KenhGiaiTriAz.Wap.Sh
Wapste Tiện Ích Giải Trí
HOMETruyệnGAME
Bộ sách: ĐẠO GIA KINH
TẢI 200 E-BOOK SÁCH THUỐC NAM BẮC ĐÔNG Y GIA TRUYỀN
THỦY ĐẬU
Gặp thấy đầu tiên trong sách ‘Y Thuyết’ của Trương Quý Minh đời nhà Tống.
Là một bệnh truyền nhiễm thường gặp vào mùa đông xuân.
Trẻ nhỏ thường bị nhiều hơn.
Còn gọi là Thủy Sang, Thủy Hoa, Thủy Bào, Phu Chẩn, Thủy Hoa Nhi.
Nguyên Nhân
Các y gia xưa quan niệm không thống nhất về nguyên nhân gây bệnh. Đa số cho là do trẻ nhỏ có thấp nhiệt nội uất bên trong kèm ngoại cảm thời tà bệnh độc gây nên. Thời tà và thấp nhiệt tranh chấp nhau, lưu lại ở kinh Tỳ và Phế. Nhẹ thì làm cho Phế mất chức năng tuyên giáng biểu hiện bằng nốt đậu mầu đỏ, nhuận, mụn nước trong. Nặng hơn thì tà độc làm tổn thương Tỳ dương, bệnh độc vào sâu bên trong, thấy dấu hiệu bệnh ở phần khí, tà khí không thoát ra ngoài được, vì vậy nốt đậu đỏ tối, nước đục.
Chủ yếu do độc khí làm tổn thương phần vệ, phần khí, xâm nhập vào phần doanh gây nên bệnh.
Triệu Chứng
+ Phong Nhiêtp Hợp Thấp: Thiên về phần khí thuộc loại nhẹ. Hơi sốt, mũi nghẹt, chảy nước mũi, ho, một hai ngày sau đậu xuất hiện như hạt sương, mầu hồng nhuận, mọc ở lưng trước rồi mới lan ra tay chân (nhưng tay chân ít hơn), ngứa. Sau khi nổi lên, ở chính giữa có một bọng nước gọi là bào chẩn. Bào chẩn lớn dần không đều nhau, hình bầu dục, chứa một chất nước trong, không nung mủ, có vành đỏ chung quanh, kéo dài khoảng 2~3 ngày thì khô và bong ra, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Phù, chỉ tay mầu đỏ tím.
Điều trị: Sơ phong, thanh nhiệt, giải độc khứ thấp. Dùng bài
. Ngân Kiều Tán gia giảm: Ngân hoa 10g, Liên kiều, Kinh giới, Trú diệp đều 6g, Lục đậu y 12g, Cát cánh, Thuyền thoái, Đại thanh diệp, Tử thảo, Cam thảo đều 4,5g (Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học).
. Đại Liên Kiều Ẩm: Phòng phong, Kinh giới, Cam thảo, Đương quy đều 4g, Hoàng cầm, Xích thược, Sài hồ, Mộc thông, Chi tử đều 6g, Hoạt thạch, Liên kiều, Ngưu bàng tử đều 8g, Xa tiền 12g (Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu).
+ Thấp Nhiệt Nhiều: Thiên về phần huyết, thuộc loại nặng. Sốt cao, miệng và răng khô, môi đỏ, mặt đỏ, tinh thần mệt mỏi, niêm mạc miệng có những nốt phỏng, tiểu ít, nước tiểu đỏ, thủy đậu mọc dầy, nốt thủy đậu to, mầu nước đục, chung quanh mầu đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng khô mạch Hoạt Sác, chỉ tay mầu đỏ trệ.
Điều trị Thanh nhiệt giải độc, lương huyết thanh doanh. Dùng Thanh Ôn Bại Độc Ẩm gia giảm: Liên kiều, Hoàng cầm, Huyền sâm, Xích thược đều 10g, Tiêu sơn chi, Trúc diệp, Hoàng liên (sao), Tri mẫu đều 6g, Thạch cao (sống), Đại thanh diệp, Tử thảo, Ngân hoa đều 12g.
Thuốc Rửa
. Khổ sâm, Mang tiêu đều 30g, Phù bình 15g. Nấu lấy nước, rửa (Bì Phu Bệnh Trung Y Chẩn Liệu Học).
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
Thanh Nhiệt Giải Độc Thang III (Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1987, 8): Kim ngân hoa, Liên kiều đều 6~9g, Tử thảo, Mộc thông đều 4,5~6g, Hoàng liên, Cam thảo đều 3~4,5g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, giải độc, khứ thấp. Trị thủy đậu.
Đã trị 60 ca. Trong đó nhẹ và vừa có 13 ca, 47 ca nặng. Đều khỏi hẳn. Sau nửa ngày thì hạ sốt, có khi kéo dài đến 2 ngày mới hạ sốt. Trung bình 1 ngày là hạ sốt.. Thời gian nốt đậu đóng vẩy: đa số 2~3 ngày, một số ít 4 ngày.
Ngân Thạch Thang (Hắc Long Giang Trung Y Dược 1990, 1): Ngân hoa, Thạch cao (nấu trước) đều 30g, Huyền sâm, Tử thảo, Trạch tả đều 15g, Bạc hà 9g (cho vào sau), Kinh giới 6g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt giải độc, sơ phong, lương huyết, khứ thấp. Trị thủy đậu
Đã trị 116 ca. Toàn bộ đều khỏi. Uống 2~5 thang. Thường sau 1 thang, đều hạ sốt
THỦY THŨNG
Thủy thũng là loại bệnh do công năng bài tiết thủy dịch trong cơ thể mất bình thường, thủy dịch ứ đọng lại gây nên phù thũng cục bộ hoặc toàn thân.
Chất nước ứ đọng trong cơ thể, tràn ra da, thớ thịt, làm cho mặt, mi mắt, chân tay, lưng bụng, thậm chí toàn thân phù, gọi chung là Thủy thũng.
Trong Nội kinh có bệnh danh là ‘Thủy’; Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ có bệnh danh là ‘Thủy khí’.
Thiên ‘Khí Huyết Luận’ (Tố Vấn 37) viết; “Mạch của Thận Vi Đại là chứng Thạch thủy. Dũng thủy ấn tay vào bụng không thấy cứng, thủy khí náu ở Đại trường, đi nhanh có tiếng kêu óc ách, như túi bọc nước, đó là bệnh Thủy”.
Về phân loại, sách Nội Kinh căn cứ vào triệu chứng mà nêu ra Phong thủy, Thạch thủy. Lại căn cứ vào chất nước ứ đọng ở mỗi tạng để chia ra các loại chứng hậu khác nhau.
Chu Đan Khê đời Nguyên tổng kết lý luận và kinh nghiệm của người xưa, chia thủy thũng làm hai loại lớn là Âm thủy, Dương thủy.
Các đời sau, căn cứ theo lý thuyết của Chu Đan Khê trên cơ sở hai loại lớn Âm thủy, Dương thủy lại chia ra nhiều thể bệnh, đối với nhận thức về biện chứng thể bệnh đã có bước tiến nhất định. Những bàn luận về thủy thũng của người xưa, bao gồm cả loại Thủy thũng do viêm Thận cấp, mạn tính; bệnh Tim, xơ Gan và trở ngại dinh dưỡng trong y học hiện đại.
Nguyên Nhân
1) Ngoại cảm phong tà thủy thấp: Phong tà từ ngoài xâm phạm, Phế khí không tuyên thông, không điều hòa thủy đạo đưa xuống Bàng quang, phong tà và thủy khí kích bác lẫn nhau đến nỗi phong thủy tràn lan ra thớ thịt và da gây nên thủy thũng.
2) Do ăn uống ở nơi ẩm thấp: ăn uống không điều độ, no đói thất thường, hoặc mệt nhọc quá mức; Tỳ khí bị tổn thương mất chức năng kiện vận đến nỗi thủy dịch ứ đọng không chưng hóa được. Ở nơi ẩm ướt hoặc lội nước dầm mưa, thủy thấp ngấm vào trong, thấp tà ứ đọng ở trung tiêu, Tỳ bị thấp làm trở ngại nên vận hóa không mạnh, thủy thấp không đưa xuống được tràn ra cơ bắp gây nên thủy thũng. Nặng hơn thì Thận khí nội thương, Thận hư chức năng mở đóng không thuận lợi, thủy dịch tràn ra cũng gây nên thủy thũng.
3- Do lao động quá sức làm tổn thương Tỳ. Thêm vào đó, no đói thất thường làm Tỳ ngày càng suy tổn. Tỳ có công năng vận hành dưỡng chấp nuôi dưỡng toàn thân,. Nếu Tỳ hư thì thủy dịch không vận hóa, đình trệ lại bên trong, đến lúc Tỳ thổ không ức chế được thủy, thấm vào cơ mô gây nên thủy thũng.
4- Do phòng sự quá độ hoặc tinh thần quá căng thẳng làm cho Thận khí bị tổn thương, ảnh hưởng đến việc hóa khí của Bàng quang và Tam tiêu, thủy dịch bị ngừng trệ, ngấm ra da thịt gây nên thủy thũng.
Các nguyên nhân nói trên, đều có thể chuyển hóa lẫn nhau. Như thủy thũng do ngoại nhân lâu ngày không khỏi, thủy thấp ngấm dần có thể dẫn đến Tỳ Thận dương hư khiến bệnh tình càng thêm dai dẳng. Trái lại, Thủy thũng do nội nhân, một khi cảm nhiễm ngoại tà cũng dẫn đến Phế khí không tuyên giáng được, khiến cho xu thế thủy thũng đột nhiên tăng lên.
Chương ‘Thủy Thũng Môn’(Y Môn Pháp Luật) viết: “Sách nói ‘Nhị dương kết gọi là Tiêu, Tam âm kết gọi là Thủy; Tam âm là hai tạng Thủ Túc Thái âm Phế. Vị là bể thủy cốc bệnh thủy có gốc từ Vị, sách nói thuộc Tỳ Phế là tại sao ? Túc Thái âm Tỳ đủ sức chuyển tinh vi lên trên ; Thủ Thái âm Phế đủ khả năng thông điều thủy đạo xuống dưới thì bể không nối sóng. Chỉ có khí của hai tạng Tỳ Phế kết lại không thông, vì sau này càng tích chứa trong Vị, thấm khắp biểu lý nơi nào cũng bị, đó là Tỳ Phế không phát huy tác dụng nữa. Nhưng tác dụng quan trọng nhất là Thận, vì Thận là cửa của Vị. Thận chủ mở đóng. Thận theo dương thì mở. Dương quá mạnh thì quan môn mở rộng, thủy dồn xuống mà thành tiêu. Thận theo âm thì đóng. Âm quá mạnh thì quan môn đóng chặt, thủy không thông mà thành thũng. Sách còn nói Thận là bản, Phế là tiêu là có đủ ý đón nhận chuyển vận, như vậy thì gây nên bệnh Thủy cốt lõi xuất phát từ ba tạng Tỳ Phế Thận mà ra”.
Hải Thượng Lãn Ông trong ‘Bách Bệnh Cơ Yếu’ viết: “ Thận hư không hành được thủy, Phế hư không chế được thủy, Vị hư không chuyển hóa được thủy cốc, đình lại ở Tỳ, Tỳ không vận hóa được làm cho Tam tiêu, kinh lạc đều bị ngừng trệ, lưu lại ở tạng thì thành bệnh trướng, ngấm ra bì phu thì thành bệnh thủy thũng… Thủy khí gây bệnh nếu thành trướng phần nhiều là thực chứng, nếu phát ra phù thũng, đa số là hư chứng. Tuy nói tạng Phế có liên hệ nhưng gốc bệnh vẫn là hai tạng Tỳ và Thận. Vì mệnh môn hỏa hư không ôn hóa được Thận khí, không ôn dưỡng được Tỳ thổ. Thủy cốc lan tràn, Tỳ kém vận hóa. Do đó, Tỳ dương cũng suy kém dần trở thành mạn tính. Muốn đạt hiệu quả tốt nhất trước hết phải chú trọng ôn bổ mệnh môn”.
Nói tóm lại, ngoại cảm phong tà thủy thấp dẫn đến thủy thũng phần nhiều là Dương thủy. Nội thương ăn uống mệt nhọc dẫn đến thủy thũng phần nhiều là âm thủy. Lâm sàng còn hay gặp trường hợp thủy thấp, dễ làm tổn thương dương khí. Thấp uất hóa nhiệt, nhiệt nung nấu làm tổn thương phần âm; hoặc người bệnh vốn bị âm hư, lại có thể xuất hiện chứng trạng âm hư nội nhiệt.
Qua những bệnh lý nói trên, dù ngoại cảm hay nội thương gây ra thủy thũng, đều có liên quan tới ba tạng Tỳ, Phế, Thận, và nguyên lý phát bệnh của ba Tạng đó lại có liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau.
Theo sách Nội Kinh Tố Vấn, các chứng thủy thũng là bệnh có liên can tới Phế, Tỳ, Thận. Bởi vì Thủy là Chí âm, cho nên gốc ở thận. Thủy hóa do khí, cho nên ngọn ở Phế; Chỉ có thủy mới sợ Thổ, cho nên chế Thủy là do Thổ. Như vậy là có sự liên quan giữa Tỳ Phế Thận đối với bệnh thủy thũng, lấy Thận làm gốc, Phế làm ngọn, lấy Tỳ làm cột trụ, đây là mấu chốt trong điều trị bệnh này.
Hải Thượng Lãn Ông, trong ‘Bách Bệnh Cơ Yếu’ dựa vào nguyên nhân gây bệnh và biểu hiện chứng trạng có liên quan đến bệnh thủy thũng phân tích một cách cụ thể như sau:
+ Tỳ nhiễm phải thấp tà, Tỳ khí không vận hóa được làm cho mặt, chân tay phù thũng là do thấp khí sinh bệnh.
+ Ăn uống phải các chất có độc. Độc khí đọng lại trong dạ dày rồi đưa dần vào trong gây nên bệnh thũng là do ngộ độc gây nên.
+ Bị bệnh thương hàn, dùng lầm thuốc hạ quá sớm, tà khí nhân đó chuyển vào bụng gây nên phù thũng là do gốc bệnh của thương hàn.
+ Sau khi bệnh nặng mới khỏi, khí huyết quá hư hao, trung khí chưa được phục hồi cũng dễ sinh bệnh thũng là do quá hư yếu. Nhưng loại này sáng dậy thấy thũng ở mặt, buổi chiều thì thũng ở chân.
+ Tỳ hư có thấp tà, không vận hóa được tinh khí làm cho vinh vệ bị đình trệ, Phế khí không thông xuống, thủy khí bốc lên làm cho mi mắt sưng phù, bụng to, sắc mặt nhạt, chân phù mà lạnh, đè vào lõm xuống nhưng nhấc tay thì đầy ngay, da phù như bong bóng nước, đó là do thủy khí gây bệnh.
+ Thủy khí đọng lại ở bàng quang làm cho âm nang phù thũng, đó là chứng nang thũng.
+ Bụng ngực đầy tức, buổi sáng ăn vào không được, buổi chiều ăn vào bụng trướng to như cái trống, sắc da vàng xám mà bụng thấy nổi gân xanh, ngoài tuy cứng nhưng bên trong không có gì, đó là loại cổ trướng chứ không phải bệnh phù thũng.
+ Bụng đầy trướng, ợ hơi, ăn không được, hơi thở ngắn, phiền khát, mặt vàng, da bóng, chân tay gầy mà lại có ho, tiểu ít, táo bón là loại trướng mãn do Tỳ hư quá mức.
+ Đột nhiên bị phong hàn phạm vào vào Tỳ Vị cùng với thấp tà công kích lẫn nhau làm cho khắp người đều phù, đè tay vào bụng thấy lõm xuống, lâu đầy, mệt mỏi, không muốn ăn, ợ chua, muốn nôn, đó là thuộc loại phu trướng.
Đối với trẻ nhỏ thì:
+ Tâm Tỳ hư tổn quá nhiều làm cho mặt vàng, bàn chân sưng phù, đó là chứng ‘Cam Thũng’.
+ Trong bụng có tích uất kết lâu ngày hóa thành thủy thủng, đó là chứng ‘Tích thủy’.
+ Luôn bị sợ hãi, tâm hỏa bị kích động nhiều sinh ra chứng táo khát, rồi do uống nước nhiều, thủy dịch bị ngưng trệ gây nên phù thũng, đó là loại ‘Kinh thủy’.
Biện Chứng Luận Trị
Mới bị thủy thũng, phần nhiều xuất hiện chứng trước hết phù ở mi mắt, sau đó lan ra đầu mặt, tay chân và toàn thân. Cũng có khi bắt đầu phù thũng từ chân rồi mới phát triển toàn thân. Nếu tình thế bệnh nghiêm trọng có thể có các chứng trạng ngực bụng nghẽn đầy, suyễn thở không nằm được.
Thiên ‘Thủy Trướng’ (Linh Khu) viết: “Bắt đầu bị chứng thủy, hố mắt hơi sưng như người mới ngủ dậy, ho, bắp chân lạnh, ống chân phù, bụng cũng to, đó là đã hình thành chứng thủy. Để xét chứng hậu, dùng tay ấn vào bụng thấy chỗ đó lõm xuống, nhấc tay lên chỗ lõm nổi ngay như người lấy tay nhúng vào nước vậy”.
Biện chứng thủy thũng có thể chia hai loại lớn là Âm thủy, Dương thủy. Dương thủy thuộc Biểu thuộc thực, Âm thủy thuộc Lý thuộc hư.
Dương thủy bao gồm phong và thủy chọi nhau, thủy thấp xâm lấn. Âm thủy bao gồm Tỳ Thận dương hư, thủy tà tràn lan.
Về điều trị, có ba phép lớn là phát hãn, lợi tiểu và công trục.
Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ đề xuất hướng điều trị: “Phong thủy thì mạch Phù, chứng biểu hiện đau khớp xương, sợ gió. Bì thủy mạch cũng Phù, chứng biểu hiện mu chân sưng, ấn vào lõm tay, không sợ gió, bụng to như trống, điều trị nên phát hãn. Chính thủy thì mạch Trầm Trì, chứng biểu hiện là Suyễn. Thạch thủy thì mạch Trầm, chứng biểu hiện là bụng đầy mà không suyễn... các bệnh thủy từ lưng trở xuống thũng, nên lợi tiểu tiện; từ lưng trở lên thũng, nên phát hãn sẽ khỏi”.
Thiên ‘Thũng Trướng’ (Cảnh Nhạc Toàn Thư) viết: “Ôn bổ thì có thể hóa khí. Hóa khí sẽ khỏi hẳn, Khỏi hẳn rất tự nhiên. Tiêu phạt là để trục tà, trục tà sẽ khỏi tạm thời, cái khỏi đó chỉ là gò ép. Một đằng là khỏi đích thực, một đằng khỏi gỉa tạo, làm sao có thể coi khỏi giả tạo là khỏi đích thực được chăng”.
Hải Thượng Lãn Ông nêu ra nguyên tắc điều trị chi tiết như sau:
. Thũng ở phần trên, dùng phép phát hãn, ở phần dưới dùng phép lợi tiểu.
. Thũng ở phần biểu dùng phép phát hãn, ở phần lý dùng phép công hạ. Nhưng không nên dùng thuốc quá mạnh như Đại kích, Cam toại… Nếu dùng thuốc quá mạnh thủy tà nhân hư mà chuyển thành bệnh nặng hơn, tiểu không thông, dùng thuốc thông lợi mà tiểu lại bị bế.Do trung khí bị hư, mất chức năng thăng giáng. Ngoài ra còn do thuốc hàn lương làm ngăn lại gây nên tiểu không thông. Chỉ nên dùng thuốc ôn dương giáng khí như Trầm Hương Phụ Tử Thang… thì tiểu tự thông mà suyễn đầy cũng khỏi.
Thông qua thực tiễn lâm sàng lâu đời, về sau bổ sung thêm các phép chữa kiện Tỳ, bổ Thận, ôn dương, vừa công vừa bổ.
DƯƠNG THỦY
1) Phong Và Thủy Cùng Chống Nhau: Trước khi phát sinh thủy thũng hoặc khi xuất hiện thủy thũng thường có chứng trạng ngoại cảm như phát sốt, sợ gió, sợ lạnh, nhức đầu, tay chân mỏi, ho suyễn, họng sưng đỏ đau, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù. Trước tiên mặt mắt phù thũng sau mới lan tỏa toàn thân, tiểu tiện không lợi, nói chung xu thế bệnh cấp tính khá nhanh.
Biện chứng: Phong tà xâm phạm Phế, Phế bị tắc không lưu thông đường nước, ảnh hưởng đến khí hóa Bàng quang mất bình thường khiến cho tiểu không lợi, phù thũng khắp mình. Phong là dương tà, tính hay đi lên, phong và thủy chọi nhau cho nên thũng bắt đầu từ trên mà phát triển nhanh. Tà ở cơ biểu, vít tắc kinh toại xuất hiện các biểu chứng như sốt, sợ gió, sợ lạnh, đau đầu, khớp xương mỏi, rêu lưỡi trắng mỏng v.v... đều do ngoại cảm phong tà gây nên. Ho mà Suyễn là do Phế mất sự túc giáng, bụng sưng đỏ đau là do phong nhiệt xâm phạm.
Điều trị: Tuyên Phế lợi thủy. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết; “Trị bệnh phù thũng, nếu có phát sốt là thủy tà còn ở phần biểu, nên dùng phương pháp phát hãn”.
Dùng bài Việt Tỳ Gia Truật Thang (Kim Quỹ Yếu Lược): Cam thảo 8g, Đại táo 2 trái, Ma hoàng 24g, Sinh khương 12g, Thạch cao 32g, Bạch truật 8g. Sắc Ma hoàng trước với 1,4 lít nước cho sôi, vớt bỏ bọt, cho thuốc vào, sắc còn 600ml, chia làm 3 lần uống, uống xong trùm chăn (mền) cho ra mồ hôi.
(Trong bài có Ma hoàng, Thạch cao để tuyên Phế thanh nhiệt; Bạch truật kiện Tỳ lợi thủy, khiến Phế khí tuyên thông, thủy thấp chảy xuôi thì Phong thủy tự rút).
Nếu sốt không nặng lắm, bỏ Thạch cao. Biểu chứng rõ ràng thêm Khương hoạt, Phòng phong. Ho thêm Tang bạch bì, Tiền hồ, Hạnh nhân. Họng sưng đỏ đau, thêm Ngân hoa, Bồ công anh, Bản lam căn v.v... Nếu biểu chứng tạm khỏi mà nặng mình, thủy thũng chưa rút có thể áp dụng phép chữa thủy thấp thấm vào trong, cho uống các bài như Ngũ Linh Tán, Ngũ Bì Ẩm v.v... Nếu ra mồ hôi, sợ gió là Vệ dương đã hư, nên giúp Vệ khí khơi thông tà khí thủy thấp, cho uống Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang gia vị.
2) Thủy Thấp Ngấm Vào Trong: Khắp mình thủy thũng, chủ yếu là từ bụng xuống đến chi dưới, ấn vào lõm ngập ngón tay, tiểu ít, thân thể nặng nề, mỏi mệt, biếng ăn, ngực khó chịu, muốn nôn, rêu lưỡi nhớt, mạch Nhu. Phát bệnh nói chung từ từ, bệnh trình kéo dài.
Biện chứng: Tà khí thủy thấp ngấm vào cơ bắp, bị nghẽn không lưu thông, khiến cơ thể phù thũng không rút. Thủy thấp ứ đọng ở trong, sự khai thông của Tam tiêu không tốt ; Khí hóa của Bàng quang thất thường cho nên tiểu tiện không lợi, Thủy thấp ngày càng tăng không có lối thoát đi ngang ra cơ bắp, cho nên phù càng tăng, ấn vào ngập ngón tay. Tỳ bị thấp làm trở ngại, dương khí không thuận lợi cho nên nặng nề mỏi mệt, biếng ăn, ngực khó chịu, muốn nôn, rêu lưỡi nhớt, mạch Nhu v.v... Tính của thấp dính nhớt khó mà hóa được nhanh, đó là lý do tình thế bệnh dai dẳng kéo dài.
Điều trị: Thông dương lợi thủy. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: “Bệnh phù thũng mà người không nóng là thủy khí ngừng trệ bên trong, phải gấp dùng phương pháp thông lợi tiểu tiện và thuận khí, hòa Vị”.
Chủ yếu dùng Ngũ Linh Tán (Thương Hàn Luận): Bạch truật 8g, Nhục quế 4g, Phục linh 12g, Trạch tả 16g, Trư linh 8g, phối hợp với Ngũ Bì Ẩm (Cục Phương): Đại phúc bì, Địa cốt bì, Ngũ gia bì, Phục linh bì, Sinh khương bì) (Ngũ Linh Tán có tác dụng thông dương lợi thủy; Ngũ Bì Ẩm có tác dụng hành thủy tiêu thũng. Hai bài dùng chung, sức lợi thủy tiêu thũng càng mạnh).
Nếu thũng nhiều ở nửa người phần trên kèm theo Suyễn, thêm Ma hoàng, Hạnh nhân. Nếu rêu lưỡi trắng dày, nhạt mỏng, mỏi mệt, trướng bụng, nửa người phần dưới thũng nặng khiến cho đi đứng phải khom bỏ Tang bạch bì, thêm Hậu phác, Xuyên tiêu mục, Phòng kỷ để hành khí hóa thấp. Nếu thấp thắng, dương ít, sợ lạnh, chân tay lạnh, mạch Trầm Trì, thêm Phụ tử, Can khương để trợ dương, hóa khí, lợi thủy thấp.
3) Thấp Nhiệt Ủng Tắc Quá Nhiều: Thủy thấp uất lại lâu ngày hóa nhiệt, thấp và nhiệt ủng thịnh, tiêu hao tân dịch, khắp người đều phù, sắc da trong, bóng, bụng ngực đầy tức khó chịu, nóng bứt rứt, khát nước, nước tiểu ít mà đỏ, táo bón, rêu lưỡi nhớt mà vàng, mạch Trầm Sác.
Điều trị: Thanh thấp nhiệt, phân lợi thủy ta (thấp nhiệt)ø. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: “Bệnh thủy khí không có biểu chứng là bệnh ở phần lý, nên dùng phép hạ lợi (trục thủy), nhưng mức độ nặng nhẹ khác nhau, không nên dùng thuốc công hạ quá mạnh.
Bệnh nhẹ dùng Kỷ Tiêu Lịch Hoàng Hoàn (Kim Quỹ Yếu Lược): Đại hoàng 40g, Đình lịch 40g, Phòng kỷ 40g, Tiêu mục 40g, Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 12 ~ 16g. Bệnh nặng dùng bài Sơ Tạc Ẩm Tử (Tế Sinh Phương): Binh lang 4g, Đại phúc bì 6g, Khương hoạt 6g, Mộc thông 6g, Phục linh bì 6g, Tần giao 6g, Thương lục 4g, Tiêu mục 4g, Trạch tả 6g, Xích tiểu đậu 6g, Thêm Khương bì sắc uống.
ÂM THỦY
1) Tỳ Dương Hư Yếu: Chi dưới phù thũng khá nặng, ấn xuống lõm lâu mới nổi lên, bụng trướng đầy, kém ăn, đại tiện lỏng, sắc mặt úa vàng, mỏi mệt, chân tay lạnh, tiểu ít, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng trơn, mạch Trầm Hoãn.
Biện chứng: Do trung dương bất túc, Tỳ khí hư yếu, khí không hóa được thủy khiến thủy tà ở hạ tiêu tràn lan, cho nên chi dưới phù thũng nặng ấn lõm lâu mới nổi lên. Tỳ dương không mạnh, vận hóa vô lực cho nên bụng trướng đầy, kém ăn, đại tiện lỏng, Tỳ hư thì khí không sung mãn, dương không bảo vệ bên ngoài cho nên sắc mặt úa vàng, mỏi mệt, chân tay lạnh. Dương khí không hóa được, thủy thấp không lưu thông làm cho tiểu ít Lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng trơn, mạch Trầm Hoãn... đều là do Tỳ hư, nước ứ đọng, dương khí không vận hóa gây nên.
Điều trị: Ôn trung kiện Tỳ, hành khí lợi thủy. Chủ yếu dùng Thực Tỳ Ẩm (Chứng Trị Chuẩn Thằng): Bạch truật 4 ~12g, Binh lang 4 ~12g, Can khương 4 ~8g, Chích thảo 4g, Gừng 3 lát, Hậu phác 4 ~8g, Mộc hương 4 ~8g, Mộc qua 8 ~12g, Phụ tử 4 ~12g, Phục linh 12 ~16g, Táo 3 quả, Thảo quả 8 ~12g.
(Phụ tử, Can khương ôn dưỡng tỳ vị, phù dương, ức âm; Hậu phác, Mộc hương, Đại phúc bì, Thảo khấu nhân hạ khí, đạo trệ, hóa thấp, lợi thủy; Phục linh, Bạch truật, Mộc qua kiện tỳ, hòa trung, thấm thấp, lợi thủy; Cam thảo, Sinh khương, đại táo ích tỳ, ôn trung).
Nếu thủy thấp quá nặng có thể thêm Quế chi, Trư linh, Trạch tả để giúp khí hóa ở Bàng quang mà lợi tiểu tiện. Đại tiện lỏng, bỏ Đại phúc bì. Khí hư, hơi thở ngắn, có thể thêm Đảng sâm để bổ khí của Tỳ Vị
Còn một loại phù thũng nguyên nhân do ăn uống không điều độ kéo dài, tổn thương Tỳ Vị, hoặc sau khi bệnh lâu ngày mới khỏi, Tỳ hư không vận hóa được tinh vi của thủy cốc, thủy thấp đình trệ ở trong, có triệu chứng phù thũng toàn thân, sáng dậy đầu mặt phù càng nặng, về chiều chi dưới phù càng nặng, mệt mỏi yếu sức, tiểu tiện nhiều, rêu lưỡi mỏng nhớt, chất lưỡi bệu, mạch Nhu Nhuyễn. Đây là Tỳ hư sinh thấp, khí không thư giãn, uất trệ thành thũng. Điều trị phải kiện Tỳ hóa thấp, không nên phân lợi, có thể dùng Sâm Linh Bạch Truật Tán. Hoặc thêm Hoàng kỳ, Quế chi để ích khí thông dương, hoặc thêm Phụ tử, Bổ cốt chi để ôn Thận trợ dương.
2) Thận Dương Suy Yếu: Thủy thũng toàn thân, từ lưng trở xuống phù nặng hơn, lượng nước tiểu giảm ít, tay chân quyết lạnh, sợ lạnh, mỏi mệt, sắc mặt tối sạm hoặc trắng nhợt, chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Tế.
Biện chứng: Thận dương suy nhược, âm thịnh ở dưới nên phần dưới phù thũng nặng. Lưng là phủ của Thận, Thận hư mà thủy khí thịnh ở trong, nên lưng đau mỏi. Thận biểu lý với Bàng quang, Thận khí hư yếu đến nỗi Bàng quang khí hóa không lợi, gây nên lượng nước tiểu ít. Thận dương bất túc, Mệnh môn hỏa suy không làm ấm áp được tay chân khắp mình, nên tay chân quyết lạnh, sợ lạnh mỏi mệt. Sắc mặt tối sạm hoặc trắng nhợt, lưỡi nhợt mà bệu, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Tế... đều là dấu hiệu Thận dương suy yếu, thủy thấp thịnh ở trong.
Điều trị: ôn dương lợi thủy. Dùng bài Chân Vũ Thang (Thương Hàn Luận): Bạch linh 12g, Bạch thược 12g, Bạch truật 12g, Phụ tử (chế) 8g, Sinh khương 3 lát. Sắc uống.
(Phụ Tử rất cay, rất nhiệt, ôn Thận dương, khử hàn tà; Phục linh + Bạch truật kiện Tỳ, lợi thủy; Sinh khương ôn tán thủy khí, tăng thêm tác dụng lợi thủy của Phục linh. Bạch truật + Thược dược hòa vinh, chỉ thống, toan hàm, liễm âm lại hòa hoãn được tính tân nhiệt của Khương, Phụ, không gây ra tổn âm. Tác dụng bài này là ôn Thận lợi thủy khiến cho dương khí hồi phục, hóa được hàn thủy thì tiểu tiện lợi mà thũng sẽ tiêu).
Nếu hư hàn quá nặng, có thể thêm Hồ lô ba, Ba kích thiên, Nhục quế để ôn bổ Thận dương. Nếu suyễn thở tự ra mồ hôi không nằm được thêm Nhân sâm, Chích thảo, Ngũ vị tử, Mẫu lệ nung đề phòng suyễn thoát. Nếu cảm nhiễm hàn tà, hàn với thủy chọi nhau, tình trạng thũng trở nên nặng, sợ lạnh không mồ hôi, bài này bỏ Bạch thược, tạm thêm Ma
hoàng, Tế tân, Cam thảo để ôn kinh tán hàn.
Còn có trường hợp bệnh lâu ngày, dương khí chưa hồi phục, lại thấy chứng âm hư, phù thũng tái phát nhiều lần, mỏi mệt, chóng mặt, ù tai, đau lưng, di tinh, chân răng chảy máu, đó là Dương bị tổn thương liên lụy đến phần âm, âm hư không liễm được dương, hư dương quấy động gây nên.
Điều trị: nên bổ Thận dương, tư dưỡng âm dịch, kiêm lợi thủy để trừ thủy tà. Có thể dùng Đại Bổ Nguyên Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Chích thảo 4g, Đỗ trọng 8g, Đương quy 8g, Hoài sơn 8g, Kỷ tử 8g, Nhân sâm 12g, Sơn thù 4g, Thục địa 20g cùng uống với Tế Sinh Thận Khí Hoàn Bạch linh 30g, Mẫu đơn bì 30g, Ngưu tất 16g, Phụ tử 30g, Quan quế 16g, Sơn dược 30g, Sơn thù nhục 30g, Thục địa 16g, Trạch tả 30g, Xa tiền tử 30g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 8-12g với nước cơm, lúc đói.
Điều trị các bệnh thủy thũng nói trên, tất cả không rời phép lợi thủy; Nhưng có Tuyên Phế lợi thủy, Thông dương lợi thủy, Kiện Tỳ lợi thủy, ôn Thận lợi thủy khác nhau. Nói chung, Dương thủy nên tuyên nên thông, âm thủy nên ôn nên bổ; Ngoài ra,
còn một số cây cỏ làm thuốc theo dạng đơn phương có thể phối hợp ứng dụng.
+ Lệ chi thảo, Xa tiền thảo v.v... đều có tác dụng lợi tiểu tiêu thũng, có thể chọn một hoặc vài vị sắc uống, liều lượng đều 40 gam (Hành Giản Trân Nhu).
+ Cá diếc đen nấu canh ăn cũng chữa phù thũng nhất là chứng phù thũng do Tỳ hư. Bài thuốc gồm cá diếc đen, Tang bạch bì, Xích tiểu đậu, Bạch truật và Hành sống (Hành Giản Trân Nhu).
+ Trư linh, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước nóng, ngày 3 lần (Hành Giản Trân Nhu).
+ Ốc nhồi 4 con, Đại toán bỏ vỏ 5 củ, bột Xa tiền tử 12 gam. Các vị đã nát nặn thành bánh đắp vào giữa lỗ rốn, dán băng bên ngoài (Hành Giản Trân Nhu).
+ Đậu đỏ nấu với rễ Cỏ tranh, bỏ rễ Cỏ tranh đi, lấy đậu ăn (Nam Dược Thần Hiệu).
+ Xơ mướp, Có Bấc, Hành trắng, lượng bằng nhau, sắc uống (Nam Dược Thần Hiệu).
+ Hạt Bìm bìm sống 4g, tán bột. Sắc nước Thanh bì lấy nước uống thuốc bột (Nam Dược Thần Hiệu).
Thuốc Đắp Ngoài
+ Ốc nhồi 4 con, Tỏi 5 tép, Hạt Mã đề 12g. Hạt Mã đề tán bột, giã nát chung với hai vị trên, làm thành bánh dầy độ 3 ~ 5mm, đặt lên rốn, băng lại. Khi thấy đại tiểu tiện thông thì bỏ thuốc đi.
(Cần chú ý: không nên để thuốc lâu quá có thể gây phồng rốn).
+ Trư linh, Địa long (để sống, nghiền riêng), Cam toại, Châm sa. Lượng bằng nhau. Tán nhỏ, thêm mấy củ Hành tăm, giã nát, làm thành bánh, đắp lên rốn, băng lại. Khi thấy tiểu được nhiều thì bỏ thuốc ra). Có thể làm ngày 2 lần (Hành Giản Trân Nhu).
Đối với bệnh thủy những, nên kiêng các thức kích thích sống lạnh và muối mặn. Chỉ khi hết phù thũng 3 tháng mới được ăn chút ít muối, dần dần tăng lên. Sau khi phù thũng đã rút, vẫn phải theo dõi hoặc tiếp tục điều trị một thời gian dài. Về phương diện biện chứng luận trị, theo dõi tình hình cụ thể của người bệnh, chủ yếu nhằm bồi dưỡng Tỳ Thận, củng cố hiệu quả, đề phòng tái phát.
Bệnh Án Thủy Thủng
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Bao X, nam, 16 tuổi. Bốn ngày nay, sợ lạnh phát sốt, đau mỏi toàn thân, ho, họng sưng đau. Sáng hôm qua ngủ dậy, phù thũng mi mắt và mắt, về chiều hai bàn chân cũng phù, tiểu ít, nước tiểu mầu đỏ, rêu lưỡi trắng, chất lưỡi đỏ, mạch Phù hơi Sác ; Đây là phong tà xâm phạm Phế, Phế khí không tuyên thông, không khả năng thông điều thủy đạo (Tây y chẩn đoán Viêm Thận cấp tính). Nên tuyên Phế lợi thủy, dùng Việt Tỳ Gia Truật Thang: Ma hoàng 8g, Sinh thạch cao 40g, Hạnh nhân 12g, Liên kiều 16g, Bản lam căn 20g, Sinh cam thảo 4g, Tang bạch bì 12g, Sinh bạch truật 12g, Xích tiểu đậu 40g, Xa tiền tử 20g.
2) Phan X, nam, thanh niên.
Thường bị cảm mạo, mặt và mắt phù nhẹ, sắc mặt trắng nhợt, chi dưới cũng phù, hễ động làm là đánh trống ngực, thở gấp, đôi khi mỏi lưng, hậu môn cảm giác như trệ xuống, rêu lưỡi mỏng, mạch Nhu Tế. Đây là bệnh Tỳ Thận đều hư, mất chức năng vận hóa, thủy thấp ngấm vào cơ phu gây nên thũng trướng (Tây y chẩn đoán Viêm Thận mạn tính đợt cấp). Cho uống Ngũ Linh Tán hoặc Ngũ Bì Ẩm gia giảm khiến cho khí hóa, thấp không chỗ tồn tại. Dùng Quế chi 4g, Trần bì 12g, Trư linh 20g, Phục linh bì 40g, Trạch tả 12g, Mộc phòng kỷ 12g, Sinh khương bì 6g, Xuyên phác 4g, Xích tiểu đậu 20g.
3- Vương X, nữ, thanh niên.
Khám lần 1: Bị ho đã 3 tháng, sau đó toàn thân phù thũng, vú bên phải cũng bị phù chảy ra nước dính, bụng to như cái trống, chân phù như cái thùng (vòng bụng 98 cm). Vòng chân 28 cm), bộ phận sinh dục cũng phù, khi làm việc thì ho khan, thở gấp, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi mỏng, mạch Tế, đây là ba tạng Phế Tỳ Thận cùng mắc bệnh, thủy tà lan tỏa xâm phạm Phế gây ho, xâm phạm Tỳ gây chân tay phù, xâm phạm Thận làm cho phù bộ phận sinh dục (Tây Y chẩn đoán là Viêm Thận mạn tính). Điều trị: theo nguyên tắc ‘Cấp thì trị tiêu', cho dùng Ma hoàng 4g, Quế chi 8g, Phục linh bì 20g, Mộc phòng kỷ 20g, Bạch sửu 6g, Trạch tả 12g Xuyên tiêu mục 6g Đại phúc bì 20g, Hồ lô ba 40g, Hắc sửu 6g, Thập Táo Hoàn 4g (chia làm 3 lần uống với nước thuốc sắc).
- Khám lần 2: Sau khi uống thang thông dương trục thủy, phù thũng hơi giảm, nhưng cảm thấy quá mệt mỏi; Thủy tà ủng thịnh quá, dương khí Tỳ Thận không chưng hóa nổi đến nỗi nước ứ đọng lại, chưa kịp bài tiết, lại theo hướng điều trị cũ. Dùng nguyên phương bỏ Ma hoàng còn Trạch tả, Quế chi đổi làm 6g, Thương lục căn 12g, Sinh khương bì 6g, Xuyên phác 4g.
Nhận xét: Bệnh án 1 (họ Bao) biện chứng là phong tà phạm Phế, Phế mất chức năng tuyên giáng, điều trị theo pháp tuyên Phế lợi thủy.
Bệnh án 2 (họ Phan) do Tỳ thận đều hư, mất chức năng vận hóa, áp dụng phép thông dương lợi thủy.
Bệnh án 3 (họ Vương) là Phế Tỳ Thận đồng bệnh, thủy tà lan tỏa, dùng phép thông dương trục thủy, lại thêm Nhục quế để giúp khí hóa của Bàng quang.
Như vậy, cũng một bệnh thủy thũng mà biện chứng khác nhau, điều trị cũng khác nhau.
4- Tưởng X, nữ, 36 tuổi.
Khám lần 1: Ngày 20 tháng 3 năm 1961, thấy bụng hơi phù, rồi lan đến tay chân, ăn vào thì trướng, mình nặng, mỏi mệt, đại tiện lỏng, mạch Trầm Tế vô lực, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng. Đây là bệnh Trung tiêu hư hàn, thấp khốn Tỳ Vị. Điều trị: theo phép ôn trung kiện Tỳ, hành thủy lợi thấp. Cho dùng: Đảng sâm 16g, Xuyên phác 6g, Tiêu bạch truật 12g, Bạch đậu khấu 6g, Phục linh 12g, Mộc hương 4g, Ngô thù 6g, Ngũ gia bì 12g, Đại phúc bì 12g, Đạm phụ tử 6g, Sinh khương bì 4g, Cam thảo 4g, Trần bì 6g, Can khương 4g.
Khám lần hai: Ngày 23-3, tình trạng phù đã rút, số lần đi tiểu nhiều, số lần đại tiện ít hơn, đã thèm ăn, bụng trướng cũng giảm. Dùng bài trên gia giảm: Đảng sâm 12g, Ngũ gia bì 12g, Can khương 6g, Phục linh 12g, Ý dĩ 12g, Tiêu bạch truật 12g, Quảng mộc hương 4g, Đại phúc bì 12g, Cam thảo 4g, Đạm ngô thù 6g, Sinh khương bì 4g.
Nhận xét: Có câu nói: “Tạng Thận bệnh sinh đầy” và “Trong Vị có hàn thì bị đầy trướng”. Tỳ Vị bị thấp làm tổn thương, dương khí không chuyển vận được dẫn đến âm thịnh dương suy, thủy thấp trần ra, đọng lại ở cơ bắp, gây nên phù thũng. Dùng phép ôn vận kiện Tỳ, lợi thủy hóa thấp, dương khí vận chuyển được thì khí lưu thông, thủy sẽ rút theo đường tiểu cho nên bệnh khỏi dần.
5- Lục X, nữ, 28 tuổi.
Khám lần đầu: Hai gò má đỏ, tiểu không thông, phù toàn thâ, thở gấp, không nằm được, lưỡi đỏ, mạch Trầm Tế, có khi Kết Đại. Đây là dương khí suy yếu, hư dương vọt ra ngoài, có thể thành chứng thoát (Tây y chẩn đoán là chứng Tháp tim). Cho uống Chân Vũ Thang hợp với Chích Cam tham Thảo Thang gia giảm. Cho uống Thục phụ khối 16g (sắc trước), Biệt trực sâm, Quế chi đều 8g, Bạch thược, Mạch môn, Bạch truật đều 12g, Phục linh 16g, Chích Cam thảo, Can khương đều 4g.
Khám lần 2: Sau khi uống 1 thang thuốc, chuyển biến tốt, đã tiểu được, thở gấp cũng ổn định, đêm ngủ không yên. Cho uống tiếp đơn cũ.
Khám lần 3: Thời tiết thay đổi đột ngột, tiểu lại bị ít, nửa người phía dưới lại phù, đêm ngủ không yên, toàn thân đau mỏi. Theo đơn cũ thêm các vị trấn tỉnh, thu liễm để đề phòng hư thoát: Thục phụ khối, Phục linh đều 20g, Mẫu lệ (nung) 40g, Long cốt (nung), Trạch tả đều 16g, Bạch truật 12g, Quế chi, Trực sâm đều 8g, Can khương, Chích thảo đều 4g.
Nhân xét: Bệnh án này do Thận dương suy yếu dẫn đến thủy thũng, vì vậy dùng bài Chân Vũ Thang khiến cho dương khí phục hồi, hàn thủy đã hóa được, tiểu lợi thì thủy thũng rút. Vì thở gấp không nằm được nên thêm Trực sâm. Chích thảo, Long cốt nung, Mẫu lệ nung để phòng chứng thoát do suyễn.
Bệnh Án Phù Thũng
(Trích trong ‘Y Học Yếu Giải Tập Chú Di Biên’ của Chu Văn An – Việt Nam)
Một phụ nữ sau khi sinh bị phù đã 2-3 tháng, chỉ nằm được một bên, mỗi lần trở minh thì như hết hơi, đã bị hôn mê như sắp chết 3 ~ 4 lần. Đã mời 8 ~ 9 thầy thuốc, phần nhiều cho uống bài ‘Kim Quỹ Thận Khí Hoàn’ ‘ Bát Vị Hoàn’, cùng nhiều phương thuốc khác nhưng không khỏi. Đến lúc đó, mạch 2 tay cả 6 bộ đều Trầm, Vi, vô lực, tinh thần mệt mỏi, mỗi ngày chỉ ăn được vài 3 thìa, lại kèm bị tiêu chảy, tiểu gần như bị bí. Chu Văn An cho rằng trong ruột lạnh như nước, nguyên dương muốn tuyệt. Ông chế ra bài ‘Lập Chân Thang’ gồm: Phụ tử (sống) 4-8g, Phá cố chỉ 4g, Hoàng kỳ (chích mật) 8g, Thảo quả 4g, Nam mộc hương 8g, Xa tiền 8g. Sắc uống ngày 2 lần. Bên ngoài dùng thuốc thông biểu: Lá Sả, Cỏ bấc, Kim phất thảo, sắc lấy nước xát vào chỗ phù. Sau 2 ~3 ngày thì tiểu được nhiều, bớt phù, phân đặc, tinh thần ngày càng tươi tỉnh. Sau đó cho uống ‘Thập Toàn Đại Bổ’ 3 tháng, bệnh khỏi hoàn toàn.
Bệnh Án Phù Thũng
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Quách X, nữ, 34 tuổi. Hai năm gần đây cảm thấy người béo dần, mất sức ngày càng nặng, hơi làm việc là mỏi mệt. Buổi sáng ngủ dậy mặt nặng, buổi trư­a da tay cứng nhắc, buổi chiều hai đùi trư­ớng lên, phù ấn lõm. Thày thuốc đã điều trị theo viêm thận, cho dùng các loại thuốc đông, tây y hơn nửa năm vẫn không có kết quả, bệnh tình lúc nặng lúc nhẹ. Kiểm tra gan, thận đều không có dấu hiệu dương tính. Khám thấy mạch Trầm Tế, hơi Huyền, lưỡi nhạt, rêu mỏng trắng, kinh nguyệt ít và nhạt màu. Trước,đây đã dùng Quy Tỳ Thang, Ngũ Bì Ẩm và thuốc tây. Khi uống thuốc thì đỡ phù, ngừng thuốc thì phù trở lại rất nhanh. Ca này thuộc về bệnh uất trư­ớng.
