân xác thuộc dạng “trong âm nổi dương” của cơ thể. Uống thứ “tân vàng dịch ngọc” đó đưa xuống hạ đan điền khiến cho thứ tinh túy của bản mệnh quy tụ về hạ đan điền, rồi qua sự thăng hoa, dung hợp vào trong bản tính.
3. vận dụng các khiếu huyệt và kinh lạc trong cơ thể để phát hiện năng lượng tiềm ẩn ở trong khẩu quyết luyện công. Ý thủ hạ đan điền có thể sinh phát ra “tân vàng dịch ngọc”, ý thủ vĩ lư quan có thể nối thông hai mạch nhâm, đốc để mở thành “một đường cao xa sáng rỡ” (nguyên văn “nhất tuyến huyền minh”), “ý thủ hạ hòang đình” có thể “bẩy khiếu mở ra” (tức huyệt mệnh môn, huyệt giáp tích quan, ngọc chẩm quan, thượng hòang đình, thượng đan điền, thiện cung, trung đan điền) thông với chu thiên.
Tầng thứ tư của việc tu luyện là nối thông ba “căn cứ địa” đạt tới “cửu long phần thủy” (chín rồng phun nước) “cửu long” là “cửu khiếu” (chín khiếu tức bẩy khiếu vừa kể trên với hai khiếu trung hòang đình và hòang kim điện). “chín rồng phun nứơc” chỉ việc năng lượng tiềm ẩn trong chín khiếu đã được điều động, hình thành sự vận chuyển biến hóa chu thiên để phá trừ sự “hỗn độn” ban đầu trong cơ thể mà bứơc đầu thấy ánh sáng của thành công.
4.lợi dụng trong “chân kinh không chử” để hấp thu tích tụ năng lượng to lớn biến hóa của tự nhiên, để cải biến tố chất cơ thể, để mở rộng phạm vi ý thức tư duy của con ngừơi, phát triển công năng của “bản tính”. Như những sự biến hóa năng lượng của tự nhiên ở trên đã nhắc: “dời non lấp biển”, “sấm rung chớp giật”, “chín rồng lăn lộn” v v… dung hợp vào làm một bên trong cơ thể và nối thông với quy luật biến hóa của khỏang không vũ trụ. Đó là “trời người tương hợp” đồng bộ và là một khâu trọng yếu theo thứ tự đồng bộ của việc luyện công.
5. bản tính và bản mệnh gặp nhau nối thông trời đất nên có thể ra vào có chổ hở hoặc không có khe hở, bày ra một thế giới mới tinh. Như “non sông đổi”, “xanh ngàn đời”, “vui tiêu dao”, “khôn mới càn diệu”, “dây leo vàng”.
Phép luyện công “hỗn độn sơ khai” có khẩu quyết luyện công chia ra làm bốn tầng: cải biến đối với bản mệnh, phát triển đối với bản tính, đối với sự tương hội với quy luật của tự nhiên v v…
Phép luyện công pháp này ai ai cũng có thể luyện được cả, già trẻ đều được. người học, luyện các phép luyện công khác cũng có thể đồng thời tu luyện khí công tĩnh, cũng thu được lợi ích rỏ rệt. vì do đất này, người này, lúc này mà có khác lạ, có người chỉ sau ít ngày đã thấy hiệu quả có người phải sau mấy tháng mới thu được kết quả. Người có năng lực hiểu biết cao có thể nhân bước luyện công này mà có thể trực tiếp học để tiến bước cao hơn.
D. phép luyện công
Cơ sở xây dựng bước luyện công này là phát sinh tích tụ nguyên khí, cộng lại để vì bốn tầng thứ hạng mà hòan thành công pháp. Tầng thứ nhất là “quyết tụ hạ đan điền”, tầng thứ hai là “quyết tụ vĩ lư quan”, tầng thứ ba là “quyết về hạ hòang đình” và tầng thứ tư là “quyết về hỗn độn sơ khai”. Trước tiên luyện tầng thứ nhất đạt được yêu cầu thì luyện sang tầng thứ hai và cứ tiếp tục như vậy với các tầng sau. Dưới đây là khẩu quyết, phép luyện công và hiệu ứng của từng tầng thứ được phân biệt giới thiệu với bạn đọc:
1. tầng thứ nhất: “quyết tụ ở hạ đan điền”
A. khẩu quyết luyện công (công quyết)
“hám sơn điền hải bình ba lãng
kim tương ngọc dịch trường linh miêu
liễu tử khước sinh trường sinh lộ
âm dương giao hợp lạc tiêu dao.”
“dời non lấp biển yên sóng cả
tương vàng dịch ngọc dài mầm thiêng,
chết rồi vẫn sống đường trường sinh
âm dương giao hợp sướng tiêu dao”
An, Jin, Mí, Bì, Ba, Ýa, Yìn, Pì, Bĩ, Ding (âm Bắc kinh)
Am, Cấm, Mê, Tật, Bát, Áp, Ẩn, Phích, Tỷ, Định (âm hán việt).
B. phương pháp luyện:
tư thế. Kiểu ngồi là chuẩn nhất, ngồi thoải mái tự nhiên là hay, ngồi xếp bằng (thiên bàn thức) càng đẹp. nếu cơ thể yếu ớt, bệnh tật có thể nằm (luyện tập các tầng thứ khác cũng theo tư thế này).
Thủ khiếu. điều chỉnh tư thế, hai mắt hơi nhắm, nhìn ngược vào trong huyền quan. Hít thở tập trung, ý niệm từ huyền quan, từ bên trong mạch nhâm mà xuống, phản chiếu hạ đan điền. bắt đầu ý niệm khai thông cảm giác huyền quan và hạ đan điền có một luồng sáng nối huyền quan và hạ đan điền thành một thể. (Ý) thủ hạ đan điền niệm khẩu quyết công phu động, khẩu quyết rơi đúng hạ đan điền và đồng dạng sủi lên (nổi bọt) trong huyền quan. Trong hạ đan điền có huyền quan, trong huyền quan có hạ đan điền. đó tức là huyền quan (“Tâm”) và hạ đan điền (“khiếu”) hợp nhau quy về một thể. Niệm quyết có thể đạt hiệu quả nhiều kiểu, khai thông hiểu bản tính mà cũng là nối thông bản tính. Nếu nhắm mắt để nhìn vào trong, chiếu trở lại, mà dễ bị mê mẫn thì có thể mở hai mắt nhìn ngang, có thể giữ chắc chót mũi, ý định khiếu huyệt. niệm khẩu quyết cũng có thể từ niệm thành tiếng dần chuyển sang niệm thầm.