Cho uống ‘Khai Uất Tiêu Trư­ớng Thang’ (Tam lăng 10g, Nga truật 10g, Hoàng kỳ 15g, Phòng kỷ 10g, Vân linh bì 30g, Xa tiền tử 15g, Uất kim 12g, Hoài sơn dược 13g, Chế phụ phiến 10g, Cam thảo 6g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang). Uống đ­ược 14 thang đã hết phù, hết trư­ớng, khỏi bệnh. Khuyên nên tránh xúc động đề phòng tái phát.
Bàn luận: Đây là một chứng bệnh tổng hợp do rối loạn trao đổi nước muối gây ra, thường gặp ở phụ nữ trong tuổi sinh đẻ từ 20 đến 50 tuổi. Bệnh diễn biến có tính chất chu kỳ, thường là bị nặng trước kỳ kinh. Buổi sáng thức dậy người bệnh thấy mặt, nhất là mi mắt bị phù, sau khi dậy vận động thì hai chân và thân người dần dần bị phù. Sau một đêm nghỉ ngơi thì phù có thể giảm đi. Ngoài ra có thể còn thấy mập ra, rối loạn kinh nguyệt và các triệu chứng thần kinh - tinh thần. Đông y cho rằng phù thũng đặc phát là do uất mà sinh bệnh, biểu hiện ở phù, trư­ớng, cho nên gọi là bệnh uất tr­ướng. Đối với bệnh này tây y chư­a có cách điều trị lý tưởng. Chúng tôi dùng "Khai Uất Tiêu Tr­ướng Thang" để điều trị, căn cứ tình hình cụ thể của mỗi bệnh nhân mà có gia giảm các vị thuốc một cách thích đáng, chỉ cần người bệnh kiên trì điều trị, đều có thể thu được kết quả t­ương đối tốt.
Dư­ X, nữ, 48 tuổi, công nhân. Đến khám ngày 10 tháng 3 năm 1978. Bị phù toàn thân rõ rệt đã 2 năm. Thường xuyên nhức đầu chóng mặt, tim đập hồi hộp, ù tai nhức mỏi lưng và đầu gối, mất ngủ, hay nằm mê, bụng tr­ướng to, mỡ dầy ở vùng giữa, bờ gan dưới sư­ờn 1,5cm, dưới mũi ức 3,0cm, gan mềm, không sờ thấy lách. Hai chân phù ấn lõm, chất lưỡi mập nhuận, rêu trắng, hơi bẩn, mạch Trầm Hoãn. Chẩn đoán: Phù thũng đặc phát, nên dùng phép trị ôn dương lợi thủy. Cho uống ‘Tiêu Thũng Thang Gia Giảm’ (Tiên linh tỳ 12g, Ba kích thiên 12g, Hậu phác 9g, Sa chỉ thực 9g, Trư­ linh 12g, Trạch tả 9g, Xuyên khung 9g, Hồng hoa 6g, Uất kim 9g, Thương truật 9g, Khấu nhân 9g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang). Uống 2 tuần liền, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt, cơ bản đã hết phù. Tiếp tục cho uống 2 tháng nữa thì bệnh khỏi hẳn. Hơn hai năm sau hỏi lại vẫn không thấy bệnh tái phát, bệnh nhân đã đi làm bình thường.
Bệnh Án Phù Do Protein Thấp
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng’)
Lương X, nữ, xã viên công xã, nhập viện ngày 24-12-1974. Đã hai tháng toàn phân phù nề, gần đây càng nặng. Thời gian mắc bệnh lại gần kỳ sinh nở, lúc mới có thai tình trạng nói chung còn tốt, đến giữa tháng 9 thì khớp mắt cá 2 bên phù lên, chừng trên dưới 10 ngày lan đến khớp gối, rồi phát triển tới toàn thân phù nề, khó cử động. ăn uống kém sút, tiểu ít, ban tối sức nhìn kém đi. Khám thấy người tỉnh táo, dinh d­ưỡng bình thường, tròng trắng mắt không vàng, mặt hơi phù, nghe phổi tiếng thở thô chư­a có ran, mạch 84 lần/phút, tim đập 84 lần/phút, nhịp đều, ở mỏm tim và van động mạch phổi có thể nghe thấy tiếng thổi tâm thu, gan lách sờ không rõ, toàn thân phù nề rõ rệt. Ngày 29-12 đẻ tại bệnh viên đủ tháng, thuận lợi. Sau khi đẻ, chư­a thấy bớt phù, bụng căng phồng rõ. Xét nghiệm n­ước tiểu thường quy: bạch cầu (++), Albunin niệu (+ -), tế bào bì (+). Xét nghiệm máu: huyết sắc tố 38%, hồng cầu 1.380. 000/mm3. Chức năng gan không có thay đổi rõ rệt. Ngày 3-1-1975 từ khoa sản chuyển sang khoa nội, với tình trạng (1) phù do albumin thấp; (2) phù do xơ gan? Bệnh nhân đã dùng viên Cyclopen- tylmetylthiazin, Aminophylin không có tác dụng rõ rệt nên chuyển sang đông dược.
Quá trình điều trị: Trước hết dùng mấy thang có Nhân sâm, Phục linh, Đ­ương qui, Hoàng kỳ là các thứ bổ khí bổ huyết, không thấy hiệu quả rõ rệt. Chuyển sang dùng Tiêu Thũng Phương (Đư­ơng qui 50g, Thương truật 25g, Xuyên hậu phác 15g, Trần bì 15g, Mộc hương 15g, Đại phúc bì 15g, Bán hạ 15g, Thanh bì 7g, Phục linh 20g, Tô diệp 15g, Hoàng kỳ 20g, Quế bì 10g, Trạch tả 15g, Cam toại 15g, Đại táo 4 quả. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang), cho bệnh nhân uống 4 thang. Uống hết 2 thang thì phù giảm dần. Uống 4 thang bài thuốc trên, bỏ Đại phúc bì, Bán hạ, Thanh bì, Quế bì, Trạch tả, Cam toại, thêm Trư­ linh 15g, Bạch truật 15g, Sa nhân 7g, Nội kim 20g, Thần khúc 10g, sắc uống xong 3 thang thì hết phù. Bệnh khỏi.
TÍCH TỤ
Tích tụ là một loại tật bệnh trong bụng kết khối, hoặc trướng hoặc đau. Bệnh này có thể chia ra chứng Tích và chứng Tụ.
Chứng Tích là cố định không di chuyển, trướng và đau đều ở một chỗ nhất định. Chứng Tụ thì chướng xiên thúc, đau không nơi nhất định. Vì vậy, chứng Tích có tích khối rõ rệt, phần nhiều thuộc về Huyết. Chứng Tụ, vật khối dễ tụ dễ tan, phần nhiều
thuộc về Khí.
Chứng Tích phải thời gian khá dài mới hình thành, bệnh tình cũng nặng, điều trị hơi khó khăn. Chứng Tụ gây bệnh, thời gian hơi ngắn, bệnh tình khá nhẹ, điều trị dễ hơn.
Thiên ‘Ngũ Biến’ (Linh Khu 46) viết: “Người ta mắc bệnh ở trong ruột, chẩn đoán thế nào ? Trả lời: da mỏng không tươi nhuận, thịt không chắc mà mềm nhão, vậy là trong Trường Vị có vấn đề. Có vấn đề thì tà khí ngưng đọng, tích tụ làm hại. Trong Trường Vị ấm lạnh không đều, là khí chợt đến, súc tích ngưng đọng thì phát sinh bệnh Tụ.
- Bệnh có Tích có Tụ, phân biệt ra sao ? Trả lời: Đúng ? Tích là thuộc âm khí, Tụ là thuộc dương khí. Cho nên âm chìm mà ẩn náu, Dương nổi lên mà động. Cái nơi tích của khí gọi là Tích, cái nơi khí tụ gọi là Tụ. Cho nên Tích là do ngũ Tạng phát sinh, Tụ là do lục Phủ hình thành. Tích thuộc âm khí, chỗ xuất phát có quy định và đau cũng không rời bộ vị của nó, có đầu cuối và trên dưới, trái phải có bờ tận cùng. Còn Tụ thuộc dương khí, chỗ xuất phát không có căn bản, trên dưới không thấy tận cùng cũng không nơi đau nhất định gọi là Tụ. Cho nên lấy đó mà biết phân biệt Tích Tụ (Nạn thứ 55 - Nạn Kinh).
Bệnh Tích tụ, do ăn uống, huyết khí, hoặc do phong hàn, đều có thể gây nên. Nhưng cũng nên phân biệt thế nào là Tích, thế nào là Tụ. Nói là Tích có ý như tích lũy, hình thành một cách từ từ. Nói là Tụ có ý như lúc tụ lúc tan, như có như không. Như vậy rắn chắc không di chuyển, vốn là hữu hình, cho nên hữu hình là Tích. Hoặc tụ hoặc tan vốn là vô hình, cho nên vô hình là Tụ. Các loại hữu hình, hoặc do ăn uống đình trệ, hoặc do máu mủ ứ đọng, hoặc do bọt nước ngưng đọng, quấn lại thành hòn khối... đều là loại Tích, bệnh đa số thuộc phần huyết, vì huyết hữu hình ở thể tinh. Các loại vô hình hoặc không trướng, hoặc đau hoặc không đau, sờ lúc thấy lúc không, đều thuộc loại Tụ, bệnh đa số ở phần khí, khí vô hình ở thể động. Cho nên Nạn Kinh lấy Tích là âm khí, Tụ là dương khí theo nghĩa đỏ (Cảnh Nhạc Toàn Thư).
Đối với y học hiện đại, Tích Tụ bao gồm các bệnh Rối loạn công năng đường ruột, Tắc ruột, Gan Lách to, Ung thư vùng bụng, sa Thận v.v...
Nguyên Nhân
Tích Tụ thường do thất tình uất kết, khí trệ huyết ứ; Hoặc do ăn uống nội thương, đờm trệ ngăn trở; hoặc do nóng lạnh không điều hòa, Chính khí hư yếu, ngưng trệ...
Thời kỳ đầu phần nhiều thuộc Thực, bệnh kéo dài đa số thuộc Hư.
+ Tình chí uất ức: Tạng Phủ mất sự điều hòa, khí cơ không hư sướng, khí trệ huyết ứ, tích lũy ngày này sang tháng khác gây nên Tích Tụ.
+ Nội thương: ăn uống rượu chè không điều độ, Tỳ mất sự kiện vận, thấp trọc ngưng tụ thành đàm, đờm và khí quấn vào nhau làm cho huyết đi không thông, ủng tắc mạch lạc hình thành Tích Tụ. Sách ‘Vệ Sinh Bảo Giám’ viết: "Những người Tỳ Vị hư yếu hoặc ăn uống quá độ, dùng thức sống lạnh bừa bãi không chịu đựng sự biến hóa đến nỗi thành Tích tụ kết khối".
+Nóng lạnh ngưng tụ: Hàn thấp xâm phạm, Tỳ dương không vận chuyển, đờm thấp tụ ở trong, khí huyết ứ trệ, tích khối thành bệnh. Thiên ‘Bách Bệnh Thiû Sinh’ (Linh Khu 66) ghi: "Ban đầu bị chứng Tích là do hàn gây nên".
Những nguyên nhân bệnh nói trên có rất nhiều nguồn gốc, nhưng hình thành Tích Tụ, chủ yếu là do khí huyết ứ trệ.
Biện chứng
Tích với Tụ tuy khác nhau, nhưng khí tụ cũng có thể ảnh hưởng sự lưu thông của huyết. Huyết ứ cũng có thể có cả khí trệ. Đối với chính khí, thì Tích lâu ngày làm cho chính khí suy nặng hơn, Tụ dần dần làm chính khí suy nông hơn.
Trên lâm sàng, một số tật bệnh có thể thấy trước bị Tụ mà khí trệ, về sau huyết ứ thành Tích. Như vậy, giai đoạn khí trệ nên điều trị kịp thời, nếu không thì tụ lại mà thành Tích, cuối cùng sẽ khó chữa. Về nguyên tắc điều trị, đối với Tụ chủ yếu phải sơ Can lý khí hóa đờm ; Đối với Tích chủ yếu phải hoạt huyết hóa ứ và lý khí, nhưng nên hỗ trợ với phương pháp làm mềm chất rắn và giúp chính khí.
CHỨNG TỤ
1. Can uất khí trệ: Hơi tụ ở trong bụng, đau xốc lên, đầy trướng, lúc tụ lúc tan, vùng bụng và sườn có lúc khó chịu, rêu lưỡi mỏng, mạch Huyền.
Biện chứng: Can khí uất kết, khí cơ không lợi thì vùng bụng sườn có lúc khó chịu; Khi tụ thành hình thì cứng hoặc nghịch loạn thì đầy trướng, đau xốc lên, khi khí tan thì chứng trướng đau ngừng ngay.
Điều trị: Sơ Can giải uất, hành khí tiêu tụ. Chủ yếu dùng Tiêu Dao Tán.
(Trong bài dùng Sài hồ để sơ Can, Bạch thược để nhu Can, Bạc hà để tán uất (liều lượng ít), Bạch truật, Phục linh, Cam thảo để điều lý Tỳ Vị. Nếu là người già thể lực yếu, tinh thần mỏi mệt, thêm Đảng sâm để bổ hư. Nếu khí trệ nặng, hàn thấp nghẽn ở trong, dùng Tiêu Dao Tán không đỡ, có thể dùng bài Mộc Hương Thuận Khí Tán (Mộc hương, Can khương, Ngô thù, Thương truật, Hậu phác, Thăng ma, Thảo đậu khấu, Phục linh, Đương qui, Trạch tả, Thanh bì, Bán hạ, Ích trí, Sài hồ) để ôn trung tán hàn, lý khí hoạt huyết.
2. Thực trệ đờm ngăn trở: Bụng trướng hoặc đau, táo bón, biếng ăn, ó lúc như có vật nổi cộm lên ở bụng. Bệnh nặng hơn thì ấn vào trướng đau nhiều, rêu lưỡi nhớt, mạch Huyền Hoạt.
Biện chứng: Thức ăn ngăn trở ở đường ruột, rối loạn tiêu hóa, Tỳ mất sự vận hóa, đờm thấp từ trong sinh ra, đờm trệ cùng tắc nghẽn làm cho khí cơ không thông nên mới chướng đau, táo bón, biếng ăn, Lại do khí cơ không thông thì đờm trệ cùng với khí tụ lại không tan nên mới như có vật nổi cộm lên ở bụng: Nếu như tống được thực trệ xuống dưới, phủ khí thông lợi thì chứng Tụ có thể tan.
Điều trị: Thông tiện đạo trệ, lý khí hóa đờm. Chủ yếu dùng Lục Ma Thang.
Thực trệ nghẽn ở đường ruột không dùng phương pháp tiêu đạo không được, trong bài Lục Ma Thang có Đại hoàng, Chỉ thực, Binh lang để hóa đờm thông đại tiện, vì đại tiện thông thì thực trệ dồn xuống không hợp với khí làm ngăn trở nữa. Lại dùng Trầm hương, Mộc hương, Ô dược để lý khí. Có thể thêm Bán hạ, Phục linh, Trần bì để hóa đờm, hòa trung thì một khi khí cơ thông lợi, thực trệ càng dễ dàng tống xuống, đờm thấp cũng dễ tiêu trừ, nhờ đó mà Tỳ dương mạnh lên, các loại Hà, Tụ có thể tiêu tan. Nếu đờm thấp nặng hơn lại có cả thực trệ, phủ khí không thông, nên lưỡi nhớt không hóa được, có thể dùng Bình Vị Tán thêm Sơn tra, Lục khúc để táo thấp hóa đờm, kiện Tỳ và tiêu đạo.
Chứng Tụ đa số thường gặp là Thực chứng, nhưng nếu tái phát nhiều lần, Tỳ khí bị hại, có thể dùng Hương Sa Lục Quân Tử Thang để kiện Tỳ hòa trung, giúp chính khí.
CHỨNG TÍCH
1. Khí Uất, Huyết Ngăn Trở: Dưới sườn có khối u mềm, khối u cố định không di chuyển, vừa đầy vừa đau, rêu lưỡi mỏng mạch Huyền.
Biện chứng: Can khí uất kết, lạc mạch không thông, chứng Tích mới chớm phát, chính khí chưa bị hư, sự quấy nhiễu bởi Tích chưa lâu, cho nên khối u mềm không cứng, sự biến hóa của mạch và lưỡi không nhiều. Tuy thuộc khí trệ mà huyết đã không trôi chảy thông lợi, do đó khối u cố định, đầy và đau chỉ khu trú một chỗ, không có cảm giác xiên nhói.
Điểm phân biệt chủ yếu giữa Can uất khí trệ của chứng Tụ với khí uất huyết nghẽn của chứng Tích ở chỗ: chứng Tụ lấy khí uất là chính, có thể kèm theo chứng trạng Can khí phạm Tỳ hoặc Tỳ mất sự kiện vận, hàn thấp ứ đọng, tuy cũng có thể kiêm có ứ huyết nhưng biểu hiện đều không rõ rệt. Chứng Tích tuy cũng có khí trệ, nhưng biểu hiện huyết ứ khá rõ, vì thế điểm quan trọng để biện chứng là khối u cố định và đầy đau chỉ khu trú một chỗ.
Điều trị: Lý khí, hoạt huyết, tiêu tích. Chủ yếu dùng Kim Linh Tử Tán hợp với Thất
Tiếu Tán.
Trong bài có Kim linh tử để sơ Can hành khí; Huyền hồ lý khí, hoạt huyết, giảm đau, lại dùng chung với Thất Tiếu Tán để hoạt huyết, trừ ứ thì khí huyết được lưu thông, 'thông thì không đau’, tích khối có thể tiêu tan.
Nếu khí uất huyết ngăn trở phát triển thêm một bước, dùng những phương nói ở trên không hiệu quả, có thể đổi dùng Đại Thất Khí Thang, có Thanh bì, Trần bì, Cát cánh, Hoắc hương để hành khí tán kết; Quế chi, Tam lăng, Nga truật, Hương phụ để ôn thông huyết lạc, tán kết, mềm chất rắn...
Nếu có cả chứng nóng và rét, đau mình, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Phù là có biểu chứng phong hàn, nên sử dụng phép tuyên biểu lý khí, thông trệ, tiêu tích, có thể dùng Ngũ Tích Tán để chữa. Chứng Tích giai đoạn đầu có hàn thấp xâm phạm, khí cơ không lợi dẫn đến một loại chứng nghẽn trở không thông, phương pháp trị là làm cho từng bước tiêu tan dần.
2. Ứ huyết kết ở trong: Vùng bụng kết khối rõ rệt, cứng, đau không di chuyển, mặt sạm, gầy ốm, kém ăn, có lúc nóng rét, rêu lưỡi mỏng, rìa lưỡi tối hoặc chất lưỡi hơi tía hoặc có điểm ứ huyết, mạch Tế Sáp.
Biện chứng: Tích khối lâu ngày to lên rõ rệt, đó là huyết ứ ngưng kết, mạch lạc bị nghẽn tắc cho nên khối u cứng đau. Tuy thấy mặt sạm, gầy ốm, không thể xem là Hư chứng mà đó là hiện tượng khí trệ huyết ứ. Còn như kém ăn, có lúc nóng rét cũng là do doanh vệ không hòa, Tỳ Vị mất điều hòa gây nên. Hơn nữa, lưỡi và mạch đều biểu hiện rõ là bệnh ở huyết phận, ứ huyết kết ở trong, đó mới là nguyên nhân chính.
Điều trị: Khứ ứ, nhuyễn kiên, hành khí. Dùng Cách Hạ Trục Ứ Thang.
(Trong bài thuốc dùng Đào nhân, Hồng hoa, Đương quy, Xuyên khung, Ngũ linh chi, Huyền hồ, Đơn bì, Xích thược đều là những vị hoạt huyết khứ ứ; Ô dược, Chỉ xác làm tá để lý khí; Dùng Cam thảo phối hợp với Xích thược, một vị có thể giảm đau, một vị có thể hòa hoãn bên trong cũng là có ý điều lý Tỳ Vị).
Tích khối lâu ngày còn có thể dùng thêm Miết Giáp Tiễn Hoàn (Kim Quỹ Yếu Lược) bài này ngoài tác dụng hoạt huyết hóa ứ, còn có tác dụng nhuyễn kiên và bổ ích. Hai phương thuốc trên, còn có thể uống xen kẽ với Lục Quân Tử Thang, để bổ ích khí của Tỳ Vị theo phương pháp vừa công vừa bổ.
3. Chính Khí Hư Ứ Kết: Tích khối cứng, đau tăng dần, sắc mặt úa vàng hoặc đen sạm, gầy ốm, ăn rất kém, chất lưỡi tía nhạt hoặc lưỡi bóng không có rêu, mạch Tế Sác hoặc Huyền Tế.
Biện chứng: Bệnh kéo dài, chính khí đã suy, mạch lạc tắc nghẽn cho nên tích khối cứng rắn, đau càng tăng. Tỳ Vị mất chức năng vận hóa, nguồn gốc của khí huyết không đủ cho nên gầy ốm, sắc mặt úa vàng. Chất lưỡi tía nhạt là dương khí tổn thương, âm huyết bị hại, lưỡi bóng không rêu và mạch Tế.
Điều trị: Đại bổ khí huyết, hoạt huyết hóa ứ. Dùng bài Bát Trân Thang hợp với Hóa Tích Hoàn.
Bệnh đã lâu ngày, chính khí tổn thương nhiều, dùng Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Cam thảo, Đương quy, Bạch thược, Địa hoàng, Xuyên khung để đại bổ khí huyết; Nhưng lưỡi đỏ bóng không rêu là phần âm tổn thương quá nặng, có thể thêm Sinh địa, Sa sâm, Thạch hộc để nuôi tân dịch. Tuy chính khí bị tổn thương nhiều, nhưng tích khối quá lâu, khí huyết ứ trệ, cho nên dùng phương pháp hóa tích để làm mềm chất rắn, phá ứ và hoạt huyết. Tuy nhiên vì bệnh quá lâu, hiệu quả khá chậm, không thể khỏi nhanh được.
Chứng Tích dù mới bị hay tích khối đã lâu, đều có thể phối hợp phép chữa bên ngoài, trên lâm sàng nói chung sử dụng Cao A Ngùy dán vào chỗ khối u giúp cho tác dụng tiêu tích tán ứ rất tốt.
Ngoài ra, chứng Trưng Hà thuộc phạm vi Tích tụ. Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: “Bệnh không di động, đúng tên gọi là Trưng - Nếu bệnh tuy có kết khối mà có thể chuyển đẩy được gọi là Trưng Hà - Hà là giả, là hư giả có thể chuyển động". Xem vậy thì biết Trưng và Tích thuộc loại hữu hình có đặc điểm cứng rắn không di chuyển. Hà với Tụ có chứng trạng lúc tụ lúc tan bất thường. Chứng Huyền tích ghi trong sách ‘Thánh Huệ Phương’ cũng thuộc phạm vi chứng Tích tụ, đó là căn cứ vào bộ vị kết khối nông sâu ở vùng bụng mà đặt tên. Bộ vị ở sâu không nhìn thấy hòn khối, hoặc kiểm tra kỹ mới thấy hòn khối thì gọi là Tích.
Cần phân biệt Tích với Bỉ mãn. Bỉ mãn là loại chứng trạng tự cảm giác ở vùng bụng - chủ yếu vùng Vị quản, bỉ đầy không thông, chướng tắc không chịu nổi nhưng không thể sờ thấy khối u. Nếu là 'Bỉ khối’ thì thuộc phạm vi Tích tụ.
Tóm lạïi, khi mới bị chứng Tụ nếu điều trị kịp thời có thể chuyển biến tốt hoặc khỏi hẳn. Nhưng chứng Tụ để kéo dài, cũng có thể thành Tích. Còn như chứng Tích thời kỳ đầu, nếu chạy chữa thích đáng, có thể đỡ dần; để đến thời kỳ cuối hoặc biến
thành Hoàng đản, thành Cổ trướng, hoặc nôn ra máu, tiêu ra máu... đều là biến chứng rất nặng.
Bệnh Án Tích Tụ
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)
Ngô X, nam, 54 tuổi.
- Khám lần dầu: Sườn bên phải đau lan tỏa tới vùng rốn, khí tụ lại thành chứng Hà, sau khi ăn vào càng khó chịu, nôn ra nước vàng, ợ hơi thì dễ chịu, qua 2 ngày vẫn chưa đại tiện, nước tiểu mầu vàng sẫm. Đây là Can Đởm mất chức năng sơ đạt gây nên, điều trị theo hướng sơ Can, lý khí hỗ trợ phép giáng nghịch. Dùng Sài hồ 6g, Xuyên luyện tử 12g, Bán hạ 12g, Hương duyên bì 12g, Thanh bì 6g, Uất kim 12g, Mộc hương 6g, Hương phụ chế 12g, Toàn đương qui 12g, Xích thược 12g. Tả Kim Hoàn 4g (chia làm 3 lần nuốt).
Khám lần 2: Đã hết đau sườn, nôn mửa cũng giảm, rêu lưỡi mỏng nhớt, mạch Tiểu, Huyền, khí cơ đã thông lợi, theo phương pháp cũ có gia giảm thêm. Mộc hương trong đơn dùng 4g, Tả Kim Hoàn dùng 3g, uống tiếp 3 thang nữa khỏi hẳn. Về sau bệnh tái phát lại uống đơn này cũng khỏi.
- Nhận xét: Đau sườn phải giống như cố định (thực tế là lan tỏa đến vùng rốn, có ý như lúc tụ lúc tan. Lâm sàng nói chung thấy loại bệnh này đều cảm thấy như có vật gì ở vùng sườn, khó chịu, ngồi sờ cũng không thấy hòn khối.
Vương X, nam, 39 tuổi. Hình dung tiều tụy, mỏi mệt yếu sức, sắc da vàng khô không nhuận, chi dưới mềm yếu, cánh tay tê dại, ăn kém. Rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Tiểu Sác. Đây là loại ứ kết do chính khí hư, đã hình thành chứng Tích. Điều trị theo hướng phù chính hóa ứ. Dùng Sinh địa 16g, Thục địa 16g, Đảng sâm 16g, Hoàng kỳ 16g, Bạch thược 20g, Miết giáp 32g, Mẫu lệ 32g, Đan sâm 12g, Sa nhân 3g, Ngưu tất 12g, Phục linh 16g, Đơn bì 6g. Nhân Sâm Miết Giáp Tiễn Hoàn 4g (chia 2 lần nuốt). Lại dùng Cẩu Bì Tiêu Bỉ Cao thêm A nguy 2g dán vào chỗ lách (Tỳ) sưng to.
Chú ý: bệnh án này lách sưng to xuống quá rốn, sau khi uống 17 thang, tinh thần khá hơn, ăn ngon, lách sưng to cũng nhỏ dần.
Nhận xét: Bệnh án này đã hình thành chứng Tích, sau khi uống 17 thang theo hướng phù chính hóa ứ, Trưng Tích nhỏ dần. Trong bệnh án tuy không nói đến Trưng Tích, nhưng trong lời ‘chú ý’ đã nói nguyên nhân, hơn nữa, trong đơn thuốc cũng nêu ra dán cao vào chỗ Trưng Tích.
TIỀN LIỆT TUYẾN VIÊM
(Tiền Liệt Tuyến Viêm - - Prostatitis)
Viêm tiền liệt tuyến là bệnh rất thường gặp ở tuổi thành niên, có phân ra cấp và mạn tính. Viêm tuyến tiền liệt cấp có triệu chứng tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đau, kèm theo sốt, thuộc chứng Nhiệt lâm. Viêm tuyến tiền liệt mạn biểu hiện chủ yếu là cảm giác khó chịu vùng bụng dưới, vùng hội âm, tinh hoàn, đau vùng dưới thắt lưng, tiểu nhiều lần, niệu đục trắng, thuộc phạm trù chứng tinh trọc, lao lâm.
Trên lâm sàng gặp nhiều chứng mạn tính.
Nguyên Nhân
Theo YHHĐ thì viêm tuyến tiền liệt thường là thứ phát của các chứng viêm niệu
đạo, viêm tinh nang, viêm mào tinh hoàn hoặc viêm các vùng lân cận trực tràng. Vi khuẩn gây bệnh thường là các loại tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn, trực khuẩn đại trường và trực khuẩn loại bạch hầu. Những yếu tố dẫn đến bệnh thường là cơ thể cảm lạnh, rượu chè quá mức, chấn thương vùng hội âm, phòng dục quá độ v v…
Theo YHCT, viêm tuyến tiền liệt cấp là do cảm nhiễm độc tà, thấp nriệt hạ chú gây kinh lạc tắc, khí huyết ứ trệ, bàng quang khí hóa rối loạn. Viêm tuyến tiền liệt mạn là do phòng dục quá độ làn tổn thương tinh khí gây nên thận khí suy yếu, thấp nhiệt tà xâm lấn, hoặc do ngày thường rượu chè quá mức làm cho Tỳ Vị bị tổn thương, thấp nhiệt sinh ra ở bên trong, dồn xuống dưới khiến cho kinh lạc bị trở, khí huyết ứ trệ gây nên
Triệu Chứng Lâm Sàng
+ Viêm Tuyến Tiền Liệt Cấp: Phát bệnh cấp, đột nhiên xuất hiện tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đau, bệnh nặng thì tiểu có máu, sau tiểu có nhỏ giọt, kèm theo các triệu
chứng như sốt sợ lạnh, đau đầu và thân mình. Bệnh nhân có cảm giác vùng hội âm đầy tức đau trụy xuyên vùng cùng cụt, dương vật và phía trong đùi. Khám đường hậu môn phát hiện tuyến tiền liệt sưng to đầy, ấn đau. Nước tiểu có nhiều hồng cầu, bạch cầu, dịch tuyến tiền liệt có mủ (tế bào mủ).
+ Viêm Tuyến Tiền Liệt Mạn Tính: Triệu chứng đa dang, thường có các biểu hiện sau :
. Tiểu không thông lợi, tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đau, tiểu xong nhỏ giọt, cảm giác còn muốn tiểu, niệu đạo ngứa, chảy chất dịch trắng đục, có lúc tiểu ra máu hoặc lẫn tinh dịch (hiện tượng bao tinh viêm).
. Đau âm ỉ vùng hội âm, trực tràng xuyên vùng cùng cụt, bên trong đùi và bụng dưới.
. Giảm tìh dục, di tinh, tảo tinh, tiết tinh, liệt dương.
. Tinh thần suy nhược, mất ngủ, váng đầu, chóng mặt, mệt mỏi, u uất...
Kiểm tra trực tràng phát hiện tuyến tiền liệt to cứng, mặt trơn hoặc có cục cứng, to nhỏ không bình thường, ấn đau, có thể nhỏ do xơ cứng. Kiểm tra dịch tuyến tiền liệt có nhiều bạch cầu.
Chẩn Đoán Phân Biệt
1. Viêm đường tiểu: kiểm tra nước tiểu bằng kính hiển vi và trực tràng để phân biệt.
2. Lao Tuyến Tiền Liệt: triệu chứng lâm sàng không rõ rệt, sờ tuyến tiền liệt thường có cục, có triệu chứng tiểu ra máu từng đợt và có tiền sử bệnh lao.
3. Ung Thư Tuyến Tiền Liệt: khám dịch tuyến tiền liệt phát hiện tế bào ung thư hoặc sinh thiết phân biệt.
Biện Chứg Luận Trị
+ Thấp Nhiệt Hạ Chú: tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu đau, đường tiểu có cảm giác nóng bỏng, nước tiểu vàng đục, đau vùng hội âm, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch Hoạt Sác hoặc Nhu Sác. Thường gặp trong viêm tuyến tiền liệt cấp hoặc mạn tính cấp diễn.
Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc. Dùng bài Long Đởm Tả Can Thang, Tỳ Giải Phân Thanh Ẩm gia giảm.
+ Khí Huyết Ứ Trệ: đau âm ỉ vùng hội âm, bụng dưới, tuyến tiền liệt sờ thấy nhỏ cứng, cảm giác đau trụy tinh hoàn hoặc tiểu ra máu, nước tiểu có lẫn tinh dịch, lưỡi tím, mạch Trầm Sáp.
Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ, lý khí, đạo trệ. Dùng bài Tiền Liệt Tuyến Viêm Thang. (Đơn sâm, Nhũ hương, Một dược, Bạch chỉ, Trạch tả, Xích thược, Vương bất lưu hành,
Bồ công anh, Đào nhân, Hồng hoa, Thanh bì, Xuyên luyện tử, Tiểu hồi).
+ Âm Hư Hỏa Vượng: lưng gối nhức mỏi, hoa mắt, chóng mặt, mất ngủ, di tinh, liệt dương, người gầy, miệng khô, họng khô, lười đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác.
Điều trị: tư dưỡng thận âm, thanh dư nhiệt. Dùng bài Tri Bá Địa Hoàng Thang.
+ Thận Dương Hư: sắc mặt tái nhợt, lưng gối lạnh, liệt dương, tảo tinh, tiết tinh.
Điều trị: ôn bổ thận dương. Dùng bài Quế Phụ Bát Vị Hoàn.
Ngoại Khoa
. Thuốc Ngâm: dùng nước sắc thứ 3 của thang thuốc cho thêm vào 1 nắm lá thuốc thanh nhiệt giải độc như Bồ công anh, Lá diếp cá, Kim ngân hoa... sắc nước vừa đủ để
ngâm. Trước lúc ngâm nên chuẩn bị 1 phích nước sôi 2,5 lít để lúc nước ngâm nguội cho thêm nước sôi vào vừa đủ ấm để ngâm được đúng 10 phút đến 20 phút; mỗi ngày có thể ngâm 1 ~ 2 lần, đối với thể cấp có tác dụng tiêu viêm, giảm đau, đối với thể mạn tính có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, hóa ứ; Hoặc dùng nước nóng chườm vùng hội âm 30 phút mỗi tối trước lúc ngủ, mỗi liệu trình 20 ngày.
. Thuốc Nhét: dùng hoa cúc dại giã nát, vo viên, nhét hậu môn, mỗi ngày 1-3 lần. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm.
. Đối với viêm mạn tính: dùng phương pháp xoa bóp tiền liệt tuyến có thể làm gia tăng tuần hoàn tại chỗ, giúp tiết viêm, chống xơ cứng. Không dùng trong trường hợp cấp tính.
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
Long Bế Tán (Trung Y Tạp Chí 1982: 7): Xuyên sơn giáp (sao) 60g, Nhục quế 40g. Tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g, uống với nước pha mật ong. 20 ngày là một liệu trình.
Tác dụng: Ôn dương, thông lạc, tán kết. Trị tiền liệt tuyến sưng to.
Đã trị 45 ca, bình quân uống 44 ngày. Khỏi hoàn toàn 23 ca, có chuyển biến 13 ca, không hiệu quả 3 ca. Tỉ lệ khỏi 93,3%.
+ Trương Chính Đại báo cáo dùng phương pháp hoạt huyết hóa ứ hợp với thanh nhiệt, giải độc trị 108 ca tiền liệt tuyến viêm mạn. Dùng Vương bất lưu hành25g, Xích thược 15g, Nguyên hồ sách 15g, Mộc thông 10g, Cam thảo 5-10g, Hoàng bá 25g, Bại tương thảo 25g, Bồ công anh 25g, Đan sâm 15g, Xuyên sơn giáp 15g, Tạo giác thích 15g. Nếu thuộc dạng âm hư thêm Quy bản, Câu kỷ tử, Nữ trinh tử để bổ Thận âm. Nếu dương hư thêm Bổ cốt chỉ, Nhục thung dung, Ba kích thiên để giúp cho thận dương. Kết quả đạt 90% (Trương Chính Đại, Tân Trung Y 1981 (1): 32).
+ Ngô Tuệ Mẫn dùng dịch chiết Tỏi chích để trị viêm tiền liệt tuyến mạn. Dùng dịch chiết Tỏi 5 ‰ (gồm 15‰ dầu Tỏi) chích vào vùng hội âm. Mỗi lần 2ml, cách ngày chích một lần, tổng cộng 20 lần. Trị 79 ca, khỏi 9, kết quả ít 30, có tiến bộ 34, không kết quả 6 (Ngô Tuệ Mẫn, Trung Hoa Lý Liệu Ung Chí 1982, 5 (1): 61).
+ Từ Phúc Thái dùng phép hoạt huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết, dùng bài thuốc kinh nghiệm Vương Bất Lưu Hành Thang trị viêm tiền liệt tuyến mạn thể huyết ứ có hiệu quả cao. Bài thuốc gồm: Vương bất lưu hành, Xích thược, Nguyên hồ, Đan sâm, Xuyên sơn giáp, Tạo giác thích, Đào nhân, Hồng hoa, Tam lăng, Nga truật, Xuyên khung, Ngưu tất, Đơn bì) (Từ Phúc Thán, Thượng Hải Trung Y Dược Ung Chí 1987, (1): 12).
Phòng Bệnh Và Điều Dưỡng
1. Bệnh viêm tuyến tiền liệt cấp: thường lan truyền do các bệnh nhiễm khuẩn niệu đạo, viêm bàng quang, viêm mào tinh hoàn, v.v... vì vậy, cần tích cực điều trị các bệnh nhiễm khuẩn vùng kế cận.
2. Bệnh viêm tiền liệt tuyến mạn: thường lao động quá sức hoặc phòng dục quá độ nên cần chú ý điều độ trong sinh hoạt.
3. Cần chú ý: vệ sinh ăn uống, không ăn nhiều chất cay nóng, chất kích thích, hạn chế rượu, thuốc lá. Nên uống nhiều nước, tiểu nhiều có thể giúp chất dịch tiền liệt tuyến bài tiết dễ dàng. Người cao tuổi ăn chế độ nhiều rau và trái cây, ăn cà chua mỗi ngày.
4. Giảm bớt thời gian đi xe đạp, nên ngồi ghế mềm để giảm bớt lực đè lên tiền liệt tuyến và tránh ngồi quá lâu để cho tuần hoàn vùng hội âm lưu thông dễ dàng. Đối với người bệnh viêm tiền liệt tuyến, cần nên đi lại vận động nhiều
TIỂU BÍ
(Niệu Trư Lưu - Rétention D’urine - Retention of Urine)
A. Đại cương
Tiểu (Đái) bí là trạng thái trong Bàng Quang có nước tiểu mà không đái ra được.
YHCT gọi là Lung Bế, Long Bế.
B. Nguyên nhân
- Thực chứng: do thấp nhiệt, Hoả uất ở trung tiêu không hóa đi được, dồn xuống Bàng Quang làm cho khí cơ của Bàng Quang bị ngăn trở gây ra.
- Hư chứng: do Thận khí bị suy, tinh huyết hao tổn, mệnh môn Hoả suy làm cho Bàng Quang khí hóa bất thường. Hoặc do chấn thương sau khi mổ do gây tê ở cột sống, khí cơ của Bàng Quang bị tổn thương gây nên tiểu bí, hoặc do tiền liệt tuyến sưng to, hoặc do sạn ở đường tiểu.
C. Triệu chứng
Trên lâm sàng thường gặp 3 loại sau:
1. Thận khí Bất Túc: tiểu gắt, tiểu khó, muốn tiểu mà không có sức rặn, sắc mặt nhạt, tinh thần mỏi mệt, lưng đau, chân tay mỏi yếu, chất lưỡi nhạt, mạch Trầm, Tế, bộ Xích Nhược.
2. Thấp Nhiệt dồn xuống dưới: tiểu gắt, tiểu khó, tiểu vàng đỏ, bụng dưới căng tức, khát, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ, mạch Hoạt Sác.
3. Do chấn thương: tiểu khó, không tiểu được, bụng dưới căng đầy, thường gặp sau khi bị chấn thương hoặc giải phẩu.
D. Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Hành vận hạ tiêu, điều tiết Bàng Quang.
a. Thứ Liêu (Bq.32) + Uỷ Dương (Bq.39) + Trung Cực (Nh.3).
b. Tam Âm Giao (Ty.6) + Thận Du (Bq.23) + Trung Liêu (Bq.33),
Luân phiên Sử dụng nhóm trên, kích thích vừa, vê kim liên tục. Ngày châm một vài lần cho đến khi tiểu được.
Ý nghĩa: Thứ Liêu, Trung Liêu đều thuộc kinh Bàng Quang, có tác dụng giống huyệt Bàng Quang Du (rót kinh khí vào Bàng Quang); Uỷ Dương là huyệt Hiệp ở bên dưới của Tam Tiêu, Trung Cực là huyệt Mộ của Bàng Quang, đều có tác dụng điều tiết công năng Bàng Quang; Thận Du để lợi cho sự khí hóa của Bàng Quang; Tam Âm Giao để điều hòa 3 kinh Âm, làm cho hạ tiêu vận hành.
2- Khúc Tuyền (C.8) + Hành Gian (C.2) (Tư Sinh Kinh).
3- Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Khí Hải (Nh.6) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Âm Cốc (Th.10) + Đại Lăng (Tb.7) (Châm Cứu Đại Thành).
4- Tam Tiêu Du (Bq.22) + Tiểu Trường Du (Bq.27) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3) + Trung Phong (C.4) + Thái Xung (C.3) + Chí Âm (Bq.67), đều cứu (Thần Cứu Kinh Luân).
5- Nhóm 1: Trung Cực (Nh.3) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6).
Nhóm 2: Bàng Quang Du (Bq.28) + Thứ Liêu (Bq.32) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9).
Thường dùng nhóm 1. Khi châm Quan Nguyên và Trung Cực pHải tạo cảm giác tới lỗ tiểu. Vê kim liên tục Tam Âm Giao 3 - 5 phút. Nếu chưa bớt, dùng nhóm 2 (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
6- Thận khí kém: Âm Cốc (Th.10) + Thận Du (Bq.23) + Tam Tiêu Du (Bq.22) + Khí Hải (Nh.6) + Uỷ Dương (Bq.39).
Thấp Nhiệt dồn xuống dưới: Tam Âm Giao (Ty.6) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Bàng Quang Du (Bq.28) + Trung Cực (Nh.3) .
Ngoại (chấn) Thương: Trung Cực (Nh.3) + Tam Âm Giao (Ty.6) (Châm Cứu Học Gỉang Nghĩa).
7- Yêu Dương Quan (Đc.2) + Thứ Liêu (Bq.32) + Trung Liêu (Bq.33) + Quan Nguyên (Nh.4) + Trung Cực (Nh.3) + Khúc Cốt (Nh.2) (Trung Quốc Châm Cứu Học).
8- Thực Nhiệt: Thận Du (Bq.23) + Bàng Quang Du (Bq.28) +Tam Tiêu Du (Bq.22) + Trung Cực (Nh.3) + Uỷ Dương (Bq.39) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9), đều tả .
Hư Hàn: Quan Nguyên (Nh.4) + Thạch Môn (Nh.5) + Thuỷ Đạo (Vi.8) + Mệnh Môn (Đc.4) (đều cứu), Tam Âm Giao (Ty.6) (bổ).
Tích Huyết: Huyết Hải (TY.10) + Cách Du (Bq.17) (đều tả ) (Châm Cứu Trị Liệu Học).
9- Quan Nguyên (Nh.4) + Trung Cực (Nh.3) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Thứ Liêu (Bq.32) (Thường Dụng Trung Y Liệu Pháp Thủ Sách).
10- Bàng Quang Du (Bq.28) + Trung Cực (Nh.3) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Hành Gian (C.2) + Thái Khê (Th.3) (Tứ Bản Giáo Tài Châm Cứu Học).
11- Thuỷ Đạo (Vi.28) + Bào Hoang (Bq.53) (Châm Cứu Học HongKong).
12- Bát Liêu + Bàng Quang Du (Bq.28) + Yêu Nhãn, Thừa Phò (Bq.36) + Hội Dương (Bq.35) + Ân Môn (Bq.37) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) hoặc Đại Trường Du (Bq.25) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Tiêu Du (Bq.22) . Kích thích mạnh (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu Học).
13- Điều hòa khí cơ, sơ thông Thuỷ đạo và bồi bổ thận khí (do Thận suy), hoặc thanh lợi Thấp Nhiệt (do thấp nhiệt dồn xuống hạ tiêu) hoặc điều hòa khí cơ (do chấn thương).
Châm Bàng Quang Du (Bq.28) + Trung Cực (Nh.3) + Tam Tiêu Du (Bq.22) + Uỷ Dương (Bq.39).
. Thận suy thêm Thận Du (Bq.23) + Khí Hải (Nh.6) để tăng khí hóa của Thận.
. Thấp nhiệt thêm Âm Lăng Tuyền (Ty.9) để kiện Tỳ lợi Thuỷ.
. Chấn thương thêm Túc Tam Lý (Vi.36) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Quan Nguyên (Nh.4) để điều hòa khí cơ (Châm Cứu Học Việt Nam).
14- Trung Cực (Nh.3) thấu Khúc Cốt (Nh.2) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Địa Cơ (Ty.8) . Có thể phối hợp với Khí Hải (Nh.6) + Chiên Trung (Nh.17) + Túc Tam Lý (Vi.36) (‘Trung Quốc Châm Cứu Tạp Chí’ số 8/1985).
15- Nhóm 1: Khí Hải (Nh.6) + Quan Nguyên (Nh.4) + Trung Cực (Nh.3) + Thận Du (Bq.23) . Phối hợp với Thuỷ Đạo (Vi.28) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thái Khê (Th.3) .
Nhóm 2: Khí Hải (Nh.6) xuyên Quan Nguyên (Nh.4) hoặc Quan Nguyên (Nh.4) xuyên Trung Cực (Nh.3) + Thận Du (Bq.23) + Tam Âm Giao (Ty.6) xuyên Thái Khê (Th.3) (‘Hà Bắc Trung Y Tạp Chí’ số 45/1986).
16- Thận Dương Hư: ôn bổ Thận Dương: Thận Du (Bq.23) + Quan Nguyên (Nh.4) + Mệnh Môn (Đc.4) + Khí Hải (Nh.6).
Thận Âm Hư: tư bổ Thận Âm: Thận Du (Bq.23) + Âm Cốc (Tanh.10) + Thái Khê (Th.3) + Phục Lưu (Th.7) .
Tỳ Khí Hư: Kiện Tỳ, ích khí: Tỳ Du (Bq.20) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Quan Nguyên (Nh.4) .
Phế Kim Táo Nhiệt: Thanh kim, nhuận Phế: Xích Trạch (P.5) + Khúc Trì (Đtr.11), +Tam Tiêu Du (Bq.22) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Trung Cực (Nh.3) .
Bàng Quang Tích Nhiệt: Thanh nhiệt lợi Thuỷ: Tam Âm Giao (Ty.6) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Bàng Quang Du (Bq.28) + Trung Cực (Nh.3) + Phục Lưu (Th.7) .
Ngoại Thương: Sơ thông khí cơ: Trung Cực (Nh.3) + Hoành Cốt (Th.11) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Bát Liêu (Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn).
TIÊU CHẢY
(TIẾU TẢ - DIARRHÉE - DIARRHEA)
Đại Cương
1) Theo YHCT:
Theo sách Nội Kinh:
- Phân lỏng, loãng, khi đi khi ngừng rồi lại đi, số lần đi thưa, gọi là Tiết.
- Phân lỏng, loãng, đi xổ ra như dội nước hoặc nước chảy, gọi là Tả.
- Trong Tiết có Tả, trong Tả có Tiết, vì vậy thường được gọi chung là Tiết Tả.
2) Theo YHHĐ:
Được gọi là tiêu chảy khi thành phần nước trong phân tăng lên (bình thường có 75% nước), làm cho phân có thể:
+Nhão, nát, không thành khuôn (85%)
+ Lỏng với nhiều mức độ khác nhau (88%)
+ Hoặc hoàn toàn nước (trên 90% nước) trong đó thành phần phân chỉ chiếm một tỉ lệ rất ít.