Niệm khẩu quyết. nhất tâm niệm quyết, tự nhiên hít khí (vào) rơi xuống tích tụ ở hạ đan điền, niệm đi niệm lại quyết và không ngừng nuốt tân dịch (nước dãi), niệm càng nhiều càng tốt, trăm lần, ngàn lần, vạn lần chưa phải là nhiều. hoặc một tầng thứ luyện công chí ít cũng phải niệm đủ mười hai vạn tám ngàn lần. tính toán số lần niệm quyết, không phải niệm bao nhiêu lần là đúng mà là khi khẩu quyết niệm phải rơi đúng “khiếu” sản sinh ra năng lượng mới là chuẩn. trong quá trình niệm quyết, nếu trong “tâm” khó giữ nguyên bản tính bị ý nghĩ lung tung quấy rối hoặc vì “thủ khiếu” không chuẩn v v… nên cũng có những lần niệm không hiệu quả, vì vậy ngừơi luyện công chỉ cần nắm được ang áng số lần là được. con đường hít khí tự nhiên và niệm quyết vận hành là con đường bên trong theo mạch nhâm vận đi xuống hạ đan điền.
Thời gian luyện quyết. có thể linh họat sắp xếp, tự chủ mà định chọn giờ tập. giờ tý là đẹp nhất.
Thu công. Ngừng niệm quyết, thúc đẩy tân dịch ra nhiều chia làm ba ngụm theo con đường vận hành của niệm quyết mà nuốt tống xuống hạ đan điền. khi bắt đầu luyện thì ý niệm tưởng tượng khí nạp vào đi qua tiền âm mà vào trong, theo công lực mà tiến triển rồi sẽ cảm thấy nguyên khí dạt dào từ tiền âm (đây là mạch nhâm) vận xuống vào hạ đan điền. phương pháp cụ thể là : nuốt một lần tân dịch, nạp một hơi nguyên khí. Xong ba lần, “tâm” sẽ định ở hạ đan điền. dùng ý dẫn động tân dịch ở trong “khiếu” hỗn hợp với nguyên khí thành năng lượng mà vận chuyển theo chiều kim đồng hồ từ trong ra ngoài, xoay tròn chín lần thành kiểu vòng tròn xóay trôn ốc từ nhỏ ra to dần (nữ thì vòng tròn xoay ngược chiều kim đồng hồ). tiếp đó lại theo ngược chiều kim đồng hồ vận hành năng lượng từ ngoài vào trong cũng theo vòng tròn xóay trôn ốc từ to nhỏ dần đủ 9 vòng (lần này nữ xoay vòng tròn ngược lại, tức thuận chiều kim đồng hồ) rồi tụ thành một điểm nằm ở tâm hạ đan điền. diện tích vòng tròn xóay trôn ốc không có đường kính quá 1 tất 3 phân ta là được (độ 4-5 cm). nhìn trước ra sau thành mặt phẳng vuông gốc. chiếu theo yêu cầu trên mà thu công, song nếu thấy ở hạ đan điền vẫn còn năng lượng từ trong tán loạn ra ngoài hoặc cảm thấy trong bụng trướng lên khó chịu, như thế tức là khi thu công đã không hòan tòan tích tụ được năng lượng lại thành một điểm thì phải làm động tác thu công lại môt lần nữa hoặc mấy lần cho đến khi thấy đan điền dễ chịu, bụng yên trở lại thì ngừng. xin chú ý là chớ có thu công qua loa hoặc không thu công mà đạ ngủ thiếp đi khiến năng lượng kích phát được không thu vào hạ đan điền nên lại theo dòng trong giấc ngủ mà thóat hết ra ngoài thì nam sẽ bị di tinh, nữ bị rụng trứng.
C. công hiệu:
tu luyện hạ đan điền bắt đầu cảm thấy hạ đan điền máy động, phát nóng, hai thận căng lên, huyệt hội âm máy động và thấy có khí cảm, trong miệng tân dịch (nước dãi) ứa ra nhiều từ loãng dần thành đặc, từ không mùi vị dần trở nên có hương vị ngọt ngào. Đầu óc dần trở nên trong sáng linh hoạt, tinh lực gia tăng. Sự nhìn ngược vào trong bụng từ mờ tối dần sáng sủa, từ màu ngả đen biến sang màu xanh sáng, dần dần phát sáng. Tòan thân thư thái, trong lòng khoan khoái vui tươi, theo thời gian, huyệt vĩ lư quan ngấm ngầm rung động, như căng lên.
Hạ đan điền luyện ra tinh của hậu thiên. Tùy theo công phu sâu sắc, nam giới có hiện tượng dương “cương” thì phải tĩnh tâm niệm quyết đừng để hiện tượng cương cứng kéo dài mà phải hóa tinh cho trở về hạ đan điền. nữ khi luyện công phu này sẽ thấy chu kỳ kinh nguyệt sớm hơn hay muộn đi, bụng dưới căng đau kinh nguyệt ra nhiều hơn v v… đây là do bên trong cơ thể được thúc đẩy đổi mới. sự đổi mới đó đã điều chỉnh chu kỳ kinh nguyệt phải thay đổi, nói chung chỉ sau 3 tháng kinh nguyệt sẽ trở lại bình thừơng. Ngừơi có bệnh phụ khoa sẽ tự thiên giảm.
Nguyên khí ở hạ đan điền máy động, tích tụ lại thành khối tròn, khi cảm giác thấy như vậy là đã có thể chuyển sang tầng luyện tập thứ hai tức là luyện huyệt vĩ lư quan.
2. Tầng thứ 2: “Quyết tụ ở vĩ lư quan”
A. khẩu quyết luyện công:
“Tiên thiên nhi lão hậu thiên sinh
Phong lôi chấn phá xuất khổ luân
Nhất tuyến huyền minh thong thiên lộ
Lưỡng cực điên đảo biệt hữu xuan.”
“Tiên thiên sinh trước hậu thiên sau
Sấm gió chuyển rung bánh xe đau
Đường trời 1 tuyến huyền diệu sang
Hai đầu điên đảo nẩy mùa xuan.”
(Âm Bắc kinh): An, Jin, Mí, Pì, Ba, Yì, Yìn, Bĩ, Dìng.
(Âm Hán Việt): Am, Cấm, Mê, Phích, tật, bát< Áp, Ẩn, Tỷ, Định.
B. Phương pháp luyện công:
Tư thế: Các yêu cầu giống như tầng thứ 1.
Thủ khiếu: Yêu cầu cơ bản của tầng 2 cũng như tầng thứ nhất. Nhìn ngược vào trong vào Vĩ Lư quan. Đường nhìn vào trong là từ Huyền quan hướng vào trong, mem theo mạch nhâm xuống hạ đan điền rồi đi xuyên qua mà đến Vĩ lư quan, hình thành đường đi theo hình chử “nhân”.
Khẩu quyết luyện công: Dố long niệm quyết, hít khí tự nhiên, khí , quyết vào rơi xuống tích tụ ở Vĩ lư quan. Cứ niệm đi niệm lại, càng niệm nhiều càng tốt, trăm lần, ngàn lần vạn lần… phải đạt ít nhất mười hai vạn tám ngàn lần. Niệm quyết tự nhiên hít khí và cho vận hành, đường đi từ trong Huyền quan đi theo mạch Nhâm qua hạ đan điền và cũng xuyên qua mà tới Vĩ lư quan (mạch nhâm đi tới cuối cùng là huyệt Hội âm phải băng qua giang môn (hậu môn) sang huyệt Trường cường, Vĩ lư quan).