Phân Loại
Sách Nội Kinh nêu ra 8 loại Tiết tả:
1)- Thấp tả: còn gọi là Động Tiết hoặc Nhu Tiết, chủ yếu do Thủy Thấp trở trệ ở Vị Trường, Tỳ hư không ức chế nổi thủy gây ra. Thiên ‘Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (Tố Vấn 5) ghi:” Thấp thắng thì Nhu Tả”
2)- Thử Tả: tiêu chảy do cảm nhiễm Thử tà.
3)- Nhiệt Tả: cũng gọi là hỏa Tả, do nhiệt tà dồn ép ở đại trường.
4)- Hàn Tả:tiêu chảy do nội tạng hư hàn gây ra.
5)- Thực Tả:tiêu chảy do ăn uống gây ra (Thiên ‘Tỳ Luận’ Tố Vấn 43).
6)- Hư Tả: tiêu chảy lâu ngày do Tỳ Thận dương hư.
Sau này, đời nhà Tùy (581- 618), Sào Nguyên Phương trong sách ‘Chư Bịnh Nguyên Hậu Luận’ còn nêu ra:
- Vụ đường: thuộc loại Hàn tả còn gọi là Áp đường, Vụ tiết, vì khi đại tiện nước và phân ra lẫn lộn, màu xanh đen như phân vịt (áp), phân cò (vụ).
- Sôn tiết: một loại tiêu chảy do Can uất, Tỳ hư.
- Ngũ canh tiết tả cũng gọi là Kê Minh Tiết Tả vì thường tiêu chảy vào lúc canh năm (Ngũ canh) lúc gà gáy (Kê Minh) hoặc Thần tả (Thần- sáng sớm) hoặc Thận Tiết (vì nguyên nhân do Thận Dương hư gây ra).
- Ngũ tiết: 5 loại tiêu chảy, 5 loại này có 2 cách giải nghĩa:
+ Nan thứ 57, sách Nan Kinh ở mục ‘Ngũ Tiết Thương Hàn’ nêu ra: Vị tiết, Tỳ Tiết, Tiểu Trường Tiết, Đại Trường Tiết, và Đại Hà Tiết
-Sách “Bình Trị Hội Túy” của Chu Chấn Hanh lại nêu ra 5 loại: Sôn tiết, Đường Tiết, Vụ Tiết, Nhu Tiết, Hoạt Tiết.
-Hải Thượng Lãn Ôâng trong sách ‘Bách Bịnh Cơ Yếu’ phân ra 10 loại tả: Thấp tả, Nhiệt tả, tả do tạng hàn, Phong tả, Thử tả, Thực tả, Hỏa tả, tả do thất tình nội thương.
- Sách ‘Trung Y Học Khái Luận’ chia làm 6 loại: Nhiệt (thử) tả, Hàn tả, Thấp tả, Thực tả, Tỳ hư tả, Thận hư tả.
- Đời nhà Đường (618 - 906) các thầy thuốc gọi chung là Hạ Lợi.
- Đời nhà Tống (906 - 1276) mới gọi là Tiết Tả.
Nguyên Nhân
a.Theo YHHĐ:
Theo sách “Bịnh Học Tiêu Hóa” (NXB Y Học 1986):
Tiêu hóa bình thường gồm có 4 qui trình:
-Tiết dịch
-Co bóp nhu động ở bao tử và ruột nhằm trộn đều thức ăn với dịch tiêu hoá và đưa xuống dưới.
-Tiêu hoá là quá trình tác dụng của các dịch tiêu hoá, các men và các vi khuẩn nhằm làm phân giải thức ăn.
- Hấp thu: sau khi được tiêu hóa và chuyển hóa phần lớn các thành phẩm Protit, Lipit, Gluxit, các chất điện giải các sinh tố được hấp thu ở Hổng trường. Ở đại trường chỉ còn nước và cặn bã, đại trường sẽ hút lại nước và làm cho phân đóng khuôn.
Để điều hòa 4 quá trình trên, hệ thống thần kinh giao cảm và phó giao cảm giữ vai trò quan trọng: hệ giao cảm làm nhu động giảm tiết dịch. Hệ phó giao cảm có tác dụng ngược lại. Các quá trình trên bị rối loạn sẽ gây nên tiêu chảy.
Tăng tiết dịch: các yếu tố kích thích như nhiễm khuẩn, nhiễm độc, thường gây tăng tiết dịch vượt quá khả năng hấp thu thông thường của ruột gây tiêu chảy. Việc tiêu chảy này là phản xạ tự vệ nhằm loại trừ tác nhân kích thích.
Tăng nhu động: các yếu tố kích thích nói trên làm tăng nhu động ruột, thức ăn qua ruột nhanh chóng, không đủ thời gian để kịp tiêu hóa, hấp thu.
Tiêu hóa kém: khi thiếu dịch tiêu hóa, thiếu men hoặc thiếu vi khuẩn thường trú ở ruột (do dùng nhiều thuốc kháng sinh) thức ăn sẽ không được tiêu hóa đầy đủ, không hấp thu được gây ra tiêu chảy.
b- Theo YHCT:
Sách “Nội Khoa Học” của Trung Y Thượng Hải và Thành Đô đều đưa ra 5 nguyên nhân sau:
1)- Cảm Phải Ngoại Tà: do Phong, Hàn, Thử, Nhiệt, Thấp (chủ yếu là do Thấp) làm Tỳ Vị bị tổn thương, mất chức năng kiện vận, không phân biệt được trong đục, thăng giáng thất thường, gây ra tiêu chảy.
+ Thiên:”Cử Thống Luận”(Tố Vấn 39) ghi: ”Hàn khí xâm phạm vào Tiểu Trường, Tiểu Trường mất chức năng gây ra bụng đau, tiêu chảy”
+ Sách “Minh Y Tạp Trứ” ghi: ”Vào mùa Hè, Thu, Thấp nhiệt thịnh hành bỗng (đột nhiên) tiêu chảy như dội nước”
2)- Do Ăn Uống Không Đều làm cho thức ăn đình trệ lại hoặc ăn quá nhiều thức ăn dầu mỡ (béo), sống, lạnh làm cho Tỳ Vị bị tổn thương không vận hóa được.
+ Sách “Cảnh Nhạc Toàn Thư” ghi: ” Ăn không điều độ, ở không thích nghi, Tỳ Vị tổn thương, thủy biến thành thấp, thực (thức ăn) biến thành trệ, tinh hoa không chuyển hóa dẫn đến tiêu chảy”.
+ Sách ”Đan Khê Tâm Pháp” ghi: ” Chứng thực tả là do ăn uống quá nhiều, làm tổn thương Tỳ Vị gây ra tiết tả”.
3)- Do Tỳ Vị Dương Hư (NKHT.Hải), Tỳ Vị hư yếu (NKHT. Đô) Tỳ Vị Hư Hàn (TYNKHG. Nghĩa): do Tỳ Vị mất chức năng vận hóa (do suy yếu, do dương hư, do bị hàn tà...) làm thức ăn bị đình trệ, tỳ khí bị hạ hãm, thanh khí không thăng, hoặc trung dương không đủ, không vận hóa được thủy cốc, âm hàn nhiều làm hại Tỳ Vị, gây ra tiêu chảy.
4)-Thận Dương Hư Yếu (T.Đô và TYNKHG. Nghĩa) hoặc Mệnh Môn Hỏa suy: Do bịnh lâu ngày hoặc ỉa lỏng kéo dài, làm cho Thận Dương bị tổn thương, không ôn được Tỳ, làm Tỳ Dương suy, gây ra tiêu chảy. Sách “ Cảnh Nhạc Toàn Thư” ghi:’ Vị là quan ải của Thận, Thận khai khiếu ở tiền và hậu âm, Thận chủ chức năng đóng mở. Nếu Thận Dương suy, Mệnh Môn Hỏa suy, âm hàn nhiều gây ra tiêu chảy’.
5)- Do Tình Chí Không Đều: Do Can Uất Khí Trệ, Can Mộc khắc Tỳ Thổ hoặc do Tỳ Khí hư yếu, Can Khí thừa cơ xâm phạm, làm cho Tỳ Suy yếu, vận hóa kém, gây ra tiêu chảy.
Tóm lại, nguyên nhân gây ra tiêu chảy có 2 loại chính:
. Do bên ngoài: Ngoại tà xâm nhập Tỳ Vị.
. Do bên trong: Tỳ Vị hư yếu hoặc ăn uống không đều gây ra.
*Nên chú ý:
. Cấp tính: do Hàn, Nhiệt và chủ yếu là Thấp.
. Mạn tính: chủ yếu do Tỳ Hư.
Triệu Chứng
Sách NKHT.Hải và T.Đô nêu lên 2 loại chính:
a. Bạo Tả (Cấp Tính)
1)- Ngoại Cảm Hàn Thấp: bụng đau, bụng sôi, phân lỏng và nát, nóng lạnh, đầu đau, cơ thể đau nhức, rêu lưỡi trắng, mạch Nhu (T. Hải) mạch Phù (T. Đô).2)- Thấp Nhiệt: bụng đau, tiêu chảy, phân vàng, mùi hôi, hậu môn nóng rát, khát, buồn bực, tiểu ít, đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch Nhu, Sác (T. Hải), Hoạt, Sác (T.Đô).
3) -Thương Thực: bụng đau và sôi, tiêu chảy, phân nát, mùi thối, bụng tức, trướng, ợ chua, hôi, rêu lưỡi dầy, nhờn, mạch Hoạt Sác (T. Hải), Hoạt Thực (T.Đô).
b. Cửu Tả (Mạn Tính)
4)- Tỳ Vị Hư Yếu: đại tiện lúc lỏng, lúc bón, ăn không tiêu bụng đầy, chán ăn, tinh thần mệt mỏi, không muốn nói, sắc mặt vàng úa, lưỡi nhạt, rêu lưỡi ít, mạch Hoãn Nhược.
5)- Tỳ Dương Hư (T.Đô): tiêu chảy, phân xanh, nát, ăn ít, bụng đầy, khát, thích uống nóng, ói mửa, ợ hơi, tay chân không ấm, bao tử đau, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế, Hoãn, không lực.
6)- Thận Dương Hư (T.Hải): sáng sớm bụng đau vùng rốn, bụng sôi, ỉa xong thì đỡ đau, bụng lạnh, tay chân lạnh, sợ lạnh, lưỡi trắng nhạt, mạch Trầm Tế.
7)- Tỳ Âm Hư ( T.Đô): tiêu chảy lâu ngày không cầm, khát, hơi sốt, hơi ho, không muốn ăn uống, ăn vào thì phát sốt, lưỡi đỏ, khô, ít rêu, mạch Tế Sác.
8)- Can Mộc Khắc Tỳ (T.Hải): hông bụng đầy trướng, ăn ít, ợ hơi, khi buồn, tức, tinh thần căng thẳng thì bụng đau, tiêu chảy, lưỡi đỏ nhạt, mạch Huyền.
9)- Tỳ Thận Khí Hư (T.Đô): ăn ít, đại tiện nhiều, chóng mặt, tai ù, cơ thể uể oải, tinh thần mệt mỏi, chân và gối không có sức hoặc lưng đau, tiểu đêm, lưỡi nhạt, rêu lưỡi ít, mạch Hư Nhược.
Điều Trị
Hải Thượng Lãn Ông trong ‘ Bách Bịnh Cơ Yếu’ nêu ra 9 phương pháp chữa tiêu chảy như sau:
1)- Đờm Thấp: thấm rút nước đi, làm cho tà khí bài tiết ra theo đường tiểu. Sách nội kinh ghi: ‘ Chữa bịnh Thấp không lợi tiểu tiện là không đúng quy cách’ và ‘ nước ở dưới thì khơi đường cho nó ra hết’.
2)- Thăng Đề: nâng khí lên. Khí thuộc dương tính nó đi lên, vì Vị khí tràn đến ép nó làm cho khí bị hạ xuống.
3)- Thanh Lương: làm cho mát. Bịnh do nhiệt nhiễm vào, bỗng nhiên rót xuống dữ dội, áp bức phía dưới. Dùng thuốc đắng, lạnh để dập bớt sự nung nấu, ví như đang lúc nắng nóng bức, nếu được gió thổi thì hơi nóng tự tan hết.
4)- Lưu Lợi: làm cho lưu thông. Đờm ngưng, khí uất, ăn uống tích trệ đều có thể gây tiêu chảy, phải tùy chứng mà khu trừ đi, đừng để nó lưu trữ lại.
5)- Cam Hoãn: dùng thuốc có vị ngọt để hòa hoãn lại thuốc có vị ngọt có thể hòa hoãn được Trung Tiêu, ngăn bớt tính cấp tốc lại theo nguyên tắc:”Bịnh cấp thì làm hòa hoãn lại”
6)- Toan Thu: dùng vị chua để thu liễm lại, không thể điều khiển được sự chảy rót, theo nguyên tắc:” Tán thì thu lại”.
7)- Táo Tỳ: Tỳ Khí vượng thì thủy tà không tràn vào được. Vì khi Thổ bị thấp lấn thì gây ra tiêu chảy, thấp sở dĩ sinh ra là do Tỳ bị hư. Nếu hư suy mà không bồi đắp thì thấp tà càng lấn mạnh.
8)- Ôn Thận: Thận chứa nhị tiện (tiêu tiểu). Tạng này thuộc Thủy mà phối hợp với chân dương. Hỏa là mẹ của Thổ, Hỏa đó mà suy thì lấy gì để vận hành Tam Tiêu làm chín nhừ cơm nước được.
9)- Cố Sáp: Tiêu chảy lâu ngày, phía dưới bao tử đã trơn tuột, dù uống thuốc Ôn Bổ cũng không khỏi được, phải dùng thuốc Cố Sáp, theo nguyên tắc ‘ Hoạt thì Cố Sáp’.
Trên đây là 9 nguyên tắc điều trị tổng quát, riêng từng loại được điều trị như sau:
1- Ngoại Cảm Hàn Thấp
+ NKHT. Hải: giải biểu, tán hàn, hóa trọc, chỉ tả. Hoặc giải biểu, hòa trung (T. Đô), Dùng bài Hoắc Hương Chính Khí Tán (Hòa Tễ Cục Phương): Hoắc hương 12g, Bán hạ khúc 12g, Trần bì 6g, Tô diệp 8g, Phục linh 12g, Cát cánh 6g, Bạch chỉ 6g, Đại phúc bì 8g, Cam thảo 4g, Bạch truật 8g, Hậu phác 8g.
(Nguyên là thuốc bột - hiện nay đổi thành thuốc thang sắc uống)
Ý nghĩa: Hoắc hương sơ tán thử thấp, biểu tà, hóa thấp trọc ở trường vị; Tử tô tân ôn phát biểu; Bạch chỉ tán phong; Cát cánh khai tuyên Phế Khí; Hậu phác, Đại phúc bì ôn táo thấp, trừ ngực bụng trướng đầy; Bán hạ, Trần bì hòa vị giáng nghịch; Bạch truật, Phục linh kiện tỳ, lợi thủy, giúp công năng vận hóa của Tỳ, Cam thảo hòa trung.
- Sách NKHT. Đô giới thiệu một số phương giản dị trị tiêu chảy do ngoại cảm hàn thấp như sau:
+ Hoắc hương,Trần bì, Hương Nhu, Xa tiền nhân đều 10g, Sắc uống.
+ Biển đậu (hoa), Hậu phác, Mã đề đều 10g, Sắc uống.
+ Tỏi, nướng chín: hòa với đường uống.
+ Sách YHCTD Tộc: giải biểu, tán hàn giới thiệu 3 bài sau:
1. Sa nhân 4g, Hoắc hương 8g, Biển đậu 12g, Hương nhu 8g, Xa tiền tử 8g, Rau má 10g, Thêm gừng 3 lát (sao vàng). Sắc uống.
2. Hoắc Hương 12g, Hậu phác (nam) 12g, Hương phụ 8g, Sa nhân 8g, Trần bì 8g, Hạt vải 8g, Mộc hương (nam) 8g. Sắc uống.
- Sách TBTYKN Phương dùng bài Sơ Tả Hóa Trọc Pháp: Đại đậu quyển 12g, Lục khúc (sao) 12g, Xa tiền tử (sao) 12g, Ý dĩ nhân 20g, Xích linh 12g, Cát cánh 4g, Biển đậu (vỏ) 8g, Bội lan 8g, Hà diệp 1 lá, Sơn chi (vỏ) 8g, Chỉ xác (sao) 8g. Sắc uống.
2- Tiêu Chảy Do Thấp Nhiệt
+NKHT. Đô: Đạt biểu, thanh lý, dùng bài Cát Căn Cầm Liên Thang (Thương Hàn Luận)
Cát căn 12g, Hoàng cầm 12g, Hoàng liên 8g, Cam thảo 4g, Sắc uống.
(Cát căn giải cơ, thanh nhiệt; Hoàng Cầm, Hoàng Liên thanh nhiệt, táo thấp; Cam Thảo hòa trung).
-Sách NKHT.Hải: Thanh nhiệt,lợi thấp, dùng các bài Cát Căn Cầm Liên Thang gia vị: Cát căn 12g, Hoàng liên 8g, Kim ngân hoa 16g, Hoàng cầm 12g, Cam thảo 4g, Mộc thông 12g, Bạch linh 8g.
Đây là bài Cát Căn Cầm Liên Thang thêm Kim ngân hoa, Mộc thông, và Bạch linh để giúp sức thanh nhiệt, lợi thấp của bài Cát Căn Cầm Liên Thang.
- Sách TBTYKN Phương dùng bài Ngũ Linh Pháp gia vị: Bạch truật (sao đất) 12g, Quan quế 3,2g, Phục linh 12g, Hương nhu 6g, Trư linh 12g, Xuyên phác 6g.
(Đây là bài Ngũ Linh Tán bỏ Trạch Tả, thêm Hương Nhu và Hậu Phác)
- Sách NKHT. Đô giới thiệu 1 số bài thuốc đơn giản sau:
+ Hoàng Liên 12g, Tỏi 4 trái, nghiền nát. Phân làm 3, uống với nước.
+ Hoàng Liên 8g, Hậu phác 12g. Sắc uống.
+ Rau Má 60g, Xa Tiền 30g. Sắc uống.
3.- Tiêu Chảy Do Thương Thực:
-Sách NKHT.Hải: Tiêu thực, đạo trệ, dùng Bài Bảo Hoà Hoàn
- Sách NKHT. Đô: hoà trung, đạo trệ, dùng bài Bảo Hòa Hoàn.
-Sách LSĐKTHTL Học dùng bài Bảo Hòa Hoàn.
Bảo Hòa Hoàn (Đan Khê Tâm Pháp): Sơn tra 240g, Lục khúc 80g, Bán hạ 120g, Phục linh 120g, Trần bì 40g, Thái (Lai) phục tử 40g, Liên kiều 80g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 12- 24g.
(Sơn Tra, Lục Khúc, Thái Phục Tử giúp tiêu hóa, tiêu thực, Sơn Tra tiêu chất thịt chất nhờn, lục khúc tiêu ngũ cốc, tích trệ, Thái Phục Tử tiêu chất bột, Trần Bì, Bán Hạ,Phục Linh hòa vị, Liên Kiều trừ uất nhiệt do tích trệ).
- Sách TBTYKN phương dùng bài Túy Hương Ngọc Tiết: Thương truật 6g, Chích thảo 3,2g, Xa tiền tử 8g, Xuyên liên 6g, Đinh hương 1,6g, Trạch tả 8g, Quảng bì (sao) 6g, Sa nhân 3,2g, Kê nội kim 2 cái. Sắc uống..
4.- Tiêu Chảy Do Tỳ Vị Hư
-NKHT.Hải: kiện Tỳ, hóa thấp. Dùng bài Sâm Linh Bạch Truật Tán.
-NKHT. Đô: bổ Tỳ, kiện Vị, dùng bài Sâm Linh Bạch Truật Tán.
-TYHKLuận: bổ trung, kiện Tỳ. Dùng bài Sâm Linh Bạch Truật Tán.
Sâm Linh Bạch Truật Tán (Cục Phương): Nhân sâm 96g, Biển đậu (sao) 96g, Trần bì 64g, Bạch truật (sao đất) 80g, Chích thảo 64g, Ýùdĩ (sao) 64g, Phục linh 64g, Liên nhục (sao, bỏ tim) 96g, Cát cánh 64g, Hoài sơn (sao) 64g, Sa nhân 64g. Tán bột. Ngày uống 16 - 20g với nước Táo sắc hoặc nước cơm.
(Nhân sâm bổ khí, Bạch truật kiện Tỳ vận thấp, Cam thảo hòa trung; Phục linh kiện Tỳ vận thấp, Biển đậu, Liên nhục, Ý dĩ bổ Tỳ lợi thấp; Trần bì, Sa nhân hòa Vị, lý khí).
- Sách NKHT. Đô giới thiệu một số bài thuốc đơn giản sau:
+ Bạch truật (sao), Phục linh đều 30g, Nhu mễ (sao) 60g, Tán bột. Mỗi lần dùng 6g với nước sắc Đại táo, ngày 3 lần.
+ Hoàng kỳ, Đảng sâm, Nhu mễ, Thảo căn đều 30g, Sắc uống.
5- Tiêu Chảy Do Tỳ Thận Dương Hư
-NKHT.Hải: ôn Thận, kiện Tỳ, dùng bài Tứ Thần Hoàn (Nội Khoa Trích Yếu)
Bổ cốt chỉ 160g, Nhục đậu khấu 80g, Ngũ vị tử 80g, Ngô thù du 40g. Thêm Táo (bỏ hột lấy nhục) 240g. Tán bột. Dùng Sinh Khương sắc nước làm thang, trộn thuốc bột làm hoàn. Ngày uống 20 - 24g.
(Bổ Cốt Chỉ ôn bổ Thận Dương; Ngô thù ôn trung tán hàn; Nhục đậu khấu, Ngũ vị tử sáp trường, cố thoát; Khương, Táo điều hòa Tỳ Vị).
-NKHT. Đô: bổ Thận cố Tỳ - dùng bài Song Bổ Hoàn (Y Phương Loại Tụ): Lộc giác sương 120g, Nhân sâm 40g, Thạch hộc 40g, Thục địa 40g, Mộc qua 40g, Đương quy 40g, Trầm hương 40g, Ý dĩ nhân 40g, Trạch tả 40g, Thỏ ty tử 40g, Chích kỳ 40g, Xạ hương 4g, Phúc bồn tử 40g, Thung dung 40g, Chu sa 20g, Bạch linh 40g, Ngũ vị tử 40g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 16 - 20g với nước muối, lúc đói.
- Sách Thiên Gia Diệu Phương: ôn bổ mệnh môn, ôn Tỳ Vị, sáp trường, dùng Tứ Thần Hoàn gia vị: Bổ cốt chỉ 12g, Ngô thù du 16g, Trần bì 6g, Hoàng kỳ 12g, Nhục khấu 6g, Thạch lựu bì 6g, Đảng sâm 12g, Ngũ vị tử 6g, Phụ tử 6g, Phục linh 10g, Quế chi 6g, Ô mai 3 quả, Bạch truật 10g. Sắc uống.
- Tứ Nghịch Ích Hoàng Thang (TGDPhương): Xuyên Phụ tử 40g, Bạch truật 12g, Nhục quế 12g, Can khương 16g, Bán hạ (chế) 10g, Nhục khấu 12g, Đảng sâm 20g, Phục linh 12g, Ô mai 12g, Cam thảo 8g, Đinh hương 4g, Thiên Sinh Khoáng 4g.
(Phụ Tử phải dùng nước sôi sắc riêng trước 2- 3 giờ, dùng lưỡi nếm không thấy tê làm chuẩn. Thiên Sinh Khoáng tức Lưu Huỳnh Thăng Hoa Thiên Nhiên, phải chia làm 2 lần, nuốt riêng, Nhục Khấu phải nướng nóng cho khử hết dầu mới dùng).
- Sách TBTYKN Phương dùng bài Ích Hỏa Phù Thổ Phương: Bạch truật (sao đất) 12g, Trần bì 6g, Bổ cốt chỉ 12g, Ích trí nhân 12g, Bào khương 3,2g, Mễ xác 6g, Mộc hương 3,2g, Kha tử bì 6g, Bội lan (lá) 6g, Phục linh 12g, Cam thảo 4g, Cốc nha 12g. Sắc uống.
6.- Tiêu Chảy Do Can Mộc Khắc Tỳ Thổ
- NKHT.Hải: ức Can, kiện Tỳ. Dùng bài Thống Tả Yếu Phương (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Bạch Truật (sao với đất cho vàng) 12g, Trần bì 8g, Bạch thược (sao) 12g, Phòng phong 8g. Sắc uống.
(Bạch truật kiện Tỳ, Trần bì hòa Vị, lý khí để hỗ trợ Bạch truật, Bạch thược sơ Can; Phòng phong tân hương ôn tán để hỗ trợ kiện Tỳ).
-NKHT. Đô: phù Thổ ức Mộc. Dùng bài Sài Thược Lục Quân Tử Thang.
- Sách TGDPhương dùng bài Tiêu Thực Thang gia giảm: Đảng sâm 20g, Mạch nha 16g, Thạch bì 12g, Bạch truật 16g, Trần bì 12g, Kê nội kim 16g, Phục linh 16g, Trúc nhự 16g, Đại hoàng (tửu) 4g, Thần khúc 16g, Sa nhân 8g, Cam thảo 6g. Sắc uống.
CHÂM CỨU TRỊ TIÊU CHẢY
- CCHG Nghĩa:
+ Cấp tính: Sơ điều khí trường vị. Châm Trung quản, Thiên xu, Túc tam lý, Âm lăng tuyền ( Trung quản là mộ huyệt của Vị, Thiên xu là mộ huyệt của Đại Trường, dùng 2 huyệt này để điều chỉnh khí của trường vị, Túc tam lý thông điều Vị khí, Âm lăng tuyền để sơ điều kinh khí của Ty)ø.
+ Mạn tính: Điều bổ trung khí Tỳ Vị ôn bổ Thận Dương, cứu Tỳ du, Trung quản, Chương môn, Thiên xu, Túc tam lý hợp với Mệnh môn, Quan nguyên (Tỳ du và Chương môn là phối hợp Du + Mộ huyệt để điều bổ Tỳ Vị; Thiên xu và Túc tam lý để hỗ trợ trung khí; Mệnh môn, Quan nguyên để bổ Mệnh Môn hỏa, tráng Thận dương, ôn dưỡng Tỳ Thận.
- CCTL Học:
+ Hàn tả: Thiên xu, Khí hải, Trung quản, Đại trường du (đều cứu)
+ Nhiệt Tả: Hạ quản, Hợp cốc, Nội đình (đều tả)
+ Thấp tả: Tỳ du, Thủy phân (đều cứu), Âm lăng tuyền, Công tôn (đều tả).
+ Thận tả: Mệnh môn, Quan nguyên, Bá hội (đều cứu) Thận du, Tỳ du (đều bổ).
-TS. Kinh: Quan nguyên, Thái khê.
-LKĐ.Dực: Thận du, Thủy phân, Thiên xu, Thần khuyết.
-LSĐKTHTL Học:
* Cấp tính: Vị du, Tam tiêu du, Khí hải du, Đại trường du, Quan nguyên du,Túc tam lý, Tam âm giao.
* Mạn tính: Tam tiêu du, Khí hải du, Đại trường du, Quan nguyên du, Tiểu trường du, Thiên xu, Đại cự, Hành gian, Túc tam lý, Tam âm giao.
- CCTập Thành: Đại đô, Côn lôn, Kỳ môn, Âm lăng tuyền, Trung quản.
- CCHG Biên: Đại hoành, Thiên xu, Trung quản, Quan nguyên, Túc tam lý, Tam âm giao, Tiểu trường du, Đại trường du.
- TQCCHK. Yếu : Thiên xu, Đại trường du, Túc tam lý.
- TQCC. Học: Thận du, Tỳ du, Trung quản, Thiên xu, Công tôn, Thái khê (trị Thận Tả).
- TBGTCC. Học :Tỳ du, Trung quản, Chương môn, Thiên xu, Túc tam lý.
- Trung Quốc Châm Cứu Tạp Chí số 12/1985: Thiên xu (2 bên), Nội quan (2 bên), Tam âm giao (2 bên).
- Nội Gia Cát Trung Y Viện số 32/1986: chỉ châm huyệt Túc tam lý trị Hàn tả.
- Tân Cương Trung Y Dược số 51/1986 dùng cách cứu trị tiêu chảy
+ Tỳ Vị Hư: Túc tam lý, Thiên xu, Ẩn bạch, hoặc Túc tam lý, Ẩn bạch, Trung quản.
+ Thận Âm hư yếu: Nhiên cốc, Khí hải, Túc tam lý, Ẩn bạch, Thận du, Tỳ du, Thủy phân, Trung quản. Hoặc Túc tam lý, Thạch môn, Nhiên cốc, Trung quản.
- TDCCĐ. Toàn:
+ Do ngoại cảm: Phát Hãn, giải cơ, châm tả, Phong môn, Đại chùy, Thiên xu, Hợp cốc.
+ Do Hàn: sơ tán hàn thấp, châm nông + cứu Phong môn, Liệt khuyết, Thiên xu, Phong trì, Trung quản.
+ Do Thử: thanh thử lợi thấp, châm tả Hợp cốc, Thiên xu, Túc tam lý, Nội quan, Đại lăng.
+ Do Thấp ôn hóa thủy thấp: châm bình bổ bình tả + cứu Tỳ du, Trung quản, Âm lăng tuyền, Phong long, Túc tam lý, Công tôn.
+ Do Hỏa: thanh nhiệt, tiết hỏa: châm tả Hạ quan, Hợp cốc, Nội
đình, Thiên xu, Khúc trì.
+ Do Tỳ hư: kiện Tỳ, dưỡng Vị, châm bổ + cứu Tỳ du, Chương môn, Trung quản, Khí hải, Túc tam lý.
+ Do Thực trệ: tiêu thực hóa trệ, châm tả Triển cơ, Túc tam lý, Trung quản, Nội quan.
+ Do Khí uất: điều hòa Can Tỳ, châm tả Tỳ du, Chương môn, Thái xung, Túc tam lý, Kỳ môn.
+ Do Thận hư: ôn bổ Tỳ Thận, châm bổ + cứu Tỳ du, Mệnh môn, Quan nguyên.
Bệnh Án Tiêu Chảy Do Âm Hư
(Trích trong ‘Chẩn Dư Cử Ngẫu Lục’ của Trần Đình Nho, Trung Quốc).
Mùa đông năm Bính Thân, tôi tính rời Kinh đô thì vợ họ Trần bị tiêu chảy đã mấy tháng nay, mỗi ngày ỉa 5-6 lần. Thầy thuốc đến trước cho là do Tỳ thổ hư hàn, dùng Bạch truật để bổ thổ, Phụ tử để hồi dương, Mộc hương để cầm ỉa. Tuy nhiên, bệnh đã không khỏi mà mặt lại nóng bừng, miệng khô, chân lạnh, ăn uống kém dần, đêm ngủ không yên. Mới xem qua, thấy giống chứng thượng nhiệt (trên nóng) mà hạ hàn (dưới lạnh), dương hư trọng chứng (chứng dương hư thể nặng). Xem mạch thấy ở 2 bộ thốn, mạch nhỏ gần như không có ở bộ quan và xích bên trái, mạch Nhu Trì, không có thần (thiếu thần), mạch ở bên phải lại Hoạt Sác có lực. Nhờ xem mạch tôi mới biết đó là chứng âm hư chứ không phải dương chứng. Tôi liền dùng Sinh địa thán (vị Sinh địa đốt thành tro) 40g, Hoài sơn (sao), Toan táo nhân, Đan bì, Bạch thược, Ngưu tất, mỗi vị khoảng 12g, Chích thảo, Sa nhân, Hoàng bá, mỗi vị 1 –2 g, Nhân sâm, Ổi cát căn (Cát căn nướng) mỗi vị 4g.
Uống 1 thang, chứng ỉa bớt được 2/3, mạch tượng cũng đã hòa. Uống thêm 1 thang nữa, đêm đã ngủ được, miệng cũng hết khô. Uống tiếp 2 thang nữa thì ăn biết ngon, mặt hết phừng và chân ấm lại”.
Bệnh Án Tiêu Chảy Do Khí Huyết Đều Hư
(Trích trong “Chẩn Dư Cử Ngẫu Lục” của Trần Đình Nho, Trung Quốc).
Qua đầu mùa thu năm Bính Thân, con trai ông Đào Đoan Dực, 12 tuổi, đại tiện hơi lỏng, bị bệnh đã mấy tháng rồi, ăn ít, khí yếu, bệnh trạng có vẻ nguy kịch mới mời tôi tới chữa. Xem thấy mạch Nhu Hoãn, biết là khí huyết đều hư rồi biến sinh hàn chứng. Cho dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang (Bạch truật 4g, Chích thảo 4g, Đương quy 4g, Hoàng kỳ 6g, Nhân sâm 4g, Sài hồ 1,2g, Thăng ma 1,2g, Trần bì 2g, Đại táo 2 trái, Sinh khương 1 lát), thêm Can khương 2g, Ngưu tất 4g, Phụ tử 2g, Thục địa 6g. Uống đến mấy chục thang mới khỏi hẳn”.
Bệnh Án Tiêu Chảy Do Nội Thương Hàn Thấp
(Trích trong ‘Chẩn Dư Cử Ngẫu Lục’ của Trần Đình Nho, Trung Quốc).
Mùa hè năm Tân Mão, tôi làm thuốc ở Tế Nam, có Thái thú họ Kỳ bị chứng mình nóng, sợ lạnh, cả người đều đau, bụng đầy, tiêu chảy. Đau như vậy đã một tuần mới mời tôi đến chữa. Tôi xem thấy mạch Đại mà Hoãn, lưỡi có tưa trắng, ướt. Tôi cho là nội thương hàn thấp chứ không phải là ngoại cảm phong hàn.
Cho dùng: Lý Trung Thang (Bạch truật 12g, Chích thảo 12g, Can khương 12g), thêm Thương truật 12g, Phụ tử 4g), uống chỉ mấy thang là khỏi.
Bệnh Án Do Tiêu Chảy Do Hàn Thấp
(Trích trong ‘Chẩn Dư Cử Ngẫu Lục’ của Trần Đình Nho, Trung Quốc).
Mùa hè năm Bính Thân, tôi trở về Kinh đô, có người bệnh là Dương Nghệ Phương, bị chứng tiêu chảy hơn 10 lần một ngày, ăn uống bị giảm sút, trong người nóng nẩy không yên. Tôi khám thấy mạch sác, nhất là ở bộ xích lại mạnh (kiên cường), có lực. Tôi cho là do Thử thấp gây nên. Tuy nhiên, người bệnh đã hơn 60 tuổi, điều cốt yếu là phải lo giữ chính khí. Vì vậy, trước hết, cho uống Tam Hoàng Thang (Hoàng bá 4g, Hoàng liên 4g, Chi tử 4g) hợp với Lục Nhất Tán (Hoạt thạch 24g, Cam thảo 4g) thêm Bạch truật 4g, Trần bì 4g, và Sa nhân 4g. Uống liên tục 2 thang, hết tiêu chảy, sau đó cho dùng thuốc bổ, chẳng bao lâu sức khỏe phục hồi như cũ.
Bệnh Án Tiêu chảy Do Âm Dương Đều Hư
(Trích trong Hạnh Hiên Y Án của Trịnh Quang Tuyên - Trung Quốc).
Vào giữa mùa Hè, cháu bé con ông Dương Điện Thành bị chứng phát sốt, tiêu chảy và tuy đă được điều trị gần 2 tuần nhưng bệnh vẫn không bớt mà hơi thở lại ngắn, tinh thần mê mệt. Tuy thân thể nóng nhưng ban ngày thì nhẹ còn đêm lại nặng hơn, còn tiêu chảy thì ban đêm đi tiêu ít, ban ngày đi tiêu nhiều, tóc khô, xương đầu ở mỏ ác cũng như phía sau chẩm đều lõm xuống, môi và lưỡi cũng đều khô. Tôi nói: "Chứng này là âm dương đều hư. Dương Điện Thành nói rằng cháu bé đã từng được uống các vị thuốc Thạch hộc, Mạch môn (các vị thuốc có tính mát) thì ỉa lại càng nhiều mà ăn cũng không được. Nhưng uống các vị thuốc như Sâm, Bạch Truật (ôn Tỳ) thì lại càng nóng nẩy, trằn trọc, miệng cũng khô thêm. Tôi nói: "Dùng như vậy đều không đúng vì bệnh mà cả âm và dương đều hư như vậy thì dùng những vị thuốc phải có tính cương và nhu chung một lúc mới được. Vị Mạch môn có vị ngọt, lạnh (cam hàn) không phải là vị thuốc có thể dùng trong trường hợp dương hư do tiêu chảy lâu ngày gây ra. Vị Bạch Truật, đắng, khô ráo (khổ táo) làm sao có thể dùng vào chứng âm hư khát nước từ lâu nay”. Tôi bèn linh hoạt lập ra phương (bài) thuốc sau: Thục địa 2g, Phụ tử 0,4g, Câu kỷ 2g, Hoài sơn 2g, Biển đậu 2g, Sơn thù 1g, Thạch chi 1g, Cam thảo 1g, Long nhãn 2g. Sắc uống. Cháu bé uống liên tiếp vài thang thì khỏi.
Bệnh Án Tiêu Chảy Do Tỳ Vị Âm Hư
(Trích trong ‘Đắc Tâm Tập Y Án’ của Tạ Ương Lô, đời nhà Thanh, Trung Quốc).
Con ông Vương Khải Nguyên, vào giữa mùa hè, bị chứng phiền khát, trên nôn (mửa), dưới ỉa (thổ tả), lưỡi đỏ, môi hồng, nước tiểu ngắn, ít, phiền táo (nóng nẩy bực bội), không yên. Ông Khải Nguyên, biết ít nhiều về y lí, tự ý kê đơn thuốc, dùng các vị Biển đậu, Hương nhu, Xa tiền tử, Hoạt thạch, Hoàng liên, nhưng ông còn e dè, chưa dám cho con uống, ông tìm đến thảo luận với tôi. Tôi xem thấy cháu bé sắc mặt trắng, tinh thần lờ đờ, hơi thở gấp, đờm nhiều, mạch thì Vi Tế. Tôi cho là Tỳ hư chứ không phải chứng táo thuộc về thử nhiệt (như ông Vương Khải Nguyên đã nhận định). Tôi nói: “Dùng phép phân lợi (lợi tiểu tiện) để cầm tiêu chảy, giải thử nhiệt để trừ nóng khát, đó là phương pháp của người làm thuốc (y môn), tuy nhiên, còn phải tùy người, tùy chứng mà áp dụng thì mới có kết quả. Cứ theo mạch, sắc và các biểu hiện lâm sàng thì cháu đây mắc chứng Tỳ bị hư quá (đại hư), thành thử, phương pháp nói trên (phân lợi) chắc chắn không thể dùng được. Xét về điểm môi hồng, lưỡi đỏ, đó là vì do nôn mửa mà tân dịch ở trên bị suy, hao đi, nước tiểu ngắn, ít và nóng khát là vì tiêu chảy nên tân dịch ở dưới phải kiệt”. Tôi dùng bài Thất Vị Bạch Truật Tán (Nhân sâm, Bạch truật, Phục linh, Mộc hương, Hoắc hương, Cát căn, Cam thảo), sắc lên cho uống. Cháu uống xong 2 thang thì chứng phiền khát đã bớt, tôi cho uống tiếp bài Lục Nhất Tán (Hoạt thạch, Cam thảo) thêm Câu kỷ thì hơn 10 thang, cháu mới thật lành mạnh.
Bệnh Án Tiêu chảy Do Hư Lẫn Thực
(Y Án của Phong Thiếu Dật).
Tại Nhược gia, có ông họ Nghệ bị tiêu chảy không cầm, mời Phong Thiếu Dật đến chữa. Ông xem thấy toa của thầy thuốc trước còn đó, liền lấy coi và bảo rằng: “Bạo chú hạ bách, giai thuộc ư nhiệt (tiêu nhiều, nặng trằn, tất cả đều do nhiệt), dùng Can khương, Hoàng liên, Tông lư, Cát căn... chưa được đúng vào gốc bệnh. Xem mạch thấy mạch Thần môn đi yếu và nhược, các mạch khác đều Huyền Hoãn, lưỡi thì sáng trơn, có bợn trắng mà mỏng, bứt rứt không yên, lưng đau và nước tiểu vàng. Căn cứ vào chứng trạng tiêu, tiểu mà nói thì trường hợp này hình như thuộc chứng nhiệt tả (tiêu chảy do nhiệt). Nếu dựa theo mạch và lưỡi thì lại không thề chẩn đoán là nhiệt được. Phong Thiếu Dật lập luận: Trong sách ‘Nội Kinh’ có ghi: 'Thận mạch đi quá nhỏ là chứng đổng tiết, rõ ràng là tiên thiên vốn hư yếu vì vậy tà khí phục sâu vào bên trong. Các bộ mạch khác Huyền Hoãn, thường đau bụng là do Can mộc thừa cơ xâm nhập vị trí của Tỳ thổ. Nước tiểu vàng là có thêm chứng thấp.
Vậy chứng này do hư mà lại có thực. Vì thế, phải bổ tiên thiên và hậu thiên, lại vừa làm cho Can yên lại và tiêu nước đi. Dùng Bạch truật, Đảng sâm, Thỏ ty tử, Phá cố chỉ, Phòng phong, Bạch thược, Trạch tả, Phục linh, Cát căn, Mộc hương và Hà diệp để dẫn thuốc. Mỗi ngày uống một thang, uống liên tục 5 ngày, chứng đau bụng và tiêu chảy đều hết.
Bệnh Án Tiêu Chảy Thể Loại Phế tả
(Trích trong ‘ Cuộc Đời Và Kinh Nghiệm Người Thợ Già Trị Bệnh’ của Lê Đức Thiếp Việt Nam).
Khoảng năm 1934, một em bé trai ngoài 2 tuổi, bị chứng tiêu chảy, đái ít, khát nước. Người nhà cho uống nước, em uống ừng ực, hai tay choàng ra vơ cả bát ( chén) vào miệng nhai, nhai không có nước, trỗi người lên dẫy dụa la khóc, khó mà bế được em khi đang khát. Cho uống vào thì muốn ói mà không ói được (ói khan). Một lát lại tiêu chảy ra phân trắng như sữa, như nước vo gạo mà vọt vồng cầu chảy ra như dội, tiêu xong xỉu đi vài phút, lại trỗi lên đòi nước, lại ỉa, liên tiếp như vậy. Bệnh đã hơn một ngày. Khi tôi bước vào phòng thấy quây kín, lại đốt một lò sưởi lớn giữa phòng, khói mù, nóng nực. Ấn tay vào bụng em thấy không đầy, không cứng, biết là không phải bụng đau. Liền đó, em tiêu vọt ra phân trắng. Sờ vào mình em, thấy nóng hâm hấp, tay chân cũng ấm. Xem qua chỉ tay, thấy màu đỏ, đi cong quẹo qua phong quan và đã thò đầu lên vùng khí quan. Xem xong, tôi quay qua nói với ông bố rằng: "Bệnh của cháu nặng lắm, nếu chữa thuốc mà lầm một ly sẽ nguy. Ông bà có bằng lòng để... ". Tôi chưa nói dứt câu, bà mẹ đã nói ngay: “Chúng tôi biết bệnh cháu nặng lắm rồi, từ hôm qua đến nay, đã uống mấy thứù thuốc mà không bớt chút nào, bệnh còn nặng hơn, giờ có thầy, xin thầy chữa cho cháu “.
Tôi nói: " Nếu vậy, xin ông bà cho bỏ ngay bếp sưởi, mở cửa cho thoáng và bảo người vo ngay nước gạo tẻ để cho em uống mấy miếng. Rồi bảo người đi đào rễ cây Dâu tằm ăn, vì quanh nhà có sẵn. Trong lúc người nhà đi đào rễ dâu, tôi cầm đèn lại bàn tìm nước để mài thuốc cho cháu uống. Nước chưa thấy, lại thấy ngay vài ba cái bát còn dính thuốc, toàn mùi Mộc hương và gừng với mấy chai dầu nóng. Tôi nói với ông bố: Những loại thuốc chữa bệnh này đều là giết người. Sau đó có nước, tôi liền mài Hoạt thạch, Cam thảo cho uống. Rễ Dâu đem về, rửa sạch đất, cạo vỏ vàng ở ngoài, bóc bỏ lõi, chỉ lấy vỏ rễ, cắt nát, chừng một nắm tay nhỏ (1 0g). Gạo tẻ 1 muỗng (5 - 6g), Cam thảo vài miếng. Cho tất cả vào siêu, đổ vài chén nước, đun mau cho chín, rót ra, để nguội. Em đang khát đó, cho em uống, cứ cho uống đến thích. Nếu h ai tay nó cầm lấy chén thì khi nào nó bỏ chén ra sẽ thôi. Em uống xong chén nước thuốc đó, nằm ngay trong lòng mẹ rồi ngủ một giấc ngon, khi thức dậy, mở hai mắt sáng tỉnh táo nhưng coi có vẻ mệt mà không đòi nước, không tiêu nữa, lại đái nhiều. Tuy vậy vẫn rót thuốc cho em uống. Bệnh như bão táp, chỉ một thang thuốc đó mà khỏi hoàn toàn.
Kể từ lúc tôi tới khám và có thuốc cho em bé uống, rồi em uống được khỏi bệnh, chỉ trong vòng 1 giờ, đã đem lại không khí vui mừng cho toàn thể gia đình. Sau đó, cho cháu uống thêm ‘Sâm Mạch Thang' (Nhân sâm 4g, Mạch môn 4g, Ngũ vị tử 4g, Cam thảo 4g), dùng 3 thang để lấy lại sức.
Bệnh Án Tiêu Chảy
(Trích trong sách ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’ Của Tôn Học Quyền).
Bệnh nhân Lý, nam, 41 tuổi, cán bộ: nhập điều trị ngoại trú ngày 6/5/1979.
Bệnh nhân bị chướng bụng và tiêu chảy đã ba ngày, đi tiêu 5 - 6 lần trong một ngày, phân lỏng và nhầy nhớt, kèm có mủ và máu, ăn kém, trước đó không có tiền sử tiêu chảy. Cấy phân âm tính.
Điều trị: Châm Thiên khu, Trung quản, Khí hải, Túc tam lý và Công tôn kèm thao tác kim mỗi 10 phút một lần và lưu kim 30 phút. Sau khi rút kim: cứu Thần khuyết 20 phút.
Ngày hôm sau, tiêu chảy hết hẳn, số lượng đi cầu giảm, Châm như cũ.
Ngày 8/5/1979: khám lần thứ ba thấy không chướng bụng, số lần đi cầu còn hai lần một ngày, phân hơi lỏng.
Châm lần nữa bệnh nhân khỏi hẳn.
Bệnh nhân Giang, nam, 50 tuổi, nhân viên y tế nhập điều trị ngoại trú ngày 14/07/1978.
Đau bụng và tiêu chảy đã hơn 20 ngày, một ngày 5 - 6 lần.Điều trị bằng thuốc Syntomycin,
Terramycin và Belladonna thì đau bụng giảm nhưng tiêu chảy vẫn còn như trước và đi cầu phân lỏng kèm theo mót nhẹ.
Dùng Hỏa châm trị liệu: Bệnh nhân nằm sấp để cho hông hơi nhô lên rồi đốt một kim nhỏ bằng lửa và châm nhanh vào huyệt Trường cường bằng kim nóng, sâu 1 thốn, xoay nhanh kim rồi rút ra. Chỉ một lần, các triệu chứng khỏi hẳn.
TIỂU DẦM
(Dạ Niệu - Di Niệu - Enurésie (Enurèse) - Enuresis)
A. Đạicương
Tiểu Dầm (Đái Dầm) là chứng khi ngủ đái ra quần mà không biết. Thường gặp nơi trẻ nhỏ .
B. Nguyên nhân
Theo YHCT nguyên nhân gây ra bệnh này có quan hệ với Phế, Tỳ, Thận và Bàng Quang. Chủ yếu là do khí hóa của Thận và Tam Tiêu suy yếu, hạ nguyên không vững, sự co bóp của Bàng Quang bị rối loạn.
C. Triệuchứng
Chủ yếu là tiểu ra quần trong lúc ngủ . Nhẹ thì vài đêm mới tiểu một lần. Nặng thì 1 đêm có thể tiểu vài lần.
Thời gian tiểu dầm thường là vào lúc nửa đêm hoặc sáng sớm và có thể tiếp tục ngủ say. Chứng tiểu dầm lâu ngày, người bệnh thường có sắc mặt trắng xanh hoặc xám tro, tinh thần mệt nhọc, trí nhớ giảm, tinh thần căng thẳng, tiểu nhiều, tay chân không ấm hoăc biếng ăn, đại tiện bất thường.
D. Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Bổ Thận, ích khí.
Huyệt chính: Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao.
Huyệt phụ: Bá Hội (Đc.20), Khí Hải (Nh.6), Trung Cực (Nh.3), Âm Lăng Tuyền Ty.9), Thận Du (Bq.23), Tỳ Du (Bq.20), Túc Tam Lý (Vi.36), Liệt Khuyết (P.7).
Cách châm: Kích thích vừa hoặc mạnh.
Huyệt ở vùng bụng pHải tạo được cảm giác lan xuống âm bộ, hướng kim pHải xiên xuống.
Huyệt ở chân pHải tạo được cảm giác lan lên trên. 10 - 15 ngày là 1 liệu trình, 2 liệu trình cách nhau 3-5 ngày.
. Tỳ hư thêm Tỳ Du (Bq.20), Túc Tam Lý (Vi.36) .
. Thận hư thêm Thận Du (Bq.23), Bá Hội (Đc.20), Khí Hải (Nh.6).
. Phế Khí không đều thêm Liệt Khuyết (P.7), Âm Lăng Tuyền.
3 huyệt Quan Nguyên (Nh.4), Khí Hải (Nh.6), Trung Cực (Nh.3) có thể lần lượt Sử dụng hoặc cũng có thể dùng cách xuyên châm các huyệt này.
Ý nghĩa: Quan Nguyên là huyệt Hội của 3 kinh Âm ở chân với mạch Nhâm, để bổ Thận; Tam Âm Giao bổ khí của 3 kinh Âm để tăng cường tác dụng kềm chế của Bàng Quang. Tỳ hư thêm Tỳ Du, Túc Tam Lý để kiện Tỳ ích khí; Thận hư thêm Thận Du, Khí Hải để bổ thận; Bá Hội đưa dương khí lên; Liệt Khuyết, Âm Lăng Tuyền để điều tiết Thuỷ đạo; Trung Cực để điều chỉnh khí hư.
2- Khí Hải (Nh.6) + Quan Nguyên (Nh.4) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Đại Đô (Ty.2) + Hành Gian (C.2) (Loại Kinh Đồ Dực).
3- Thần Môn (Tm.7) + Ngư Tế (P.10) + Thái Xung (C.3) + Đại Đô (Ty.2) + Quan Nguyên (Nh.4) (Thần Ứng Kinh).
4- Quan Nguyên (Nh.4) + Trung Phủ (P.1) + Thần Môn (Tm.7) (Phổ Tế Phương).
5- a Thận Nguyên Hư: Quan Nguyên (Nh.4) + Thận Du (Bq.23) + Khí Hải (Nh.6) + Trung Cực (Nh.3) + Dương lăng Tuyền (Đ.34) + Tam Âm Giao (Ty.6), đều bổ.
b Tỳ Hư Bất Nhiếp: Tỳ Du (Bq.20) + Túc Tam Lý (Vi.36), đều bổ (Châm Cứu Trị Liệu Học).
6- Nhóm 1: Châm Thận Du (Bq.23) + Khí Hải (Nh.6) + Bàng Quang Du (Bq.28) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Đại Đô (Ty.2) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Phục Lưu (Th.7) + Ẩn Bạch (Ty.1) + Trường Cường (Đc.1) + Hội Dương (Bq.35).
Nhóm 2: Cứu Bàng Quang Du (Bq.28) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trường Cường (Đc.1) + Hội Âm (Nh.1) đều 5 tráng (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu Học).
7- Mệnh Môn (Đc.4), Khúc Cốt (Nh.2), Trung Cực (Nh.3), Quan Nguyên (Nh.4), Khí Hải (Nh.6), Thiếu Phủ (Tm.8), Thái Ất (Vi.23), Tam Tiêu Du (Bq.22), Thận Du (Bq.23), Quan Nguyên Du (Bq.26), Tiểu Trường Du (Bq.28), Tam Âm Giao (Ty.6), Âm Lăng Tuyền (Ty.9), Cơ Môn (Ty.11), Đại Đô (Ty.2), Âm Bao (C.9), Ngũ Lý (C.10), Thái Khê (Th.3), Hoành Cốt (Th.11), Trường Phong (Châm Cứu Học HongKong).
8- Điều bổ khí cơ của Thận và Tam Tiêu: châm bổ Bàng Quang Du (Bq.28) + Trung Cực (Nh.3) + Tam Tiêu Du (Bq.22) + Thận Du (Bq.23) (Châm Cứu Học Việt Nam).
9- Châm Quan Nguyên (Nh.4) sâu 0, 5 - 1 thốn. Phối hợp châm xiên huyệt Bá Hội (Đc.20), hướng kim về phía trước, lưu kim 30 phút. Cứ 5 phút lại vê kim 1 lần (‘Trung Quốc Châm Cứu Tạp chí’ số 34/1985).
10- Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6). Lưu kim 10 - 15 phút. Mỗi ngày hoặc cách ngày châm 1 lần. 3 - 6 lần châm là 1 liệu trình (‘Hồ Nam Trung Y Tạp chí’ số 37/1986).
11- Huyệt chính: Trung Cực (Nh.3) + Quan Nguyên (Nh.4) + Thận Du (Bq.23) + Bàng Quang Du (Bq.28) + Tam Âm Giao (Ty.6).
Huyệt phụ: Khí Hải (Nh.6), Quan Nguyên Du (Bq.26), Thứ Liêu (Bq.32), Túc Tam Lý (Vi.36), Đại Đô (Ty.2), Thần Môn (Tm.7), Chiếu Hải (Th.6). Vừa châm vừa cứu, kích thích nhẹ, lưu kim 15 - 20 phút. Chủ nhỏ không lưu kim, cứu theo kiểu chim sẻ mổ, cho đến khi da đỏ lên thì thôi. Cách 1 ngày hoặc 1 ngày 1 lần, 5 lần là 1 liệu trình (‘Giang Tô Trung Y Tạp Chí’ năm 1995).
12- Huyệt chính: Quan Nguyên (Nh.4), Trung Cực (Nh.3), Tam Âm Giao.
Huyệt phụ: Hợp Cốc (Đtr.4), Khúc Cốt, Đại Chùy (Đc.14), Bàng Quang Du (Bq.28) .
Mỗi lần dùng 3 - 5 huyệt. Vê kim cho có cảm giác tê tức, châm Quan Nguyên, Trung Cực pHải tạo được cảm giác lan tới âm bộ hiệu qua? sẽ tốt hơn. Dùng điếu nga?i, hơ 10 - 15 phút. Mỗi ngày 1 lần, 16 lần là một liệu trình (‘Giang Tô Trung Y Tạp Chí’ năm 1995).
13- a Thận Dương Hư: ôn bổ Thận Dương. Châm bổ + cứu Thận Du (Bq.23) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Bàng Quang Du (Bq.28) + Thứ Liêu (Bq.32) .
b Phế Thận Đều Hư: ôn bổ Phế Thận. Châm bổ Phế Du (Bq.13) + Cao Hoang Du (Bq.43) + Thận Du (Bq.23) + Khí Haœi (Nh.6).
c Tỳ Thận Đều Hư: bổ trung ích khí: châm bổ + cứu Tỳ Du (Bq.20) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Thận Du (Bq.23) + Trung Cực (Nh.3) + Bá Hội (Đc.20) (Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn).
THẦN KINH TỌA ĐAU
Đại Cương
- Sách ‘Bách Khoa Thư Bệnh Học’ ghi: “Đau dây thần kinh hông là chứng đau ở rễ thần kinh thắt lưng V và cùng I với đặc tính đau lan theo đường đi của dây thần kinh hông”.
Dây thần kinh hông đau là một hội chứng đau dọc theo dây thần kinh hông (đường vận hành ở chân và eo lưng của đường kinh Bàng quang, Đởm và Vị), do nhiều nguyên nhân cơ năng hoặc thực thể ở bản thân dây thần kinh hoặc rễ thần kinh.
- Đời nhà Tấn (286) Hoàng Phủ Mật trong sách ‘Giáp Ất Kinh’ đã mô tả về chứng đau TK hông như sau: “Yêu hiếp thống dẫn thống cập bể cân” (từ lưng, hông sườn đau lan xuống gân vùng háng).
- Đời nhà Minh, phú ‘Tịch Hoàng’ trong sách ‘Châm Cứu Đại Thành’ (1601) ghi: “Ủy trung yêu thống, cước loạn cấp…” (Đau eo lưng đến vùng huyệt Ủy trung chân sau, chân co rút).
- Năm 1764, Sigwald và Dereux là hai người đầu tiên mô tả hội chứng đau dây thần kinh hông do thoái vị đĩa đệm vùng thắt lưng.
. Năm 1911, Goldwait J. E, Middleton và Teacher tách chứng đau dây thần kinh hông do thoái vị đĩa đệm thành một loại riêng.
. Năm 1914, Lasègue C.E, Brissand E, Déjerine J J chứng minh đau dây thần kinh hông là bệnh đau ở rễ chứ không phải đau ở dây.
. Từ 1939 có hàng loạt công trình nghiên cứu về dây thần kinh hông của Glorieux (1937), Bergonignan và Gaillen (1939).
. Từ năm 1940, sau thông báo của Mixter và Barr, các nhà phẫu thuật chỉnh hình khi mổ các trường hợp đau dây thần kinh hông (trước đây cho là thấp khớp) đều thấy có thoái vị đĩa đệm.
. Đông Y từ lâu đã được đề cập đến chứng đau dây thần kinh hông dưới nhiều tên gọi khác nhau:
+ Sách Giáp Ất Kinh (năm 286) gọi là Yêu Liệt Thống (Hoàn khiêu trị yêu liệt thống, bất đắc chuyển trắc – Huyệt Hoàn khiêu trị chứng lưng đau yếu, hông sườn không xoay trở được), Yêu cước thống, Yêu hiếp thống.
+ Thoái cổ phong (Hoàn khiêu năng trị Thoái cổ phong) [‘Biển Thước Thần Ứng Châm Cứu Ngọc Long Kinh] (đời nhà Nguyên 1311).
+ Yêu cước đông thống (Châm Cứu Đại Thành).
+ Yêu thống (Phú Tịch Hoàng).
+ Yêu liệt thống (Thập Tứ Kinh Phát Huy).
+ Yêu thoái thống, Yêu cước thống, Tọa đồn phong, Tọa điến phong, Bệ cốt thống (Bịnh Nguyên Từ điển).
+ Sách ‘Châm Cứu Học Thượng Hải’ gọi là Tọa Cốt Thần Kinh Thống.
+ Sách ‘Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu’ ghi là Tọa đồn (Điến) phong.
+ Đa số các sách cổ đều xếp loại này vào chứng Tý.
+ Dân gian thường phổ biến tên gọi Thần kinh tọa đau.
Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 30 – 60. nam nhiều hơn nữ (tỉ lệ 3/1).
Châm cứu điều trị chứng Dây Thần kinh hông đau do nguyên nhân cơ năng thường có hiệu quả tốt nhưng với loại do nguyên nhân thực thể (thí dụ do lao, thoái vị hoặc lồi đĩa đệm, khối u…) thì rất ít hiệu quả.
Phân Loại
a) Theo YHHDD
Sách ‘Bách Khoa Thư Bệnh Học’ chia làm hai loại:
+ Loại mắc phải: Trượt đốt sống, thoái hóa các khớp nhỏ cột sống, u xương sống.
+ Loại bẩm sinh: Hẹp ống sống thắt lưng, cùng hóa thắt lưng V.
b) Theo YHCT
Sách ‘Châm Cứu Học Thượng Hải’ chia làm 3 loại:
+ Loại nguyên phát: ở chính dây TK hông phát bệnh.
+ Loại thứ phát: do các tổ chức lân cận bị bệnh như đĩa sụn, xương sống lệch ra, viêm khớp xương sống.
+ Loại phản xạ tính: do ngoại thương sưng lên kích thích truyền nhập vào trung khu, gây ra phản xạ đau nhức ở dây thần kinh hông.
Nguyên nhân
a) Theo YHHĐ
Theo sách ‘Bách Khoa Thư Bệnh Học’:
1- Do Thoái vị đĩa đệm (60 – 90%, theo nhiều tác giả, 75% theo Castagne B, 60 – 80% theo V. Fattarusse – O. Rittes, 50% theo bệnh viện Thiên Tân (TQ) và bệnh viện Giao thông Thạch gia (TQ). Đĩa đệm bình thường nhờ có tính đàn hồi, vì vậy có nhiệm vụ như bộ giảm xóc, bảo vệ cho cột sống khi bị chấn thương (ngã dồn cột sống, khiêng vác nặng…). Nơi người trên 35 tuổi, đĩa đệm thường không còn mềm mại, nhân bên trong có thể bị khô, vòng sợi sụn bên ngoài bị xơ hóa hoặc đóng vôi. Nếu các đốt sống có một áp lực mạnh vào đĩa đệm (ngã ngồi, vác nặng…) có thể làm rách các vòng sợi sụn và nhân bị đẩy ra ngoài, chui vào ống sống gây đau do chèn ép của rễ dây thần kinh hông, gây phù nề do chèn ép vào mạch máu… Đau dây thần kinh hông xuất hiện khi các rễ bị chèn ép, nếu rễ trước bị chèn ép thì ngoài đau dây thần kinh hông còn có liệt. Đĩa sống thường bị tổn thương nhất là đĩa sống thắt lưng thứ V (giữa thắt lưng V và xương cùng I), hiếm khi gặp ở thắt lưng IV hoặc III. Rễ thường bị tổn thương nhất là rễ ngay dưới đĩa bị tổn thương .
2- Viêm chậu sống cứng khớp: bệnh của phái nam tuổi trẻ (90%) có đặc điểm là những viêm khớp liên đốt sống làm cho cứng khớp đốt sống hoàn toàn và cứng gần như hoàn toàn khớp ở gốc tứ chi với sự nguyên vẹn của khớp xương nhỏ (trên Xquang thấy có hình dạng thân cây tre khi các dây chằng bị vôi hóa). Thay đổi bệnh lý ở TL4, TL5, ở khớp cùng chậu làm đau dây thần kinh hông.
3- Bệnh Pott (lao đốt sống): có phá hủy đốt sống và có thể gây đau dây thần kinh hông cả hai bên (trên Xquang thấy dấu hiệu đốt sống bị xẹp).
4- Trượt đốt sống: Tl4 hoặc TL5 bị trượt ra phía trước trên đốt sống kê phía dưới (thường do bẩm sinh) do một chỗ khuyết của co nối liền các mỏm khớp trên và dưới.
5- Thoái hóa khớp nhỏ cột sống.
6- Bệnh Paget (viêm xương biến dạng) gây phì đại cuống xương đốt sống, xẹp đốt sống, hẹp ống sống dẫn đến chèn ép một hoặc nhiều rễ.
7- Gẫy đốt sống do chấn thương: chủ yếu gẫy một phần của cung sau.
8- U xương sống, thường là thứ phát (do di căn cột sống), cũng có thể là nguyên phát.
9- U vùng dưới đuôi ngựa: u thần kinh đệm hoặc u dây thần kinh.
10- U vùng hố chậu nhỏ: buồng trứng, tử cung, đại trường, tiền liệt tuyến.
11- U xương chậu.
12- Có thai.
13- Viêm nhiễm dây thần kinh (lạnh, nhiễm trùng, tiểu đường…) gây ra viêm, xung huyết, đau.
Theo Đông Y
Ba nguyên nhân chính gây ra đau thần kinh hông là phong, hàn, thấp.
Hàn có tính làm ngưng trệ và co rút. Tính ngưng trệ làm cho khí huyết, kinh lạc đều ngưng trệ, huyết trệ nặng hơn thành huyết ứ. Có thể nhận định rằng: bản thân người bệnh có sẵn tình trạng ngưng trệ ở khí huyết, kinh lạ, lại gặp thêm ngoại tà như thời tiết lạnh (hàn tà) xâm nhập làm cho chân co duỗi khó khăn hoặc có từng điểm gân co rút, co giật. Hàn tà gây nên cảm giác nhức hoặc như dùi đâm…
Thấp tà có xu hướng phát triển từ dưới thấp trước, thường là từ bàn chân chuyển dần lên, nhưng trong bệnh này không có hiện tượng đó. Theo Đông y, vùng eo lưng trở xuống gọi là vùng đái mạch (đái mạch khu), vùng này đau thường liên hệ đến thấp, thấp tà ở vùng Đái hạ có liên quan với Tỳ (Tỳ chủ thấp). Thấp có thể do Tỳ hư, cũng có thể từ hàn sinh ra. Bắt đầu thì hàn sinh ra thấp, sau đó hợp với thấp làm thành hàn thấp. Hàn và thấp phát triển đến một mức độ nào đó cũng hóa ra nhiệt, gây cảm giác nóng ở chỗ đau, thấp hóa nhiệt thành thấp nhiệt.
Như vậy theo Đông Y chứng đau thần kinh hông bao gồm Hàn, Phong và Thấp, phong hàn là yếu tố quan trọng nhất.
Chẩn Đoán Đau Thần Kinh Hông
Hỏi bệnh (Vấn chẩn):
+ Vùng đau: bắt đầu đau thần kinh hông ngay hoặc đau lưng trước? Đau thần kinh hông thường kèm theo đau lưng trong tiền sử gần hoặc xa.
+ Yếu tố cơ học: Có liên quan đến thoát vị đĩa đệm như gắng sức, ngã…Đã bị nhiều lần hoặc lần đầu? (tái phát là bằng chứng có giá trị của thoát vị đĩa đệm.
+ Đường lan truyền của đau: để ý kỹ các cảm giác đau lan truyền theo đường dây thần kinh hông.
+ Các cảm giác đau không lan truyền đúng đường đi của dây thần kinh hông cho phép loại trừ chẩn đoán đau dây thần kinh hông.
+ Xác định đúng hướng theo mặt trong hoặc ngoài.. để dễ xác định các đường kinh châm cứu bị tổn thương, bế tắc, giúp dễ dàng chọn huyệt điều trị cho thích hợp.
+ Tính chất đau liên quan đến thoát vị đĩa đệm:
. Đau tăng khi đứng lên, ngồi lâu, ho, hắt hơi.
. Đau giảm khi nằm yên.
. Tăng lên lúc nửa đêm về sáng.
+ Rối loạn cảm giác: tê bì, kiến bò ở vùng nào (để xác định vị trí rễ bị tổn thương)..
+ Thời gian khởi đầu đau:
. Mới đau: vài ngày đến vài tháng.
. Dai dẳng: từ nhiều tháng.
. Cố tật: trên một năm.
Để chọn lọc phương pháp điều trị.
+ Diễn tiến bệnh trạng:
. Đau giảm dần: gặp trong thoái vị đĩa đệm.
. Đau ngày càng tăng: trong lao cột sống, ung thư đốt sống, u tủy…
+ Cường độ đau:
. Đau nhẹ: ít ảnh hưởng đến sinh hoạt.
. Đau dữ dội: phải nằm tại giường.
+ Phối hợp: Nếu có rối loạn cơ tròn, nên nghĩ đến hội chứng TK đuôi ngựa.
+ Kiểm tra các dấu hiệu:
. Bốn dấu hiệu thuộc cột sống:
1- Biến dạng cột sống do tư thế đau:
. Theo chiều trước sau: Mất hoặc đảo ngược đường cong sinh lý, gù chống đau, tương ứng với thoát vị đĩa đệm ra phía sau, cản trở sự khép lại của khoảng gian đốt.
. Theo chiều nghiêng: Vẹo chống đau hoặc về phía bên đau (tư thế chống đau thẳng), liên hệ với rễ thắt lưng hoặc về phía bên lành (tư thế chống đau chéo) liên hệ với rễ cùng I.
2- Dấu hiệu nghẽn của De Sège để chống đau: người bệnh đứng nghiêng người sang bên trái, sang phải, phía không có tư thế chống đau là phái bị nghen (còn gọi là dấu hiệu nghẽn khúc đường gai sông).
3- Dấu hiệu Lasègue ở tư thế đứng: người bệnh đứng, giữ hai gối thẳng, từ từ cúi, đưa 2 ngón tay trỏ đụng hai ngón chân cái, do đau, người bệnh phái gấp đầu gối lại cho đỡ căng dây TK hông thì mới làm được.
4- Dấu hiệu bấm chuông điện: Thầy thuốc dùng ngón tay cái ấn mạnh vào cạnh đốt sống thắt lưng V hoặc cùng I, người bệnh thấy đau nhói truyền xuống bàn chân theo đường đi của dây thần kinh hông.
+ Bốn dấu hiệu của Rễ:
1- Các dấu hiệu đau khi làm căng dây thần kinh hông:
a) Dấu hiệu Lasègue: người bệnh nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, bàn tay thầy thuốc đỡ gót chân người bệnh rồi từ từ nâng chân lên khỏi mặt giường. Bình thường có thể nâng lên một góc 90o so với mặt giường. Bình thường có thể nâng lên một góc 900 so với mặt giường. Nếu đau dây thần kinh hông, chỉ nâng lên một góc nào đó (thí dụ 150, 300, 400…) người bệnh sẽ thấy đau từ mông xuống đùi và phải gấp đầu gối lại. Mức nâng càng nhỏ mức độ càng nặng (Lasègue dương tính).
b) Dấu hiệu Bonnet: người bệnh nằm ngửa, gấp cẳng chân vào đùi, vừa ấn đùi vào bụng vừa xoay vặn đùi vào phía trong, người bệnh thấy đau ở mông, là dấu hiệu Bonnet dương tính.
c) Dấu Hiệu Néri: người bệnh ngồi trên giường, hai chân duỗi thẳng, cúi xuống, hai ngón tay trỏ sờ vào 2 ngón chân cái, thấy đau ở lưng mông và phải gập gối lại mới sờ được ngón chân (Néri dương tính). Hoặc khi đứng thẳng, nếu cúi xuống, phải co chân lại, khi nằm nếu nhấc đầu lên chân cũng đau (Néri dương tính).
Ba dấu hiệu trên, tuy cách làm khác nhau nhưng cùng mục đích: tìm dấu hiệu đau khi làm căng dây thần kinh hông, đặc trưng của đau do rễ.
2- Khám phản xạ gân xương, chủ yếu là phản xạ gân gót mất hoặc giảm trong đau dây thần kinh hông loại xương cùng I, không thay đổi trong loại thắt lưng V.
3- Khám rối loạn cảm giác khách quan để xác định đau thuộc khu vực chi phối do rễ thắt lưng V hoặc cùng I.
. Loại TL 5: mặt ngoài đùi, mặt trước ngoài cẳng chân, mu chân và ngón cái, đôi khi là cả ngón 2 và 3.
. Loại XC 1: mặt sau đùi, phần sau hoặc sau ngoài cẳng chân, bờ ngoài bàn chân và 2-3 ngón chân cuối.
4- Tìm rối loạn vận động ở khúc chi.
. Không đi được bằng gót chân: tổn thương ở rễ thắt lưng 5.
. Không đi được bằng ngón chân (kiễng chân): tổn thương rễ cùng I. Rối loạn dinh dưỡng (có thể teo cơ – ở giai đoạn muộn).
5- Các điểm ấn đau:
+ Các điểm Walleix: 60% có ấn đau ở các điểm dây thần kinh hông xuất ra (rãnh mấu chuyển – ụ ngồi (huyệt Thừa phò), khoeo chân (huyệt Ủy trung), bắp chân (huyệt thừa sơn)…
+ Các điểm đốt sống: ấn khoảng liên gai hoặc vùng cạnh đốt sống các khoảng TL 4 – TL 5 hoặc TL 5 – XC 1 (có thể là đau khu trú – tại chỗ hoặc đau chạy dọc đường đi của dây thần kinh).
Bảng chẩn đoán đau dây thần kinh hông theo vị trí
Đau tự nhiênTừ vùng thắt lưng dọc theo dây thần kinhTừ vùng mông trở xuống
Điểm ấn đauỞ cạnh thắt lưngỞ khoeo
Tư thế chống đauCột sống cong sang bên lànhCột sống cong sang bên bệnh
Đau tăng khiHắt hơi, ho thử NériThử Lasègue
Rối loạn cảm giácThường giảmThường giảm hoặc mất
Rối loạn vận độngCó thể có trương lực cơ mông và cơ bắp chân giảmTrương lực cơ bắp chân giảm ít, lan lên cơ mông
Rối loạn thần kinh thực vậtNhiệt độ bàn chân thay đổi không rõNhiệt độ bàn chân thay đổi rõ.
Bảng Phân Chia Mức Độ Nặng Nhẹ của Đau Dây Thần Kinh Hông
Triệu ChứngNặngVừaNhẹ
ĐauRất đau, có vẹo cột sốngMạnh, có thể vẹo cột sốngNhẹ, không vẹo cột sống
Lasègue200450450
Vận độngKhông cúi được, chân không duỗi thẳng được, ngồi đứng khó khănKhông ngồi đứng lâu đượcVận động được không bị hạn chế
Lao độngKhông làm việc hằng ngày đượcLàm việc được
Triệu chứng
Dây thần kinh hông đau dạng cấp điển hình như sau:
1- Triệu chứng chức năng: nổi bật nhất là triệu chứng đau. Thường bắt đầu bằng đau ở lưng, sau đó đau ở dây thần kinh hông. Thường do một gắng sức như cúi xuống để bốc vác một vật nặng, bỗng nhiên thấy đau nhói ở thắt lưng làm cho phải ngừng việc. Ít giờ sau hoặc ít ngày sau lưng tiếp tục đau, đau tăng lên và lan xuống mông, chân, theo đường đi của dây thần kinh hông. Có thể có 3 trạng thái sau:
+ Đau từ vùng thắt lưng đi xuống dọc theo mặt ngoài đùi, mặt trước ngoài cẳng chân, qua phía trước mắt cá ngoài và bắt chéo mu chân rồi tận cùng ở ngón chân cái (TL 5).
+ Đau từ vùng thắt lưng đi xuống dọc theo mặt sau hoặc mặt ngoài cẳng chân, qua phía sau mắt cá ngoài và tận cùng ở ngón thứ 5 hoặc 2,3 ngón chân cuối (XC 1).
+ Nhiều trường hợp, vị trí đau khó xác định, do đó, khó chẩn đoán vùng đau được.
Cường độ đau thay đổi đôi khi rất mạnh, đau từng cơn hoặc liên tục, hoặc không bớt khi nghỉ. Có khi đau âm ỉ nhưng thường đau từng cơn hoặc liên tục hoặc không bớt khi nghỉ. Có khi đau âm ỉ nhưng thường đau dữ dội như đâm. Đau tăng lên khi ho, hắt hơi, khi cúi gập cổ đột ngột. Người bệnh buộc phải nằm yên không dám động đậy. Đau tăng về đêm, giảm khi nằm yên trên giường cứng, gối hơi co lại (tư thế này làm chùng dây thần kinh hông). Người bệnh có cảm giác như kiến bò, tê cóng hoặc như kim châm ở bờ ngoài bàn chân chéo qua mu bàn chân đến ngón chân cái (TL 5), ở gót chân hoặc ngón út (XC 1). Có khi bị đau vùng hạ bộ và đau khi đi tiểu do tổn thương rộng xâm phạm đến các rễ thuộc đám rối thần kinh đuôi ngựa.
2- Triệu chứng thực thể: Có hai loại chính:
a- Triệu chứng cột sống: Cơ lưng phản ứng cứng. Cột sống mất đường cong sinh lý, trở thành thẳng, người bệnh có tư thế ngay lưng, vẹo người, các tư thế chống đau, gẫy khúc đường gai sống…
b- Triệu Chứng của đau rễ: dấu hiệu Lasègue, Bonnet, Néri dương tính.
Để xác định chính xác rễ nào bị tổn thương, cần biết những biểu hiện của phản xạ cảm giác, cảm giác vận động, dinh dưỡng. Có thể dựa vào bảng tóm tắt sau:
RễPhản xạ gân xươngCảm giácVận độngDinh dưỡng
Thắt lưng VPhản xạ gân gót bình thườngGiảm hoặc mất phía ngón cái (có thể tăng ở giai đoạn kích thích)Không đi được bằng gót chânNhóm cơ cẳng chân trước – ngoài các cơ mu bàn chân
Rễ Cùng IPhản xạ gót giảm hoặc mấtGiảm hoặc mất phía ngón útKhông đi được bằng mũi bàn chân (kiễng chân)Cơ bắp, cẳng chân teo.
Cơ gan bàn chân teo.
3- Thể Mạn Tính: Mức độ đau vừa, âm ỉ, người bệnh chỉ có cảm giác cấn ở mông kèm đau lưng, thỉnh thoảng có từng đợt đau cấp xẩy ra. Đau thường kéo dài.
4- Thể đau dây hông 2 bên: có thể đau cùng một lúc cả hai bên hoặc một bên trước rồi lan sang bên kia (thường do tổn thương các đốt xương sống thắt lưng như lao đốt sống, ung thư…).
5- Thể liệt và teo cơ: sau một thời gian đau ở dây thần kinh hông xuất hiện liệt và teo cơ.
Theo Đông Y
Trên lâm sàng thường gặp ba loại sau:
1- Thể Hàn Thấp: Đau vùng lưng, đùi, dọc theo mặt ngoài cẳng chân (kinh đởm), và sau khoeo (kinh Bàng quang). Khớp chân co duỗi, đi đứng khó, về đêm, gặp ngày lạnh mưa, thời tiết thay đổi thì thấy đau hơn. Da mát lạnh, chỗ đau thấy nhức như kim đâm, mạch Huyền Khẩn hoặc Trầm Trì, là dấu hiệu hàn tà nhiều hơn.
Da mát nhưng có nhiều mồ hôi, lòng bàn chân khi có mồ hôi có cảm giác tê bì ở da, mạch nhu Hoãn là dấu hiệu của thấp tà nhiều hơn.
2- Thể Phong Hàn Thấp: Vùng thắt lưng cùng đau lan xuống chân theo dọc đường đi của dây thần kinh hông, cơ bị teo, bệnh kéo dài, dễ tái phát, ăn kém, ngủ ít, mạch Nhu Hoãn, Trầm Nhược. Thường gặp trong các chứng đau dây thần kinh hông do thoái hóa cột sống gây chèn ép.
3- Thể phong hàn: Vùng thắt lưng đau lan xuống mông, mặt sau đùi, cẳng chân đi lại khó khăn, cơ chưa bị teo, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch Phù. Thường gặp trong chứng đau dây thần kinh hông do lạnh.
4- Thể Thấp Nhiệt: Lưng đau lan xuống mông, mặt sau đì, cẳng chân, đi lại khó khăn, có cảm giác nóng ở các điểm đau, mạch Nhu hơi Sác.
5- Thể huyết ứ: Lưng đau lan xuống mông, mặt sau đùi, cẳng chân, đi lại khó khăn.
. Nhìn ở phần nông thấy có lạc mạch mầu xanh, xanh thẫm hoặc tím ở vùng khoeo chân hoặc đùi.
. Ở phần sâu có cảm giác nhức buốt như dùi đâm ở vùng mông (vùng huyệt Hoàn khiêu), dọc theo đường kinh Bàng quang và Đởm, lưỡi có những vết bầm tím, mạch Nhu Sáp.
Điều trị
Nguyên tắc tổng quát:
+ Thông kinh hoạt lạc: kinh lạc bị bế tắc gây ra đau, vì vậy, phải làm cho kinh lạc được thông thì hết đau (thông tắc bất thống).
+ Ôn: bệnh này đau chủ yếu do hàn, vì vậy phải dùng phép ôn để tán hàn.
+ Táo Thấp: Vì bệnh có thấp nên phải táo thấp và táo thấp cũng góp phần hỗ trợ việc thông kinh hoạt lạc.
+ Thư cân hoạt lạc: Bệnh có chứng trạng co rút, vì vậy phải làm cho gân cơ được giãn ra, kinh lạc được lưu thông.
+ Hoạt huyết, hóa ứ: Vì huyết ứ trệ, cần làm cho huyết lưu thông để chuyển hóa chỗ huyết bị ứ theo nguyên tắc ‘Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt’ (Chữa phong trước hết phải chữa huyết, huyết vận hành được thông thì phong tà sẽ tự hết).
+ Lý khí, chỉ thống: Khí trệ thì gây đau, dùng phép lý khí để cho khí được thông thì hết đau. Theo nguyên tắc ‘Khí vận hành đến đâu thì huyết vận hành đến đó’ (khí hành tắc huyết hành).
+ Thanh nhiệt, táo thấp: Trong trường hợp do thấp nhiệt.
Riêng từng loại, có thể áp dụng cụ thể như sau:
Do Phong Hàn
Phép trị: Sơ phong, tán hàn, hành khí, hoạt huyết.
Điều trị:
+ Sách ‘Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu’ dùng bài ‘Độc Hoạt Ký Sinh Thang’ (Thiên Kim Phương): Độc hoạt 12g, Ngưu tất, Bạch thược, Đương quy, Thục địa, Tang ký sinh, Đảng sâm, Phục linh, Đại táo đều 12g, Phòng phong, Đỗ trọng, Cam thảo đều 8g, Tế tân, Quế chi đều 6g. Sắc uống.
(Độc hoạt, Tế tân, Phòng phong, Tần giao để khứ phong, chỉ thống; Nhân sâm, Phục linh, Cam thảo, Thục địa, Thược dược, Đương quy, Xuyên khung (là bài Bát Trân Thang bỏ Bạch truật) để
bổ khí, hoạt huyết; Tang ký sinh, Đỗ trọng, Ngưu tất để bổ Can Thận, mạnh eo lưng, đầu gối, mạnh gân xương).
+ Sách ‘Trung Y Thượng hải’ dùng bài ‘Ô Đầu Thang’ (Kim Quỹ Yếu Lược).
+ Sách Thiên Gia Diệu Phương dùng bài ‘Đương Quy Hồi Nghịch Thang’ hoặc bài Dương Hòa Thang gia giảm hoặc bài Quế Ô Thang gia vị.
Do Phong Nhiệt
- Phép trị: Thanh nhiệt, giải độc làm chính, phụ thêm sơ phong, thông lạc.
- Điều trị:
+ Dược: Dùng bài Thạch Cao Tri Mẫu Quế Chi Thang (Bạch Hổ Gia Quế Chi Thang).
- GT: Trong bài, Thạch cao, Tri mẫu thanh nhiệt; Quế chi sơ tbông kinh lạc, thêm Nhẫn đông đằng, Liên kiều, Uy linh tiên, Phòng kỷ, Hoàng bá, Xích thược, Đơn bì, Tang chi để tăng cường tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, thông lạc.
. Nếu nhiệt nhiều làm tổn thương tân dịch, thêm Sinh địa, Nhân trần, Chi tử, Địa long.
2. Phong hàn thấp tý:
- Phép trị: Khu phong, tán hàn, trừ thấp, hành khí, hoạt huyết.
- Dược: Dùng bài Quyên Tý Thang gia giảm (Y Học Tâm Ngộ): Cam thảo 4g, Độc hoạt 8g, Đương quy 8g, Hải phong đằng 4g, Hoàng kỳ 8g, Khương hoạt 12g, Một dược 4g, Nhũ hương 4g, Phòng phong 8g, Tang chi 8g, Xuyên khung 4g.
- GT: Trong bài, Khương hoạt, Độc hoạt, Quế chi, Tần giao, Hải phong đằng, Tang chi để khu phong, tán hàn, hóa thấp, thông lạc; Phối hợp với Đương qui, Xuyên khung, Mộc hương, Nhũ hương để hoạt huyết, lý khí, chỉ thống; Cam thảo điều hòa các vị thuốc.
. Nếu phong thắng, tăng lượng Khương hoạt, thêm Phòng phong.
. Nếu hàn thắng thêm Xuyên ô (chế), Tế tân.
. Nếu thấp thắng thêm Phòng kỷ, Ý dĩ nhân.
. Bệnh lâu ngày, chính khí suy, ra mồ hôi, sợ gió: thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch thược, Can khương, Đại táo, giảm bớt thuốc trừ phong như Khương hoạt, Độc hoạt. Tần giao.
. Nếu can thận bất túc, lưng gối đau mỏi: thêm Đỗ trọng, Ngưu tất, Tang ký sinh.
. Nếu khớp sưng to, rêu lưỡi trắng, hơi vàng: có triệu chứng hóa nhiệt, nên dùng bài Quế Chi Thược Dược Tri Mẫu Thang gia giảm.
. Nếu bị chứng tý lâu ngày không khỏi làm cho khí huyết ngưng trệ nặng hơn, đau hơn thì ngoài những thuốc đã dùng trên, có thể cho thêm các loại thuốc thuộc loại côn trùng như Khương lang, Toàn yết, Xuyên sơn giáp, Địa long...
+ Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’ dùng bài Tân Phương Quế Chi Thang (Quế chi 30-60g, Bạch thược 16-30g, Sinh khương 5 lát, Cam thảo 4-6g, đại táo 5-10 quả, Hoàng kỳ 16-30g. Đương quy 12-16g, Ngưu tất 10-16g, Độc hoạt 10-16g. Sắc uống.
Thể Ứ Huyết: Hoạt huyết, khứ ứ, thông kinh lạc, chỉ thống.
Sách ‘Trung Y Thượng Hải’dùng bài ‘Thân Thống Trục Ứ Thang’ (Y Lâm Cải Thác).
TỌA CỐT THẦN KINH NHẤT HIỆU PHƯƠNG (Tân Trung Y Tạp Chí 1990: 3): Xuyên ngưu tất 60-120g, Hoàng bá 9-12g, Ý dĩ nhân (sống) 30-40g, Xuyên khung 10-12g, Mộc qua 12-18g, Tế tân 4-6g, Thương truật, Độc hoạt, Thổ miết trùng 10-15g đều 10-15g, Tang ký sinh, Dâm dương hoắc, Kê huyết đằng, Thân cân thảo đều 30g. Sắc, chia hai lần uống trong ngày.
TD: Bổ ích Can Thận, cường cân, tráng cốt, hoạt huyết, khứ ứ, thư cân, chỉ thống. Trị thần kinh tọa đau.
Tham khảo: Đã trị 54 ca, kết quả khỏi hẳn 42, kết quả ít 9, không kết quả 3. đạt tỉ lệ 94,4%.
THƯ CÂN LỢI ĐỞM THANG (Tân Trung Y Tạp Chí 1987: 10): Hoàng bá, Mộc qua, Câu đằng, Ngưu tất, Bạch thược, Hổ trượng, Liên kiều đều 15g, Ý dĩ nhân 30g, Tần giao 12g, Đơn bì 10g, Thương truật 9g, Cam thảo 8g. Sắc uống.
TD: Thanh nhiệt, khứ thấp, lợi Đởm, thư cân. Trị thần kinh tọa đau thể thấp nhiệt.
Đã trị 24 ca, khỏi hẳn 15, hiệu quả ít 4, có chuyển biến 3, không hiệu quả 2. đạt tỉ lệ 91,67%.
TƯ ÂM NHU CAN THÔNG LẠC THANG (Tân Trung Y Tạp Chí 1987: 3): Quy bản, Bạch thược, Chích thảo, Sinh địa đều 20g, Hoàng bá, Tri mẫu đều 10g, Ngưu tất, Mộc qua đều 12g. Sắc uống.
TD: Tư âm, nhu Can, thông lạc, chỉ thống. Trị thần kinh tọa đau (thể âm hư hiệp nhiệt, thấp, phong).
UY LINH THANG (Tứ Xuyên Trung Y Tạp Chí 1990: 2): Hương phụ 12g, Thiên thai ô dược, Độc hoạt, Uy linh tiên đều 15g, Bạch thược, Ngưu tất, Kê huyết đằng đều 30g. Sắc uống.
TD: Dưỡng huyết, nhu Can, lý khí, chỉ thống. Trị thần kinh tọa viêm.
Trị 300 ca, đạt kết quả 95%.
THÔNG LẠC TRẤN KINH THANG (Thiên Gia Diệu Phương): Đan sâm 30-40, Câu đằng 30g, Huyết kiệt 5g, Hy thiêm thảo 15g, Ngô công 2 con, Địa long 12g, Sài hồ 6g. Sắc uống.
TD: Khứ phong, thắng thấp, thông lạc, chỉ thống. Trị thần kinh tọa đau.
Đã trị 36 ca, khỏi 24, chuyển biến tốt 8, không kết quả 4. Đạt tỉ lệ 88,9%.
HOÃN CẤP DƯƠNG HÒA THANG (Tân Trung Y 1987: 10): Quế chi 10g, Ma hoàng 9g, Mộc qua, Đương quy, Ngưu tất, Bahj thược, Nạch giới tử đều 15g, Cam thảo 8g, Xuyên ô (chế) 6g, Thủ ô, Thục địa đều 30g, Lộc giác giao 12g. Sắc uống.
TD: Ôn kinh, tán hàn, nhu Can, dưỡng huyết, hoạt lạc, chỉ thống.
Trị 38 ca, khỏi hoàn toàn 17, hiệu quả ít 15, có chuyển biến 5, không hiệu quả 1. Đạt tỉ lệ 97,37%.
CHÂM CỨU
- CCHT. Hải: Sơ đạo kinh khí.
Châm Thận Du + Bạch Hoàn Du + Hoàn Khiêu + Thừa Phò + Ân Môn + Dương Lăng Tuyền.
Phối hợp với Giáp Tích eo lưng (L 2-5), Thượng Liêu, Thứ Liêu, Trật Biên, Thừa Sơn, Côn Lôn, Túc Lâm Khấp và các A Thị huyệt.
Mỗi lần chọn 3-5 huyệt, kích thích mạnh hoặc vừa, làm cho cảm giác tê truyền đi xa. Khi có cảm giác tê, trướng lan ra thắt lưng và chi dưới rồi thì lưu kim 20 - 30 phút hoặc lâu hơn, cách 3-5 phút lại vê kim 1 lần. Mỗi ngày hoặc 2 ngày trị 1 lần.
- T.Ư. Kinh: Hoàn Khiêu, Phong Thị, Âm Thị, Ủy Trung, Thừa Sơn, Côn Lôn, Thân Mạch.
- P. Tế: Thượng Liêu, Hoàn Khiêu, Dương Lăng Tuyền, Hạ Cự Hư.
- CCĐ. Thành: Ủy Trung, Nhân Trung.
- TCK. Luận: Hoàn Khiêu, Côn Lôn, Dương Lăng Tuyền, Dưỡng Lão (cứu).
- Trung Y Tạp chí năm 1955:
-Huyệt chính : Hoàn Khiêu, Dương Lăng Tuyền, Ủy Trung, Phong Thị, Thận Du, Côn Lôn, Tuyệt Cốt, Đại Trường Du.
-Huyệt Phụ: Thừa Phò, Thừa Sơn, Yêu Du, Bát Liêu, Hiệp Khê, Túc Tam Lý, Tân Kiện.
- TQCCHK. Yếu : Trật Biên, Đại Trường Du, Hoàn Khiêu, Ân Môn, Dương Lăng Tuyền, Huyền Chung, Thừa Sơn, Hoa Đà giáp tích vùng thắt lưng 4-5 (L 4-5).
- CCHG. Biên:
1 - Trung Lữ Du, Thận Du, Thượng Liêu, Hoàn Khiêu, Ủy Trung.
2 - Ủy Trung, Thận Du, Quan Nguyên Du, Hoàn Khiêu, Túc Tam Lý, Tam Âm Giao.
3 - Thừa Phò, Thận Du, Quan Nguyên Du, Phong Thị, Túc Tam Lý, Tam Âm Giao.
4 - Trật Biên, Thận Du, Quan Nguyên Du, Ủy Trung, Dương Lăng Tuyền.
5 - Yêu Dương Quan, Thận Du, Hoàn Khiêu, Túc Tam Lý, Ủy Trung.
6 - Bàng Quang Du, Thận Du, Đại Trường Du, Hoàn Khiêu, Phong Thị, Ủy Trung, Túc Tam Lý.
- CCTL. Học: Thượng Liêu, Thứ Liêu, Hoàn Khiêu, Trật Biên, Phong Thị, Ủy Trung, Dương Lăng Tuyền, Phi Dương, Tuyệt Cốt, Khâu Khư, Côn Lôn.
- LSĐKTHTL. Học: Bát Liêu, Thừa Phò, Ân Môn, Ủy Trung, Thừa Sơn, Tất Nhãn, Dương Lăng Tuyền, Tam Âm Giao, Dương Phò, Thái Bạch, Đại Đô, Chí Âm, Thông Cốc.
- CCHV. Nam: Thông kinh hoạt lạc.
-Châm Hoàn Khiêu + Phong Thị + Dương Lăng Tuyền + Thái Xung + Đại Trường Du + Thừa Phò + Ủy Trung + Thừa Sơn + Côn Lôn.
- HĐCCTL. Lục : Dò tìm ở bụng dưới, vùng giữa (ngang nếp háng), ấn theo hướng đi xuống phía dưới, người bịnh kêu đau ở đâu, đó là điểm Thần kinh tọa. Châm kim vào, sâu 5 cm, hơi hướng kim ra phía ngoài.
- Phúc Kiến Trung Y Dược năm 1959: Hoàn Khiêu, Dương Lăng Tuyền. Phối hợp với Thận Du, Đại Trường Du, Bát Liêu (đau vùng lưng), hoặc Thừa Phò, Phong Thị, Ân Môn, Phục Thố, Ủy Trung, Túc Tam Lý, Thừa Sơn, Tuyệt Cốt, Côn Lôn (nếu chi dưới đau).
- Trường Xuân Trung Y Học Viện Học Báo 1986: Trật Biên, Hoàn Khiêu, Thừa Phò, Phong Thị, Ủy Trung, Dương Lăng Tuyền, Thừa Sơn, Huyền Chung, Côn Lôn, Khâu Khư.
- Giang Tây Trung Y Dược số 39/1986: Đại Trường Du, Thừa Phò, Ân Môn, Ủy Trung, Thừa Sơn.
- Thượng Hải Châm Cứu Tạp Chí số 18/1986: dùng điện châm Hoàn Khiêu, Dương Lăng Tuyền xuyên Âm Lăng Tuyền.
- Trung Quốc Châm Cứu Tạp Chí: Trật Biên, Hoàn Khiêu, Thừa Sơn, Dương Lăng Tuyền, Thận Du, Ân Môn, Tuyệt Cốt. (Hoàn Khiêu, Trật Biên, Dương Lăng Tuyền và Thận Du dùng bổ pháp, các huyệt còn lại châm tả).
- Cát Lâm Trung Y Dược số 27/1985: Hoàn Khiêu, Dương Lăng Tuyền, Trật Biên, Ủy Trung.
- Trung Quốc Châm Cứu Tạp chí số 38/1986: Túc Tam Lý, Dương Lăng Tuyền, Huyền Chung, Dương Phụ, Giải Khê, Thái Xung, Khâu Khư, Hoàn Khiêu, Ân Môn, Trật Biên.