Thời gian luyện công: Tự sắp xếp linh hoạt, tùy “duyên” mà định, giờ sửu (từ 01 đến 03 giờ) là đẹp nhất.
Thu công: Ngừng niệm khẩu quyết luyện công, thúc cho tân dịch (nước dãi) ra nhiều. Chia nước dãi ra ba ngụm, theo con đường niệm “quyết-khí” mà tống nước dãi xuống Vĩ lư quan đồng thời nâng Hội âm (tức hậu môn) dung ý niệm tưởng tượng đang thu nguyên khí (theo đường nước dãi nuốt) ba lần vào Vĩ lư quan. Phương pháp cụ thể là: Nuốt một ngụm nước dãi là lại nạp vào một lần nguyên khí, nuốt ba ngụm nạp ba lần nguyên khí là xong, tân dịch ở Vĩ lư quan (tức “ý thủ” ở Vĩ lư quan). Dùng ý niệm tưởng tượng thúc đẩy tân dịch và nguyên khí vừa nạp vào Vĩ lư quan, hỗn hợp với nhau biến thành năng lượng, xoay chuyển từ trong ra ngoài 9 vòng theo chiều kim đồng hồ (nữ thì xoay ngược lại, ngược chiều kim đồng hồ). Sau đó lại từ ngoài xoay vào trong 9 vòng ngược chiều kim đồng hồ (nữ xoay thuận chiều kim đồng hồ) tụ lại ở một điểm ở ngay huyệt Vĩ lư quan. Đường kính vòng xoay không vượt quá 1 tất ba phân ta, từ sau ra trước thành mặt phẳng vuông góc. Còn yêu cầu thu công thì giống như tầng thứ nhất.
C. Công hiệu:
Tu luyện Vĩ lư quan tức là kính phát “âm ở trong dương” ở trong khiếu, bắt đầu Vĩ lư quan máy động, có cảm giác ngứa ngáy rồi dần thấy căng đau, càng lâu càng đau nhói như bị châm. Cảm giác đau này kéo dài ít nhất cũng 1-2 ngày, nhiều thì ít hôm (phần lớn là đau một số ngày). Đó chính là triệu chứng tốt chứng tỏ năng lượng tích tụ đã xông qua quan, qua huyệt khiếu, từ cách nhìn ngược vào trong có thể thấy ở Vĩ lư quan lóe lên hai điểm sáng, trái là điểm đen (Hắc điểm), phải là đầu trắng (Bạch đầu) lập lòe sang tùy theo khẩu quyết niệm công lên xuống. Khẩu quyết niệm công rơi xuống hai điểm đen trắng chính là linh khí âm dương trong cơ thể đã sống động hiện ra do đó phải tập trung hết sức chăm chú vào đôi mắt nhìn ngược vào trong, chằm chặp chú mục vào hai điểm đen trắng. Có như thế mới dốc toàn lực mong điều động được năng lượng xông phá được “cửa quan”
Năng lượng tụ đủ tự khắc bản than cảm thấy năng lượng trong khiếu đang sục sôi dâng trào không sao chặn nổi. Đó là hiện tượng “khí quyết” (tức năng lượng hội tụ) bắt đầu xông qua quan nên phải tĩnh tâm giữ tốt Vĩ lư quan. Khi bị kích thích châm đau khó chịu nổi, đó chính là lúc khẩn yếu của việc xông qua quan nên phải lấy tinh thần “không sợ gì cả” để chiến thắng (cơn đau và sự phân tán tư tưởng, ảnh hưởng đến sự xông phá quan). Khi đang xông quan, bỗng nhiên thấy thân mình nhẹ bỗng, tinh thần mạnh mẽ, có thể ngửi thấy “tính hương” (hương thơm của tính). Xông quan xong thì luồng nhiệt năng nóng hổi ào ạt xông qua, trong tâm chợt thấy xướng vui, năng lượng vượt qua huyệt Mệnh môn hay lên tận giáp tích, hoặc có khi vượt cả Ngọc chẩm vào tận Hoàng cực (tức đại não) không cần ý dẫn, mà cứ để tự nhiên như sẵn vậy. Việc xông quan không nhất định cứ phải xuất hiện trong khi luyện công mà có khi tự nhiên thong quan ngay trong giấc mộng.
Do đau mà khí thong qua Vĩ lư xong, tinh thần thanh sảng, sẽ cảm thấy nguyên khí xuyên đi trước sau cơ thể mà vận hành, bệnh tật giảm ngay rỏ rệt, người xưa bảo thông Vĩ lư quan là đã “đạp phá tan cửa địa ngục”.
Xông qua quan là công lực tụ hợp được đã có hiệu lực rõ rệt. Nhưng không thể nhắm mắt mong cầu bằng được. Giả như không thấy xuất hiện tình hình như vừa kể trên, mà chỉ cần cảm thấy năng lượng ở Vĩ lư quan trong khi xung động thành khối cầu hoặc ở Vĩ lư quan với hạ đan điền có hai luồng năng lượng gặp nhau, bắn vào nhau và máy động ở khoảng giữa thì nơi đó là hạ Hoàng đình xuất hiện lần đầu; hoặc thấy xuất hiện hai điểm đen trắng; cũng có thể Vĩ lư quan như bị xé ra; hoặc ngửi thấy mùi thơm lạ v.v… thì cũng đã có thể chuyển sang luyện tầng thứ ba là tu luyện Hạ Hoàng đình.
3. Tầng thứ 3” “Quyết quy về Hạ Hoàng đình”
A. khẩu quyết luyện công:
“Nguyên khí hóa sinh hợp hậu thiên,
Thất khiếu sơ khai thiên địa liên,
Sinh hóa vạn vật vô nhân, ngã,
Nhất nguyên phục thủy tân càng khôn”
“Nguyên khí hóa sinh hợp trước sau,
Bẩy khiếu vừa mở trời đất liền nhau,
Vạn vật sinh hóa không còn ai cả,
Trời đất đổi mới, một nguồn về đâu!”
(Âm Bắc kinh): An, Jin, Mí, Pì, Bà, Yà, Yĩn, Bĩ, Dìng.
(Âm Hán Việt): Am, Cấm, Mê, Phích, tật, Bát, Áp, Ẩn, Tỷ, Định.
B.Phương pháp luyện công:
Tư thế: Như tư thế tập luyện ở tầng thứ nhất thứ hai.
Thủ khiếu: Yêu cầu cơ bản như ở tầng luyện thứ nhất.
Nhìn ngược vào trong (nội thị) xuống Hạ Hoàng đình. Đường “nội thị” từ trong theo mạch Nhâm, đi qua Hạ đan điền đến Hạ Hoàng đình cũng giống như đường vận hành khi ý thủ Vĩ lư quan. Còn như vận khẩu quyết đi đến các khiếu thì ý niệm thủ khiếu căn cứ vào sự tuần hoàn đến các khiếu huyệt để biến hóa không ngừng. Ví dụ quyết vận đến Mệnh môn thì nhìn ngược vào trong, thủ đúng Giáp tích quan…, cứ thế cuối cùng quy về Hạ Hoàng đình.