- TDCCĐ. Toàn : Sơ kinh, hoạt lạc. Châm tả Đại Trường Du, Trật Biên, Hoàn Khiêu, Ủy Trung, Dương Lăng Tuyền, Tuyệt Cốt, Côn Lôn.
+ Đại trường du, Quan nguyên du, Hoàn khiêu, Ân môn, Ủy trung, Thừa sơn, Dương lăng tuyền, Côn lôn, A thị huyệt. Mỗi lần chọn 4-6 huyệt, châm tả. Do phong hàn, kết hợp thêm cứu. Lưu kim 20-30 phút. Mỗi ngày hoặc cách ngày châm một lần, 10 lần là một liệu trình (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).
- Nhĩ Châm: Thần kinh tọa, Thần môn,Yêu chùy, Khoan chùy, Bì chất hạ, Thượng thận tuyến. Kích thích mạnh (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).
- Giác Châm: A thị huyệt, Thứ liêu, Thừa phò, Ân môn, Ủy trung. Dùng kim Tam lăng châm vào các mạch máu nhỏ cho ra máu. Sau khi máu ngưng ra, giác ngay lên những vùng đó (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).
- Châm huyệt kinh nghiệm có tên là L II trị 200 ca Thần kinh tọa đau. Dùng huyệt L II làm chủ huyệt (huyệt ở khe đốt sống thắt lưng 2 ra ngang 1 thốn. Phphôis hợp với Dương lăng tuyền. Châm sâu 3-4 thốn. Dùng phương pháp vê kim sao cho cảm giác lan xuống vùng đùi và chân rồi rút kim. Mỗi ngày châm một lần, 7 lần là một liệu trình. Ít nhất là 2 liệu trình, các triệu chứng khỏi, cử động lại tốt) 42 ca, có hiệu quả ít (sau 2-3 liệu trình, các triệu chứng bớt nhưng cử động không thoải mái, hơi hoạt động thì đau) 97, có chuyển biến (đau giảm, cử động đỡ hơn) 38, không hiệu quả 23 (Tân Biên Châm Cứu Trị Liệu Học).
- Đại trường du, Quan nguyên du, Hoàn khiêu, Đồn chính trung (từ huyệt Yêu du đo ngang ra 4 thốn). Phối hợp với Ủy trung, Ủy dương, Quắc điểm (phía trên ngoài huyệt Ủy trung 1 thốn).
Nhóm 1: Phù khích, Ủy trung, Phì điểm (tại đỉnh nhỏ ở xương đùi, chỗ có lõm, đo xuống 0,5 thốn).
Y Án đau Dây Thần Kinh Hông
+ Y Án Đau Dây Thần Kinh Hông Do Gân Mạch Bị Tổn Thương
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’)
“Hồ X, nam, 40 tuổi, công nhân. Hai năm trước lưng bị vẹo, sau đó có cảm giác mông bên phải, phía sau đùi, mặt ngoài bắp chân đến mu bàn chân bên phải đau, khi đi thấy đau. Mấy ngày nay do lao lực, bệnh lại tăng lên. đã dùng nhiều
thuốc YHHĐ và YHCT nhưng không hết. Khám thấy mặt trắng bệch, vẻ mặt đau khổ, bắp thịt ở đùi bên phải hơi teo, khi co lại thì đầu gối thấy lỏng nhưng co duỗi khó. Mạch Trầm mà vô lực, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng.
Chẩn đoán lâm sàng là đau dây thần kinh hông do bị hư yếu lâu ngày làm cho khí huyết không vận hành được, gân mạch không được nuôi dưỡng lại gặp lao lực làm cho đường kinh bị bế tắc.
Điều trị: Thư cân hoạt lạc, hoãn cấp, chỉ thống.
Xử phương: Dùng bài Thược Dược Cam Thảo Thang gia vị (Bạch thược 50g, Chích thảo 50g, Nguyên hồ 16g, Anh túc xác 16g. Sắc uống ngày một thang. Uống 3 thang, các triệu chứng giảm quá phân nửa. Tiếp tục dùng bài trên thêm Hoàng kỳ, Ngưu tất mỗi thứ 20g để ích khí huyết, dưỡng cân, hoạt lạc. Uống 9 thang nữa, các chứng đều khỏi hẳn”.
+ Y Án đau Dây Thần Kinh Hông Cấp Tính
(Trích trong ‘Tạp Chí Đông Y Việt Nam số q979, 162).
“Lê Quang S, 37 tuổi, công nhân. Sau một cơn sốt 390C kéo dài 1,5 ngày, người bệnh thấy tê dọc vùng mông đến gót chân bên phải, rồi đau làm cho người bệnh không đứng được, khi ho cũng đau hơn, không thấy có hiện tượng sưng, nóng, đỏ, đau ở các khớp. Đã được bệnh viện điều trị bằng thuốc giảm đau, Vitamin B1, B12 nhưng không đỡ, được chuyển đến khoa Đông Y.
khám thấy: người bệnh không cúi được, không kiễng được chân bên phải. Lasègue 300, dấu hiệu Waleix (+ + +).
Tập thể bác sĩ chuyên khoa thần kinh chẩn đoán là đau thần kinh tọa cấp.
Dùng điện châm các huyệt Hoàn khiêu, Thận du, Đại trường du, Ân môn, Ủy trung, Thừa sơn và Côn lôn. Cơn đau giảm dần, bệnh nhân đi lại được. Châm 29 lần hết đau. Lasègue 900, Walleix âm tính.
Bệnh nhân Lý, nam, 75 tuổi, nông dân, khám lần đầu ngày 6/02/1970.
Bệnh nhân bị đau chân đã hai tháng, tình trạng bệnh ngày càng trở nặng hơn và đau dữ dội cả ngày lẫn đêm. Bệnh viện huyệt chẩn đoán là viêm dây thần kinh hông to và việc điều trị được thực hiện bằng thuốc trung y và tây y lẫn châm trị, nhưng hiệu quả không đạt, vì thế bệnh nhân xin khám tại dưỡng đường của tác giả.
Khám thấy đau lan tỏa từ vùng thắt lưng xuống các chỗ phân nhánh của dây thần kinh hông to, tại vùng giữa mông, hỏm khoeo, và mặt ngoài cẳng chân, ấn đau rõ, dấu hiệu Lasègue dương tính. Vùng giữa và dưới cẳng chân và bàn chân sờ thấy lạnh. Bệnh nhân không thể đi bộ, mạch Trầm Trì, rêu lưới mỏng trắng.
Chẩn đoán là đau dây thần kinh hông to.
Điều trị theo phương pháp trên, bệnh nhân ra nhiều mồ hôi và đã uống 450ml nước. Sau khi điều trị, bệnh nhân cảm thấy đỡ hơn và có thể đi bộ được 50 mét.
Ngày hôm sau, cơ bản cơn đau khỏi, chỉ còn thấy tê nhẹ.
Bệnh nhân Nghê, nam, 37 tuổi, lái xe, khám lần đầu ngày 7/ 4/1977. Bệnh nhân bị đau dây thần kinh hông to viêm đa khớp cột sống thắt lưng dạng thấp đã 3 năm. Cách đây nửùa năm, đau trở nên nặng hơn do bị bong gân thắt lưng, không thể cúi xuống và rất khó khăn lúc đi và khi nằm. Đau càng trở nên nặng hơn khi ho và hắt hơi.
Khám thấy điểm ấn đau rõ giữa mông trái và dây cột sống thắt lưng L3 - L5, dấu hiệu Lasègue dương tính.
Chẩn đoán là viêm dây thần kinh hông to.
Điều trị: Châm điểm ấn đau ở cột sống thắt lưng sâu 1 - 2 thốn, nâng, đẩy và cọ kim, và điểm ấn đau giữa mông sâu 3 thốn, cọ kim mỗi 10 phút cho cả hai huyệt trên. Sau đó rút kim. Cứu các huyệt trên 15 phút, mỗi ngày một lần, 10 ngày là một liệu trình, nghỉ 03 ngày lại tiếp tục. Sau một liệu trình, bệnh nhân cảm thấy đỡ hơn đôi chút, vận động hai chân được chút ít. Sau
hai liệu trình, đau đã giảm đáng kể, anh ta có thể cúi người xuống được. Sau 3 liệu trình, đau thắt lưng cơ bản đã hết và đau hai chân đã giảm rõ và bệnh nhân có thể ngồi xuống hai giờ mà không đau
THẤP CHẨN
(Eczéma - Eczema)
A.Đạicương
Là 1 loại bệnh ngoài da, thường gặp với đặc điểm là những cơn ngứa và vị trí tổn thương thường đối xứng YHCT gọi là “Nãi Tiễn” (Lác Sữa), Tuyền Nhĩ Sang, Thận Nang Phong, Giang Môn Khuyên Tiễn, Tứ Loan Phong.
B.Nguyênnhân
Thường do Phong Thấp Nhiệt xâm nhập da thịt (cấp tính) hoặc huyết hư kèm nhiệt (mạn tính) gây ra.
C. Triệuchứng
- Cấp tính: vùng tổn thương nổi ban đỏ, có mụn nước, mưng mủ, vỡ ra, khô đi và rụng vẩy, không để lại vết sẹo lâu.
- Mạn tính: thường do thấp chẩn ở thể cấp tính gây ra, da dầy lên, chỗ mép da bị tổn thương có hình dạng giống như rêu, lâu không kho?i, thường kèm các đợt phát cấp.
D. Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Thanh huyết, lợi thấp.
Cấp tính: Đại Chùy (Đc.14) + Khúc Trì (Đtr.11) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thần Môn (Tm.7) .
Mạn tính: thêm Huyết Hải (Ty.10), Túc Tam Lý (Vi.36). Kích thích vừa, cách 1 ngày châm 1 lần.
Ý nghĩa: Đại Chùy, Khúc Trì để tiết phong, thanh Hoả; Tam Âm Giao điều thông 3 kinh Âm, lợi thấp nhiệt; Thần Môn an Tâm thần, giảm ngứa; Huyết Hải hòa huyết; Túc Tam Lý điều Tỳ Vị, sinh huyết.
2- Nhóm 1: Cách Du (Bq.17) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Huyết Hải (Ty.10) + Khúc Trì (Đtr.11) + Ngoại Quan (Ttu.5) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Uỷ Trung (Bq.40). 2 - 3 ngày châm 1 lần.
Nhóm 2: Châm Huyết Hải (Ty.10) + Khúc Trì (Đtr.11) + Uỷ Trung (Bq.40). Cứu Thiên Ứng (vùng tổn thương - đau).
Nhóm 3: Huyết Hải (Ty.10) + Khúc Trì (Đtr.11) + Phế Du (Bq.13) + Uỷ Trung (Bq.40) .
Nhóm 4: Dũng Tuyền (Th.1) + Hoàn Khiêu (Đ.30)+ Hợp Cốc (Đtr.4) + Huyết Hải (Ty.10) + Khúc Trạch (Tb.3) + Khúc Trì (Đtr.11) + Kiên Ngung (Đtr.15) + Tất Nhãn + Túc Tam Lý (Vi.36) + Tuyệt Cốt (Đ.39) + Uỷ Trung (Bq.40)
3- Bách Trùng Oa (Châm Cứu Học HongKong).
4- Can Du (Bq.18) + Đại Chùy (Đc.14) + Đào Đạo (Đc.13) + Tỳ Du (Bq.20) lưu kim 5 - 10 phút (‘Bắc Kinh Trung Y Tạp Chí’ số 4/1986).
5- Sơ Phong, thanh nhiệt, trừ thấp, châm tả Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Đại Chùy (Đc.14) + Đại Trữ (Bq.11) + Huyết Hải (Ty.10) + Khúc Trì (Đtr.11) + Phong Môn (Bq.12) (Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn).
THẤP KHỚP
(Quan Tiết Viêm - Rhumatisme - Rhumatism)
A. Đạicương
• Thấp khớp là bệnh sưng đau các khớp xương.
• YHCT gọi chung là Tý chứng. Tý nghĩa là bế, chỉ khí huyết kinh lạc bị trở trệ do tà khí xâm nhập vào gây ra.
• Bệnh thường hay tái phát và có thể gây biến chứng vào tim.
B.Nguyênnhân
- Do cơ thể suy yếu, da lông sơ hở, vinh vệ không vững, phong, hàn, thấp tà thừa cơ xâm nhập sinh ra chứng Tý.
- Do sau khi lao động mồ hôi đang ra mà ngồi giữa luồng gió hoặc đi tắm mà bị gió lạnh. Hoặc ở chổ ẩm thấp lâu ngày, tà khí thừa cơ xâm nhập vào làm cho kinh lạc bị bế tắc gây ra bệnh.
C. Chứngtrạng
Trước đây, các sách phân ra làm: Hành Tý, Thống Tý, Trước Tý, Nhiệt Tý, tuy nhiên, trong loại Phong Hàn Thấp Tý thì bệnh lý của Hành Tý, Thống Tý, và Trước Tý đều giống nhau, chứng trạng trên lâm sàng cũng giống nhau, vì vậy các sách giáo khoa gần đây chỉ quy về hai loại chính là Phong Hàn Thấp Tý và Phong Nhiệt Thấp Tý.
1. Phong Hàn Thấp Tý
Đau một hoặc nhiều khớp, khớp sưng nóng đỏ làm cho cử động khó khăn, Chủ yếu do Phong, Hàn và Thấp xâm nhập gây ra. Tuy nhiên, tùy nguyên nhân mà có thể phân ra:
a - Phong (Hành) Tý: do phong tà nhiều hơn, với triệu chứng chính là đau di chuyển chứ không nhất định, sốt, sợ lạnh, rêu lưỡi vàng, mạch Sác, còn gọi là Lịch Tiết Phong.
b - Hàn (Thống) Tý: do hàn tà nhiều hơn. Đau nhức toàn thân hoặc tại chỗ, chỗ đau nhất định, gặp nóng thì đỡ đau, gặp lạnh thì đau nhiều, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền, Khẩn.
c - Trước (Thấp) Tý: da thịt tê mỏi, các khớp đau, có cảm giác nặng, đau một chỗ nhất định, phù, rêu lưỡi trắng, mạch Nhu Hoãn.
2. Nhiệt Tý
Khớp xương đau nhức, chỗ đau thấy nóng hoặc sưng đỏ, đau không chạm vào được, gặp lạnh thì dễ chịu, đại tiện bón, tiểu vàng, khát, rêu lưỡi vàng, mạch Hoạt Sác.
D. Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Tùy theo kinh mạch vận hành qua chỗ đau. Kết hợp huyệt ở gần và huyệt ở xa, để sơ thông kinh mạch, điều hòa khí huyết.
• Phong Tý: dùng châm.
Thấp Tý: phối hợp với cứu hoặc ôn châm.
Nhiệt Tý: có thể châm ra máu.
Huyệt thường dùng:
• Khớp Thái Dương - hàm: Hạ Quan (Vi.7) + Thính Cung (Ttr.19) + Ế Phong (Ttu.17) + Hợp Cốc (Đtr.4) .
Khớp xương sống: lấy huyệt tương ứng ở sát xương sống + Ân Môn (Bq.37) + Uỷ Trung (Bq.40) + Nhân Trung (Đc.26) .
Khớp vai: Kiên Ngung (Đtr.15) + Kiên Liêu (Ttu.14) + Kiên Nội Lăng + Thiên Tông (Ttr.11) + Trung Chử (Ttu.3) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) .
Khớp khuỷ tay: Khúc Trì (Đtr.11) + Thiên Tỉnh (Ttu.10) + Hợp Cốc (Đtr.4) .
Cổ tay, Bàn tay, Ngón tay: Ngoại Quan (Ttu.5) + Thủ Tam Lý (Đtr.10 + Dương Khê (Đtr.5) + Dương Trì (Ttu.4) + Uyển Cốt (Ttr.4) + Đại Lăng (Tb.7) + Thượng Bát Tà + Tứ Phùng.
Khớp thắt lưng, xương cùng: Yêu Dương Quan (Đ.33) + Thập Thất Chùy Hạ + Bạch Hoàn Du (Bq.28) + Quan Nguyên Du (Bq.26) + Uỷ Trung (Bq.40) + Côn Lôn (Bq.60).
Khớp xương cùng, xương hông: Tiểu Trường Du (Bq.27) + Bàng Quang Du (Bq.28) + A Thị Huyệt.
Khớp háng: Hoàn Khiêu (Đ.30) + Cự Liêu (Vi.3) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Tuyệt Cốt (Đ.38).
Khớp gối: Hạc Đỉnh + Tất Hạ + Tất Nhãn + Lương Khâu (Vi.34) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) .
Khớp mắt cá chân (cổ chân): Giải Khê (Vi.41) + Khâu Khư (Đ.40) + Thái Khê (Th.3) + Côn Lôn (Bq.60) + Dương Giao (Đ.35) + Giao Tín (Th.8).
Khớp ngón chân: Thượng Bát Tà + Công Tôn (Ty.4) + Thúc Cốt (Bq.65) + Dương Phụ (Đ.38) + Thương Khâu (Ty.5).
2- Vai đau như muốn gẫy: Dưỡng Lão (Ttr.6) + Thiên Trụ (Bq.10) (Thiên Kim Phương).
3-• Lưng đùi đau: Hoàn Khiêu (Đ.30) + Phong Thị + Âm Thị (Vi.33) + Uỷ Trung + Thừa Sơn (Bq.57) + Côn Lôn (Bq.60) + Thân Mạch (Bq.62) (Tư Sinh Kinh).
4- Ngón tay co rút: Khúc Trì (Đtr.11) + Dương Trì + Hợp Cốc (Đtr.4) (Thần Ứng Kinh).
5- Phong Tý, khuỷ tay co rút không duỗi được: Xích Trạch + Khúc Trì (Đtr.11) + Hợp Cốc (Đtr.4) (Thần Ứng Kinh).
6-- Kiên Tỉnh (Đ.21) + Khúc Trì (Đtr.11) + Thủ Tam Lý (Đtr.10) + Hạ Liêm (Đtr.8) + Thủ Ngũ Lý (Đtr.13) + Kinh Cừ (P.8) + Thượng Liêm (Đtr.9) trị cánh tay đau (Châm Cứu Đại Thành).
• 7- Khớp cổ tay: Dương Khê (Đtr.5) + Dương Trì + Uyển Cốt (Ttr.4) + Đại Lăng (Tb.7).
Mắt cá chân: Thương Khâu (Ty.5) + Giải Khê + Khâu Khư (Đ.40).
• Vùng Háng: Hoàn Khiêu (Đ.30) + Phong Thị (Đ.31) + Cư Liêu (Đ.29) + Trật Biên (Bq.54).
• Khớp gối: Độc T (Vi.35) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) .
• Khớp khuỷ tay: Khúc Trì (Đtr.11) + Khúc Trạch (Tb.3) + Thủ Tam Lý (Đtr.10) + Thiếu Hải (Tm.3).
• Khớp vai: Kiên Ngung (Đtr.15) + Kiên Liêu (Ttu.14) + Kiên Trinh (Ttr.9).
• Ngón chân đau: Bát Phong + Nhiên Cốc (Th.2).
Ngón tay co rút: Bát Tà + Ngoại Quan (Ttu.5) .
Vùng xương chân đau: Hoàn Khiêu (Đ.30) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Khâu Khư (Đ.40).
• Gối sưng đỏ, đau: Tất Quan (C.7) + Uỷ Trung (Bq.40) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Âm Thị (Vi.33) (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
8- Các huyệt chính: Hợp Cốc (Đtr.4) + Hoàn Khiêu (Đ.30) + Uỷ Trung (Bq.40) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Khúc Trì (Đtr.11) + Kiên Ngung (Đtr.15) + Côn Lôn (Bq.60).
• Khớp gối: Uỷ Trung (Bq.40) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Tất Quan (C.7) + Tất Nhãn + Tam Lý (Vi.36) + Hành Gian (C.2).
• Khớp háng: Uỷ Trung (Bq.40) + Hoàn Khiêu (Đ.30).
Khớp khuỷ tay: Khúc Trì (Đtr.11) + Xích Trạch (P.5) + Thông Lý (Tm.5) + Khúc Trạch (Tb.3) + Dịch Môn (Ttu.2) + Trung Chử (Ttu.3) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Thủ Tam Lý (Đtr.10).
• Khớp mắt cá chân: Côn Lôn (Bq.60) + Thái Khê (Th.3) + Âm Cốc (Th.10) + Khâu Khư (Đ.40).
• Khớp bàn chân: Côn Lôn (Bq.60) + Thái Khê (Th.3) + Thân Mạch (Bq.62) + Chiếu Hải (Th.5) + Thái Xung (C.3) .
• Khớp vai: Kiên Ngung (Đtr.15) + Kiên Tỉnh (Đ.21) + Kiên Trung + Kiên Ngoại Du (Ttr.14) + Kiên Liêu (Ttu.14) + Khúc Trì (Đtr.11) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Đại Chùy (Đc.14) + Quan Xung (Ttu.1).
• Khớp cổ tay: Uyển Cốt (Ttr.4) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Dương Trì (Ttu.4) + Thái Dương + Ngoại Quan (Ttu.5) + Trung Chử (Ttu.3) (Châm Cứu Trị Liệu Học).
• 9- Khớp vai: Kiên Tam Châm
• Khớp khuỷ: Trữu Du
Khớp ngón tay: Tiểu Cốt Không.
Khớp gối: Lương Khâu (Vi.34) + Tất Dương Quan (Đ.33) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Tất Quan (C.7) + Tất Ngoại + Hạc Đỉnh + Hậu Dương Quan (CHâm Cứu Học HongKong).
10- Khu phong, tán hàn, Hóa thấp, sơ thông kinh lạc.
• Cổ Đau: Huyền Chung (Đ.39) + Kiên Tỉnh (Đ.21) .
Quanh khớp vai đau: Kiên Ngung (Đtr.15) + Kiên Liệu + Kiên Tỉnh (Đ.21) + Nhu Du (Ttr.10).
Khuỷ tay đau: Khúc Trì (Đtr.11) + Kiên Tỉnh (Đ.21) + Tý Nhu (Đtr.14).
Sống lưng đau: Thuỷ Câu (Đc.26) + Thân Trụ (Đc.12) + Dương Quan (Đ.33) + Mệnh Môn (Đc.4) + Phong Môn (Bq.12) .
Vùng hông đau: Thứ Liêu (Bq.32) + Cư Liêu (Đ.29) + Hoàn Khiêu (Đ.30) + Trật Biên (Bq.54) + UŒy Trung (Bq.40).
Đùi đau: Bể Quan (Vi.31) + Lương Khâu (Vi.34) + Phong Thị (Đ.31) + Thừa Phò (Bq.36).
Đầu gối: Tất Nhãn + Hạc Đỉnh + Huyết Hải (Ty.10) + Tất Dương Quan (Đ.33) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) .
Khớp cổ chân và mắt cá: Giải Khê (Vi.41) + Khâu Khư (Đ.40) + Côn Lôn (Bq.60) + Thái Khê (Th.3) .
Cẳng tay: Thủ Tam Lý (Đtr.10) + Khúc Trì (Đtr.11) + Ngoại Quan (Ttu.5) .
Cẳng chân: Túc Tam Lý (Vi.36) + Hạ Cự Hư (Vi.39) + Dương Phụ (Đ.38) .
• Hành Tý: thêm Cách Du (Bq.18) + Huyết Hải (Ty.10).
Thống Tý: thêm Thận Du (Bq.23) + Quan Nguyên (Nh.4) [cứu].
Trước Tý: thêm Túc Tam Lý (Vi.36) + Thương Khâu (Ty.5).
Nhiệt Tý: thêm Đại Chùy (Đc.14) + Khúc Trì (Đtr.11) + Hợp Cốc (Đtr.4).
Ý nghĩa: Đại Chùy + Khúc Trì + Hợp Cốc để thanh nhiệt, giải biểu, trị nhiệt Tý; Cách Du + Huyết Hải để hoạt huyết trị hành Tý; Thương Khâu + Túc Tam Lý kiện tỳ, hành Thuỷ để trị thấp Tý; Quan Nguyên + Thận Du để ích Hoả, trợ dương, khu tán hàn tà (Châm Cứu Học Việt Nam).
THẤP TIM
(Rheumatic heart disease, Rhumatisme articulalre aigue, Maladie de Bouillaud)
Đại Cương
Bệnh thấp tim còn gọi là bệnh ‘thấp khớp cấp’, ‘bệnh Bouillaud’. Là một bệnh kinh diễn có những đợt cấp tính gây tổn thương viêm nhiễm tại nhiều nơi trong cơ thể với mức độ khác nhau mà chủ yếu là ở tim, gây xơ chai van tim. Tỷ lệ mắc bệnh cao ở trẻ em từ 5 đến 15 tuổi. Bệnh khá phổ biến ở nước ta và là nguyên nhân của phần lớn bệnh tim mắc phải, cần có sự cảnh giác cao, điều trị sớm và tích cực.
Tài liệu bệnh học Trung Quốc gọi tên bệnh là 'Phong Thấp Nhiệt’ vì bệnh biểu hiện cả 3 đặc điểm bệnh lý là: phong (đau di chuyển), thấp (sưng các khớp) và nhiệt (sốt, nóng đỏ ). Hiện nay gọi là ‘Phong Thấp TínhTâm Tạng Bệnh’.
Theo y học cổ truyền, nếu bệnh biểu hiện ở khớp thì qui vào ‘Chứng Tý’ (nhiệt tý), nếu tổn thương ở tim là chủ yếu thì thuộc phạm vi của chứng ‘Chinh Xung', ‘Tâm Quí’. Cũng liên hệ với các chứng Phong Lao, Suyễn Chứng, Thủy Thũng, Tâm Thống.
Nguyên Nhân Bệnh Lý
Bệnh xuất hiện sau khi nhiễm liên cầu khuẩn tan máu Bê ta nhóm A (thường được phát hiện vi khuẩn trong họng người bệnh nhân thấp khớp cấp). Liên cầu khuẩn gây bệnh giáùn tiếp thông qua cơ chế tự miễn.
Bệnh phát sinh nhiều về mùa lạnh, nơi khí hậu ẩm thấp. Tổn thương bệnh lý cơ bản là xuất tiết và tăng sinh. Viêm nhiễm xuất tiết là thoái hóa kiểu fibrin (Dégénérescence fibrinoide) của chất tạo keo, có phù nề, xâm nhập tế bào lymphô, bạch cầu đa nhân, tương bào. Viêm nhiễm ‘tăng sinh’ chủ yếu là những hạt Aschoff có thể gặp bất cứ chỗ nào có tổn thương viêm nhiễm, nhưng nhiều nhất là trong tổ chức dưới nội tâm mạc, tổ chức đệm gần mạch máu nhỏ.
Nguyên nhân theo Y học cổ truyền chủ yếu là do phong hàn thấp nhiệt xâm nhập cơ thể gây ủng tắc kinh lạc sinh ra chứng ‘tý’, bệnh lâu ngày làm tổn thương chân âm gây sốt (hư nhiệt) hoặc làm tổn thương khí huyết gây nên khí hư, huyết hư hoặc khí huyết đều hư, dẫn đến các chứng ‘Tâm Quí’ ‘Chinh Xung’, v.v...
Triệu Chứng Lâm Sàng
1) Triệu chứng toàn thân:
- Sốt thường sau 2 tuần bị viêm họng, có thể sốt cao 39-40oC nhưng thường là sốt vừa 38-39oC.
- Mạch nhanh, thường là nhanh nhiều hơn so với sự tăng nhiệt độ, cần chú ý có tổn thương cơ tim.
Những triệu chứng khác như mệt mỏi, kém ăn, xanh xao, có khi chảy máu cam...
2) Triệu chứng tại chỗ:
Có thể biểu hiện nhiều nơi:
a) Tim: Tiếng tim mờ, có tiếng thổi tâm thu ở mỏm, cũng có thể nghe tiếng thổi tâm trương ở đáy, hoặc tiếng cọ màng tim (có thể mất đi trong 1-2 ngày), ít khi có tràn dịch. Nhịp tim nhanh, có khi có ngoại tâm thu, tiếng ngựa phi (biểu hiện viêm cơ tim), bệnh nặêng lên.
b) Khớp: Thường gặp 80%, có thể viêm nhiều khớp gặp nhất là các khớp cổ tay, khuỷu, cổ chân, đầu gối. Các khớp thường sưng, nóng, đỏ, đau, nhiều khi chỉ có sưng, đau di chuyển và khỏi không có di chứng.
c) Cục Meynet dưới da, cứng, di động, to bằng hạt đậu xanh hoặc hạt bắp, không đỏ không đau, ở dưới da, thường sờ thấy ở gần đầu xương ở khớp, xuất hiện và lặn đi nhanh. Ban đỏ vòng thường xuất hiện ở bụng và chân tay, hay gặp ở trẻ nhỏ. Múa giật (Chorée de Sydenham) biểu hiện tổn thương thấp ở nhân não xám. Ở phổi có thể có viêm màng phổi khô hay tràn dịch, ở thận có thể xuất hiện viêm cầu thận cấp lan tỏa, khỏi nhanh khi bệnh lui.
Cận Lâm Sàng
a) Xét nghiệm: Bạch cầu tăng trên 10.000 đến 20.000/mm3 chủ yếu tăng tế bào đa nhân trung tính, có khi tăng loại ‘ái toan’. Tốc độ lắng máu tăng cao lúc bệnh tiến triển. Fibrin máu tăng lên 6-8g/1 (bình thường 4g/l) (đợt tiến triển). C-protein reactive (CPR) (+) Anti streptolysin ‘O’ (ASLO) tăng cao nhất tuần lễ thứ 4 từ khi bắt đầu nhiễm khuẩn và lên đến 400 đơn vị.
b) X quang tim: Tim có thể to hơn và nhịp đập yếu hơn.
c) Điện tâm đồ: Thời gian P-R, Q-T đều kéo dài, đoạn SY thấp hoặc cao, sóng T thấp hoặc đảo nghịch.
Chẩn Đoán
Hiện vẫn còn dựa theo tiêu chuẩn của Jones phân ra tiêu chuẩn chính và phụ.
Tiêu chuẩn chính: Viêm tim, viêm nhiều khớp, múa giật, cục Meynet, ban vòng đỏ.
Tiêu chuẩn phụ: Có 2 nhóm.
- Nhóm 1: Biếng ăn, xanh xao, mệt mỏi, viêm họng tái phát, chảy máu cam tái phát, đau bụng, đau ngực, P-R dài trên điện tâm đồ.
Nhóm 2: Sốt, bạch cầu tăng, tốc độ máu lắng nhanh, CPR (+) ASLO cao.
Chẩn đoán xác định khi có:
2 tiêu chuẩn chính (1 phải là viêm tim).
1 tiêu chuẩn chính và 2 tiêu chuẩn phụ.
Điều Trị theo y Học Hiện Đại
l) Chế độ nghỉ ngơi, ăn uống: Nằm nghỉ tuyệt đối trong thời gian 1 tháng, trẻ em
không chạy nhảùy, nhiều trường hợp suy tim phải nằm nghỉ tại giường cho đến khi tốc độ lắng máu trở lại bình thường, ăn nhạt tương đối trong lúc điều trị.
2) Chống viêm nhiễâm:
3) Đề phòng tái phát: Có nhiều phác đồ. Sau đây giới thiệu phác đồ điều trị dự phòng của Viện Bảo vệ sức khỏe trẻ em:
.Trường hợp không có tiếng thổi ở tim: Uống Penixilin V (Oxaxilin) 200.000 đv/ngày hoặc tiêm Penixilin Benzathin 1.200.000 Đv/3 tuần/lần (có tiếng thổi ở tim).
. Trường Hợp đang điều trị dự phòng bị viêm họng cho: Penixilin V 1.500.000 - 2.000.000đv/ngày, chia 4 lần, hoặc Penixilin Benzathin 600.000 đv/ngày. Thời gian theo dõi và uống hoặc tiêm dự phòng cho đến tuổi 25.
Điều Trị Theo Y Học Cổ Truyền
Biện chứng luận tri: Thấp tim thuộc chứng cấp, chứng nhiệt cho nên phép trị chính là thanh nhiệt và tùy theo triệu chứng lâm sàng dùng thanh nhiệt, sơ phong, thanh nhiệt giải độc, thanh nhiệt lợi thấp, thanh nhiệt lương huyết... Trên lâm sàng có thể chia theo các thể bệnh và điều trị như sau:
+ Thể Phong Nhiệt: Sốt, đau họng, khát nước, các cơ khớp đau nhức, di chuyển, tại khớp sưng nóng đỏ, lưỡi nhạt, sắc lưỡi vàng, mạch Sác, hoặc Phù Sác hay Hoạt Sác.
Điều trị: Sơ phong thanh nhiệt, tuyên thông khí. Dùng bài Bạch Hổ Quế Chi Thang gia giảm: Thạch cao sống 40-80g, Tri mẫu 8-12g, Quế chi 6-8g, Sinh cam thảo 6g, Liên kiều 8-12g, Sinh địa 12-16g, Bồ công anh 12-16g, Xích thược 12g, Đan bì 12g, Tang chi 12-16g.
Gia giảm: Sốt cao nhiệt thịnh: thêm Tê giác 30-60g (sắc trước); Ghé thấp thêm Thương truật 8-12g, Ý dĩ 12- 16g, Hoạt thạch 16-20g, Mộc phòng kỷ 12g; Phong nặng thêm Khương hoạt, Độc hoạt mỗi thứ 12g, Phòng phong 8-10g, Tần giao 8-12g; Tỳ vị suy yếu thêm Bạch truật 8-12g, Sa nhân 8g, Mạch nha 8g, Thần khúc 6-8g...
+ Thể Thấp Nhiệt: Sốt, người nặng nề, khát nước mà không muốn uống, vùng khớp sưng to nóng, tiểu tiện vàng đậm, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt lợi thấp, tuyên thông kinh lạc. Dùng bài Quyên Tý Thang hợp với Nhị Diệu Tán gia giảm: Độc hoạt 12-16g, Thiên niên kiện 12,-16g, Hoạt thạch 20-30g, Liên kiều 8-12g, Hạnh nhân 8 - 10g, Mộc, Phòng kỷ 8-l2g, Liên kiều 8-12g, Chi tử 8-12g, Ý dĩ nhân 12- 16g, Xích tiểu đậu 12g, Tàm sa 8-12g, Thương truật 8-10g, Đương qui 12-16g, Hoàng bá 12g, Tỳ giải 12g, Trạch tả 12g.
-Gia giảm: sốt kéo dài, thêm Tri mẫu 12g, Sinh địa 12 - 16g; Khớp chân đau nhiều thêm Xuyên Ngưu tất 12 - 16g; Trường hợp bệnh lâu ngày, phần khí bị hư: thêm Nhân sâm 6 - 10g (sắc riêng), Bạch truật 12g, Bạch linh 12g, Sinh Hoàng kỳ 16 - 30g.
+ Thể Hư Nhiệt: Người nóng, da khô, sốt về chiều hoặc đêm nhiều hơn, ra mồ hôi trộm, mệt mỏi, khát nước, chảy máu cam, hồi hộp, khớp đau nóng, thân lưỡi thon đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác.
Điều trị: Dưỡng âm thanh nhiệt. Dùng bài Mạch Vị Địa Hoàng Hoàn gia giảm: Mạch môn 12-16g, Sinh địa 12- l6g, Liên kiều 8-12g, Tri mẫu 8-12g, Huyền sâm 12g, Hoài sơn 12g, Sơn thù 12g, Đơn bì 12g, Đan sâm 12- l6g, Bạch linh 12g, Trạch tả 12g, Ngũ vị 6g. Sắc uống.
Gia giảm: Khí âm hư thêm Hoàng kỳ (sinh) 16-30g, Tây dương sâm l2g; Bứt rứt khó ngủ thêm Toan táo nhân (sao) 16-20 g, Long nhãn nhục 12g.
+ Thể Huyết Hư: Sốt nhẹ, các khớp đau nhức hoặc sưmg nhẹ, đau, váng đầu, mệt mỏi, sắc mặt tái nhợt, hồi hộp, khó ngủ, lưỡi nhợt, rêu vàng, mạch Tế Sác.
Điều trị: Dưỡng huyết, ích khí. Dùng bài Tứ Vật Thang hợp với Đương Qui Bổ Huyết Thang Gia Vị’: Đương qui 12- l6g, Sinh địa 12-16g, Xích thược 12g, Xuyên khung 8-10g, A giao 8g (hòa uống), Hoàng kỳ 20- 30g, Hà thủ ô đỏ 16-20g, Sinh ý dĩ 12-16g, Hy thiêm thảo 12-20g, Kê huyết đằng 12g, Độc hoạt 12g, Tang ký sinh 12-l6g, Địa long 12g.
Ngoài ra bệnh thấp tim thường kèm theo viêm tim (bao gồm viêm cơ tim, viêm bao tim, viêm nội mạc tim), phép trị chủ yếu là thanh nhiệt, khu phong, trừ thấp kèm theo phép trị viêm tim thích hợp. Trong biện chứng viêm tim thường gặp các thể bệnh như Tâm Âm Hư, Khí Âm Lưỡng Hư, Tâm Dương Hư, Tâm Khí Huyết Lưỡng Hư, Âm Dương Bất Hòa.
Trường hợp Tâm Âm Hư thường biểu hiện: Hồi hộp, hốt hoảng, bứt rứt, khó ngủ, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Sác, điện tâm đồ thể hiện nhịp tim nhanh dùng phép tư âm bổ huyết, bổ târn an thần, dùng bài Bổ Tâm Đơn gia giảm.
Trường hợp Khí Âm Lưỡng Hư thường biểu hiện: Hoảng hốt, khó thở, ra mồ hôi, khát nước, mạch Hư Nhược, dùng bài ‘Sinh Mạch Tán’ để bổ khí âm.
Trường hợp hồi hộp, mạch Kết Đại, lưỡi đỏ không rêu, điện tâm đồ thể hiện nhịp tim không đều, là dấu hiệu khí huyết đều hư, âm dương không đều, dùng bài 'Chích Cam Thảo Thang gia giảm ’ để bổ khí, dưỡng huyết, phục mạch.
Trường hợp sợ lạnh, ngực tức, khó thở, mạch Trầm Trì, điện tâm đồ thể hiện nhịp tim không đều mà chậm là chứng dương hư, dùng bài ‘Ma Hoàng Phụ Tử Tế Tân Thang’ thêm Nhân sâm, Hoàng kỳ... để ích khí, ôn dương.
Trường hợp thở khó, hồi hộp, phù... có những triệu chứng tim suy (thủy khí lấn tâm phếâ), dùng bài ‘Gia Vị Linh Quế Truật Cam Thang’ (Nhân sâm, Ngũ gia bì, Phục linh, Quế chi, Bạch truật, Trạch tả), để ích khí, ôn dương, lợi thủy.
Nếu suy tim trái là chính: thêm Đình lịch tử, Qua lâu, Đại táo để tả phế, hành khí, lợi thủy.
Nếu suy tim phải là chính thêm Xích thược, Hồng hoa, Xuyên khung để hóa ứ hành thủy...
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
+ Ngân Kiều Bạch Hổ Thang (Chu Lương Xuân, Nam Thông, Giang Tô, TQ.): Liên kiều 20g, Ngân hoa, Phòng kỷ, Mộc qua, Tri mẫu, Ngạnh mễ đều 25g, Sinh thạch cao 100g, Cam thảo 10g, sắc uống.
Tác dụng: Thanh nhiệt,giải độc, khu phong, trừ thấp.
Biện chứng gia giảm: Thấp nặng thêm Thương truật 25g, Ý dĩ 40g, Hậu phác 10g. Nhiệt nặng: thêm Chi tử 15g, Hoàng bá 15g, Hoàng liên 5g; Vùng trước tim đau thêm Toàn qua lâu 25g, Viễn chí 15g, Bá tử nhân 25g.
Kết quả lâm sàng: Đã trị 12 ca đều khỏi. Uống thuốc 6 - 8 tuần.
+ Phức Phương Phòng Kỷ Thang (Vũ Nghệ Kính): Hán phòng kỷ 15g, Ngọc trúc 9g, Hoàng kỳ l8g, Bạch truật 9g, Bạch linh 30 - 45g. Cho vào nồi đổ 500ml nước sắc còn 100ml, bã còn lại đổ thêm 400ml sắc còn 80ml, trộn chung, chia 3 lần uống trong ngày.
-Gia giảm: Sốt đau nhiều thêm Tế tân 4,5g, Ngân sài hồ 6g; Phù nhiều, tiểu ít thêm Trạch tả 9g, Mộc thông 15g Quế chi 6g; Suyễn nhiều thêm Tang bạch bì, Tô tử đều 9g; Tâm suy thêm Phụ tử 9g.
TD: kiện tỳ, ích khí hóa thấp.
Kết quả: Trị 10 ca Thấp tim đều tốt.
+ Song Nhân Dưỡng Tâm Thang (Điền Bảo Trung): Sơn dược 960g, Mè đen 360g, Xích tiểu đậu, Bá tử nhân đều 360g, Kê nội kim 30g, Toan táo nhân (sao) 480g. Tất cả tán bột mịn, trộn đều mỗi ngày uống 2 lần sáng và tối trước bữa ăn 30g với nước sôi khuấy thành hồ.
TD: Dưỡng tâm, an thần, kiện tỳ, hóa thấp.
4) Ngũ Gia Phục Mạch Thang (Vương Anh Bằng): Chích cam thảo, A giao, Mạch đông, Ngũ gia bì đều 10g, Đảng sâm 15g, Sinh địa 20-80g, Quế chi 9g, Sài hồ 9g, Đơn sâm 10-15g, thêm Sinh khương, Đại táo để dẫn thuốc. Sắc uống.
TD: Dưỡng tâm, phục mạch, trị thấp tim.
Gia giảm: Chân tay lạnh thêm Phụ tử 6-9g; Bứt rứt, ra mồi hôi, bỏ Quế chi, thêm Sinh địa, Long cốt, Mẫu lệ, Sơn chi (hoặc Vạn niên thanh) 10g); Phù nặng thêm Chích Hoàng kỳ, Phục linh, Trư linh, Xa tiền tử; Ho ra máu bỏ Quế chi thêm Thổ tam thất; Sốt thêm Sài hồ 10 - 12g; Tim đập chậm thêm Phụ tử 10g, Tiên mao 12g; Tim suy nặng bỏ Đảng sâm thêm Phụ tử, Hồng sâm đều 12g; Vùng ngực đau thêm Nhũ hương, Một dược đều 6g; Nặng ngực thêm Chỉ xác 9g.
+ Thẩm Thị Phong Tâm Cứu Nghịch Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Xuyên quế chi 15-30g, Chích cam thảo 15-30g, Vư­ơng bất lư­u hành 15-30g, Qui vĩ 30-60g, Đào nhân 30-45g, Hồnghoa 10-24g, Đan sâm 30-45g, Tam lăng 15-30g, Nga truật 15-30g, Sinh hương phụ 9-15g, Thạch Xương bồ 9-15g, Xuyên quảng uất kim mỗi thứ 30g, Thất Tiếu Tán 15-24g, Viễn chí 10-15g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang).
TD: Phá ứ, ôn kinh, lý khí. Trị thấp tim, Tâm huyết ứ trở, hàn ngư­ng thấp trệ.
Hiệu quả lâm sàng: Đã theo dõi 300 ca bệnh nhân điều trị bằng "Thẩm Thị Phong Tâm Cứu Nghịch Thang". Đến nay số người có cải thiện các triệu chứng và bệnh tình biến chuyển tốt đạt 84%.
+ Phong Tâm Phương (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng) Quế chi 10-30g, Sinh khương 3g, Đại táo 15g, Phòng phong 9g, Chích cam thảo 9g, Bạch truật 15g, Thục phụ tử 15-30g. Sắc với 500 ml n­ước, còn 200ml, chia làm 2 lần uống, ngày một thang, sáu ngày là 1 liệu trình).
TD: Thông tâm dương kèm khu phong tán hàn, trừ thấp. Trị viêm cơ tim do phong thấp, Tâm dương hư­ kèm phong hàn thấp tà.
+ Phù Dương Ích Âm Thang (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Hồng sâm 10g, Thục phụ phiến 10g, Trư­ khổ đởm (trấp) 1 cái, Chích cam thảo 10g, Xương bồ 10g, Táo nhân 15g, Chích viễn chí 10g, Ngũ vị tử 10g, Đương qui 12g, (Sao) bạch truật 12g, Phục linh 20g, A giao 12g (nấu chảy). Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
TD: Phù dương ích âm, cấp cứu phần dương muốn mất, dẫn dương hòa âm. Trị thấp tim,Tâm thận hư­ suy, khí huyết thương tổn nặng, trên thì dương mất trong thì âm kiệt.
Hiệu quả lâm sàng: Đã dùng "Phù Dương Ích Âm Thang" gia giảm chữa 10 ca bệnh tim do phong thấp kèm suy tim ở mức độ khác nhau đều có kết quả tốt.
8- Ngọc Trúc Ký Sinh Thang gia giảm (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng): Ngọc trúc, Sinh địa, Hoàng kỳ (sinh), Từ trường noãn đều 15g, Tang ký sinh 12g, Bạch vi, Mạch môn, Tần cửu đều 9g, Cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
TD: Ích dưỡng âm, sơ phong lợi thấp, thông lạc. Trị viêm cơ tim do phong thấp, Phong thấp tích lại lâu ngày hóa thành nhiệt, chứa lại ở phần doanh của Tâm, làm cho khí và phần âm đều hư.
9- Ích Khí Dưỡng Tâm Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Quế chi 6g,Thái tử sâm 20g, Hoàng kỳ, Mạch môn đều 15g, Tiểu mạch 30g, Hồng táo 7 trái, Bách hợp 15g, Long cốt, Mẫu lệ đều 30g, Chích thảo 6g. Sắc uống.
TD: Ích khí, dưỡng âm, kiện Tỳ, dưỡng Tâm. Trị thấp tim (Khí huyết đều suy).
10- Hoạt Huyết Thông Mạch Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương):Quế chi 6g, Xích thược, Đào nhân đều 12g, Hồng hoa, Xuyên khung đều 6g, Đan sâm 15g, Ích mẫu thảo 30g, Uất kim 9g, Hương phụ 6g. Sắc uống.
TD: Hoạt huyết, hóa ứ, lưu thông tâm mạch. Trị thấp tim (Tâm Phế mạch lạc ứ trở).
11- Ôn Dương Cường Tâm Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Quế chi 9g, Thục phụ phiến 15g, Xích thược 12g, Hoàng cầm, Đan sâm đều 15g, Ích mẫu thảo 30g, Phục linh 12g, Hạnh nhân 9g, Phòng kỷ 6g, Đình lịch tử 9g, Xích tiểu đậu 30g, Đào nhân 12g. Sắc uống.
TD: Ôn dương, ích khí, cường Tâm, lợi thủy. Trị thấp tim (Tâm Thận Dương hư).
CHÂM CỨU TRỊ THẤP TIM
+ Phế Lạc Ứ Trở: Khứ ứ, chỉ khái. Châm Phế du, Tâm du, Khổng tối, Cách du, Thái uyên.
+ Tâm Huyết Bất Túc: Dưỡng Tâm an thần. Châm Nội quan, Thông lý, Thần môn, Tâm du, Huyết hải.
+ Tâm Thận Dương Hư: Bổ ích Tâm thận. Châm Thận du, Mệnh môn, Tâm du, Tam âm giao, Nội quan.
+ Tỳ Thận Dương Hư: Ôn bổ Thận Tỳ. Châm Tỳ du, Thận du, Thái bạch, Tam âm giao, Túc tam lý, Trung quản.
Châm bình bổ bình tả, cách ngày châm một lần. Lưu kim 20 phút. 10 lần là một liệu trình (Bị Cấp Châm Cứu).