Niệm quyết: Dốc long niệm quyết, hít khí tự nhiên, rơi đúng vào Hạ hoàng đình. Bắt đầu theo khiếu mà vận hành. Phương pháp cụ thể như sau: không ngừng thầm niệm khẩu quyết luyện công, dẫn đường khẩu quyết luyện công đến Vĩ lư quan, Mệnh môn, Giáp tích quan, Ngọc chẩm quan, Thượng Hoàng đình, Thượng đan điền, Thiện cung, Trung đan điền nối thông Hạ đan điền rồi rơi quy về hạ Hoàng đình. Trong quá trình vận hành châu thiên phải niệm quyết không ngừng, dung ý dẫn quyết tùy theo khiếu mà đi vòng, mỗi khi đến khiếu huyệt , giữ chắc khiếu niệm khẩu quyết luyện công một lượt rồi lại tiến lên đến khiếu huyệt khác. Lại giữ chắc ở khiếu, niệm khẩu quyết luyện công một lượt rồi lại niệm quyết mà không ngừng vận hành theo ; cuối cùng thở thai. Một vòng tuần hoàn kết thúc nuốt một lần tân dịch và đưa xuống Hạ Hoàng đình là được. Càng làm nhiều vòng càng hay. Trăm lượt, ngàn lượt, vạn lượt. Muốn tròn vẹn tầng thứ luyện công này, việc niệm khẩu quyết luyện công không thể ít hơn mười hai vạn tám ngàn lượt.
Thời gian luyện công. Tùy “duyên” mà định, nhưng giờ Dần là chuẩn nhất (từ 3-5 giờ sang).
Thu công: Ngừng niệm quyết, thúc cho nước dãi ứa ra nhiều. Chia làm ba ngụm, đưa theo mạch Nhâm xuống Hạ Đan điền đưa vào Hạ Hoàng đình, đồng thời nâng tiền âm và hậu âm với ý tưởng nạp chân khí của vũ trụ ba lần nhập vào Hạ Hoàng đình. Phương pháp cụ thể là: nuốt một ngụm tân dịch, nạp một lần nguyên khí, xong ba lần là xong, tâm định ở Hạ Hoàng đìn. Dùng ý dẫn động tân dịch và nguyên khí trong Hạ Hoàng đình hỗn hợp với nhau thành năng lượng, dẫn động năng lượng theo chiều kim đồng hồ xoay vòng tròn từ trong ra ngoài 9 vòng (nữ làm ngược chiều kim đồng hồ) rồi lại dẫn động năng lượng xoay từ ngoài trở vào trong cũng 9 vòng (lần này nữ làm thuận chiều kim đồng hồ) rồi cố định ở một điểm chính giữa trong Hạ Hoàng đình. Đường kính vòng tròn xoáy trôn ốc không được lớn quá 1 tấc 3 phân ta, nhìn từ trên trở xuống đúng là mặt phẳng vuông gốc ngang.
C. công hiệu:
Tu luyện Hạ Hoàng đình tức là tụ hợp “dương trong âm” của Hạ đan điền với “âm trong dương” của Vĩ lư quan vận quyết tuần hành khắp toàn than bẩy khiếu, mỗi khiếu đều máy động (bẩy khiếu, xin nhắc lại là huyệt: Mệnh môn, Giáp tích quan, Ngọc chầm quan, Thượng Hoàng đình, Thượng Đan điền, Thiện cung, trung đan điền) và nguyên khí toàn than cứ tuần hành không ngớt, tinh thần cực kỳ hưng phấn. Người có công phu sâu có thể thấy Hoàng đình của mình sâu như vực thẳm âm u không có ánh sang trời, như kinh phật đã dạy: “Kim vàng không đáy”. Ý thủ chuẩn ở Hạ Hoàng đình, dốc lòng niệm quyết, dốc toàn thân ra mà niệm quyết, dần có thể thấy 1 điểm sáng, tùy theo công lực tăng cường mà thấy ánh sáng thành vòng càng lâu càng sang, càng tụ càng thu nhỏ lại, và vực sâu thăm thẳm cũng theo ánh sang mà tàn mất đi. Đó là nguyên khí của tiên thiên và hậu thiên gặp gỡ, ngưng hợp trong Hoàng đình thành minh châu, tức là đạt tới giai đoạn mở đầu sơ cấp của “tính mệnh gặp gỡ”.
Vận quyết vận hành khắp châu thân, điều động nguyên khí tuần hành theo Hạ Hoàng đình máy động nhanh nhẹn hoặc nhìn ngược vào trong thấy minh châu rực rỡ đang lăn lộn là có thể chuyển sang luyện tập tầng thứ tư của công phu là “Quyết Hỗn độn sơ khai”.
4. Tầng thứ 4: “Quyết Hỗn độn sơ khai”
A. khẩu quyết luyện công:
“Tứ duy thượng hạ nhất càn khôn
Hồng trần cổn cổn vị thành công.
Bao hàm vạn vật thành hỗi độn,
Cam lộ kết thực tại trung tâm.
Ngưu Lang ho alai vi Bàn Cổ
Tạc khai hỗn độn xuất Càn Khôn.
Cửu long phún thủy phân phân tửu
Côn luân sơn thượng trường kim đằng”.
Các từ khẩu quyết vẫn là:
“Bốn giữ dưới trên nhất Càn Khôn
Bụi hồng cuồn cuộn chửa thành công.
Bao hàm vạn vật thành hỗn độn,
Móc ngọt kết quả ở trung tâm.
Ngưu Lang hóa lại là Bàn Cổ,
Đục từ hỗn độn nẩy Càn Khôn.
Chín rồng phun nước nồng hương rượu
Đỉnh Côn Luân dài dây lao vàng”.
(Đọc âm Bắc Kinh): Àn, Jìn, Mí, Pì, Bì, Bà, Yà, Yỉn, Bĩ, Di2ng.
(Đọc âm hán việt): Am, Cấm, Mê, Phích, Tật, Bát, Áp, Ẩn, Tỷ, Định.
B. phương pháp luyện công:
Tư thế: Yêu cầu giống như tập ở tầng thứ nhất.
Thủ khiếu: Bắt đầu luyện công trước hết phân biệt rõ “thủ” hạ đan điền, Vĩ lư quan và Hạ Hoàng đình. Xong rồi vận hành Chu thiên (toàn than). Théo đúng thứ tự các giờ Mão (5-7 giờ), Thìn (7-9 giờ), Tỵ (9-11 giờ), Ngọ (11-1 giờ chiều) Mùi (13-15 giờ), Thân (15-17 giờ), Dậu (17-19 giờ), Tuất (19-21 giờ), Hợi (21-23 giờ đêm) để bắt đầu các huyệt đạo tương ứng theo đường vận hành “âm thuận dương nghịch”, “dương trên âm dưới”, với ý niệm “tùy khẩu quyết vận hành mà hành khí”, đối với các khiếu huyệt trên đường vận hành nơi dừng hơi thủ, phục khí lại tiến một khiếu huyệt, cuối cùng chia rõ ràng ra mà quy về “ba căn cứ địa”, phân biệt cho rơi vào “ba căn cứ địa” hạ đan điền, Vĩ lư quan và Hạ Hoàng đình. Phương pháp cụ thể là:
+thứ nhất. khởi công phu từ Mệnh môn, tuần hành trên dưới, phân biệt cho rơi vào ba “căn cứ địa”. Không ngừng niệm khẩu quyết, dung ý dẩn quyết sinh và phát ra từ Mệnh môn.
1) Đi lên mạch Đốc qua Giáp tích quan, Ngọc chẩm quan đến tận thượng Hoàng đình.
2) Đi xuống mạch Nhâm qua Huyền quan, Thiện cung, Trung đan điền qua Hạ điền đến Hạ Hoàng đình.
3) Đi lên mạch giữa qua Trung Hoàng đ2inh, Hoàng kim điện, Thượng Hoàng đình tới Huyền quan.
4) Đi xuống mạch Nhâm qua huyền quan, Thiện cung, Trung đan điền.
5) Rơi xuo61ngha5 đan điền. Cứ thế vận hành lien tục 3 lần, đều rơi xuống hạ đan điền.
+thứ hai. Khởi công phu vậy quyết ở Mệnh môn theo như đã kể ở trên từ 1) đi đến 4) đến Trung đan điền, qua Hạ đan điền, rơi xuống Vĩ lư quan 3 lần.
+thứ ba. Khởi công phu vận quyết từ mệnh môn theo như đã kể ở trên từ 1) đến 4) Trung đan điền, qua hạ đan điền, rơi xuống Hạ Hoàng đình 3 lần.
+thứ tư. Nguyên khí Mệnh môn quy về rơi xuống “căn cứ địa”, đường vận hành giống như đường vận hành lúc khởi công phu ở Mệnh môn, chỉ khác nhau ở chổ lần này công phu khởi lên từ Giáp tích quan.
+thứ năm. Nguyên khí từ Giáp tích quan quy về rơi ở “căn cứ địa” theo thứ tự là Ngọc chẩm quan, Thượng Hoàng đình, Huyền quan, Thiện cung, trung đan điền, Trung Hoàng đình cuối cùng là Hoàng kim điện.
+thứ sáu. Mỗi một khiếu huyệt khởi công phu vận quyết tốc độ do mọi người tự nắm vững, vận hành chậm càng tốt, làm sao được như nhớ như quên, như còn như mất, không nhanh không chậm quá. Từ khởi công phu vận hành đến rơi ở khiếu huyệt, suốt cả quá trình vận hành không ngừng niệm quyết, không kể tính đến số lần niệm là bao nhiêu và cũng không nói đến chuyện phối hợp (khí) với quyết ra sao, khả năng có thể niệm nhiều ít bao nhiêu thì niệm bấy nhiêu (tức là niệm quyết đồng thời với vận hành khí, khí quyết đi tốc độ cùng nhau, khí đi không ngừng quyết cũng niệm không ngừng, không được bên nhanh bên chậm chệch choặc, hoặc lo đếm lần niệm quyết mà quên khí quyết đồng hành).
+thứ bẩy. Vận luyện “Tam hoàn cửu chuyển” của tầng thứ này phải mỗi “căn cứ địa” công phu rơi (khí vận và quyết niệm) đủ hai mươi bảy lần. Ba căn cứ địa cộng lại 81 lần. Người có điều kiện có thể làm tăng theo số 162, 243, 324 lần (tức là tăng số lần công phu rơi ở căn cứ địa lên gấp 2,3,4… lần tức 27x2, 27x3, 27x4…). Hàng ngày luyện công tối đa chỉ được 4 lần đạt tới con số kia rồi, hơi “định” là có thể thu công. Vận luyện “Tam hoàn cửu khiếu” thì đối tượng tu luyện phải là nam nữ không còn nhu cầu sinh dục nữa. Nữ tiến hành vận luyện là tạm tắt kinh nguyệt vì “chí bào quay về nguồn đầu” để tinh lực hưng vượng đổi lại thanh xuan. Nam thì “hóa tinh thành khí” đó là thuốc thần để trường sinh. Nhưng chiếu theo phép này luyện công có thể hành khí nhập đạo, ảo diệu ra sao tự mình sẽ biết.
+thứ tám. Đối với người chưa thành hôn hoặc nam nữ ở tuổi sinh đẻ luyện công pháp theo tầng thứ này thì không ne6nluye65n theo phép “Tam hoàn cửu khiếu”. Mỗi lần luyện công chỉ thủ (khí) niệm quyết ở ba “căn cứ địa” chứ không vận hành, luyện “thủ” ba căn cứ địa thì thời gian chỉ chiếm khoảng 1phần ba. Phương pháp cụ thể là Mặc niệm (niệm thầm) khẩu quyết luyện công, đầu tiên thủ ở hạ điền rồi thủ đến Vĩ lư quan và cuối cùng lại thủ ở Hạ Hoàng đình. Trước khi chuyển đổi một vị trí khiếu huyệt, nuốt một ngụm nước dãi, hơi định ở khiếu huyệt đó tức đã có thể chuyển sang khiếu huyệt kế tiếp và tất cả cũng làm y như vậy. Phương pháp luyện công này tuy có thể đạt được kết quả nhưng lai không ảnh hưởng đến chức năng sinh dục.
+thứ chin. Khẩu quyết luyện công ở tầng thứ tư này có thể niệm thầm, cũng có thể niệm thành tiếng.
Thời gian luyện công
Luyện công dựa theo thời gian mở tương ứng của khiếu huyệt càng tốt, như giờ Mão là huyệt Mệnh môn, tức là đến giờ Mão chuyên luyện huyệt Mệnh môn khở công phu để rơi xuống 3 “căn cứ địa”. Giờ Thìn chuyên luyện giáp tích quan khởi công phu để rơi xuống 3 căn cứ địa”. Các giờ khác cũng suy ra như vậy. Mỗi lần luyện công, trừ trọng điểm khai mở các khiếu huyệt theo giờ ra còn phải làm đủ 81 lần tới công phu (xem mục thứ 7 ở trên) để chiếu cố đến tính chỉnh thể của sự luyện công. Người không có thời gian chuyên luyện đúng giờ thì cứ tùy thời gian thuận tiên mà vận chuyển công phu cũng được.
Thu công. Khi mỗi khiếu huyệt khởi công phu 3 lần, vận hành khí huyết 3 lần, rơi xuống hạ đan điền nuốt một ngụm nước dãi (tân dịch) vào hạ đan điền không cần từ “nhị âm” (tức tiền âm và hậu âm) nạp vũ trụ nguyên khí nữa mà chỉ cần dung ý niệm đánh động nguyên khí có sẳn từ trong khiếu huyệt và thuận theo chiều kim đồng hồ cho xoay ba vòng xoáy trôn ốc từ trong ra ngoài (nữ thì xoay ngược chiều kim đồng hồ). Khi xoay trở lại thì lại xoay từ ngoài vào trong ngược chiều kim đồng hồ 3 vòng (nữ lần này lại thuận chiều kim đồng hồ) rồi cho tụ lại thành một điểm. Khi khởi công phu ở Vĩ lư quan và Hạ Hoàng đình cũng làm y như thế.