NHĨ CHÂM
Chọn huyệt Thần môn, Tâm, Phế, Nội tiết, Bì chất hạ, Thượng thận, Giao cảm. Dùng phương pháp dán huyệt, cách ngày dán một lần. 10 lần là một liệu trình (Bị Cấp Châm Cứu).
CỨU PHÁP
Cứu huyệt Chí dương, Tâm du.
Dùng điếu ngải cứu xoay tròn, mỗi lần 10 phút, mỗi ngày 1-2 lần. 10 ngày là một liệu trình (Bị Cấp Châm Cứu).
Bệnh Án Thấp Tim
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Tần X, 40 tuổi, giáo viên, phát bệnh từ năm 1954. Lúc đầu khạc ra máu, sau thường khạc ra máu luôn. Hai năm nay mỗi năm phải nằm viện mấy lần. Dùng Mao địa hoàng thì muốn mửa, kinh nguyệt hết đã 5 năm, nay lượng máu thổ ra nhiều, thở dốc, phải ngồi, không nằm thẳng được, ra mồ hôi, tim hồi hộp, đầu váng, nhịp tim không đều, tim đập 118 lần phút, biên độ rộng, vùng mỏm tim có tạp âm thời tâm thu cấp III đến cấp IV, tạp âm thời tâm trư­ơng cấp II đến cấp III, gan dưới s­ườn 5cm. Chẩn đoán là bệnh tim do phong thấp, van hai lá hẹp không khép kín, phổi xung huyết. Dùng bài "Thẩm Thị Phong Tâm Cứu Nghịch Thang" (Xuyên quế chi 15-30g, Chích cam thảo 15-30g, Vư­ơng bất lư­u hành 15-30g, Qui vi 30-60g, Đào nhân 30-45g, Hồng hoa 10-24g, Đan sâm 30-45g, Tam lăng 15-30g, Nga truật 15-30g, Sinh hương phụ 9-15g, Thạch Xương bồ 9-15g, Xuyên quảng uất kim mỗi thứ 30g, Thất Tiếu Tán 15-24g, Viễn chí 10-15g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang), có gia giảm uống thêm 1 thang nữa, tất cả 3 thang, tình trạng người bệnh cải thiện, có thể làm một số việc nhẹ trong nhà.
Bêïnh Án Viêm Cơ Tim Do Phong Thấp
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Long XX, nữ, 40 tuổi, hộ sinh, bắt đầu từ năm 1964, vì nhịp tim sớm, đã làm điện tâm đồ kiểm tra, phát hiện cơ tim có thương tổn. Tốc độ lắng máu nhanh, kháng "O" thường tăng cao rõ rệt. Đau khớp lan chạy rõ rệt và có tiền sử viêm họng mạn tính. Đã dùng nhiều thứ thuốc tây và thuốc đông để điều trị nhưng bệnh vẫn trở lại. Ngày 17-7-1974, làm lại điện tâm đồ vẫn thấy cơ tim bị thương tổn. Độ lắng máu 38mm/giờ, kháng "O" 833 đơn vị. Ngày 22-7 vì tim hồi hộp, thở dốc, ngực tức, nên đến khám và xin điều trị. Kiểm tra thấy thân nhiệt 36o5 C, huyết áp 100/60mmHg, họng xung huyết, tuyến giáp không to, nhịp tim tốt, tim đập 78lần/phút, tiếng tim đập nhẹ, mờ, không nghe thấy tạp âm. Chẩn đoán là viêm cơ tim dạng phong thấp. Cho dùng bài thuốc "Phong Tâm Phương" (Quế chi 10-30g, Sinh khương 3g, Đại táo 15g, Phòng phong 9g, Chích cam thảo 9g, Bạch truật 15g, Thục phụ tử 15-30g. Sắc với 500 ml n­ước, còn 200ml, chia làm 2 lần uống, ngày một thang, sáu ngày là 1 liệu trình) có gia giảm. Đồng thời phối hợp dùng Penicillin tác dụng kéo dài, tiêm bắp mỗi ngày 1.200.000 đơn vị. Ngày 28 tháng 10 khám lại thấy các triệu chứng về cơ bản đã hết, độ lắng máu 17mm/giờ, kháng "O" bình thường, tim đập bình thường. Kiểm tra lại điện tâm đồ: đã hết tổn thương cơ tim. Nửa năm sau hỏi lại, kiểm tra điện tâm đồ vẫn bình thường, cũng không thấy các triệu chứng tái xuất hiện.
THIỂU NĂNG TUẦN HOÀN NÃO
Là từ chuyên môn để chỉ một trạng thái bệnh lý, có rất nhiều biểu hiện lâm sàng khác nhau nhưng cùng chung một cơ chế sinh bệnh là thiếu máu nuôi não.
Não rất nhậy cảm với việc thiếu O2, nhu cầu O2 của tổ chức não gấp 5 lần so với tim.
Não là cơ quan trọng yếu của cơ thể, vì vậy thiếu máu não sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ cách chung và nhất là với hệ thần kinh trung ương. Nếu ngừng tuần hoàn não từ 6- 7 giây sẽ bị ngất, ngừng 40-110 giây sẽ bị mất các phản xạ, ngừng 5 phút thì tế bào não sẽ chết, không hồi phục được.
Biến chứng của Thiểu năng tuần hoàn não là Nhũn não, Xuất huyết não gây liệt nửa người hoặc chết đột ngột.
Thường gặp nơi người trung niên và có tuổi, đặc biệt nơi những người lao động trí óc, nam nhiều hơn nữ.
Nguyên Nhân
Theo YHHĐ: Xơ vữa động mạch là nguyên nhân chính gây thiếu máu não cục bộ ở người cao tuổi, được biểu hiện bởi:
Giảm lưu lượng máu lên não.
Thiếu máu não cục bộ thoáng qua.
Tai biến mạch máu não dạng TMNCB.
Lưu lượng máu qua não.
Cow Chees Gaay Thieeus Maus Naox Cucj Booj
Do lưu lượng máu đến não thấp
Do huyết tắc hay nghẽn mạch bán phần
Thường phát huy tác dụng khi có sự chít hẹp đáng kể lòng động mạch (trên 70% với động mạch cảnh).
Giải thích các cơn thiếu máu não thoáng qua trên lâm sàng.
Giải thích thiếu máu não cục bộ hay xảy ra nửa đêm hay rạng sáng, khi mà theo nhịp sinh học ngày đêm, hoạt động tim và huyết áp giảm nhiều nhất trong ngày.
Do tắc nghẽn mạch
Sự bít tắc động mạch do những mảnh vật liệu trôi theo dòng máu gây ra.
Những mảnh này có nguồn gốc khác nhau như từ buồng tim (bệnh van tim, rung nhĩ) hoặc từ các mảng huyết khối do vữa xơ động mạch thành lập.
Trên lâm sàng các tai biến này thường xảy ra đột ngột khác với cách xuất hiện từng nấc có báo trước của tai biến do nghẽn mạch.
Do co thắt mạch máu não
Trong TIA có liên quan đến thuốc lá
Ischemic stroke: giả thiết nầy hiện bị nhiều tác gỉa phủ nhận vì cho rằng hiện tượng co thắt chẳng qua chỉ là hậu qủa của rối loạn chuyển hoá tại mô não đang bị thiếu máu.
Do xuất huyết trong mảng xơ vữa
Sự hiện diện của những ổ xuất huyết nhỏ ngay trong lòng của các mảng xơ vữa.
Về phương diện giải phẩu bệnh, có một mối tương quan có ý nghĩa thống kê với sự xuất hiện các triệu chứng lâm sàng của tai biến thiếu máu não cục bộ
Do Giảm tưới máu não do qúa trình lão hoá mạch máu não
Biểu hiện của thiếu máu não cục bộ:
Giảm sút qúa trình hưng phấn ức chế: thay đổi tính tình -> khó tính, thận trọng -> do dự, dễ kích động, cáu gắt, rối loạn giấc ngủ, mất ngủ.
Giảm khả năng tư duy, tập trung tư tưởng, chậm hiểu, hay quên, quên ngược chiều.
Rối loạn tâm thần
Nhức đầu, chóng mặt sau khi suy nghĩ nhiều
Run nguyên phát, HC Parkinson.
Theo Đông Y có thể do:
1) Can Dương Thượng Cang: do can dương thịnh bốc lên bên trên gây nên chóng mặt, hoặc do tình chí không thư thái, uất ức lâu ngày khiến Can âm bị hao tổn, can dương bị khuấy động bốc lên gây nên huyễn vựng; Có khi Thận âm hư tổn không dưỡng được Can mộc dẫn đến Can âm thiếu, Can dương bốc lên gây nên.
2) Đờm Trọc Trung Trở: Do ăn nhiều các thứ bổ béo làm cho tỳ vị bị tổn thương, chức năng vận hóa bị rối loạn, thức ăn uống không hóa thành tân dịch mà biến thành đờm thấp, đờm thấp ứ trệ khiến thanh dương không thăng, trọc âm không giáng, gây nên.
3) Thận Tinh Bất Túc: Do từ bẩm sinh Thận đã bị bất túc hoặc do lao động nặng nhọc, phòng dục quá mức khiến cho Thận tinh bị tiêu hao, tinh tủy không đủ, không nuôi dưỡng được cho não, mà theo YHCT não là bể của tủy, cũng gây nên.
4) Khí Huyết Đều Hư: Do bệnh lâu không khỏi, khí huyết hao tổn, hoặc sau khi mất máu, bệnh chưa phục hồi, hoặc tỳ vị hư nhược không vận hóa thức ăn được để sinh ra khí huyết dẫn đến khí huyết đều hư, khí hư thì dương yếu, huyết hư thì não không được nuôi dưỡng đều gây nên.
Chẩn Đoán
. Đòi hỏi những thiết bị kỹ thuật chính xác như Lưu huyết não đồ, Siêu âm đo hiệu ứng Doppler, Điện não đồ, Citi, Chụp cộng hưởng…
Tuy nhiên cũng có một số biểu hiện lâm sàng có thể giúp phát hiện bệnh sớm. Nếu tách riêng từng triệu chứng một thì không có triệu chứng nào là đặc hiệu. Nhưng nếu gặp một tập hợp nhiều triệu chứng thì có thể có một giá trị định hướng nhất định. Các nhà nghiên cứu đã đề xuất một bảng chẩn đoán lâm sàng dưới đây, mỗi triệu chứng được quy ước một số điểm nhất định. Số điểm này được xây dựng dựa trên sự tổng kết của hàng ngàn bệnh nhân bị thiểu năng tuần hoàn não, có đối chiếu với các phương pháp thăm dò cận lâm sàng. Tổng số điểm của 20 triệu chứng dưới đây, nếu trên 23,9 thì được coi là dương tính (có khả năng bị thiểu năng tuần hoàn não), nếu dưới 13,7 là âm tính.
SttTriệu Chứng Lâm SàngCóKhông
1Thường xuyên bị nhức đầu2,50
2Cảm giác căng nặng trong đầu1,80
3Đau đầu thất thường, thỉnh thoảng đau00,9
4Đau đầu vùng thái dương00,9
5Đau đầu vùng chẩm, gáy1,70
6Chóng mặt20
7Váng đầu thất thường, thỉnh thoảng bị00,9
8Chóng mặt khi quay đầu, ngửa cổ2,30
9Ù tai sau khi làm việc căn thẳng00,6
10Tỉnh dậy lúc nửa đêm3,20,6
11Tỉnh dậy lúc gần sáng03,1
12Hay quên những việc mới xẩy ra40
13Giảm trí nhớ liên tục30
14Đôi khi giảm trí nhớ2,80
15Dễ xúc động, dễ mủi lòng2,20
16Dễ nổi nóng, bực tức không tự chủ được2,20
17Thần kinh luôn căng thẳng, mệt mỏi2,60
18Giảm khả năng làm việc trí óc3,20
19Giảm tốc độ làm việc, chậm chạp1,80
20Khó khăn khi chuyển sang làm việc khác2,70
Thí dụ: Bệnh nhân có triệu chứng số 1, 2, 5, 6, 10, 12, 13, 14, 17, 19, không có các triệu chứng số 3, 4, 7, 8 9, 11, 15, 16, 18, 20 sẽ được tổng số điểm là 2,5 + 1,8 + 1,7 + 2 + 3,2 + 4 + 3 + 2,8 + 2,6 + 1,8 + 0,9 + 0,9 + 0,9 + 0 + 0,6 + 3,1 + 0 + 0 + 0 + 0 = 31,8 điểm và được coi như có khả năng bị thiểu năng tuần hoàn não.
Thí dụ: Bệnh nhân có các triệu chứng số 3, 4, 7, 9, 11, 19, không có các triệu chứng số 1, 2, 5, 6, 8, 10, 12, 13, 14, 15, 16, 18, 19, 20, tổng số điểm sẽ là: 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 1,8 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 = 1,8 điểm, không có khả năng bị thiểu năng tuần hoàn não.
Nếu tổng số điểm đạt được lại ở lưng chừng giữa 13,7 và 23,9 thì cần hỏi thêm các triệu chứng phụ sau đây, đánh số từ 21 đến 29:
21. Đau đầu, có cảm giác bó chặt lấy đầu.
22. Loạng choạng, mất thăng bằng.
23. Chóng mặt khi thay đổi tư thế nhanh.
24. Ù tai.
25. Đau đầu thoáng qua.
26. Chóng mặt sau khi gắng sức.
27. Đau đầu toàn bộ.
28. Giảm khả năng làm việc, công tác.
29. Không tập trung sự chú ý được lâu.
Nếu tổ hợp các chứng lại, ta có các tổ hợp tương ứng với số điểm như sau:
SttTổ Hợp Triệu ChứngCóKhông
110, (11), 172,20
2(2), (3), 10, (17)01,9
3(2), (3), (11), (17)01,9
4(13), 2902,2
522, 21, 11, 2801,9
6(23), 243,40
7(25), (26)2,90
824, 292,50
923, 2903
10(23), (27), (29)2,70
1125, (3), (13)02,1
Những chữ số là biểu hiện có mặt.
Những chữ số nằm trong ngoặc là dấu hiệu triệu chứng vắng mặt.
Tổng cộng số điểm của bệnh nhân: nếu trên 16 coi như dương tính (có khả năng bị bệnh), nếu dưới 11, coi như âm tính (không có khả năng bị bệnh).
Thí dụ: bệnh nhân có tổ hợp số 1, 6, 7, 8 và 11, không có tổ hợp số 2, 3, 4, 5, 9, 10 thì được tổng số điểm là 2,2 + 3,4 + 2,9 + 2,5 + 1,9 + 1,9 + 2,2 + 1,9 + 3 + 0 = 21,9 điểm, có khả năng bị thiểu năng tuần hoàn não.
Thí dụ: bệnh nhân có tổ hợp số 2, 3, 4, 5, 8, 11, không có tổ hợp số 1, 6, 7, 9, 10, tổng số điểm sẽ là: 0 + của bệnh nhân: nếu trên 16 coi như dương tính (có khả năng bị bệnh), nếu dưới 11, coi như âm tính (không có khả năng bị bệnh).
Thí dụ: bệnh nhân có tổ hợp số 1, 6, 7, 8 và 11, không có tổ hợp số 2, 3, 4, 5, 9, 10 thì được tổng số điểm là 2,2 + 3,4 + 2,9 + 2,5 + 1,9 + 1,9 + 2,2 + 1,9 + 3 + 0 = 21,9 điểm, có khả năng bị thiểu năng tuần hoàn não.
Thí dụ: bệnh nhân có tổ hợp số 2, 3, 4, 5, 8, 11, không có tổ hợp số 1, 6, 7, 9, 10, tổng số điểm sẽ là: 0 + của bệnh nhân: nếu trên 16 coi như dương tính (có khả năng bị bệnh), nếu dưới 11, coi như âm tính (không có khả năng bị bệnh).
Thí dụ: bệnh nhân có tổ hợp số 1, 6, 7, 8 và 11, không có tổ hợp số 2, 3, 4, 5, 9, 10 thì được tổng số điểm là 2,2 + 3,4 + 2,9 + 2,5 + 1,9 + 1,9 + 2,2 + 1,9 + 3 + 0 = 21,9 điểm, có khả năng bị thiểu năng tuần hoàn não.
Thí dụ: bệnh nhân có tổ hợp số 2, 3, 4, 5, 8, 11, không có tổ hợp số 1, 6, 7, 9, 10, tổng số điểm sẽ là: 0 + 0 + 0 + 0 + 2,5 + 0 + 0 + 0 + 0 + 3 + 0 = 5,5 điểm, không có khả năng bị thiểu năng tuần hoàn não.
Nếu sau lần này mà tổng số điểm vẫn còn ở giữa 11 và 16 thì thuộc loại nghi ngờ và phải tham khảo thêm triệu chứng số 12 và 25. Nếu có cả hai triệu chứng đó thì có khả năng bị bệnh. Nếu không, phải kiểm tra lại thêm những lần sau hoặc phải làm các thăm dò cận lâm sàng kỹ hơn.
Bình thường lưu lượng máu qua não khoảng 750ml - 1000ml trong một phút tức là 14% - 20% lưu lượng của tim.
Hoặc 50 - 52ml/100gam não/phút.
Dưới 30ml /phút => thiếu máu não cục bộ.
Từ 20-25ml: Vùng tranh tối tranh sáng.
Từ 18-20ml: TMNCB nặng.
Từ 10-15ml: Nhũn não, hoại tử mô não.
Triệu Chứng
Trên lâm sàng, TNTHN có ba giai đoạn:
. Giai Đoạn I: Có suy nhược về tuần hoàn não. Người bệnh có cảm giác mệt, giảm sút hoạt động trí óc, hay nhức đầu, chóng mặt, nhất là khi thay đổi tư thế.
Các triệu chứng này lúc có lúc không, lúc tăng lúc giảm. Giai đoạn này điều trị có hiệu quả nhất.
. Giai Đoạn II: các triệu chứng của giai đoạn I thường xuyên hơn, có rối loạn trí nhớ, rối loạn cảm xúc, khả năng tự kềm chế bản năng sinh vật giảm, thỉnh thoảng có khoảng vắng ý thức, liệt mặt thoáng qua, nói ngọng và nhìn đôi thường xuyên.
. Giai Đoạn III: các triệu chứng của giai đoạn II rõ và thường xuyên, có biểu hiện tổn thương thần kinh như nhũn não, động kinh, Parkison.
Theo Đông Y
Trên lâm sàng thường gặp một số trường hợp sau:
+ Can Dương Thượng Cang: chóng mặt, ù tai, đầu có lúc đau căng, khi tức giận thì đau tăng, ngủ ít, hay mơ, hay tức giận, miệng đắng, lưỡi đỏ, mạch Huyền.
Điều trị: Bình Can, tiềm dương, thanh hỏa, tức phong. Dùng bài Thiên Ma Câu Đằng Ẩm (Tạp Bệnh Chứng Trị Tân Nghĩa): Thiên ma 8g, Câu đằng 12g, Sơn chi 12g, Thạch quyết minh (sống) 20g, Đỗ trọng 10g, Tang ký sinh 12g, Ngưu tất 12g, Ích mẫu thảo 12g, Hoàng cầm 10g, Dạ giao đằng 10g, Phục thần 12g.
Thêm Bạch thược, Chân châu mẫu. Sắc uống.
(Thiên ma, Câu đằng, Thạch quyết minh để bình Can, tiềm dương; Hoàng cầm, Chi tử để thanh Can hỏa; Tang ký sinh để bổ Can Thận; Dạ giao đằng, Bạch linh để dưỡng Tâm, an thần; Thêm Bạch thược, Chân châu mẫu để hỗ trợ tác dụng bình Can, tiềm dương.
Nếu lưỡi đỏ, mạch Huyền là can dương thịnh: thêm Sinh địa, Nữ trinh để dưỡng can âm. Nếu ban đầu miệng đắng, mắt đỏ, lưỡi đỏ, mạch Huyền, Sác: thêm Long đởm, Hạ khô thảo, Đơn bì để thanh Can, tiết nhiệt. Bệnh nặng, buồn nôn, chân tay tê cứng run rẩy: thêm Quy bản, Mẫu lệ, Từ thạch để tiềm dương, tức phong.
Khi bệnh đã trở lại bình thường, nên thường xuyên uống bài Câu Kỷ Địa Hoàng Hoàn để bổ thận, dưỡng can, duy trì kết quả lâu dài.
+ Đờm Trọc Trung Trở: Chóng mặt và nặng đầu, bụng đầy, buồn nôn, ăn ít, ngủ li bì, lưỡi trắng, mạch Nhu, Hoạt.
Điều trị: Táo thấp, tiêu đờm, kiện Tỳ, hoà Vị. Dùng bài Bán Hạ Bạch Truật Thiên Ma Thang(Y Học Tâm Ngộ): Bán hạï8g, Bạch truật 12g, Cam thảo 4g, Phục linh 12g, Thiên ma 8g, Trần bì 8g. Sắc uống.
(Bán hạ, Trần bì, Bạch linh, Cam thảo để hóa thấp, trừ đờm; Bạch truật để kiện tỳ; Thiên ma để trừ huyễn vựng, hông sườn đầy, bụng trướng).
Ăn ít thêm Bạch đậu khấu để hóa trọc, khai Vị. Tai ù thêm Thạch xương bồ, Thông bạch để thông dương, khai khiếu. Nếu đầu nặng, mắt đau, buồn phiền, hoảng hốt, miệng đắng, nước tiểu vàng là đờm trọc hóa hỏa, nên dùng bài Hoàng Liên Ôn ĐởmThang gia giảm.
+ Thận Tinh Bất Túc: Váng đầu, mệt mỏi, hay quên, lưng đau, gối mỏi, tai ù, mất ngủ, di tinh, chân tay lạnh, lưỡí nhạt, mạch Trầm Tế.
Nếu thiên về âm hư thì lòng bàn tay, bàn chân nóng, lưỡi đỏ, mạch Tế, Sác.
Nếu thiên về dương hư thì chân tay lạnh, lưỡi bệu, mạch Trầm Tế.
Điều trị:
+ Thiên về dương hư thì bổ thận, trợ dương.
+ Thiên về âm hư thì bổ thận, tư âm.
Dùng bài Hữu Quy Hoàn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Thục địa 160g, Sơn dược 80g, Sơn thù 40g, Câu kỷ tử 80g, Đỗ trọng 80g, Đương quy 80g, Thỏ ty tử 80g, Phụ tử 20g, Nhục quế 20g, Lộc giác giao 80g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 16-20g.
Tri Bá Địa Hoàng Hoàn (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết): Đơn bì 120g, Hoàng bá80g, Phục linh 120g, Tri mẫu 80g, Thục địa 320g, Trạch tả 120g, Sơn thù 160g, Sơn dược 160g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 12-16g.
Nếu chóng mặt nhiều, đầu nặng: thêm Long cốt, Mẫu lệ, Thạch quyết minh để tiềm dương.
+ Khí Huyết Đều Hư: Chóng mặt, hoa mắt, sắc mặt nhợt, môi nhạt, móng tay móng chân nhạt, hồi hộp, mất ngủ, mệt mỏi, biếng nói, biếng ăn, lưỡi nhợt, mạch Tế Nhược.
Điều trị: Bồi dưỡng khí huyết, kiện vận Tỳ Vị. Dùng bài Quy Tỳ Thang Gia Giảm (Tế Sinh Phương): Bạch linh 8g, Hoàng kỳ, Nhân sâm, Long nhãn, Bạch truật đều 10g, Hổ phách, Thần sa, Viễn chí, Toan táo nhân, Đương quy đều 4g, Mộc huơng, Cam thảo đều 2g. Sắc uống.
(Trong bài Quy Tỳ có bài ‘Tứ Quân Tử Thang’ (Sâm Linh Truật Thảo) để bổ khí, kiện tỳ; bài ‘Đương Quy Bổ Huyết Thang’ (Đương quy + Hoàng kỳ) để bổ khí huyết; Long nhãn + Táo nhân + Viễn chí để dưỡng tâm, an thần; Mộc hương lý khí, ôn tỳ; Sinh khương, Đại táo điều hòa doanh vệ.
. Nếu thiên về hư hàn, chân tay lạnh: tiêu lỏng: thêm Nhục quế, Can khương để ôn trung, trợï dương.
. Nếu mất máu nhiều, khí theo hnyết thoát, chân taỵ lạnh, đổ mồ hôi, mạch Vi, Nhược, nhanh, phải hồi dương cứu thoát, dùng bài Sâm Phụ Long Lệ Thang gia vị.
Châm Cứu
Huyệt chính: Ế phong, Nội quan, Phong trì, Thái xung, Thính cung.
Kích thích mạnh vừa, vê kim liên tục 10-30 phút. Mỗi ngày châm 1 lần; 5-7 ngày là 1 liệu trình.
. Đờm thấp ngăn trở trung tiêu: thêm Túc tam lý, Trung quản.
. Thận suy, phong dương bốc lên: thêm Thái khê, An miên.
(Phong trì, Thái xung để thanh tức phong dương; Ế phong, Thính cung để sơ điều kinh khí ở tai; Nội quan để điều hòa vị, cầm nôn; Túc tam lý, Trung quản để kiện vận Tỳ Vị, khứ đờm trọc; Thái khê để bổ thận; An miên để an thần) (Châm Cứu Học Thượng Hải).
Điều Dưỡng
. Chế độ nghỉ ngơi, làm việc có điều độ.
. Thường xuyên tập luyện để đề phòng biến chứng thiểu năng tuần hoàn não
THOÁT NANG
Bìu dái đột nhiên nổi ban, mọng nước, loét vỡ rồi đóng vẩy, da dầy lên, kèm ngứa gãi, đau rát. Nặng hơn có thể tróc da từng mảng, gọi là Thoát Nang.
Điều trị đúng mức, kịp thời khoảng 4~6 tuần có thể khỏi, để lâu, bệnh gây biến chứng vào đường tiểu, độc tà xâm nhập vào tam tiêu, khí huyết bị hao tổn, có thể nguy hiểm đến sinh mạng.
Đông y từ sớm đã có đề cập đến bệnh này. Đời nhà Minh, Trần Thực Công, trong sách ‘Ngoại Khoa Chính Tông – Nang Ung Khán Trị’ viết: “… Vỡ ra, lở loét, da bìu dái tróc ra, dịch hoàn có thể bị lồi ra…”. Cho thấy từ đời nhà Minh đã có tên bệnh Thoát Nang.
Cao Thừa Quân, trong ‘Dương Khoa Tâm Đắc Tập – Biện Nang Ung Luận’ viết: “Có bệnh Thoát nang, lúc mới bị thì nóng lạnh, da bìu dái sưng cứng, ướt, ngày hôm sau thì đen, cách ngày sau thì lở nát… do thấp nhiệt hạ chú gây nên”.
Còn gọi là Tú Cầu Phong.
Tương đương chứng Cấp Tính Âm Nang Hoại Thư hoặc Âm Nang Đơn Độc Tính Hoại Thư của YHHĐ.
Nguyên Nhân
+ Do Thấp Nhiệt Hoả Độc: Thận chủ tiền âm, Túc Quyết âm Can kinh vận hành qua bộ phận sinh dục. Thường ăn những thức ăn cay, nóng, béo, ngọt sẽ sinh ra thấp nhiệt, kết lại ở kinh Can. Hoặc do sinh hoạt tình dục quá độ, Thận âm bị hao tổn, thấp nhiệt ở Can kinh sẽ thừa cơ dồn xuống kết tụ ở bìu dái, lâu ngày hoá thành độc, độc hoả phát ra gây nên bệnh.
+ Do Cảm Phải Tà Độc: Người Thận âm vốn bất túc, nếu không chú ý vệu sinh sạch sẽ vùng bộ phận sinh dục, da bìu dái bị ẩm thấp, tà độc thừa cơ xâm nhập, kết tụ lại ở bìu dái, tà độc uất kết, làm khí huyết ngừng trệ, lâu ngày sẽ sinh ra thấp độc, thấp nhiệt hoả độc thịnh, nhiệt sẽ nung nấu da thịt, gây nên bệnh.
Triệu Chứng
+ Thấp Nhiệt Hạ Chú: Bìu dái đột nhiên đau sưng cứng, nóng, có nốt ban hoặc có mụn nước, toàn thân thấy có sốt không cao, ngực bứt rứt, muốn nằm, tiểu ít, nước tiểu đỏ, khát, không muốn uống, lưuơĩ đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng bệu, mạch hoạt Sác hoặc Huyền Sác.
Điều trị: Thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, tiêu thủng. Dùng bài Long Đởm Tả Can Thang: Long đởm thảo, Hoàng cầm đều 15~20g, Chi tử 10~15g, Trạch tả, Xa tiền tử, Sài hồ, Sinh địa đều 10g, Mộc thông, Đương quy, Cam thảo đều 6g. Sắc uống.
(Long đởm thảo tả thấp nhiệt ở kinh Can; hợp với Chi tử, Hoàng cầm để tả hoả oả Can; Hợp với Đương quy, Sinh địa để dưỡng huyết, sơ Can; Trạch tả, Mộc thông, Xa tiền tử lợi thuỷ, thấm thấp, tiêu thủng; Sài hồ sơ Can khí; Cam thảo điều hoà các vị thuốc).
Nhiệt nhiều thêm Hoàng liên, Liên kiều để hỗ trợ tác dụng thanh nhiệt, tả hoả. Can hoả thịnh, thêm Lô hội, Đại thanh diệp. Hoả độc nhiều thêm Khổ sâm, Bản lam căn, Tử hoa địa đinh. Thấp nhiều thêm Bán chi liên, Mã xỉ hiện.
Thuốc Trị Ngoài
. Mã xỉ hiện, Long đởm thảo, Hoàng bá, Khổ sâm đều 30g, nấu lấy nước, hoặc giã nát, ngâm với nước nóng, đắp, ngày 2~3 lần.
. Dùng Như Ý Kim Hoàng Tán hoặc Ngọc Lộ Cao bôi, ngày thay 1 lần.
+ Khí Huyết Đều Thiêu Đốt: Do thấp nhiệt rót xuống nung nấu gây nên. Bìu dái mầu tím đen, lở loét, thối rữa, chảy nước lẫn máu, da vùng bìu dái rụng, mùi hôi khác thường. Kèm thấy lạnh hoặc nóng lạnh, tâm phiền, khát,muốn nôn, nôn mửa, tiểu ít, nước đỏ, táo bón,, có thể hôn mê, nói sảng, lưỡi đỏ sẫm hoặc đỏ tươi, rêu lưỡi vàng mà khô, hoặc lưỡi vàng, có vết nứt, hoặc ít rêu, mạch Hồng Sác hoặc Tế Sác.
Điều trị: Lương huyết, giải độc. Dưỡng âm, thác nùng.
. Dùng bài Giải Độc Lương Huyết Thang (Thuỷ ngưu giác 50g, Sinh địa, Kim ngân hoa, Thiên hoa phấn đều 15g, Bạch mao căn 60g, Tử hoa địa đinh, Tảo hưu, Hoàng liên đều 30g, Thạch cao (sống) 90g, Liên tử tâm, Chi tử nhân (sống), Cam thảo (sống) đều 10g. Sắc uống.
(Thạch cao thanh nhiệt ở phần khí, Chi tử, Hoàng liên, Kim ngân hoa, Địa đinh, Tảo hưu thanh nhiệt, giải độc, giúp cho Thạch cao tăng tác dụng giải độc; Thuỷ ngưu giác thanh Tâm, lương huyết, giải độc, trấn kinh; Sinh địa, Thiên hoa phấn, Bạch mao căn, Liên tử tâm lương huyết, dưỡng âm, thanh tâm).
. Hoặc Giải Độc Thanh Doanh Thang: Kim ngân hoa, Ngân kiều, Bồ công anh, Địa hoàng đều 30g, Bạch mao căn 60g, Đơn bì, Xích thược, Hoàng liên đều 15g, Lục đậu y, Tây thảo căn đều 10g, Chi tử (sống) 12g, Đại mạo phấn (sống) 1g (hoà vào uống). Sắc uống.
(Kim ngân hoa, Liên kiều, Bồ công anh, Hoàng liên, Chi tử thanh nhiệt, giải độc; Sinh địa, Mao căn, Đơn bì, Xích thược, Tây thảo căn dưỡng âm, lương huyết; Đại mạo lương huyết, thanh Tâm, giải độc; Lục đậu y thoái nhiệt ở phần khí, thanh nhiệt mà không làm tổn thương chính khí).
Thuốc Dùng Ngoài
. Dùng Thất Tam Đơn hoặc Ngân Khôi Tán (Cao) bôi ngoài hoặc dùng Ngọc Lộ Cao đắp.
. Dùng Hoàng bá, Hoàng liên (lá), Nữ trinh tử (lá), nấu lấy nước rửa.
+ Khí Âm Đều Hư: Nhiệt độc nung nấu lâu ngày thì âm dịch bị hao tổn, vì vậy thường thấy phần khí và phần âm đều hư, dư nhiệt vẫn còn. Da thịt vùng bệnh thối nát, rỉ nước hồng, trắng, da vùng bệnh hồng nhạt, rỉ nước, cơ thể uể oải, không có sức, da mặt không tươi, đầu váng, hoa mắt, không muốn ăn uống, hơi sốt, khát, môi khô, táo bón, lưỡi đỏ sẫm, ít dịch, lưỡi không rêu hoặc có ít, mạch hư Sác, không lực.
Điều trị: Ích khí, dưỡng âm kèm thanh dư nhiệt. Dùng bài:
. Thác Lý Tiêu Độc Tán (Nhân sâm, Xuyên khung, Đương quy, Bạch truật, Phục linh, Kim ngân hoa đều 10g, Bạch thược, Hoàng kỳ (sống) đều 15g, Bạch chỉ, Tạo giác thích, Cát cánh, Cam thảo đều 6g. Sắc uống.
(Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Phục linh ích khí, kiện Tỳ; Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung, hoà huyết, ích Âm; Cam thảo điều hoà các vị thuốc).
Cơ thể sốt, miệng khô thay Nhân sâm bằng Tây dương sâm.
. Nhân Sâm Dưỡng Vinh Thang: Nhân sâm, Phục linh, Bạch thược, Viễn chí, Trần bì đều 10g, Đương quy (thân), Thục địa đều 15g, Hoàng kỳ (sống) 30g, Ngũ vị tử, Nhục quế đều 6g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 5 trái, sắc uống.
THỐNG KINH
(Hành Kinh Bụng Đau - Dysménorrhée - Dysmenorrhea)
A. Đạicương
Thống Kinh là trạng thái trước, sau hoặc đang khi hành kinh thấy bụng dưới đau, lưng đau.
B. Nguyênnhân
Theo YHHĐ, có thể phân làm 2 loại: Nguyên Phát và Thứ Phát.
1-Nguyên Phát
a. Thực thể thường do:
+ Tật bẩm sinh ở Tử cung: Tử cung 2 buồng, cổ và eo Tử cung hơi dài quá gấp nhiều về phía trước hoặc phía sau.
+ Do nhiễm khuẩn, Chủ yếu do lao.
+ Dây chằng rộng, các dây chằng Tử cung bị xơ hóa.
+ Các khối u ở chậu hông chèn ép vào dây chằng.
b. Cơ năng: rối loại thần kinh vùng hố chậu.
+ Không phát triển sinh dục phụ.
+ Các yếu tố về tinh thần, tâm lý.
2 - Thứ Phát:
Thường gặp nhiều nhất là viêm đường sinh dục, viêm Tử cung, buồng trứng, túi cùng Douglas, dây chằng tròn viêm.
+ Do chướng ngại đường xuất huyết (thường gặp).
+ Đốt điện cổ Tử cung gây ra chít, hẹp.
+ Nạo nhau, nạo thai, bị nhiễm khuẩn gây hẹp cổ Tử cung.
+ Tử cung gấp lại phía sau.
+ Khối u
+ U xơ Tử cung.
+ Bướu niêm mạc Tử cung.
Theo YHCT, có thể phân làm 2 loại Hư và Thực chứng.
• Thực chứng: thường do cảm hàn khí hoặc ăn uống các chất sống lạnh quá khi hành kinh làm cho huyết ngưng trệ và ứ đọng, không thông, gây nên đau. Hoặc do thất tình uất kết, khí trệ không thông gây nên đau.
Hư chứng: thường do cơ thể suy nhược, khí huyết kém làm cho khí huyết suy dần, Tử cung không được nuôi dưỡng gây ra bệnh.
Đau trước hành kinh: do khí trệ, huyết ứ,
Đau sau hành kinh: do hư hàn.
C - Chứng trạng lâm sàng
Trên lâm sàng thường gặp 2 loại sau:
1 - Chứng thực: trước hoặc đang lúc hành kinh thì bụng dưới đau, không thích xoa bóp (ấn vào), thường kèm trướng đau vùng ngực, sườn và 2 vú, sắc kinh tím bầm, máu cục, máu bầm, sau khi máu cục ra được thì đỡ, mạch Trầm Sáp là huyết ứ.
Bụng đau ít, nhưng căng nhiều, ngực sườn căng tức, muốn nôn, mạch Huyền là Khí trệ.
2 - Hư chứng: bụng đau kéo dài sau khi hành kinh, bụng dưới mềm, thích xoa bóp, sắc mặt tái xanh, tinh thần mệt nhọc, biếng ăn, sợ lạnh, lượng kinh ít, mầu đỏ nhạt, loãng, người mệt, lưng đau, hồi hộp, chóng mặt, chất lưỡi nhạt, mạch Hư Tế hoặc Tế Nhược.
D.Điềutrị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Sơ thông khí ở bào cung.
Huyệt chính: Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) .
Huyệt phụ: Âm Giao (Nh.7) + Quy Lai (Vi.29) + Thận Du (Bq.23) + Túc Tam Lý (Vi.36).
Châm 1 tuần trước khi hành kinh, cách 1 ngày châm 1 lần.
Nếu đau nhiều, châm Tam Âm Giao (Ty.6), kích thích mạnh, vê kim liên tục cho đến khi hết đau.
Khí trệ huyết ứ thêm Khí Hải (Nh.6) +Quy Lai (Vi.29).
Hư hàn thêm Thận Du (Bq.23) + Túc Tam Lý (Vi.36).
2- Cứu huyệt Nội Đình (Vi.44) (Thần Cứu Kinh Luân).
3- Khí trệ: Địa Cơ (Ty.8) + Hành Gian (C.2) + Khí Hải (Nh.6) + Trung Cực (Nh.3) + Trung Quản (Nh.12) [đều tả ].
Huyết ứ: Địa Cơ (Ty.8) [tả] + Hợp Cốc (Đtr.4) (bổ) + Huyết Hải (Ty.10) + Quy Lai (Vi.29) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thiên Xu (Vi.25) [đều tả ].
• Huyết hư: Can Du (Bq.18) + Huyết Hải (Ty.10) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thận Du (Bq.23) + Tỳ Du (Bq.20)[đều bổ + châm xong đều cứu].
• Huyết Hàn: Khí Hải + Quan Nguyên (Nh.4) + Quy Lai (Vi.29) + Thận Du (Bq.23) [cứu] + Thiên Xu (Vi.25) + Tỳ Du (Bq.20) (Châm Cứu Trị Liệu Học).
4- Nhóm1 - Bàng Quang Du (Bq.28) + Hạ Liêu (Bq.34) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thận Du (Bq.23) + Trung Cực (Nh.3).
Nhóm 2 - Địa Cơ (Ty.8) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thận Du (Bq.23) + Trung Cực (Nh.3) (Châm Cứu Học Giản Biên).
5- Đại Cự (Vi.27) + Huyết Hải (Ty.10) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thuỷ Đạo (Vi.28) + Trung Cực (Nh.3) (Trung Quốc Châm Cứu Học).
6- Thực chứng: Trung Cực (Nh.3) + Thứ Liêu (Bq.32) + Địa Cơ (Ty.8) .
• Hư chứng: Đại Hách (Th.12) + Mệnh Môn (Đc.4) + Quan Nguyên (Nh.4) + Thận Du (Bq.23) + Túc Tam Lý (Vi.36) (Châm Cứu Học Giảng Nghĩa).
7- Đại Trường Du (25) + Đồng Tử Liêu (Đ.1) + Huyền Ly (Đ.6) + Khí Hải Du (Bq.24) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thân Trụ (Đc.12) + Thận Du (Bq.23) + Thứ Liêu (Bq.32) + Thượng Liêu (Bq.31) + Túc Tam Lý (Vi.36), kích thích mạnh (Tân Châm Cứu Học).
8- Đau trước kỳ: Địa Cơ (Ty.8) + Huyết Hải (Ty.10) + Khí Hải (Nh.6) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3) + Túc Tam Lý (Vi.36).
Đau sau kỳ: Công Tôn (Ty.4) + Khí Hải (Nh.6) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thái Xung (C.3) + Túc Tam Lý (Vi.36) (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu Học).
9- Công Tôn (Ty.4) + Địa Cơ (Ty.8) + Hoang Du (Th.16) + Ngoại Lăng + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3) (Châm Cứu Học HongKong).
10- Địa Cơ (Ty.8) + Thứ Liêu (Bq.32) + Trung Cực (Nh.3) (Tứ Bản Giáo Tài Châm Cứu Học).
11-•• Do Huyết Hàn: châm Bá Hội (Đc.20) + Cao Hoang (Bq.43) + Đại Chùy (Đc.14) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Khí Hải (Nh.6) + Phế Du (Bq.13) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thận Du (Bq.23) + Tỳ Du (Bq.20) . Tất cả châm bổ, châm xong cứu 3-5 tráng, lưu kim 20 phút.
• Do Huyết Hư: Can Du (Bq.18) + bổ Chương Môn (C.13) + Huyết Hải (Ty.10) cứu 3 tráng + Khí Hải (Nh.6) cứu 5 tráng + tả Kỳ Môn (C.14) + Thiên Xu (Vi.25) cứu 5 tráng + bổ Trung Quản (Nh.12) cứu 5 tráng + Túc Tam Lý (Vi.36) cứu 5 tráng + Tỳø Du (Bq.20) cứu 5 tráng, lưu kim 20 phút.
• Do Khí Trệ: Huyết Hải (Ty.10) [tả] + Khí Hải (Nh.6) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3) + Trung Quản (Nh.12), đều trước tả sau bổ. Sau khi châm Huyết Hải đắc khí, nên lay thân kim. Các huyệt còn lại đều cứu 3 tráng, lưu kim 5 phút.
Do Huyết Ứ: Địa Cơ (Ty.8) [tả ] + Khí Hải (Nh.6) [ trước bổ sau tả ] + bổ Quan Nguyên (Nh.4) + Trung Quản (Nh.12), lưu kim 5 - 10 phút (Thái Ất Thần Châm Cứu).
12- Thực: hành khí, hoạt huyết, tán ứ.
Hư: Ôn bổ hạ nguyên, điều hòa mạch Xung Nhâm.
Huyệt chính: Tam Âm Giao (Ty.6) + Thứ Liêu (Bq.32) + Trung Cực (Nh.3).
Thực: thêm Địa Cơ (Ty.8) [khí trệ] + Huyết Hải (Ty.10) [ứ huyết] + Khí Hải (Nh.6),
Hư: thêm Quan Nguyên (Nh.4) + Túc Tam Lý (Vi.36).
Trước khi hành kinh 5 ngày, bắt đầu châm trị.
Ý nghĩa: Trung Cực để hòa huyết, ôn bào cung, lợi bàng quang và lý khí ở hạ tiêu, là huyệt đặc hiệu đễ chữa hành kinh bụng đau; Thứ Liêu là huyệt đặc hiệu để chữa hành kinh bụng đau; Tam Âm Giao để điều hòa kinh nguyệt, là huyệt dùng cho phụ khoa để bổ Tỳ thổ, giúp cho vận hóa lý khí ở hạ tiêu, thư kinh hoạt lạc; Huyết Hải, Khí Hải, Địa Cơ đều châm tả để vận hành khí huyết; Cứu Quan Nguyên, Túc Tam Lý để ôn bổ hạ nguyên và ích khí (Châm Cứu Học Việt Nam).
13- Khí trệ Huyết ứ: Huyết Hải (Ty.10) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3).
Hàn thấp ứ trệ: Đái Mạch (Đ.26) + Mệnh Môn (Đc.4) + Quan Nguyên (Nh.4) .
• Khí huyết hư: Khí Hải (Nh.6) + Quan Nguyên (Nh.4) + Túc Tam Lý (Vi.36).
• Can Thận lưỡng hư:, Quan Nguyên (Nh.4) + Thái Xung (C.3) + Thận Du (Bq.23) (‘Trung Quốc Châm Cứu Tạp Chí’ số 6/1985
14- Chỉ châm 1 huyệt Thừa Sơn (Bq.57), từ từ châm sâu vào 2 huyệt Thừa Sơn, sâu 6 thốn, kích thích mạnh, đạt hiệu qua? ngay (thường dùng trong khí trệ huyết ứ, hàn ngưng trệ) (‘Hà Bắc Trung Y Tạp Chí’ số 42/ 1985).
15- Thực: Lý khí, hoạt huyết, tán ứ, giảm đau, châm tả, , Hành Gian (C.2) + Huyết Hải (Ty.10) + Quy Lai (Vi.29) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3).
Hư: Ôn Dương, tích khí, bổ hư . Châm bổ + cứu Huyết Hải (Ty.10) + Khí Hải (Nh.6) + Mệnh Môn (Đc.4) + Phục Lưu (Th.7) + Quan Nguyên (Nh.4) + Thận Du (Bq.23) (Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn).
THÚC (GIỤC) ĐẺ
A. Đạicương
Là phương pháp áp dụng châm để thúc đẩy cho phụ nữ dễ đẻ ở giai đoạn thứ nhất lúc đẻ, tức là từ lúc bắt đầu cho đến lúc cổ Tử cung mở ra hoàn toàn. Phương pháp này rất thích hợp ngoại trừ các trường hợp do ngoại khoa
B.Nguyênnhân
Đối với phụ nữ mới đẻ lần đầu: do tinh thần căng thẳng, rối loạn cơn co (Tử cung) hoặc vỡ ối quá sớm.
Hoặc do khí huyết suy kém, không đủ sức để rặn đẻ .
C- Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Hoạt huyết, lợi khí, kiện vận bào cung.
Huyệt chính: Hợp Cốc (Đtr.4) (Bq.31) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thứ Liêu (Bq.32) + Thượng Liêu. Kích thích vừa, vê kim liên tục 15 - 30 phút.
2- Chí Âm (Bq.67) cứu 3 tráng + Hợp Cốc (Đtr.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) [ đều cứu] (Loại Kinh Đồ Dực).
3- Hợp Cốc (Đtr.4) + Khí Xung (Vi.30) + Kiên Tỉnh (Đ.21) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Phong (C.4) + Xung Môn (Ty.12) (Phổ Tế Phương).
4- Chí Âm (Bq.67) + Độc Âm + Hợp Cốc (Đtr.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) (Châm Cứu Học Giảng Nghĩa).
5- Trước khi đẻ châm Quan Nguyên (Nh.4) + Thứ Liêu (Bq.32) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Tam Âm Giao (Ty.6) + trong lúc đẻ châm Kiên Tỉnh (Đ.21) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thái Xung (C.3) + Côn Lôn (Bq.60) + Chí Âm (Bq.67) (Châm Cứu Học Thủ Sách).
6- Chí Âm (Bq.67) + Côn Lôn (Bq.60) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thái Xung (C.3) kích thích mạnh (Tân Châm Cứu Học).
7- Hợp Cốc (Đtr.4) + Túc Tam Lý (Vi.36).
Hoặc Hợp Cốc (Đtr.4) + Tam Âm Giao (Ty.6).
Có thể chọn 1 trong 2 nhóm trên, mỗi huyệt châm xong, kích thích mạnh 1 phút (thích hợp với trường hợp đã có dấu hiệu đẻ rồi nhưng cổ Tử cung mở tương đối chậm, không đủ sức để rặn) (Thường Dụng Trung Y Liệu Pháp Thủ Sách).