C. công hiệu:
Vận luyện công phu “cửu khiếu” qua “tam hoàn cửu khiếu” phải liền thành một thể, hình thành một hệ thống vận hành công phu mới. Ba nơi “căn cứ địa” được xây dựng do vận chuyển đầy đủ. Nhìn ngược vào trong đến toàn than thấy một làn khí trắng mờ mịt, trong thực ngoài mờ, tiến theo sự vận hành (của khí quyết niệm công phu) dần dần từ trắng ngã sang màu đỏ, tiếp tục nữa lại đổi sang vàng. Bên trong thì có các màu đen, lam, xanh, tím, lục năm màu xoay chuyển mà phía sau là màu trắng mịt mờ càng lâu càng co lại, càng nhỏ, kết thành 1 cục khí trắng. Rồi từ cục khí trắng ngưng động lại thành hạt châu sang rơi xuống Hạ Hoàng đình, trong miệng tân dịch thơm phức ngọt ngào, huyệt Lao cung (nam trái nữa phải) có thể phát ra “tính hương” (hương thơm của tính). Đến lúc này mới là cơ sở luyện công đã thành.
D. yếu lĩnh luyện công:
1. hiệu ứng luyện công và xét trên than thể cảm thấy có biến hóa từ sự “nội thị” (nhìn ngược vào trong) đến cảnh tượng “nội thị” thấy, chỉ có thể ân chứng một mặt công hiệu thì không thể phản ảnh chân thực toàn diện việc luyện công được. Hiệu ứng luyện công lấy tân dịch (nước dãi) trong miệng là chính, dốc lòng không rối loạn, thủ khiếu huyệt chuẩn, niệm hiểu khẩu quyết, thu công tốt, chính ngộ, chính tinh tiến (hai trong “8 chính đạo” hay còn gọi là “bát nhã” của phật pháp: chính tri giác, chính tư duy, (3) chính ngộ, chính nghiệp, chính mệnh. (6) chính tinh tiến, chính niệm và chính định) thì tân dịch trong miệng tất ngọt thơm, ngày càng tăng và biến hóa. Nếu miễn cưỡng, vội vã thủ khiếu quá gấp, nội tâm bị đòi hỏi quá đáng, tân dịch trong miệng hoặc khô đi hoặc quá đắng, lừng chừng lưỡng lự ý nghĩ lung tung không trừng bỏ nổi. Thủ khiếu huyệt không chuẩn tất dãi loạn vô vị, dãi đắng vô ích thì phải tìm nguồn gốc để kịp thời chấn chỉnh. Thân tâm thư thái, thuận theo tự nhiên, tĩnh tâm niệm khẩu quyết hành công thì tân dịch tự nhiên đậm đặc ngọt thơm, càng ngày càng them ngọt, sướng mà không sao nén nổi. Đưa tân dịch vào đúng huyệt khiếu tương tứng, trả đơm kết của báu, ích lợi khôn lường, dài mãi không bao giờ dứt, sự tuyệt diệu ra sao tự mình sẽ rỏ. 2.Trong phương pháp luyện công chỉ ra những điều trọng yếu lớn nhất đối với hiệu ứng của sự luyện công. Có những hiệu ứng lớn lao còn vượt xa những điều đã kể ra ở trên, đó chính là sự “khai ngộ” khẩu quyết công phu mà bản tính đã đạt tới, lấy tâm ra để chứng tỏ khắc rõ. Tâm không hoang mang, phiền na4om hồi hộp, tất cả đều cứ bình thường tuần tự mà tiến, bất tất phải cố theo đuổi dở hay. Miệt mài tinh tiến tất ngày một mới, tháng một khác lạ.
3.Người không biết “thủ khiếu” hoặc vì thể chất không thích ứng, người không thể “thủ khiếu” được, thì cần dựa theo đúng yêu cầu thầm niệm khẩu quyết luyện công, chẳng “thủ khiếu” huyệt nào cả cũng đạt tới một độ công phu hỏa hầu nhất định, và lúc đó khẩu quyết luyện công cũng sẽ tự nhiên rơi đúng khiếu huyệt tương ứng.
4.Trong quá trình luyện công đột nhiên thấy tâm bứt rức, mê mẩn hoặc tự nhiên cảm thấy luyện công là vô vị, không ham tích luyện công nữa thì phải tự dấy lên sực coi trọng cao độ việc luyện công đang tiến tới giờ khắc mấu chốt nhất. “Có đạo tất cũng có ma” nên phải phát động chân tâm, bám chắc “mười chử châm ngôn” (tức “Am, Cấm, Mê, Phích, Tật, Bát, Áp, Ẩm, Tỷ, Định”, lược dịch ý khi nối liền cả mười chữ lại là “Chúng ta cấm mê vọng mau hít đè ẩn sẽ định”), chỉ cần có thì giờ lại niệm thầm, dung chân kinh không chữ để xua đuổi những trở ngại làm rối loạn bản tính. Chỉ cần kiên trì tin tưởng, định vững tâm tình, dũng mãnh tiến tới sẽ tự nhiên xua đuổi tbỏ hết tà ma, tâm tình vui sướng, càng gần gũi với phương pháp luyện công để tu luyện thành công.
5. Phải “thủ khiếu” chuẩn. Khiếu huyệt chuẩn sẽ chứa đựng được vô hạn năng lượng. Nếu “thủ” không chuẩn thì trong bụng đầy chướng lên, thủ khiếu huyệt không chuẩn mà còn đưa tới nấc ợ, phì khí ra hậu môn. Lỡ thấy có các hiện tượng như trên thì phải “thủ” lại khiếu huyệt cho chuẩn, hai là phai co nâng hậu môn lên, dung ý dẫn nguyên khí lên mạch Đốc, xuống mạch Nhâm, hành khí mới chu thiên để điều chỉnh.
6. Khi chuyển sang luyện tập ở tầng thứ sau, trước mỗi khi luyện công (sang tầng mới) thì phải ngồi niệm lại khẩu quyết công phu tầng củ vài ba lần rồi mới chuyển sang niệm khẩu quyết luyện công tầng thứ mới để duy trì sự chỉnh thể và sự lien tục của cả trình tự luyện công phu. PHÁP XEM CANH GIỜ THEO ÂM LỊCH XƯA
Mọi người hay nhầm tưởng là ban đêm tính bằng canh và ban ngày tính bằng khắc, thật ra, không phải là như vậy. ban ngày không tính bằng "Khắc" mà tính theo từng giờ giấc qui định theo thuật Can Chi.
Theo lịch cổ, "Thời" và "Khắc" là đơn vị thời gian. Thời được tính theo giờ và Khắc được tính theo phút. mỗi ngày đêm chia thành 12 thời (mỗi thời tương đương 2 giờ). mỗi khắc = 1/100 *ngày, tức là: (24*60)/100 = 14,40 phút , đến triều Nguyễn lại đổi 1 khắc = 1/96* ngày, tức bằng 15 phút ("khắc" là chỉ vạch khắc trên thùng nhỏ nước tính giờ, một ngày đêm thì nhỏ hết 1 thùng).
Người xưa thích dùng lịch can chi (hay còn gọi là: Thập Can Thập Nhị Chi) là hệ thống đánh số thành chu kỳ được dùng tại các nước có nền văn hóa Á Đông như: Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore.... Nó được áp dụng với tổ hợp chu kỳ sáu mươi (60) trong âm lịch nói chung để xác định tên gọi của thời gian.
Can được gọi là Thiên Can hay Thập Can do có đúng thập (10) can khác nhau: Canh (0), Tân (1), Nhâm (2), Quý (3), Giáp (4), Ất (5), Binh (6), Đinh (7), Mậu (, Kỹ (9).
Chẳng hạn: Năm 1960: Canh Tý; Năm 1970: Canh Tuất; Năm 1980: Canh Thân ...
Chi được gọi là Địa Chi hay Thập Nhị Chi do có đúng thập nhị (12) chi khác nhau: Tý (1) , Sửu (2), Dần (3), Mão (4), Thìn (5), Tỵ (6), Ngọ (7), Mùi (, Thân (9), Dậu (10), Tuất (11), Hợi (12).
Tất cả các Can Chi và Địa Chi kết hợp với nhau sẻ thành chu kỳ 60 năm hay còn gọi là "lục thập hoa giáp", chu kỳ của một đời người.
Hoa 10 giờ, người xưa gọi là Hoa Tý Ngọ - Ảnh Minh HọaĐể tính thời gian của một ngày đêm, người ta chia từ giờ Tý (tức là từ 23 giờ tối hôm trước đến 1 giờ sáng hôm sau)... và giờ Hợi (từ 21 giờ đến 23 giờ trong ngày).
Giờ Tý: 23 giờ → 1 giờ sáng
Sửu: 1 → 3
Dần: 3 → 5 (Giờ Cọp đi ăn trở về lại rừng)
Mão: 5 → 7
Thìn: 7 → 9
Tỵ: 9 → 11
Giờ Ngọ: 11 → 13 (đúng Ngọ tức là 12 giờ trưa)
Mùi: 13 → 15
Thân: 15 → 17
Dậu: 17 → 19 (Giờ Gà lên chuồng ngũ)
Tuát: 19 → 21
Hợi: 21 → 23
Người xưa rất chú trọng về thời gian của ban đêm (tối lửa, tắc đèn), các chính quyền thời phong kiến đặt ra các viên tuần kiểm (tuần tra ban đêm) nhằm báo hiệu giờ, khắc theo từng thời gian trôi qua trong một đêm, bằng tiếng hiệu lệnh của :kẻng". Họ nghĩ rằng, mỗi đêm chỉ có 10 giờ (từ 7 giờ tối đến 5 giờ sáng), nó trùng với Thập Can, mà Thập Can lại bắt đầu bằng chử "Canh → 0", từ đó họ chia một đêm (10 giờ) thành 5 canh (từ canh 1 tới canh 5).
Tên Canh
Thời Gian
Canh 1
Từ 19 giờ đến 21 giờ tức giờ Tuất
Canh 2
Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya tức giờ Hợi
Canh 3
Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng tức giờ Tý
Canh 4
Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng tức giờ Sửu
Canh 5
Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng tức giờ Dần
Vì ban ngày là rỏ ràng minh bạch, do vậy phải định vị thời gian cho thật chuẩn xác theo từng giờ, nên vào thời gian nào thì có tên gọi đúng như vậy, chẳng hạn, giờ Ngọ là giữa trưa (từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều).
Mọi người hay nhầm tưởng là ban đêm tính bằng canh và ban ngày tính bằng khắc, thật ra, không phải là như vậy." Đêm 5 Canh, Ngày 6 Khắc"chỉ là nhân cách hóa sự chờ đợi, theo thời gian mà thôi, ở đây là cách phân biệt giữa ban ngày và ban đêm, cũng như người ta nói "49 gặp 50" vậy. Ban ngày không tính bằng "Khắc" mà tính theo từng giờ giấc qui định của thuật Can Chi (Tý, Sử, Dần Mão..).
Trong "Cung Oán Ngâm Khúc" của Nguyễn Gia Thiều có câu:
"Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng
Ðêm năm canh lắng tiếng chuông rền
Lạnh lùng thay giấc cô miên
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u"Không gian trongCung oán ngâm khúclà không gian của chốn tiêu phòng lạnh lẽo. Thời gian trongCung oán ngâm khúcchủ yếu là mùa thu và bóng đêm, chỉ còn lại nỗi cô đơn của tháng ngày vời vợi. Ngày sáu khắc, đồng nghĩa với từng khắc, từng giây, nhớ mong, mòn mõi đợi chờ."Trong gang tấc mặt trời xa bấy,
Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu?
Sinh ly đòi rất thời Ngâu,
Một năm còn thấy mặt nhau một lần."
Chàng Ngưu chỉ có một nàng "Chức Nữ", mỗi năm hai người chỉ được gặp nhau một lần trên chiếc cầu Ô Thước.
Ngày sáu khắc thẩn thờ mong tin nhạn,
Đêm năm canh chờ đợi tháng ngày trôi!
Hoa 10 Giờ
Loài thực vật này có nguồn gốc Nam Mỹ, nhưng đã được phát triển mạnh ở các nước có khí hậu ôn đới nhất là ở Việt Nam. Hoa 10 giờ rất dể trông và dể chăm sóc, do vậy các nhà chuyên môn về hoa cảnh thấy nhà nào trồng loài hoa này là biết chủ nhân trình độ về hoa thuộc loại A Bờ Cờ !
Hoa 10 giờ là tên gọi trong mấy thập niên gần đây, khoảng gần 100 năm về trước người dân chỉ biết hoa này là hoa Tỵ Ngọ, nhưng người dân lại gọi nhầm là hoa Tý Ngọ. Vì loài hoa này chỉ nở trong khoảng giờ Tỵ (9 giời - 11 giờ) là giờ đẹp nhất, dẫn theo câu chuyện tình của loài hoa.
(người con gái hẹn gặp cháng trai vào lúc 10 giờ sáng).
NGUỒN: INTERNET TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ ĐẠI THÁNH THÚ THỜI THƯỢNG CỔ
Tứ đại thần thú thượng cổ
Thần thú là những con động vật đại biểu cho sự bình an và cát tường. Chúng đều có tướng mạo đặc biệt, khí chất thần thánh uy nghiêm mà cũng tràn đầy linh tính.