8- Hoạt huyết, lợi khí, điều hòa co bóp của Tử cung: châm Chí Âm (Bq.67) + Độc Âm + Hợp Cốc (Đtr.4) + Tam Âm Giao (Ty.6).
Ý Nghĩa: Hợp Cốc, Tam Âm Giao để hoạt huyết, lợi khí, tăng cường co bóp của Tử cung; Chí Âm + Độc Âm là 2 huyệt chính có tác dụng để thúc đẻ (Châm Cứu Học Việt Nam).
THAI CHẾT TRONG BỤNG
Thai nhi chưa sinh mà đã chết trong bụng mẹ không ra được gọi là Thai Tử Phúc Trung, Thai Tử Bất Hạ.
Tương đương trong phạm vi Thai Chết Trong Bụng, Thai Chết Lưu trong y học hiện đại.
Nguyên Nhân
Nguyên nhân gây nên thai chết lưu thường không ngoài hai nguyên nhân chính là Hư và Thực. Hư thường do Khí Huyết suy yếu khiến cho thai cũng bị thiếu khí và huyết nuôi dưỡng mà chết. Thực chứng do Khí Huyết bị ứ trệ
Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ viết: “ Chứng Thai chết lưu hoặc vì kinh động ngã xuống hoặc vì cảm phải ôn dịch, thương hàn, tà độc vào bào thai làm cho thai chết”.
Như vậy, theo người xưa, nguyên nhân thai chết trong bụng do ngoại thương như: Chấn thương vì té ngã và do nội nhân nóng quá nung đốt mà sinh ra.
Ngoài ra, còn do khó sinh, nước ối vỡ, khô làm cho thai bị chết.
Nếu thai chết trong bụng thì nên xổ thai chết đó ra ngay, nếu không thì có thể ảnh hưởng đến tính mạng của người mẹ.
Tuy nhiên, trước khi trục thai ra, phải chẩn đoán thật chính xác xem thai nhi dã chết hay còn sống, để khỏi bị lầm lẫn.
Chẩn Đoán
Sách ‘Tuyên Minh Luận’ hướng dẫn: Con chết trong bụng thì mạch của người mẹ Huyền Sắc và sắc mặt đỏ, xanh hoặc đổi ra ngũ sắc, bụng đầy, đau gắt, thở khò khè, buồn bực, thai không động.
Sách Diệp Thiên Sĩ Nữ Khoa cho rằng: Lưỡi đỏ thì thai sống, lưỡi xanh thì thai chết.
Muốn biết thai còn sống hay chết thì có thể dựa vào việc chẩn đoán lưỡi. Nhưng lưỡi có mầu đen xanh, miệng hôi thối mà nôn oẹ ra dãi bọt, trong bụng lạnh, nặng trằn xuống như đá mới nên nghĩ đến việc trục thai ra.
Sách ‘Sản Dục Luận’ bàn về thai chết: “Hễ trong âm hộ chảy ra thứ nước vàng như đậu huyết là thai chết. Hễ đàn bà nôn mửa ra không ngừng, khí xông lên tim là thai chết. Hễ bị chứng dịch mà đứa con chết trong bụng thì âm hộ ra huyết”.
Các y văn xưa cho thấy cổ nhân chẩn đoán thai sống hay chết, dựa vào mầu sắc lưỡi của đàn bà có thai. Xanh là chết, đỏ là sống, lại kết hợp chứng trạng khác như nôn mửa, lạnh trong bụng, ra huyết như nước đậu huyết, để chẩn đoán đứa con trong thai sống hay chết. Cổ nhân trong lúc có thai đã dự đoán sựï sống chết mẹ con, theo những nhận thức sau đây: Mặt đỏ mẹ sống, mặt xanh mẹ chết, lưỡi đỏ thai sống, lưỡi xanh thai chết, hoặc lưỡi đen hoặc mặt lưỡi đều xanh đen, hai kẽ miệng chảy ra nước dãi thì mẹ con đều chết, miệng lưỡi đều đỏ, là mẹ con cùng sống. Đây là sự kết luận của cổ nhân có được xác đáng hay không cần phải lúc lâm sàng nên quan sát và nghiên cứu kỹ càng thêm.
Có thể tóm tắt như sau: nếu coi lưỡi là Con và Môi là Mẹ thì:
MôiLưỡiDự Đoán
ĐỏXanhMẹ sống con chết
XanhĐỏMẹ chết con sống
XanhXanhMẹ con đều chết
Nguyên Tắc Điều Trị
Phép điều trị thai chết trong bụng, phải tuỳ theo thể chất người có thai mới có thể dùng phương thuốc trục thai, nên phân hàn nhiệt, hư nhiệt, thấp nhiệt, hàn thấp, khí hư, hay huyết hư, khí huyết đều hư, tân dịch khô, huyết trệ… để phân biệt chữa trị mới khỏi lầm.
Triệu Chứng Lâm Sàng
+ Chứng Hàn Nhiệt: Đàn bà thai chết trong bụng, sắc mặt xanh bạc, cơ thể khoẻ mạnh, tay chân và cơ thể lạnh, tức ngực, thở khò khè, đau lạnh, đau cấp bách, lưỡi xanh, đường mạch dưới lưỡi xanh đen, mạch Trầm Huyền có lực.
Điều trị: Dùng bài Hương Quế Tán (Thai Sản Kim Châm): Xạ hương 2g (nghiền riêng), Quan quế 12g (tán bột). Trộn chung, uống với nước Đồng tiện hoặc uống với nước cốt Hành. Không dùng đối với phụ nữ hư yếu.
+ Chứng Thực Nhiệt: Đàn bà thai chết trong bụng, sắc mặt đỏ, cơ thể khoẻ mạnh, mình nóng, miệng khát, bồn chồn, tức ngực, thở gấp, âm đạo chảy ra nước như nước đậu huyết, táo bón, nước tiểu đỏ, lưỡi đỏ sẫm, hơi xanh, rêu lưỡi khô nhờn, đục vàng, mạch Huyền Sác.
Dùng bài Tarn Thất Thừa Khí Thang (Tuyên Minh Luận): Đại hoàng, Mang tiêu, Hậu phác (chế Gừng), Chỉ xác (sống) đều 20g, Cam thảo (chích) 40g.
+ Chứng Thấp Nhiệt: Có thai mà thai chết trong bụng, âm đạo chảy ra thứ nước nhớt vàng, sắc mặt bẩn tối, hoặc phát sốt rét, đầu sưng nặng, miệng có nhựa hơi đắng, miệng hôi thối, tức ngực, nôn mửa, bụng đầy trướng đau, mỏi lưng, chân sưng, nước tiểu vàng, lưỡi tím, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Phù Huyền Sác.
Dùng bài Bình Vị Tán gia vị (Nữ Khoa Chuẩn Thằng): Thương truật, Hậu phác (sao Gừng), Trần bì đều 12g, Cam thảo 4g. Sắc, thêm Phác tiêu 8g, uống.
+ Chứng Hàn Thấp: Có thai mà thai chết trong bụng, mặt xanh nhạt, mặt và tay chân phù thũng, đầu nặng và sưng, cơ thể sợ lạnh, miệng nhạt, nhớt, tức ngực, bụng căng đau, mỏi lưng, đau xương, tiêu lỏng, tiểu không thông, chất lưỡi xanh, rêu trắng nhớt, mạch Trầm Sắc và Huyền.
Dùng bài Giải Trảo Tán (Phụ Khoa Ngọc Xích): Giải trảo (móng cua) 2 chén, Quế tâm, Cù mạch đều 40g, Ngưu tất 80g. Tán bột, mỗi lần uống 8g với rượu nóng, lúc đói.
+ Chứng Khí Hư: Thai chết trong bụng, thở khò khè, thở gấp, bụng đầy, lạnh đau, lưỡi xanh, mạch Đại mà không lực.
Dùng bài Phò Luy Tiểu Phẩm Phương (Sản Phụ Tâm Pháp): Nhân sâm, Cam thảo, Xuyên khung, Nhục quế, Can khương, Đào nhân, Hoàng cầm, Giải trảo. Lượng bằng nhau. Mỗi lần uống 40g, sắc nước uống lúc đói. Nếu chưa thấy ra thì uống tiếp một liều nữa.
+ Chứng Huyết Hư: Thai chết trong bụng, mặt vàng, gầy ốm, hồi hộp, ngủ ít, động thì nôn oẹ, ngực bụng lạnh đau, lưỡi xanh nhạt, mạch Huyền Tế Sắc.
Dùng bài Phật Thủ Tán và Ô Kim Tán (Nữ Khoa Chuẩn Thằng): Thục địa, (sao rượu), Bồ hoàng, Đương quy, Giao chỉ quế, Thược dược, Quân khương (bỏ vỏ), Phấn thảo đều 40g. Đậu đen 40g, Bá thảo sương 20g. Tán bột, mỗi lần dùng 4g..
+ Chứng Khí Huyết Đều Hư: Tổng hợp hai chứng Khí hư và Huyết hư.
Dùng bài Liệu Nhi Tán (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): Nhân sâm 40g, Đương quy (rửa rượu) 80g, Ngưu tất 20g, Quỷ cửu (nghiền nước, phi) 12g, Nhũ hương (bỏ dầu) 8g. Sắc uống.
+ Chứng Tân Dịch Khô: Thai chết trong bụng, lưng bụng đau cấp, miệng khát nước muốn uống, lưỡi khô, màu xanh, mạch Huyền Tế Sắc.
Dùng bài Chi Mật Tửu (Phụ Nhân Lương Phương): Mỡ heo, Mật đều 12g, rượu tốt 6 chén. Sắc chung còn 6 chén. Chia làm hai lần uống. Nếu không có mỡ heo, dùng dầu Mè thay thế cũng được.
+ Chứng Huyết Trệ: Thai chết trong bụng, lưng nặng đau dữ, huyết ra mầu tím xanh, mặt tím, lưỡi xanh, mạch Huyền Sắc.
Dùng bài Đoạt Mạng Hoàn (Chứng Trị Chuẩn Thằng): Đào nhân, Thược dược, Phục linh, Đơn bì, Quế chi đều 4g.
+ Chứng Huyết Ứ: Có thai, thai động ngừng, âm đạo chảy ra huyết dịch màu đen tím, ợ hơi thối hoặc trong bụng thai chết, thắt lưng bụng đau gắt, hông sườn đầy tức, thở dồn dập, bụng dưới lạnh đau, sắc mặt xanh đen, nhất là ở môi và miệng, chất lưỡi đen tím, mạch Trầm Sác.
Dùng bài Thoát Hoa Tiễn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): Đương quy, Xuyên khung, Nhục quế, Ngưu tất, Xạ hương, Xa tiền tử, Hồng hoa. Sắc 2 chén nước còn 8 phân, uống nóng hoặc uống với rượu.
Sách ‘Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học’ nêu lên hai nguyên nhân chính là:
+ Khí Huyết Hư Yếu: Trước khi sinh hoặc đang khi sinh mà thai chết, lâu mà không sinh được, bụng dưới đau cấp hoặc lạnh, tay chân mỏi mệt, đầu váng, hoa mắt, hoảng sợ, hơi thở ngắn, âm đạo ra nhiều máu mầu nhạt, sắc mặt xanh úa, lưỡi tối nhạt, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Hư, Đại.
Điều trị: Ích khí, dưỡng huyết, hoạt huyết, hạ thai. Dùng bài Cứu Mẫu Đơn (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): Nhân sâm, Đương quy, Xuyên khung, Ích mẫu thảo, Xích thạch chi, Kinh giới huệ (sao đen).
(Nhân sâm đại bổ nguyên khí để trợ vận thai; Đương quy, Xuyên khung, Ích mẫu thảo dưỡng huyết, hoạt huyết để nhu nhuận sản đạo giúp cho thai dễ ra; Kinh giới huệ, Xích thạch chi dẫn huyết quy kinh để cầm máu, khiến cho thai thoát ra mà không mất nhiều máu).
Khí huyết hư, thêm Hoàng kỳ, Đan sâm để bổ ích khí huyết. Bụng dưới lạnh đau thêm Ngô thù du, Ô dược, Ngải diệp để ôn noãn hạ nguyên, giúp hành khí, đẩy thai ra.
+ Ứ Huyết Ngừng trệ: Trước khi sinh hoặc khi đang sinh mà thai chết, sinh lâu mà thai không ra, bụng dưới trướng đau quặn, cảm thấy lạnh, tinh thần uể oải, phiền táo không yên, uống vào thì muốn nôn, miệng khô, không muốn uống, sắc mặt tím tối, lưỡi xanh đen, rêu lưỡi trắng bệu, mạch Huyền Sáp có lực.
Điều trị: Hành khí, hoạt huyết, khứ ứ, hạ thai.
. Dùng bài Thoát Hoa Tiễn thêm Chỉ xác, Hậu phác (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học).
. Dùng bài Thoát Hoa Tiễn thêm Mang tiêu (Thượng Hải Trung Y Phụ Khoa Học).
Sách ‘Thượng Hải Trung Y Phục Khoa Học’ thêm:
+ Thấp Ứ Khí Cơ: Thai chết không ra, bụng dưới lạnh, đau, trong âm đạo chảy ra nước mầu vàng đục, dính, ngực bụng đầy trướng, miệng có mùi hôi, mệt mỏi, thích ngủ, rêu lưỡi trắng bệu, mạch Nhu Hoãn.
Điều trị: Kiện Tỳ, trừ thấp, hành khí, hạ thai. Dùng bài Bình Vị Tán (Hoà Tễ Cục Phương): Thương truật, Hậu phác, Trần bì, Cam thảo, thêm Mang tiêu, Chỉ thực.
(Thương truật kiện Tỳ, táo thấp; Hậu phác, Chỉ thực hành khí, tiêu trướng mãn; Trần bì lý khí, hoá thấp; Cam thảo hoà trung. Thêm Mang tiêu để nhuyễn kiên, hoạt lợi, hạ thai).
Y ÁN THAI CHẾT TRONG BỤNG MẸ
(Trích trong ‘Phụ Nhân Lương Phương)
Con gái một cô đỡ, thường gánh nặng, có thai trong bụng lạnh ngắt, đau trằn xuống, trong miệng rất thối, tôi đoán biết thai chết, bảo há miệng cho xem lưỡi, đúng là xanh đen, cho uống 20g Phác tiêu, lập tức chảy ra nước thối rồi khoẻ”.
THAI ĐỘNG KHÔNG YÊN
Đại Cương
Có thai mà thai động như trụy xuống hoặc kèm cả đau đầu, hoặc âm đạo ra ít máu, gọi là "Thai động không yên ".
Chứng này tương đương trong phạm vi 'Động thai" của y học hiện đại.
Nguyên Nhân
Sách ‘Nữ Khoa Kinh Luân‘ viết: “Có thai mà thai dộng không yên do mạch Xung và Nhâm đều hư, thai không vững. Cũng có khi vì uống rượu, phòng dục quá độ, khiến cho thai động không yên; Có khi do chấn thương té ngã làm cho thai bị động; Có khi tức giận làm thương tổn Can khí, hoặc uất kết không thư thái, xúc động tới huyết mạch, gân nên không yên. Hoặc quá uống các thứ thuốc ôn ấm và thuốc kiêng kỵ nên động thai. Cũng có khi vì mẹ có bệnh động thai”.
Nguyên nhân chứng động thai rất phức tạp: Mạch Xung, Nhâm hư suy, uất giận làm tổn thương Can, ăn uống không điều độ, lao động không cẩn thận, uống thuốc lầm lẫn, bệnh nhiệt... ảnh hưởng đến thai.
Nguyên Tắc Điều Trị
Chủ yếu là an thai, vì mẹ có bệnh mà dộng thai, chỉ trị mẹ thì thai được yên, có khi vì thai không vững chắc, làm mẹ sinh bệnh, phải an thai thì mẹ khỏi bệnh. Đó là hai phương pháp trị bệnh an thai.
Sách 'Sản Bảo Bách Vấn" cho rằng: “Thai động, bụng đau, uống ngay thuốc thuận khí an thai, nếu không sẽ thành chứng lậu thai khó trị”.
Sách 'Nữ Khoa Kinh Luân " viết: “Trước khi có thai, dùng thuốc chủ yếu là thanh nhiệt dưỡng huyết, sau khi thanh nhiệt dưỡng huyết cần phải bổ Tỳ, đó là gốc bồi dưỡng cho thai khí”.
Sách "Trúc Lâm Nữ Khoa" viết rằng: ‘Đàn bà thụ thai, trở ngại sự vận hóa của Tỳ, vận hóa chậm thì sinh thấp, đã thấp thì sinh nhiệt, nhiệt thì huyết dễ động, huyết động thì thai không yên”.
Bạch truật, Hoàng cầm là vị thuốc rất cần để an thai, phép an thai không thường chú trọng về bổ ích, vì thai động không yên phần nhiều do mạch Xung, Nhâm hư yếu, hoặc khí huyết đều hư, hoặc Tỳ hư, Thận hư, hư hàn, hư nhiệt khác nhau, để theo chứng chữa trị. Nếu như đang mang thai mà có nhiệt, tạng phủ bị nhiệt nung nấu dẫn đến thai động không yên, khi trị bệnh nhiệt trước thì thai sẽ tự yên, đó !à phép trị thông thường về thai động không yên.
Triệu Chứng
Chứng Khí Hư: Thai động không yên, vùng sườn lúc đau lúc không, tinh thần mỏi mệt, nói không có sức, hồi hộp, thở ngắn, lưng nặng, bụng đau, bụng dưới như xệ xuống, âm đạo ra huyết ít, mầu nhạt hoặc có cục, da mặt trắng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi bạc, mạch Hoãn Hoạt.
Điều trị: Ích khí, cố Xung (mạch), an thai. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí gia giảm, hoặc Cử Nguyên Tiễn thêm Tục đoạn, Tang ký sinh, A giao.
Âm đạo rỉ huyết thêm Ô tặc cốt, Ngải diệp (tro) để cố Xung (mạch), chỉ huyết.
+ Chứng Huyết Hư: Thai động không yên, đầu váng, hoa mắt, sắc mặt vàng úa, hồi hộp, ngủ ít, gầy ốm, da khô, bụng đau, ra nước hồng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi ít, mạch Tế, Hoạt.
Điều trị: Bổ huyết, cố Xung (mạch), an thai. Dùng bài Giao Ngải Thang hoặc Thai Nguyên Ẩm (Cảnh Nhạc Toàn Thư).
(Nhân sâm, Đương quy, Đỗ trọng, Thược dược, Trần bì, Chích Cam thảo, bổ tỳ khí điều trung, Đương quy, Bạch thược, Thục địa dưỡng huyết, Đỗ trọng cố thận an thai. Toàn bài có tác dụng bổ tỳ ích huyết an thai).
Nếu thai trụy nặng gia thêm Thỏ ty tử, Tang ký sinh. Nếu máu rỉ ra thêm A giao, Ngải diệp. Khí hư thêm Hoàng kỳ.
+ Chứng Khí Huyết Đều Hư: Tức là chứng của hai chứng trước hợïp lại.
Dùng bài Ngưu Tỷ Bảo Thai Hoàn (Đỗ trọng, Đảng sâm, Hoàng kỳ, mỗi thứ 80g, Xuyên khung, Sơn dược mỗi thứ 120g, Vu truật, A giao mỗi vị 40g, Sa nhân, Hoàng cầm, mỗi vị 28g, Đương quy, Bạch truật mỗi vị 60, Cam thảo 20g. Tất cả tán bột, dùng lá sen cuốn lại 48g, Kén con tằm 40g, Hoàng ngưu tỷ 1 cái, 3 vị đốt cháy tồn tính, Đại Thục địa 160g quết nhừ, trộn với thuốc bột và mật làm thành viên, mỗi lần uống 12g với nước đã nấu sôi (Thích hợp với đàn bà huyết hư khí yếu có thai không vững, dễ bị sinh non).
Hoặc dùng bài An Thai Ẩm thêm Nhân sâm.
+ Chứng Tỳ Hư: Thai động không yên, phù thũng hoặc không phù, đại tiện lỏng, mệt mỏi, yếu sức, ăn ít, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Hoạt, Nhược.
Điều trị: Kiện Tỳ, ích khí, cố Xung, an thai. Dùng bài Tứ Quân Tử Thang thêm Mộc hương, Sa nhân làm chủ.
+ Chứng Thận Hư: Thai động không yên, lưng mỏi, chân yếu, gầy ốm, váng đầu, ù tai, lưỡi trắng, mạch Trầm Tế.
Điều trị: Bổ Thận, cố Xung, an thai. Dùng bài Bảo Thai Hoàn (Sản Khoa Tâm Pháp): Đỗ trọng 32g. Dùng gạo nếp nấu cháo trộn vào, chưng, phơi khô rồi sao. Xuyên Tục đoạn 160g (sao nước muối), Sơn dược 240g (sao), lấy riêng 80g giã nhỏ làm hồ để hoàn, Đương 80g (sao rượu). Dùng bột Sơn dược nấu hồ làm hoàn, cũng có khi dùng Táo nhục làm hồ để hoàn, lúc nào dùng cũng được, một lần uống 16g với nước sôi.
Hoặc Thọ Thai Hoàn (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học): Thỏ ty tử, Tang ký sinh, Tục đoạn, A giao. Thuốc tán bột, sắc lấy nước A giao trộn thuốc bột làm viên, mỗi lần uống 20 viên với nước. Nếu có ra máu, thêm Ngải diệp sao đen. Tiểu không tự chủ thêm Ích trí nhân.
+ Chứng Hư Hàn: Thai động không yên, bụng trên hoặc dưới lạnh giá, tiểu không thông, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Trì.
Điều trị: Ôn bào, cố Xung, an thai. Dùng bài Bạch Truật Tán (Kim Quỹ Yếu Lược): Bạch truật, Khung cùng mỗi vị 1,6g, Thục tiêu 1,2g, Mẫu lệ 0,8g.
+ Chứng Hư Nhiệt: Thai động không yên hoặc có khi đau bụng, miệng khô ráo, có khi như có lửa đốt, lưỡi đỏ, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư âm, dưỡng huyết, cố Xung, an thai. Dùng bài Hoàng Cầm Thang (Chứng Trị Chuẩn Thằng): Hoàng cầm, Bạch truật, mỗi vị 20g, Đương quy 8g, sắc uống lúc nào cũng được.
Y ÁN THAI ĐỘNG KHÔNG YÊN
(Trích trong ‘ Y Lược Lục Thư)’
“Một bà có thai, bứt rứt, nóng nảy, thai động không yên, ăn uống ít, mỏi mệt kém sức, mạch Sác Huyền Hư. Đó là do huyết hư có nhiệt mà thai thiếu bổ dưỡng. Cho uống 'An Thai Ẩm’ (Sản Khoa Tâm Pháp): Đại Thục địa 12g, Quy thân, Bạch thược, Bạch truật, A giao đều 4g, Chích thảo, Ngải diệp, Sa nhân đều 2g, Phục linh 20g, Xuyên khung 1,2g) thêm Thục địa, Bạch thược. Uống 3 thang thì bệnh giảm, uống tiếp 4 thang ' Đương Quy Tán’ thêm Sinh địa, Mẫu lệ theo sách Kim Quỹ Yếu Lược thì được an toàn, về sau phải kiêng cử trèo cao, gánh nặng mới khỏi lo trụy thai
THAI GIÀ THÁNG
Có thai đến ngày sinh mà quá hai tuần trở lên vẫn chưa sinh, gọi là ‘Quá Kỳ Bất Sản’.
Tương đương chứng Thai Già Thang của YHHĐ.
Đa số trường hợp này thường nghĩ đến thai chết lưu.
Nguyên Nhân
Chủ yếu do khí huyết suy nhược hoặc do khí trệ huyết ứ khiến cho quá thời hạn mà chưa sinh được.
. Khí Huyết Suy Nhược: Do cơ thể vốn khí huyết bị suy yếu. Huyết hư thì thai không được nuôi dưỡng, không thông hoạt được. Khí suy thì bào mạch không thông không có sức để đưa thai ra, khiến cho quá kỳ mà chưa sinh được.
. Khí Trệ Huyết Ứ: Do cơ thể vốn bị uất ức, uất thì khí bị trệ lại, khí trệ thì huyết cũng bị ngừng trệ, bào mạch bị ngăn trở, khí huyết không vận hành được khiến cho không thể đưa thai ra, gây nên bệnh.
Chẩn Đoán
+ Tiền sử bệnh: Quá thời điểm ước tính sinh 2 tuần trở lên (tính từ lúc thụ thai).
+ Dựa theo bệnh chứng: Mệt mỏi, không có sức, tâm phiền, bứt rứt không yên, hoặc đến lúc đó lại phát đau bụng.
+ Nên siêu âm để biết rõ tình trạng thai nhi (còn sống hay đã chết, ở vị trí bình thường hay không…).
Biện Chứng Luận Trị
+ Khí Huyết Suy Yếu: Quá kỳ sinh 2 tuần trở lên mà chưa sinh, đầu váng, hoa mắt, mệt mỏi không có sức, hơi thở ngắn, tiếng nói yếu, hồi hộp, lo sợ, sắc mặt trắng xanh, lưỡi trắng nhạt, mạch Tế Nhược, không lực.
Điều trị: Ích khí, dưỡng huyết, hoạt huyết, đạt thai. Dùng bài Bát Trân Thang thêm Hương phụ, Chỉ xác, Ngưu tất.
Khí hư nhiều thêm Hoàng kỳ để ích khí; Huyết hư nhiều thêm Câu kỷ tử, Hà thủ ô (chế), Quy bản để tư âm, dưỡng huyết.
+ Khí Trệ Huyết Ứ: Quá kỳ sinh 2 tuần trở lên mà chưa sinh, phiền táo, dễ tức giận, bụng dưới đau, ấn vào đau hơn, lưới đỏ tím hoặc có điểm ứ huyết, mạch Huyền, Sáp, có lực.
Điều trị: Hành khí, hoạt huyết, thúc thai sản xuất (kích thích đẩy thai ra). Dùng bài Thôi Sinh An Thai Cứu Mệnh Tán (Vệ Sinh Gia Bảo Sản Khoa Bị Yếu): Ô dược, Tiền hồ, Cúc hoa, Nga truật, Đương quy, Giấm gạo.
(Tiền hồ, Cúc hoa sơ phong, thanh nhiệt để tuyên Phế, hạ khí; Đương quy, Ô dược, Nga truật hành khí, hoạt huyết để giúp kích thích sinh).
Hàn ngưng huyết trệ, khí cơ không thông: thêm Nhục quế, Ngưu tất để ôn dương, tán hàn, để dẫn thai xuống.
THAI LỆCH
(Thai Vị Bất Chính)
Có thai hơn 32 tuần mà thấy ra nước ối hoặc vị trí thai khác thường, gọi là Thai Lệch (Thai Vị Bất Chính) hoặc Thai Vị Dị Thường.
Đây là trường hợp thai nhi sau 30 tuần lễ, không nằm đúng vị trí như bình thường trong tư? cung. Người bệnh thường khó biết vì không có triệu chứng gì rõ rệt, chỉ biết được nhờ khám nghiệm (rõ nhất là bằng phương pháp siêu âm).
Thường gặp ơ? các sa?n phụ có vách bụng mềm yếu.
Nguyên Nhân
+ Do Khí Hư: Thai phụ vốn sẵn bị khí hư, trung khí bất túc, không có sức để điều chuyển thai khiến cho thai bị lệch.
+ Do Khí Trệ: Thai phụ do Can khí uất kết không thoải mái, khí không thông, thai nhi không quay được khiến cho thai bị lệch.
Chẩn Đoán
Có thai khoảng 32 tuần, có thể chẩn đoán rõ nhờ siêu âm.
Triệu Chứng
+ Khí Hư: Có thai đến thời kỳ cuối, thai không đúng vị trí, tinh thần uể oải, hơi thở ngắn, không muốn nói, bụng dưới nặng trằn xuống, da mặt trắng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Hoạt Hoãn.
Điều trị: Ích khí, dưỡng huyết, an thai, chuyển thai. Dùng bài Bát Trân Thang thêm Hoàng kỳ, Tục đoạn, Chỉ xác.
+ Khí Trệ: Có thai đến thời kỳ cuối, thai không đúng vị trí, hông sườn trướng đau, lúc nhẹ lúc nặng, tinh thần uất ức, ngực đầy, thở dài, lưỡi nhạt, hơi bệu, mạch Huyền, Hoạt.
Điều trị: Lý khí, hành trệ, an thai, chuyển thai. Dùng bài Bảo Sản Thần Hiệu Phương (Phó Thanh Chủ Nữ Khoa): Đương quy (toàn), Xuyên khung, Hậu phác, Thỏ ty tử, Xuyên bối mẫu, Chỉ xác, Khương hoạt, Kinh giới huệ, Hoàng kỳ, Chích thảo, Bạch thược, Kỳ ngải, Sinh khương. Sắc uống.
(Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung bổ huyết, hoà huyết để dưỡng thai; Hoàng kỳ, Thỏ ty tử ôn dưỡng tinh khí để an thai; Kinh giới, Khương hoạt, Ngải diệp phát tán để thăng thanh; Chỉ xác, Hậu phác, Xuyên bối mẫu thuận khí, giáng trọc; Sinh khương, Cam thảo hoà Tỳ Vị để an trung khí).
Châm Cứu
+ Sinh ngang, thai chết: châm huyệt Thái xung, Hợp cốc, Tam âm giao. Thai ngang, tay ra trước, cứu đỉnh ngón chân út (Châm Cứu Đại Thành).
+ Thai ngược không quay xuống, dùng kim Tam lăng châm ra máu các huyệt Cự khuyết, Hợp cốc, Tam âm giao, Chí âm (Loại Kinh Đồ Dực).
+ Trị thai nằm ngang khó sinh, uống thuốc không công hiệu, cứu huyệt Chí âm 3 tráng, mồi ngải to bằng hạt lúa nhỏ, cứu xong thì thai quay về bình thường, công hiệu như thần (Thần Cứu Kinh Luân).
+ Điều tiết khí ơ? kinh túc Thiếu Âm và túc Thái Dương.
Huyệt dùng: dùng huyệt Tỉnh của kinh túc Thái dương Bàng quang: huyệt Chí Âm (Bq.67).
Dùng điếu nga?i cứu khoa?ng 30 phút. Lúc cứu, pha?i nới lo?ng thắt lưng, mỗi ngày cứu 1 lần cho đến khi thai hết lệch thì thôi. Hoặc có thể châm trước, kích thích vừa pha?i rồi mới cứu như trên.
Giải Thích: Mạch của bào cung thuộc Thận, Thận và Bàng quang có quan hệ Biểu Lý, huyệt Chí Âm được dùng là theo kinh nghiệm (Châm Cứu Học Thượng Hải).
+ Từ năm 1979 – 1986, Vương Toàn Nhân đã châm huyệt Chí âm, bình bổ bình tả. Trị 246 ca Thai lệch. Kết quả sau khi kiểm tra phụ khoa, tất cả đều trở lại vị trí bình thường (Trung Quốc Châm cứu Tạp Chí 1986, 3: 56).
+ Dùng Vương bất lưu hành, tán bột, dán vào các huyệt Tử cung, Giao cảm, Bì chất hạ, Can, Tỳ, Bụng. 3~4 ngày thay một lần. Đã trị 169 ca, trong đó bị lần đầu 45 ca, bị nhiều lần 24 ca. kết quả khỏi 81,6% (Giang Tô Trung Y Tạp Chí 1986, 8: 31)
Nhĩ Châm
+ Tử cung, Giao cảm, Bì chất hạ, Tỳ, Can, Phúc.
Châm hoặc dùng Vương bất lưu hành tán thành bột, hoà với hồ, dán vào huyệt. Cách 3~4 ngày dán thuốc một lần, mỗi lần để 15 phút (Trung Y Cương Mục).
Y Án Trị Thai Lệch
(Trích trong ‘Thái Bình Thánh Huệ Phương’)
“Trương Văn Trọng cứu một sản phụ sinh ngang, tay ra trước., đã uống thuốc nhưng không có kết quả. Ông cứu ở đầu ngón chân cái của sản phụ đó 3 tráng, to bằng hạt lúa lớn, cứu xong thai trở lại bình thường”.
Y Án Trị Thai Lệch
(Trích trong ‘Hiện Đại Châm Cứu Y Án Tuyển’)
Đường X, nữ, 35 tuổi. Có thai đã 8 tháng. Bệnh viện khám thấy thai nằm ngang, đã dùng tay nắn sửa nhiều lần cũng như châm nhiều lần mà không có kết quả. Khám thấy tinh thần thoải mái, phát triển tốt, tim phổi bình thường, vùng bụng hơi trệ, mạch hơi Sác, rêu lưỡi trắng nhạt. Chẩn đoán là thai lệch (Thai vị dị thường).
Điều trị: điều lý khí huyết ở bào cung. Dùng huyệt Chí âm. Cứu bằng Ngải, Quế, mỗi lần cứu 7~15 tráng, mỗi ngày một lần. Sau khi cứu ba lần, khoa sản khám thấy thai quay trở lại vị trí bình thường.
Y Án Trị Thai Lệch
(Trích trong Hà Nam Trung Y Tạp Chí 1985, 6)
Lý X, nữ, 23 tuổi. Nhập viện tháng 3 năm 1984. Người bệnh cho biết tắt kinh đã 7 tháng. Khám thai lần I, bụng cứng, trướng, thai nhi ở giữa, thai nằm ngang. Chẩn đoán: Thai lệch (Thai vị bất chính).. châm huyệt Chí âm, bình bổ bình tả, lưu kim 15 phút, dặn người nhà bệnh nhân cứu thêm. Mỗi ngày châm cứu một lần. 3 ngày sau kiểm tra lại, thai trở lại bình thường. Đến tuần thứ 38, sinh được một cháu gái, mẹ con đều khoẻ mạnh”.
PHÙ KHI CÓ THAI
Nhâm Thần Thủng Trướng
Đại Cương
Phụ nữ đang có thai mà cơ thể bị sưng phù.
Còn gọi là Tử Khí, Tử Thủng, Tử Mãn, Quỷ Cước, Sô Cước.
Theo sách ‘Y Tông Kim Giám’
. Thủng từ đầu gối đến bàn chân, nước tiểu nhiều, gọi là ‘Tử Khí’.
. Đầu, mặt, nửa người phù, nước tiểu ít, gọi là ‘Tử Thủng’.
. Toàn thân đều phù, bụng trướng, khó thở vào tháng thứ 6 gọi là Tử Mãn.
. Hai chân sưng phù thủng mà da bụng căng dầy lên, thuộc về thấp gọi là chứng ‘Sô Cước’, ‘Trưú Cước’. Da mỏng thuộc thuỷ gọi là ‘Quỷ Cước’. Hai chứng này cùng một loaị, đều có thai 3 tháng mà bị phù thủng, tuy tên gọi khác nhau nhưng đêù giống với chứng Tử Mãn.
Nếu sau khi có thai 7-8 tháng mqf chỉ bị phù thủng ở chân, không có dấu hiệu bệnh lý nào khác, thì đó là trạng thái bình thường trong giai đoạn cuối của thai kỳ, không cần trị liệu, sau khi sinh chứng phù sẽ tự hết.
Tương đương với chứng Nhiễm Độc Thai Nghén, Phù Khi Có Thai của YHHĐ.
Nguyên Nhân
Thường do Tỳ suy yếu, không chế ngự được thuỷ.
Sách ‘Sản Bảo’ viết: «Chứng có thai mà bị phù, do tạng khí suy yếu, lại thêlm hư, thổ khí không chế ngự được thuỷ khí».
Sách ‘Thánh Tế Tổng Lục’ viết: «Khi có thai thì Tỳ Vị bị hư yếu, kinh nguyệt bị bế tắc, thuỷ khí không hoá được».
Sách ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’ viết: «Trong thai có nước, nước và huyết giống nhau».
Nguyên tắc điều trị
Khi điều trị, nên chú trọng kiện Tỳ, táo thấp, thuận khí, an thai.
. Tỳ khí hư yếu, dùng bài Bạch Truật Tán, Ngũ Bì Ẩm, Thiên Kim Lý Ngư Thang…
. Do thuỷ thấp, dùng bài Quỳ Tử Phục Linh Tán, Phục Linh Đạo Thuỷ Thang…
. Khí trệ dùng bài Thiên Kim Đằng Tán, Thúc Thai Ẩm…
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
1- Thể Tỳ Hư
Chứng: Co thai mà mặt, mắt, toàn thân đều phù, sắc nặt vàng úa, mệt mỏi, tay chân lạnh, miệng nhạt, dính, ngực đầy, bụng trướng, ăn uống kém, tiêu lỏng, nước tiểu vàng, thường có đái hạ, rêu lưỡi trắng mỏng, nhuận ướt, mạch Hư Hoạt.
Dùng bài Bạch Truật Tán., Ngũ Bì Ẩm.
Nếu Tỳ hư kèm huyết hư kèm chóng mặt, xoay xẩm, hồi hộp, sợ haiư, không ngủ được, dùng bài Thiên Kim Lý Ngư Thang.
2- Thuỷ Thấp
Chứng: Có thai, toàn thân bị phù, sắc mặt trắng nhạt, sợ lạnh, đầu váng, miệng nhạt dính, sợ sệt, bụng đầy, tieủ không thông, tiêu lỏng, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch Trầm, Hoạt.
Dùng bài Quỳ Tử Phục Linh Tán. Nếu kèm khí trệ mà ngực đầy, hông sườn đau, ợ hơi, táo bón, tiểu gắt. Dùng bài Phục Linh Đạo Thuỷ Thang, Trạch Tả Tán.
3-Thể Khí Trệ
Chứng: Có thai, chân tay và cơ thể phù, đi lại khó, nặng hơn thì chân chảy nước, tinh thần uất ức, khí trệ không thư thái, ngực đầy, bụng trướng, ăn uống kém, tiêu lỏng, tiểu gắt. Dùng bài Thiên Tiên Đằng Tán ‘Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương’: <Thiên tiên đằng [rửa, sao qua}, Hương phụ tử [sao], Trần bì, Cam thảo, Ô dược, Sinh khương, Mộc qua, Tử tô diệp] hoặc Thúc Thai Ẩm [Phụ Nhân Yếu Khoa]: Bạch truật, Hoàng cầm, Tô diệp, Chỉ xác, Đại phúc bì, Sa nhân, Chích thảo.
4- Thể Thận Hư: Có thai nhiều tháng, mặt sưng phù, chân tay sưng, hồi hộp, hơi thở ngắn, chân lạnh, thắt lưng đau, mỏi, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Trầm Trì. Dùng bài Chân Vũ Thang.
Y Án Chứng Tử Khí
Trích trong ‘Y Lược Lục Thư’.
Một người đàn bà có thai 4-5 tháng, toàn thân bị phù, ăn uống bình thường, mạch Hoãn, Trầm Sác, đây là chứng Tử Khí. Cho dùng bài Thiên Tiên Đằng Tán, uống 4 thang, bớt phù. Uống tiếp bài Tứ Quân Tử Thang thêm Mộc hương, Tô ngạnh để điều lý dần dần. Đến kỳ sinh, uống tiếp 3 thang Tử Tô Ẩm. Đến buổi chiều sinh xong thì hết hẳn phù.
Y Án Chứng Tử Thủng
Trích trong ‘Nữ Khoa Y Án’
«Một phụ nữ có thai 2-3 tháng, hai chân và mặt phù, đùi phù, dần dần phù toàn thân, thở mệt, tức đầy như suyễn, đi đứng khó, mạch Hư, Huyền, Hoạt. Đây là chứng Tử Thủng. Dùng bài Bạch Truật Tán, uống nhiều ngày thì bớt phù, ăn được. Sau đó, dùng Lý Ngư Thang uống xen kẽ với bài Tử Tô Ẩm trong một tháng thì thai an toàn».
THAI YẾU KHÔNG PHÁT TRIỂN
(Thai Nuy Bất Trưởng)
Là trạng thái có thai mà bụng thai phụ không tương ứng với độ tuổi của thai, thai nhi tăng trưởng chậm.
Còn gọi là Thai Bất Trưởng, Nhâm Thần Thai Nuy Táo.
Tương đương chứng Thai Phát Triển Châm (Thai Nhi Doanh Nội Sinh Trì Hoãn) của YHHĐ.
Nguyên Nhân
Chủ yếu do sức khoẻ của người mẹ suy yếu hoặc sau khi có thai mà kém dinh dưỡng, khiến cho bào thai bị thương tổn, thai không được nuôi dưỡng tốt nên thai không phát triển được.
+ Do Thận Khí Suy Tổn: Do Thận vốn bị suy kém hoặc có thai mà sinh hoạt tình dục không điều độ làm cho Thận khí bị tổn thương. Thai khí bên trong thuộc về thận, thận tinh bất túc, thai sẽ không được nuôi dưỡng tốt vì thế không phát triển được.
+ Do Khí Huyết Suy Nhược: Cơ thể vốn khí huyết suy nhược hoặc có thai mà bị nôn mửa nhiều, khí huyết bị suy yếu hoặc có thai mà bị rong huyết lâu ngày khí cho khí huyết bị tổn thương, khí huyết ở mạch Xung, Nhâm bất túc, thai không được nuôi dưỡng khiến cho thai không phát triển được.
+ Do Âm Hư Huyết Nhiệt: Có thai mà vốn bị âm hư hoặc bệnh lâu ngày, huyết bị mất làm tổn thương phần âm hoặc sau khi có thai mà ăn nhiều thứac ăn cay, nóng khiến cho tà nhiệt làm tổn thương âm huyết, nhiệt ở thai làm tổn thương âm huyết khiến cho âm huyết không được nuôi dưỡng gây nên thai không phát triển được.
Chẩn Đoán
+ Tiền sử: Rong huyết, thai động không yên, có thai sớm hoặc có thai mà bị cao huyết áp, viêm thận mạn, cao huyết áp mạn, bệnh tim, thiếu máu, suy dinh dưỡng, hoặc có thai mà ngộ độc thuốc, trúng độc thuốc…
+ Chứng trạng: Có thai 4~5 tháng mà không thấy bụng lớn tương ứng với thai tuổi.
Chẩn Đoán Phân Biệt
. Cần phân biệt với thai chết lưu, vì cả hai trường hợp thai đều không phát triển, thai động yếu, tim thai suy yếu…
Triệu Chứng
Trên lâm sàng thường gặp những loại sau:
+ Thận Khí Suy Tổn: Có thai mà bụng nhỏ, không tương ứng với tuổi thai, thai không động đậy, đầu váng, tai ù, lưng đau, gối mỏi, lạnh, sợ lạnh, chân tay không ấm, mệt mỏi không có sức, lưỡi trắng, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Tế.
Điều trị: Bổ Thận, ích khí, chấn tinh, dưỡng thai. Dùng bài Thọ Thai Hoàn thêm Đảng sâm, Phúc bồn tử, Tang thầm tử.
+ Khí Huyết Suy Nhược: Có thai mà bụng nhỏ, không tương ứng với tuổi thai, thai không động đậy, cơ thể mỏi mệt, đầu váng, kinh sợ, hơi thở ngắn, ngại nói, da mặt xanh trắng, lưỡi nhạt, ít rêu, mạch Tế Nhược.
Điều trị: Bổ khí, dưỡng huyết, dục thai. Dùng bài Thai Nguyên Ẩm thêm Tục đoạn, Câu kỷ tử.
+ Âm Hư Huyết Nhiệt: Có thai mà bụng nhỏ, không tương ứng với tuổi thai, thai không động đậy, môi đỏ, gò má hồng, lòng bàn tay chân nóng, phiền táo không yên, miệng khô, thích uống, lưỡi đỏ, khô, mạch Tế Sác.
Điều trị: Tư âm thanh nhiệt, dưỡng huyết, dục thai. Dùng bài Bảo Âm Tiễn thêm Câu kỷ tử, Tang thầm tử.
VIÊM THANH QUẢN
Đại cương
. Là bệnh thường gặp, nhất là vào mùa đông.
. Bệnh có thể phát riêng lẻ hoặc phối hợp viêm nhiễm chung của hệ thống hô hấp.
Phân loại: Có thể chia thành nhiều loại:
+ Theo tiến triển của bệnh: Viêm thanh quản cấp, Viêm thanh quản mạn.
+ Theo nguyên nhân: Viêm thanh quản sởi, Viêm thanh quản cúm, Viêm thanh quản bạch hầu...
+ Theo cơ địa: Viêm thanh quản trẻ nhỏ, viêm thanh quản người lớn tuổi.
Tuy nhiên, trên lâm sàng thường chia thành hai dạng chính là Viêm Thanh Quản Cấp và Viêm Thanh Quản Mạn.
Triệu chứng
A- Viêm Thanh Quản Cấp
Chứng: Sốt (38 - 38,50C), chảy nước mũi rồi cảm thấy trong họng nóng, như có dị vật vướng trong cổ, ho khan, có cảm giác ngứa, rát, giọng bị khan dần, có khi mất tiếng, sau vài ba ngày, từ ho khan chuyển sang có đờm lẫn mủ, người mệt mỏi.
Soi thanh quản, thấy niêm mạc thanh quản xung huyết, đặc biệt các dây thanh âm, có nhiều chất nhầy tiết ra, xuất hiện sớm ở phía trước đỉnh thanh quản, ở mép trước hoặc sau khe thanh môn hoặc bám vào các dây thanh âm làm cho dây thanh âm khó di động.
Bệnh thường phát sinh vào mùa thu, mùa xuân, khi thời tiết thay đổi. Nam nhiều hơn nữ.
Nguyên nhân
+ Theo YHHĐ: Do viêm mũi cấp không điều trị đúng mức viêm nhiễm lan xuống đường hô hấp gây nên.
+ Theo YHCT: Do phong nhiệt độc bốc lên gây nên.
Điều trị: Thanh yết, tiêu thủng, giải độc.
Dùng bài Thanh Yết Bạch Hổ Thang (45).
B- Viêm Thanh Quản mạn
Chứng: Tiếng nói bị khàn kéo dài, khó khỏi một cách tự nhiên.
Nguyên nhân
+ Theo YHHĐ:
. Do một viêm thanh quản nặng ngay từ đầu trong lúc trẻ bị ban sởi, thủy đậu, ho gà, cúm hoặc bạch hầu.
. Do giọng nói bị cố gắng quá sức, quá cường độ, như ca sĩ hát lâu, hét to, mậu dịch viên quảng cáo...
. Do một số bệnh nghề nghiệp: Những người làm việc thường xuyên trong môi trường không khí khô, nóng, bụi bặm, hóa chất...
. Do các viêm cấp không được điều trị triệt để.
Theo YHCT:
. Do bệnh lâu ngày làm cho Phế âm hư, tân dịch bị táo, hư nhiệt nung nấu họng gây nên.
. Do Thận âm hư, không nhuận được Phế hư hỏa bốc lên nung đốt họng gây nên.
Điều trị:
+ Do Phế âm hư: Thanh Phế, tư âm.
Dùng bài Thanh Táo Cứu Phế Thang (42b) gia giảm.
(Trong bài, dùng Tang diệp, Hồ ma nhân, Mạch môn, Thạch cao, A giao, Tỳ bà diệp để thanh nhiệt nhuận Phế; Hạnh nhân, Tỳ bà diệp thông giáng Phế khí; Nhân sâm, Cam thảo ích khí sinh tân).
+ Do Thận âm hư: Tư bổ Thận âm.
Dùng bài Mạch Vị Địa Hoàng Thang gia giảm (Trong bài, dùng Sinh địa, Đơn bì, Trạch tả, Mạch môn, Ngũ vị tử để tư bổ Thận âm; Phục linh, Hoài sơn, Sơn thù dưỡng Can Tỳ để thông lợi Pbế khí).
THẦN KINH DA VIÊM
(Thần Kinh Tính Bì Viêm - Neuro Dermite - Neuro Dermatitis)
A. Đại cương
Là 1 bệnh da bị viêm do rối loạn chức năng thần kinh. Thường phát ở cổ gáy, khủy tay, nhượng chân, vùng xương cùng và vùng tổn thương, thường có tính đối xứng (mọc đều ở cả 2 bên), dễ tái phát.