Tứ tượng hay tứ thánh thú, một khái niệm hình tượng bộ bốn trong khoa học thiên văn, triết học, phong thủy,… phương Đông. Tứ tượng thú gồm bốn thánh thú trong các chòm sao cổ đại: Thanh Long của phương Đông, Chu Tước của phương Nam, Bạch Hổ của phương Tây, Huyền Vũ của phương Bắc. Hay thường được dân gian gọi rằng tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ, Nam Chu Tước, Bắc Huyền Vũ.Hay thường được dân gian gọi rằng tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ, Nam Chu Tước, Bắc Huyền Vũ. Mỗi thánh thú cai quản một phương và tượng trưng cho một mùa, chúng có những đặc điểm và nguồn gốc riêng. Ngoài ra chúng còn được miêu tả đầy sinh động trong thần thoại và trí tưởng tượng của người Phương Đông. Mỗi thánh thú cai quản một phương và tượng trưng cho một mùa, chúng có những đặc điểm và nguồn gốc riêng. Chúng được miêu tả đầy sinh động trong thần thoại và trí tưởng tượng của người Trung Hoa, và cả trong Manga và Anime của Nhật
Tứ tượng được đặt cho những cái tên loài người tương ứng khi Đạo giáo trở nên phổ biến. Thanh Long có tên là Mạnh Chương (孟章), Chu Tước là Lăng Quang (陵光), Bạch Hổ là Giám Binh (監兵), và Huyền Vũ là Chấp Minh (執明).
Nói về Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ trong phong thủy xây dựng thì ta cần xác định được phương vị của bốn hướng chính: Tả Thanh Long ( Rồng Xanh ) ở bên trái đại diện cho phương Đông, Hữu Bạch Hổ( Hổ trắng) ở bên phải đại diện cho phương Tây, Tiền Chu Tước ( Chim màu đỏ ) ở phía trước đại diện cho phương Nam, Hậu Huyền Vũ ( Sự kết hợp giữa hình ảnh Rắn quấn quanh con Rùa có màu đen) ở phía sau đại diện cho phương Bắc. Xác định vị trí chính xác là nhìn từ trong nhà ra thì Thanh Long ở bên trái, Bạch Hổ bên phải, phía sau nhà là Huyền Vũ và Chu Tước ở trước. Việc phân chia kích thước vị trí của ngôi nhà đối với bốn phương vị tứ tượng vô cùng quan trọng đối với kiến trúc nhà theo phong thủy bát trạch.
Trong thần thoại Trung Hoa cổ đại có sự xuất hiện của bốn vị thần đáng được chú ý đến là Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước và Huyền Vũ, tương ứng với 4 hướng: Đông, Tây, Nam và Bắc. Đặc biệt, mỗi vị thần canh giữ 7 chòm sao trong số 28 vì tính tú trong thiên văn của Trung Hoa.
2. NHỊ THẬP BÁT TÚ
Đó là 28 tinh vị (Đức Nhị Thập Bát Tú), Mỗi năm một vị cai quản, mỗi tháng và mỗi ngày cũng có một vị quản, cứ tuần tự luân chuyển mãi cho đến hết thất ngươn (420 năm) thì Giáp lại. 28 Vị Thần này rất quan trọng đến cuộc sống của con người và Trái Đất Bầu Trời.
Nhị thập bát tú là 28 vị tinh tú trên bầu trời, tượng trưng cho 28 vị thần chịu trách nhiệm canh giữ Thiên môn, được chia làm 4 chòm sao chính là tứ thánh thú gồm: Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ.
Nhị thập bát tú được cho là có nguồn gốc từ việc quan sát sự di chuyển của mặt trăng trên bầu trời. Mặt trăng đi một vòng quỹ đạo mất hơn 27 ngày, ứng với mỗi ngày là một vị trí trên thiên cầu, và từ đó người phương Đông tạo ra hệ thống 28 hoặc đôi khi là 27 hay 36 chòm sao trên bầu trời
Cả 28 vị đều có bản lĩnh cao cường , luôn phiên trực chiếu và tác động đến trái đất, nên nó ảnh hưởng tới các hiện tượng thiên văn, địa lý, người xưa dựa vào đó để đoán định việc mưa gió thiên tai, phục vụ cho cuộc sống và trong sản xuất nông nghiệp. Đoán các việc thịnh suy, hưng vượng của chế độ, thời đại, chính quyền.
Theo tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa thì Nhị thập bát tú vốn đều là học trò của Thông thiên giáo chủ hi sinh trong Vạn Tiên trận ( đọc Phong thần để hiểu rõ hơn). Vốn họ đã có tên sẵn trong bảng Phong thần, chỉ đợi lúc lâm nạn thì hồn phách trở về cai quan địa vị của mình được giao phó. Họ xuất thân là những loài vật tu luyện thành. Vì vậy, các ngôi sao trong nhị thập bát tú đều mang hình của một con vật, và tên người. Bao gồm: Giác mộc giao Bá Lâm ( giao long), Cang kim long Lý Đạo Thông (rồng), Đê lạc thổ Cao Bính (lạc đà), Phòng nhật thố Dao Công Bá (thỏ), Tâm nguyệt hồ Tô Nguyên (cáo), Vĩ hỏa hổ Châu Chiêu (hổ), Cơ thủy báo Dương Chân (báo), Đẩu mộc giải Dương Tín (cua), Ngưu kim ngưu Lý Hoằng (trâu), Nữ thổ bức Trịnh Nguyên (dơi), Hư nhật thử Châu Bảo (chuột), Nguy nguyệt yến Hầu Thái Ất (chim én), Thất trư hỏa Cao Chấn (lợn), Bích du thủy Phương Tiết Thanh ( rái cá), Khuê mộc lang Lý Hùng (sói), Lâu kim cẩu Trương Hùng (chó), Vị thổ trĩ Tống Canh ( chim trĩ), Mão nhật kê Huỳnh Thương ( gà), Tất nguyệt ô, con quạ, Kim Thằng Dương, Chủy hỏa hầu Phường TuấnSâm (khỉ), Thủy viên con Tôn TườngTỉnh (vượn), Mộc can Thẩm Canh Quỷ, Kim dương Triệu Bạch Cao , Liễu thổ chương Ngô Khôn ( gấu ngựa), Tinh nhật mã Lữ Năng (ngựa), Trương nguyệt lộc Tiết Dụng (nai), Dực hỏa xà Vương Giáo (con rắn), Chẩn thủy dẫn Hồ Đạo Nguyên (giun dất).
Người ta chia vòng Hoàng Đạo thành bốn phần, quy ước như bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc trên mặt đất và gán cho chúng hình ảnh của bốn con vật huyền thoại, hay Tứ Tượng (四象), chúng là: Thanh Long (rồng xanh, ở phương Đông), Bạch Hổ (hổ trắng, ở phương Tây), Chu Tước (sẻ đỏ, ở phương Nam) và Huyền Vũ (rùa đen, ứng với phương Bắc). Mỗi phương có bảy chòm sao. Tên chòm sao cũng là tên của chủ tinh (các sao chính), ngoài ra các sao khác trong mỗi chòm cũng có tên riêng.
Lê Văn Tuyên TỔNG HỢP
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648