YHCT gọi là Ngưu Bì Tiễn, Tùng Bì Tiễn.
B. Nguyên nhân
Thường do Phong Nhiệt. Nhiệt độc kết tụ ở da làm cho sự vận hành khí huyết tại chỗ bị trở ngại, uất lại sinh nhiệt, làm cho vùng da chỗ đó không được nuôi dưỡng, gây ra bệnh.
C. Triệu chứng
Trên lâm sàng thường gặp 2 loại sau:
1 - Huyết Nhiệt Phong Thấp: Vùng da bị tổn thương màu hồng tươi, bề mặt có nhiều vẩy trắng. Sau khi vẩy bong, mặt da có mầu hồng và có chấm máu nhỏ . Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Sác.
2 - Huyết Hư Phong Táo: Vùng tổn thương màu trắng nhạt hoặc xạm lại thành đỏ xám, vẩy ít, diện tích viêm hẹp, có trường hợp mất hẳn chỉ còn lại ban trắng. Chất lưỡi nhạt mạch Tế, hơi Sác.
D. Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Hoạt huyết, thông lạc.
Thường dùng Khúc Trì (Đtr.11) + Huyết Hải (Ty.10).
Phối hợp với Hợp Cốc (Đtr.4), Tam Âm Giao (Ty.6) (Ty.6), A Thị Huyệt.
Kích thích vừa hoặc mạnh. A Thị Huyệt và cục bộ, có thể châm từ 4 phía hướng vào giữa chỗ đau hoặc châm ngang vài kim. Ngày châm 1 lần.
2- Phong Trì (Đ.20) + Đại Chùy (Đc.14) + Khúc Trì (Đtr.11), +Hợp Cốc (Đtr.4) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Huyết Hải (Ty.10) + Thừa Phò (Bq.36) + Uỷ Trung (Bq.40). Đồng thời dùng Mai Hoa Châm gõ mạnh cho ra máu vùng tổn thương
(Châm Cứu Học Thủ Sách).
3- a Huyết Nhiệt Phong Thấp: Sơ phong, lương huyết, tiêu độc, trừ thấp. Châm Khúc Trì (Đtr.11) + Huyết Hải (Ty.10) + A Thị Huyệt + Tam Âm Giao (Ty.6) (Ty.6) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) .
b Huyết Hư Phong Táo: Dưỡng huyết, khu phong, Châm Khúc Trì (Đtr.11) + Huyết Hải (Ty.10) + A Thị Huyệt + Nhị Gian (Đtr.2), có thể cứu bằng điếu ngải chỗ viêm 10 - 20 phút.
Mỗi ngày hoặc cách ngày châm 1 lần. 15 - 20 lần là 1 liệu trình. Chỗ viêm nặng, nên châm nặn máu ở giữa một vài đám viêm (Châm Cứu Học Việt Nam).
4- Châm Đại Chùy (Đc.14) + Đào Đạo (Đc.13) + Can Du (Bq.18) + Tỳ Du (Bq.20). Lưu kim 5 - 10 phút. Phối hợp dùng Kim Tam Lăng châm nặn máu vùng bịnh (‘Bắc Kinh Trung Y Tạp Chí’ số 44/1986).
THẦN KINH LIÊN SƯỜN ĐAU
(Lặc Gian Thần Kinh Thống - Nevralgie Intercostale - Intercostal Neuralgia)
A. Đại cương
Dây thần kinh gian sườn đau là chứng đau ở một hoặc nhiều gian sườn thuộc phạm vi chứng ‘Hiếp Thống’ của YHCT.
B. Nguyên nhân
Bệnh có quan hệ với Kinh Can và Đở m. Uất ức giận dữ, huyết ứ, Thuỷ ẩm, đờm tích... làm cho khí cơ bị cả n trở, kinh mạch không thông gây ra đau.
C. Triệu chứng
Vùng gian sườn đau, đau nhức như kim châm, như dao cắt, đau từng cơn. Khi ho, hắt hơi hoặc thở mạnh ... thì đau tăng. Lúc đau nhiều có thể lan đến vai, lưng.
+ Nếu chỗ đau di chuyển, ngực đầy, hay ợ, lúc thoải mái vui vẻ thì nhẹ đi, lúc buồn giận thì đau thêm, mạch Huyền, là do Can khí nghịch.
+ Nếu đau một chỗ cố định, ban ngày nhẹ, đêm nặng, phân có sắc đen, mạch Sáp, là do huyết ứ, ngưng trệ.
+ Nếu đau nhiều, đau như co thắt lại, nhức tới vai, ho khạc đờm loãng, ngực sườn đầy trướng, mạch Trầm Khẩn hoặc Trầm Huyền là do Phong hàn đàm ẩm đình tích.
D. Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Sơ thông kinh khí.
• Huyệt chính: Chi Câu (Ttu.6) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Lãi Câu (C.5) + Giáp Tích ở vùng tương ứng chỗ đau.
Huyệt phụ: Kỳ Môn (C.14), Khâu Khư (Đ.40), Hành Gian (C.2), Thái Xung (C.3), Can Du (Bq.18) , Cách Du (Bq.17), Chương Môn (C.13), Phong Long (Vi.40), Âm Lăng Tuyền (Ty.9) , Nội Quan (Tb.6) .
. Can Khí Uất Kết: thêm Hành Gian (C.2), Thái Xung (C.3), Nội Quan (Tb.6), Khâu Khư (Đ.40) .
. Ứ Huyết Ngưng Trệ: thêm Kỳ Môn (C.13), Cách Du (Bq.17), Can Du (Bq.18) .
. Đờm ẩm tích Thuỷ: thêm Phong Long (Vi.40), Chương Môn (C.13), Âm Lăng Tuyền (Ty.9) .
Ý nghĩa: Đường kinh túc Thiếu dương (Đở m) và Quyết âm (Can) vận hành qua sườn, vì vậy lấy huyệt Chi Câu (Ttu.6) và Dương Lăng Tuyền (Thủ và Túc Thiếu Dương) phối hợp với Lãi Câu (Túc Quyết Âm) để sơ tiết kinh khí vùng đau. Kỳ Môn là mộ huyệt (chẩn đoán) của Can, hợp với Can Du, Cách Du để khứ ứ huyết; Phong Long (Vi.40) để hóa đờm, hợp với Chương Môn, Âm Lăng Tuyền để tăng thêm tác dụng vận Tỳ, gây hiệu quả trục đờm ẩm.
2- Khí Hộ (Vi.13) + Hoa Cái (Nh.20) (Châm Cứu Tụ Anh).
3- Dương Cốc (Ttr.5) + Uyển Cốt (Ttr.4) + Chi Câu (Ttu.6) + Cách Du (Bq.17) + Thân Mạch (Bq.62) (Thần Ứng Kinh).
4- Công Tôn (Ty.4) + Chi Câu (Ttu.6) + Chương Môn (CÁC.13) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) (Châm Cứu Đại Toàn).
5- Khâu Khư (Đ.40) + Trung Độc (Đ.32) hoặc Chi Câu (Ttu.6+, Chương Môn (C.13) + Ngoại Quan (Ttu.5) (Châm Cứu Đại Thành).
6- Trung Lữ Du (Bq.29) + Cách Du (Bq.17) + Khiếu Âm (Đ.44) + Dương Cốc (Ttr.5) + Lư Tức (Ttu.19) (Phổ Tế Phương).
7- Khí Hải (Nh.6) + Quan Nguyên (Nh.4) + Kỳ Môn (C.13) + Khiếu Âm (Đ.44) (Thần Cứu Kinh Luân).
8- Kỳ Môn (C.13) + Chi Câu (Ttu.6) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Thái Xung (C.3) (Châm Cứu Học Gỉang Nghĩa).
9- Kỳ Môn (C.14) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Thái Xung (C.3) + Hoa Đà Giáp Tích vùng tương ứng chỗ đau (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
10- Can Khí uất kết: Kỳ Môn (C.14) + Hành Gian (C.2) + Khâu Khư (Đ.40) + Nội Quan (Tb.6), đều tả .
Huyết ứ: Kỳ Môn (C.14) + Chương Môn (C.13 + Thái Xung (C.3), đều tả .
Đờm ẩm đình tích: Chương Môn (C.13) [bổ] + Chi Câu (Ttu.6) + Phong Long (Vi.40) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) [đều tả ] (Châm Cứu Trị Liệu Học).
11- Thần Phong (Th.23) + Bộ Lang (Th.22) + Bất Dung (Vi.19) + Ngọc Đường (Nh.18) + Tuyền Cơ (Nh.21) + Quyết Âm Du (Bq.14) + Cách Du (Bq.17) + Thân Trụ (Đc.12) + Thủ Tam Lý (Đtr.10) (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu Học).
12- Đại Trữ (Bq.11) + Phong Môn (Bq.12) + Phế Du (Bq.13) + Tâm Du (Bq.15) + Cách Du (Bq.17) + Bộ Lang (Th.22) + Thần Tàng (Bq.25) + Xích Trạch (P.5) +Thái Uyên (P.9) (Trung Quốc Châm Cứu Học).
13- Hành Gian (C.2) + Chi Câu (Ttu.6) + Khúc Trì (Đtr.11) (Tân Châm Cứu Học).
14- Thần Đạo (Đc.11) + Chí Dương (Đc.9) + Đàn Trung (Nh.17) + Đại Lăng (Tb.7) + Thiếu Hải (Tm.3) + Hậu Khê (Ttr.3) + Khuyết Bồn (Vi.12) + Bất Dung (Vi.19) + Hạ Cự Hư (Vi.39) + Uyên Dịch (Đ.22) + Kinh Môn (Đ.25) + Hiệp Khê (Đ.43) + Can Du (Bq.18) + Phụ Phân (41) + Y Hi (Bq.45) + Cách Quan (Bq.46) + Hành Gian (C.2) + Kỳ Môn (C.14) + Bộ Lang (Th.22) + Thần Phong (Th.23) + Thần Tàng (Th.25) (Châm Cứu Học HongKong).
15- Thông kinh hoạt lạc: Châm A Thị Huyệt (thường là Bối Du huyệt) + Chi Câu (Ttu.6) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Thái Xung (C.3) + Nội Quan (Tb.6) (Châm Cứu Học Việt Nam).
16- Hành Gian (C.2) + Nhũ Căn (Vi.18) hợp với Khúc Trì (Đtr.11) + Chiên Trung (Nh.17) + Chu Vinh (Ty.20) ‘Trung Y Tạp Chí’ năm 1955)
17- Can Khí Hoành Nghịch: Sơ Can, lý khí. Châm tả Thái Xung (C.3) + Chi Câu (Ttu.6) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) .
Huyết Ứ ngưng trệ: Hoạt huyết, khứ ứ, châm tả Kỳ Môn (C.14) + Cách Du (Bq.17) + Can Du (Bq.18) + Thái Xung (C.3) + Chi Câu (Ttu.6) .
Đờm Ẩm Đình Trệ: Kiện Tỳ, hóa đờm, châm tả Chương Môn (C.13) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Phong Long (Vi.40) + Chi Câu (Ttu.6) (Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn).
THẦN KINH SINH BA ĐAU
(Tam Thoa Thần Kinh Thống - Nevralgie Trijumeau - Nevralgia Trigeminal)
Đại Cương
Dây thần kinh Sinh Ba (Tam Thoa) đau là chứng đau từng cơn kèm co rút ở vùng dây thần kinh tam thoa ở mặt. Thường đau 1 bên mặt. Thường gặp ở phụ nữ trung niên.
Thuộc phạm vi chứng Diện Thống, Đầu Phong, Đầu Thống, Thiên Đầu Thống, Quyết Nghịch của YHCT.
Phân Loại
Sách ‘Châm Cứu Học Thượng Ha?i’ phân làm 2 loại:
+ Nguyên Phát: có liên hệ với việc bị lạnh, bệnh độc hoặc răng bị nhiễm trùng, một số bệnh truyền nhiễm.
+ Kế Phát: Thường có quan hệ với bệnh ở mắt, mũi, răng....
Thần kinh tam thoa gồm 3 nhánh:
. Nhánh ở mắt
. Nhánh ở hàm trên.
. Nhánh ở hàm dưới.
Trên lâm sàng, nhánh thứ 1 ít khi bị đau, chỉ thấy nhánh 2 và 3 cùng đau nhức một lúc.
Nguyên Nhân
- Do phong tà xâm nhập các kinh dương ở mặt. Chủ yếu do phong hàn hoặc phong nhiệt xâm nhập vào các kinh dương ở mặt, nhất là kinh Đại trường và kinh Vị, làm cho khí huyết bị bế tắc không thông gây nên. Thường gặp nhất là do Tỳ khí hư do tuổi già, nhân đó tà khí dễ xâm nhập vào.
- Do ứ huyết làm khí huyết bị bế tắc. Tà khí xâm nhập, nếu không được điều trị, lâu ngày sẽ làm cho khí huyết bị đình trệ không thông được, gây nên bệnh.
- Do tình chí bị uất ức, không thoải mái, giận dữ… làm tổn thương Can, khiến cho Can mất chức năng sơ tiết, hoá thành hoả. Hoả là dương, Can là âm, vì vậy dương hoả sẽ dẫn tà khí vào kinh Dương. Nhiệt tà ở Thiếu dương sẽ xâm nhập vào các kinh dương gây nên bệnh.
- Ở lứa tuổi 40, phần âm đã bị giảm đi phân nửa, huyết không còn nuôi dưỡng được Can, Can mất chức năng sơ tiết. Âm suy không kềm chế được dương, Can dương bốc lên. Ngoài ra, Can hoạt động nhờ Thận dương ôn dưỡng, tuổi già, chức năng này cũng bị suy giảm, đây là lý do tại sao chứng Can uất gặp nhiều ở tuổi già. Hai chứng này thường gặp nơi phụ nữ đang hành kinh, có thai và cho con bú.
Khí hư, khí trệ, âm hư hoặc dương hư sẽ làm cho huyết ứ, trong khi đó Tỳ khí hư, dinh dưỡng suy kém hoặc khí trệ làm cho đờm ngừng trệ lại ở trong kinh mạch gây nên bệnh.
Triệu Chứng
- Loại Nguyên Phát: đau nhức từng cơn như thiêu đốt hoặc như kim đâm, mỗi lần lên cơn đau vài giây hoặc 1-2 phút. Mỗi ngày có thể lên cơn nhiều lần, có khi kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng. Cơn đau có thể kèm theo co rút, da đo? ư?ng, cha?y nước mắt, nước miếng. Sờ ấn vào một số điểm đau ở mặt như hố trên mắt (Dương bạch), lỗ dưới mắt (Tứ Bạch), lỗ cằm (Thừa tương), 2 bên cánh mũi (Nghênh hương), mép miệng (Địa thương).... có thể làm cơn đau phát ra.
- Loại Kế Phát: đau liên tục, da mặt cảm thấy tê bì, mất pha?n xạ, cơ thái dương và cơ nhai bị tê, co rút.
Tuy nhiên, trên lâm sàng, cần lưu ý đến biện chứng bệnh:
. Nếu bị bệnh mà kèm chứng trạng ngoại cảm là do phong tà xâm nhập.
. Nếu kèm phiền táo, hay giận, miệng khát, táo bón là do Tỳ Vị có thực Hoả.
. Nếu cơ thể vốn suy yếu, gầy ốm, gò má đo?, mạch Tế Sác, mỗi khi mệt nhọc thì bệnh phát nhiều hơn, là do âm hư dương vượng, hư Hoả bốc lên.
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
+ Phong Nhiệt Đờm Trở Kinh Mạch: Có cảm giác đau, rát, nóng không chịu được ở một bên đầu hoặc mặt, da mặt đỏ, lúc đau thì ra mồ hôi, gặp nóng khó chịu hơn, thích chườm mát, kèm theo sốt, miệng khô, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác.
Nếu Đờm nhiệt ngăn trở trong kinh mạch thì thấy chóng mặt, ngực đầy,tay chân tê, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền, Hoạt, Sác.
Điều trị: Khu phong, tiết nhiệt, khoát đờm, thông kinh hoạt lạc. Dùng bài Khung Chỉ Thạch Cao Thang gia vị: Thạch cao 20g, Xuyên khung, Cát căn, Bạch chỉ đều 15g, Bạch phụ tử, Nam tinh, Bán hạ, Cương tằm, Kinh giới, Cúc hoa, Khương hoạt, Cảo bản, Kim ngân hoa đều 9g.
(Xuyên khung, Thạch cao là hai vị thuốc đặc hiệu dùng trị đau ở đầu mặt do phong nhiệt gây nên. Xuyên khung khu phong, hoạt huyết, chỉ thống. Ngoài ra, nó dẫn Thạch cao và các vị thuốc khác đi lên đầu và mặt. Thạch cao còn thanh nhiệt, nhất là ở vùng cơ và tấu lý, giúp cho Bạch chỉ khu phong ở vùng mặt, nhất là ở kinh Đại trường và Vị. Một số thầy thuốc cho rằng Bạch chỉ cũng có tác dụng khai khiếu, thông kinh mạch. Kinh giới, Cương tằm, Cúc hoa, Khương hoạt, Cảo bản hỗ trợ tác dụng khu phong. Kinh giới giải cơ do ngoại phong gây nên; Cương tằm hoá phong đờm, giải cơ, trị đau lâu ngày; Cúc hoa trừ phong nhiệt ở mặt; Khương hoạt trị phong ở phần trên cơ thể, chỉ thống; Cảo bản trừ phong thấp, chỉ thống; Kim ngân hoa hỗ trợ thuốc để khu phong nhiệt, ngăn không cho nhiệt hoá thành độc; Cương tằm, Bạch phụ tử, Bán hạ, Nam tinh hoá đờm. Ngoài ra, Bạch phụ tử giỏi về trị phong đờm ở vùng đầu mặt, Nam tinh hoá được đờm ngoan cố ở trong kinh mạch.
Bệnh kéo dài hoặc huyết trệ nặng gây nên đau một chỗ, thêm Thổ miết trùng2g, Tam thất bột 3g (hoà vào nước thuốc, uống). Đau kéo dài, điều trị không đỡ, thêm Toàn yết (để cả đuôi), Ngô công đều 2g, Cương tằm 3g, tán bột, uống với nước thuốc sắc. Có cảm giác nóng nhiều ở mặt thêm Địa long 9g, Thăng ma 12g. Ăn kém, khó tiêu, nôn mửa do uống thuốc này, thêm Mạch nha, Chỉ xác đều 9g.
Châm Cứu: Hợp cốc, Ngoại quan, huyệt lân cận chỗ đau.
Nhánh I: Toàn trúc xuyên Ngư yêu, Ty trúc không xuyên Ngư yêu, Thái dương, Dương bạch, Nghinh hương, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh II: Tứ bạch, Cư liêu, Quyền liêu, Nghinh hương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh III: Giáp xa, Đại nghinh, Địa thương, Thừa tương, Giáp thừa tương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
(Hợp cốc, Ngoại quan khu phong, tiết nhiệt; Hợp cốc một trong lục tổng huyệt trị vùng mặt, miệng. Châm tả huyệt cục bộ để thông kinh hoạt lạc, chỉ thống dựa theo ý ‘Thống tắc bất thống’).
Đau nhiều hoặc đau không ngủ được thêm Thần môn (Nhĩ huyệt), Thần đình. Có cảm giác nóng ở mặt, thêm Nội đình. Đau vùng trán thêm Đầu duy, Ấn đường. Đau quanh ổ mắt thêm Đồng tử liêu, Toàn trúc, Ngư yêu, Ty trúc không. Vùng mũi đau thêm Tỵ thông, Cư liêu xuyên Nghinh hương. Đau vùng trước tai thêm Nhĩ môn, Thính hội. Đau quanh vùng môi thêm Nhân trung, Thừa tương, Địa thương.
+ Phong Hàn Đờm Ngưng: Đau dạng co giật, nếu nặng thì đau không thể chịu được, khi đau da mặt xám như da chì, gặp lạnh đau tăng, thích chườm ấm, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch Khẩn.
Nếu hàn đờm ngăn trở kinh lạc, mặt có cảm giác như tê dại, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng dầy, mạch Nhu, Hoạt, Khẩn.
Điều trị: Khu phong, tán hàn, đạo đờm, thông kinh hoạt lạc. Dùng bài Xuyên Khung Trà Điều Tán gia giảm: Xuyên khung, Bạch chỉ đều 15g, Khương hoạt, Kinh giới, Phong phong đều 9g, Toàn yết, Ngô công, Nam tinh đều 6g, Cam thảo, Tế tân đều 3g.
Xuyên khung, Bạch chỉ, Khương hoạt, Phòng phong, Kinh giới khu phong, tán hàn. Ngoài ra, Xuyên khung khu phong, đưa khí lên trên, hoạt huyết, chỉ thống nhất là ở vùng đầu mặt; Bạch chỉ khu phong vùng mặt, đặc biệt ở kinh Đại trường và kinh Vị; Tế tân giảm đau rất hay, nhất là vùng bên trên cơ thể; Kinh giới và Phong phong giải cơ, chống co thắt; Toàn yết, Ngô công thông kinh, trị đau lâu ngày; Thiên nam tinh hoá đờm ngăn trở trong kinh mạch.
Lạnh nhiều thêm Phụ tử 9g. Ứ nhiều thêm Chỉ xác, Đan sâm, Ngũ linh chi đều 12g. có dấu hiệu biểu hàn rõ thêm Ma hoàng 9g. Có nội nhiệt kèm khát, táo bón, nướu răng sưng đỏ thêm Thạch cao 25g. sổ mũi hoặc nghẹt mũi thêm Thương nhĩ tử 9g, Kim ngân hoa. Ăn kém, khó tiêu, nôn mửa do uống thuốc này, thêm Mạch nha, Chỉ xác đều 9g.
Ghi chú: Phụ tử, Tế tân không nên dùng lâu dài.
Châm Cứu: Hợp cốc, Liệt khuyết. Huyệt cục bộ vùng đau.
(Tả Hợp cốc, Liệt khuyết để khu phong, tán hàn. Hợp cốc là một trong Lục tổng huyệt trị bệnh vùng đầu mặt, Liệt khuyết là lục tổng huyệt trị bệnh vùng đầu, gáy. Châm tả huyệt cục bộ để thông kinh, hoạt lạc, chỉ thống).
Nhánh I: Toàn trúc xuyên Ngư yêu, Ty trúc không xuyên Ngư yêu, Thái dương, Dương bạch, Nghinh hương, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh II: Tứ bạch, Cư liêu, Quyền liêu, Nghinh hương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh III: Giáp xa, Đại nghinh, Địa thương, Thừa tương, Giáp thừa tương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
(Hợp cốc, Ngoại quan khu phong, tiết nhiệt; Hợp cốc một trong lục tổng huyệt trị vùng mặt, miệng. Châm tả huyệt cục bộ để thông kinh hoạt lạc, chỉ thống dựa theo ý ‘Thống tắc bất thống’).
Đau nhiều hoặc đau không ngủ được thêm Thần môn (Nhĩ huyệt), Thần đình. Có cảm giác nóng ở mặt, thêm Nội đình. Đau vùng trán thêm Đầu duy, Ấn đường. Đau quanh ổ mắt thêm Đồng tử liêu, Toàn trúc, Ngư yêu, Ty trúc không. Vùng mũi đau thêm Tỵ thông, Cư liêu xuyên Nghinh hương. Đau vùng trước tai thêm Nhĩ môn, Thính hội. Đau quanh vùng môi thêm Nhân trung, Thừa tương, Địa thương.
+ Can Uất Hoá Hoả: Dễ tức giận, uất ức kèm một bên đầu hoặc mặt đau rát. Gặp nóng càng tăng. Đôi khi đau gây nên đau đầu. Mặt đỏ, mắt đỏ. Nặng hơn các cơ co giật, hoặc co thắt từng cơn ở vùng bệnh, đôi khi giữa các cơn người bệnh lại cảm thấy bình thường, miệng đắng, họng khô, bứt rứt, ngực đầy, hông sườn đau, hay mơ, ngủ không yên, nước tiểu vàng, táo bón, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền, Sác.
Điều trị: Thanh Can giải nhiệt, thông kinh hoạt lạc. Dùng bài Chi Tử Thanh Can Tán gia vị: Thạch cao 20g, Xuyên khung 15g, Ngưu bàng tử, Sài hồ, Bạch thược, Zf quy, Chi tử, Đơn bì, Cương tằm, Hoàng cầm đều 9g, Hoàng liên 3g.
(Xuyên khung, Thạch cao là hai vị thuốc đặc hiệu dùng trị đau ở đầu mặt do phong nhiệt gây nên, nhất là nhiệt ở kinh Thiếu dương và Quyết âm và Dương minh. Xuyên khung đưa khí lên trê, hoạt huyết, chỉ thống còn Thạch cao trừ nhiệt; Bạch thược hợp với Sài hồ giải Can uất; Bạch thược hợp với Đương quy dưỡng huyết, ngừa cho Can khỏi bị uất. Đương quy hoạt huyết; Chi tử, Đơn bì là cặp nối đặc hiệu để thanh nhiệt hoá uất ở Can, thêm Hoàng cầm, Hoàng liên hỗ trợ càng tăng tác dụng thanh nhiệt, trừ thấp ở Can và Vị. Ngô công, Cương tằm thông kinh, hoạt lạc, giảm đau; Ngưu bàng tử là vị thuốc chủ yếu trị đầu và mặt đau do nhiệt.
Châm Cứu: Hợp cốc, Hành gian, Túc lâm khấp. Huyệt cục bộ vùng đau.
Nhánh I: Toàn trúc xuyên Ngư yêu, Ty trúc không xuyên Ngư yêu, Thái dương, Dương bạch, Nghinh hương, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh II: Tứ bạch, Cư liêu, Quyền liêu, Nghinh hương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh III: Giáp xa, Đại nghinh, Địa thương, Thừa tương, Giáp thừa tương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
(Hợp cốc là một trong ‘Lục tổng huyệt’ trị vùng mặt, miệng. Châm tả để hành khí, chỉ thống. Châm tả Hành gian, Túc lâm khấp để thanh Can, tiết nhiệt. Châm tả huyệt cục bộ để thông kinh hoạt lạc, chỉ thống dựa theo ý ‘Thống tắc bất thống’).
Đau nhiều hoặc đau không ngủ được thêm Thần môn (Nhĩ huyệt), Thần đình. Có cảm giác nóng ở mặt, thêm Nội đình. Đau vùng trán thêm Đầu duy, Ấn đường. Đau quanh ổ mắt thêm Đồng tử liêu, Toàn trúc, Ngư yêu, Ty trúc không. Vùng mũi đau thêm tỵ thông, Cư liêu xuyên Nghinh hương. Đau vùng trước tai thêm Nhĩ môn, Thính hội. Đau quanh vùng môi thêm Nhân trung, Thừa tương, Địa thương.
+ Đờm Ngưng Ngăn Trở: Một bên đầu hoặc bên mặt đau dữ dội kèm đầu nặng hoặc đau dẫn đến tê, mất cảm giác, cảm thấy tê trong miệng, lưỡi xanh nhạt, rêu lưỡi nhờn, mạch Huyền, Nhu, Tế.
Điều trị: Khoát đờm, thông kinh hoạt lạc. Dùng bài Nhị Trần Thang và Thông Khiếu Hoạt Huyết Thang gia giảm: Xuyên khung, Bạch chỉ đều 15g, Bán hạ 12g, Đào nhân, Hồng hoa, Xích thược, Phục linh, Trần bì đều 9g, Cam thảo 3g, Sinh khương 2 lát.
(Bán hạ, Phục linh, Trần bì, Cam thảo, Sinh khương hoá đờm; Xuyên khung hành khí, hoạt huyết, hoá ứ, chỉ thống đặc biệt ở vùng đầu, mặt; Bạch chỉ khu phong vùng mặt, nhất là ở kinh Ddaị trường và kinh Vị: Đào nhân, Hồng hoa, Chỉ xác, Xuyên khung hoạt huyết, hoá ứ, chỉ thống. Đau nhiều thêm Bạch phụ tử 9g, Tế tân 3g. đau cố định thêm Thổ miết trùng, Tam thất đều 3g (tán bột, hoà với nước thuốc uống). Tê, mất cảm giác thêm Bạch phụ tử 9g, Tạo giác 5g. Đau lâu ngày không chịu được thêm Toàn yết (để cả đuôi), Ngô công đều 2g, Cương tằm 3g (tán bột, hoà nước thuốc uống). Tỳ hư thêm Bạch truật 9g, Hoàng kỳ 15g. Ứa nước miếng trong, ít đờm thêm Tế tân 3g, Can khương 6g. Ăn kém, khó tiêu, nôn mửa do uống thuốc này thêm Mạch nha, Chỉ xác đều 9g. Can uất khí trệ thêm Thanh bì, Hương phụ đều 9g, Xuyên luyện tử 5g.
Châm Cứu: Hợp cốc, Tam âm giao, Phong long, Huyệt cục bộ vùng đau.
Nhánh I: Toàn trúc xuyên Ngư yêu, Ty trúc không xuyên Ngư yêu, Thái dương, Dương bạch, Nghinh hương, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh II: Tứ bạch, Cư liêu, Quyền liêu, Nghinh hương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh III: Giáp xa, Đại nghinh, Địa thương, Thừa tương, Giáp thừa tương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
(Hợp cốc là ‘Lục Tổng Huyệt’ trị bệnh vùng đầu mặt, châm tả để hành khí, chỉ thống; Tam âm giao hoạt huyết, hoá ứ toàn thân, phối hợp với Hợp cốc tác dụng càng mạnh. Hai huyệt này hành khí, hoạt huyết mạnh ở vùng mặt. Phong long hoá đờm. Tả các huyệt cục bộ để thông kinh, hoạt lạc, chỉ thống).
Đau nhiều hoặc đau không ngủ được thêm Thần môn (Nhĩ huyệt), Thần đình. Có cảm giác nóng ở mặt, thêm Nội đình. Đau vùng trán thêm Đầu duy, Ấn đường. Đau quanh ổ mắt thêm Đồng tử liêu, Toàn trúc, Ngư yêu, Ty trúc không. Vùng mũi đau thêm tỵ thông, Cư liêu xuyên Nghinh hương. Đau vùng trước tai thêm Nhĩ môn, Thính hội. Đau quanh vùng môi thêm Nhân trung, Thừa tương, Địa thương.
+ Đờm Hoả Thượng Xung: Đau tức, rát từng cơn ngắn, căng trướng, đau nhiều khi ăn, thích chườm cay ấm lên vùng đau, miệng khô nhưng không thích uống, đầu nặng, ngực bụng đầy trướng, thỉnh thoảng nôn ra đờm, nước chua, đắng, miệng đắng, dễ tức giận, cáu gắt, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Huyền Hoạt, Sác.
Điều trị: Hoá đờm, thanh nhiệt, thông kinh hoạt lạc, chỉ thống. Dùng bài Hoàng Liên Ôn Đởm Thang gia vị: Xuyên khung, Diên hồ sách đều 15g, Phục linh 12g, Bán hạ, Trần bì, Chỉ thực, Trúc nhự, Nam tinh, Thiên ma, Đan sâm đều 9g, Hoàng liên 6g, Cam thảo 3g, Đại táo 3 trái.
(Bán hạ, Phục linh, Trần bì, Cam thảo (Nhị Trần Thang) là bài thuốc chính để trị đờm; Trúc nhự, Đởm nam tinh thanh nhiệt, hoá đờm; Chỉ thực hành khí, giúp quét sạch đờm; Hoàng liên vị rất đắng, tính lạnh, tả hoả và thanh nhiệt mạnh; Thiên ma trị phong đờm ngăn trở ở kinh mạch; Xuyên khung, Đan sâm, Diên hồ sách hoạt huyết, hoá ứ do đờm ngăn trở trong kinh mạch, chỉ thống.
Sốt cao thêm Hoàng cầm 9g, Thiên trúc hoàng 5g. Vị có nhiệt thêm Tri mẫu 9g, Thạch cao 20g.
Châm Cứu: Hợp cốc, Phong long, Nội đình. Huyệt cục bộ vùng đau.
Nhánh I: Toàn trúc xuyên Ngư yêu, Ty trúc không xuyên Ngư yêu, Thái dương, Dương bạch, Nghinh hương, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh II: Tứ bạch, Cư liêu, Quyền liêu, Nghinh hương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh III: Giáp xa, Đại nghinh, Địa thương, Thừa tương, Giáp thừa tương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
(Hợp cốc một trong ‘Lục tổng huyệt’ trị vùng mặt, miệng. Châm tả để hành khí, chỉ thống vùng mặt. Phong long hoá đờm. Phong long hợp với Nội đình để thanh nội nhiệt, hoá đờm. Hợp cốc (còn được coi là huyệt đặc hiệu) trị đau và nhiệt ở hàm trên. Châm tả huyệt cục bộ để thông kinh hoạt lạc, chỉ thống dựa theo ý ‘Thống tắc bất thống’).
Đau nhiều hoặc đau không ngủ được thêm Thần môn (Nhĩ huyệt), Thần đình. Có cảm giác nóng ở mặt, thêm Nội đình. Đau vùng trán thêm Đầu duy, Ấn đường. Đau quanhổ mắt thêm Đồng tử liêu, Toàn trúc, Ngư yêu, Ty trúc không. Vùng mũi đau thêmtỵ thông, Cư liêu xuyên Nghinh hương. Đau vùng trước tai thêm Nhĩ môn, Thính hội. Đau quanh vùng môi thêm Nhân trung, Thừa tương, Địa thương.
+ Khí Hư Huyết Ứ: Mặt đau, đau liên tục thời gian dài, đau dữ dội không chịu nổi, đau một chỗ cố định chứ không lan toả, mặt xám, khi đau có kèm giật giật, tay chân tê, sợ gió, tự ra mồ hôi, hơi thở ngắn, ngại nói, tiếng nói nhỏ, yếu, da mặt trắng nhạt, lưỡi có điểm ứ huyết, mạch Trầm, Tế, Nhược.
Điều trị: Ích khí, hoạt huyết, thông kinh hoạt lạc. Dùng bài Thuận Khí Hoà Trung Thang gia vị: Hoàng kỳ, Xuyên khung đều 15g, Đảng sâm, Bạch truật, Đương quy, Bạch thược, Xích thược, Địa long, Mạn kinh tử đều 9g, Trần bì, Cam thảo đều 6g, Thăng ma 4,5g, Sài hồ, Tế tân đều 3g.
(Bài Thuận Khí Hoà Trung Thang gia vị là một biến thể của bài Bổ Trung Ích Khí Thang. Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Cam thảo bổ trung, ích khí; Sài hồ thăng ma thăng dương khí để nuôi dưỡng trên mặt; Trần bì lý khí; Đương quy hoà huyết. Hoàng kỳ, Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết trong kinh mạch; Đương quy, Xuyên khung, Xích thược hoạt huyết ứ trệ trong kinh mạch; Mạn kinh tử, Tế tân chỉ thống ở vùng đầu, mặt; Địa long thông kinh, hoạt lạc, chỉ thống).
Bệnh lâu ngày xâm nhập vào kinh mạch thêm Toàn yết, Ngô công và Cương tằm đều 6g.
Nếu chỉ có huyết ứ, khí hư, thay bài Thuận Khí Hoà Trung Thang gia vị bằng bài Chỉ Kinh Tán gia giảm: Xuyên khung, Địa long, Xích thược, Đơn bì đều 15g, Cương tằm 12g, Đương quy, Đào nhân, Hồng hoa đều 9g, Toàn yết, Ngô công đều 6g. đau nhiều thêm Băng phiến 1g (tán bột, hoà vào nước thuốc uống).
Châm Cứu: Hợp cốc, Tam âm giao, Túc tam lý. Huyệt cục bộ vùng đau.
Nhánh I: Toàn trúc xuyên Ngư yêu, Ty trúc không xuyên Ngư yêu, Thái dương, Dương bạch, Nghinh hương, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh II: Tứ bạch, Cư liêu, Quyền liêu, Nghinh hương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh III: Giáp xa, Đại nghinh, Địa thương, Thừa tương, Giáp thừa tương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
(Hợp cốc một trong ‘Lục tổng huyệt’ trị vùng mặt, miệng. Châm tả để hành khí, chỉ thống vùng mặt. Tam âm giao hoạt huyết khứ ứ toàn thân. Hai huyệt này phối hợp có tác dụng hành khí, hoạt huyết mạnh vùng đầu mặt; Bổ Túc tam lý để ích khí. Châm tả huyệt cục bộ để thông kinh hoạt lạc, chỉ thống dựa theo ý ‘Thống tắc bất thống’).
Đau nhiều hoặc đau không ngủ được thêm Thần môn (Nhĩ huyệt), Thần đình. Có cảm giác nóng ở mặt, thêm Nội đình. Đau vùng trán thêm Đầu duy, Ấn đường. Đau quanhổ mắt thêm Đồng tử liêu, Toàn trúc, Ngư yêu, Ty trúc không. Vùng mũi đau thêmtỵ thông, Cư liêu xuyên Nghinh hương. Đau vùng trước tai thêm Nhĩ môn, Thính hội. Đau quanh vùng môi thêm Nhân trung, Thừa tương, Địa thương.
+ Âm Hư Dương Kháng, Huyết Ứ: Đau dữ dội, đau rát một chỗ ở một bên mặt, bên đầu, sốt về chiều, gò má đỏ, chóng mặt, tai ù. Lưng đau, gối mỏi, bứt rứt, mắt
đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc khô, mạch Huyền, Tế, Sác.
Điều trị: Tư âm, bổ Thận, thanh nhiệt, thông kinh hoạt lạc. Dùng bài Địa Hoàng Thạch Cao Thang: Sinh địa, Thạch cao, Huyền sâm đều 30g, Bạch thược 24g, Một dược 15g, Khương hoạt 6g, Tế tân, Thiên ma đều 3g.
(Sinh địa lương huyết; Thạch cao thanh phần khí. Hai huyệt phối hợp để tả hư nhiệt do âm hư gay nên; Huyền sâm, Bạch thược hỗ trợ dưỡng âm, thanh hư nhiệt; Khương hoạt, Tế tân, Thiên ma thông kinh, hoạt lạc, chỉ thống, nhất là ở vùng phần trên cơ thể.
Phía trên một bên mặt đau nhiều thêm Xuyên khung 15g. Phía dưới một bên mặt đau nhiều thêm Tri mẫu 15g. mặt giật giật thêm Câu đằng 15g, Ngô công 6g. mắt đỏ, chảy nước mắt thêm Cúc hoa 15g, Hoàng cầm 9g.
Âm hư, Can phong nội động gây tê, co giật vùng bệnh dùng bài Thiên Ma Câu Đằng Ẩm: Bạch thược 30g, Dạ giao đằng 20g, Câu đằng, Thạch quyết minh đều 18g, Xuyên ngưu tất, Ích mẫu thảo đều 15g, Phục thần, Bạch tật lê đều 12g, Thiên ma, Chi tử, Hoàng cầm, Sơn thù, Đỗ trọng đều 9g.
Châm Cứu: Hợp cốc, Phục lưu, Tam âm giao. Huyệt cục bộ vùng đau.
Nhánh I: Toàn trúc xuyên Ngư yêu, Ty trúc không xuyên Ngư yêu, Thái dương, Dương bạch, Nghinh hương, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh II: Tứ bạch, Cư liêu, Quyền liêu, Nghinh hương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
Nhánh III: Giáp xa, Đại nghinh, Địa thương, Thừa tương, Giáp thừa tương, Hạ quan, A thị huyệt. Mỗi lần điều trị chọn 2-3 huyệt, và thay đổi để châm.
(Hợp cốc một trong ‘Lục tổng huyệt’ trị vùng mặt, miệng. Châm tả để hành khí, chỉ thống vùng mặt. Phục lưu là huyệt Kim của kinh Thận, bổ huyệt này để bổ Thận; Tam âm giao là huyệt hội của ba kinh âm ở chân. Châm bổ để bổ Tỳ, Can, Thận âm. Châm tả huyệt cục bộ để thông kinh hoạt lạc, chỉ thống dựa theo ý ‘Thống tắc bất thống’).
Đau nhiều hoặc đau không ngủ được thêm Thần môn (Nhĩ huyệt), Thần đình. Có cảm giác nóng ở mặt, thêm Nội đình. Đau vùng trán thêm Đầu duy, Ấn đường. Đau quanhổ mắt thêm Đồng tử liêu, Toàn trúc, Ngư yêu, Ty trúc không. Vùng mũi đau thêmtỵ thông, Cư liêu xuyên Nghinh hương. Đau vùng trước tai thêm Nhĩ môn, Thính hội. Đau quanh vùng môi thêm Nhân trung, Thừa tương, Địa thương.
Tham Khảo: Châm Cứu Điều Trị
+ Sơ đạo kinh khí ở vùng đau. Huyệt chính: Thái dương, Toàn trúc, Tứ bạch, Hạ quan, Hiệp Thừa Tương. Huyệt phụ: Hợp cốc, Nội đình, Thái xung, Túc tam lý, Ngoại quan, Hiệp khê, Phong trì.
Cách châm:
- Nhánh 1 đau: dùng huyệt Thái Dương hoặc Toàn trúc. Châm Toàn trúc mũi kim phải hướng ra ngoài để truyền cảm giác ra vùng trán.
- Nhánh 2 đau: dùng Tứ bạch, mũi kim phải hướng lên, ra ngoài, cho lan truyền cảm giác đến môi trên.
- Nhánh 3 đau: lấy Hạ quan, Hiệp Thừa Tương. Châm Hiệp Thừa Tương mũi kim phải hướng xuống, vào phía trong để dẫn cảm giác đến môi dưới.
Tất cả lưu kim 15 phút.
Ý nghĩa: Thái Dương, Toàn trúc,Tứ Bạch, Hạ Quan, Hiệp thừa tương đều ở vùng của dây thần kinh tam thoa ở mặt, đó là các huyệt cục bộ, để sơ thông kinh khí vùng đau (Châm Cứu Học Thượng Hải).
Ngoại cảm phong tà thêm Hợp cốc và Ngoại quan để giải biểu, khu phong. Hoả của Can, Vị bốc lên thêm Thái xung, Nội đình để thanh tiết Hoả của Can, Vị. Âm hư Hoả vượng thêm Thái khê để dục âm, phối Phong trì để tiềm dương.
+ Nhánh 1 đau: Dương bạch, Thái Dương, Toàn trúc, Ngoại quan. Nhánh 2 đau: Tứ bạch, Cự liêu, Nhân trung, Hợp cốc. Nhánh 3 đau: Hạ quan, Giáp xa, Thừa tương, Nội đình (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
+ Dương bạch, Toàn trúc, Tứ bạch, Thượng tinh, Hạ quan, Giáp xa, Quyền liêu, Thừa tương (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu Học).
+ Huyệt chính: Tam gian, Hợp cốc, phối hợp với:
Nhánh 1 đau: Thái Dương, Thượng quan, Dương bạch, Toàn trúc. Nhánh 2 đau: Đồng tử liêu, Tứ bạch, Hạ quan, Quyền liêu, Cự liêu.
Nhánh 3 đau: Giáp xa, Đại nghinh, Thính hội.
Mỗi lần dùng 1 huyệt chính, thêm 1-2 huyệt phụ ở 3 nhánh (Thường Dụng Trung Y Liệu Pháp Thủ Sách).
+ Huyệt chính: Đồng tử liêu, Hợp cốc, Thái Dương. Phối hợp với Ấn đường. Châm đến khi có cảm giác tê, trướng là được (‘Trung Y Tạp Chí’ năm 1955)
+ Nhóm 1: Tứ bạch, Đồng tử liêu, Ế phong, Giáp xa, Toàn trúc, Khúc sai, Dương bạch, Ế phong, Hạ quan, Ty trúc không.
Nhóm 2: Thính cung, Giáp xa, Đại nghinh, Ế phong, Thiên dung (Tân Châm Cứu Học).
+ Huyền lư, Nhân trung, Nghinh hương, Hạ quan, Hợp cốc (Châm Cứu Học Giản Biên).
+ Tam gian, Tứ bạch (Châm Cứu Học HongKong).
+ Thông Kinh Hoạt Lạc. Châm A Thị huyệt, Ế phong hoặc Phong trì, Hợp cốc.
(Các A Thị huyệt gồm: Dương bạch, Tứ bạch, Nghinh hương, Địa thương, Thừa tương). Châm A Thị huyệt nào đau nhất, vê mạnh. Nếu đau không gia?m châm huyệt thứ 2... cách ngày châm 1 lần.
Ý nghĩa: A Thị huyệt để thông kinh khí ở các kinh bị tà khí làm trở ngại; Ế phong, Phong trì, Hợp cốc để giải biểu khu tà (Châm Cứu Học Việt Nam).
+ Thái dương, Phong trì, Hạ quan, Giáp xa, Hợp cốc (‘Thiểm Tây Trung Y Tạp Chí 1985, 460).
+ Nhánh 1: Ngư Yêu, Nhánh 2: Tứ bạch, Nhánh 3: Hạ quan hợp với Hiệp Thừa tương (Trung Y Tạp Chí 1987, 53).
+ Nhánh 1: Toàn trúc hợp với Đầu duy, Dương bạch. Nhánh 2: Tứ bạch, Quyền liêu. Nhánh 3: Giáp xa, Hạ quan, Quyền liêu(‘Tứ Xuyên Trung Y Tạp Chí’ 1987, 47).
+ Nhánh 1 đau: Thái dương, Thượng quan, Dương bạch, Toàn trúc. Nhánh 2 đau: Đồng tử liêu, Tứ bạch, Hạ quan, Quyền liêu. Nhánh 3 đau: Giáp xa, Đại nghinh (‘Giang Tô Trung Y Tạp Chí’ 1986, 33).
+ Nhánh 1 đau: Thái Dương xuyên Dương bạch, Dương Bạch xuyên Ấn Đường.
Nhánh 2 đau: Quyền liêu, Nghinh hương xuyên Tứ bạch hoặc Nghinh hương xuyên Quyền liêu, Quyền liêu xuyên Hạ quan. Nhánh 3 đau: Địa thương xuyên Giáp xa, Thừa tương xuyên Địa thương, Địa thương xuyên Nhân trung (‘Trung Tây Kết Hợp Tạp Chí’ 1985, 609).
+ Sơ thông kinh lạc, gia?m đau, châm ta? Hạ quan, Phong trì hoặc Ế phong, Hợp cốc. Nhánh 1: Thêm Ngư yêu. Nhánh 2: thêm Tứ bạch. Nhánh 3: thêm Địa thương (Thực Dụng Châm Cứu Đại Toàn).
Tham Khảo
+ Nguyên nhân chủ yếu của chứng Thần Kinh Tam Thoa đau chủ yếu là do huyết ứ ngăn trở trong kinh mạch gây nên, vì vậy, một số vị thuốc do côn trùng Toàn yết, Ngô công, Cương tằm, Địa long rất quan trong trong việc điều trị.
Điều Dưỡng
+ Nếu bệnh do nhiệt gây nên, kiêng ăn các thức ăn cay, nóng, chiên xào, mỡ, rượu
+ Nếu bệnh do đờm gây nên, kiêng ăn mỡ béo, thức ăn chiên xào, không dùng những thức uống quá ngọt: nước ngọt có gas (để tránh làm tổn thương Tỳ Vị).
+ Nếu bệnh do Can khí uất kết, tránh tức giận, uất ức, giữ cho tinh thần thư thái, nên tập thư giãn, thiền, yoga….
+ Theo các nhà nghiên cứu, châm hoặc dùng thuốc đều có kết quả trong việt điều trị vì vậy, có thể dùng một trong hai phương pháp trên. Trừ một số trường hợp cần rút ngắn thời gian điều trị, có thể phối hợp vừa uống thuốc vừa châm.
+ Điều trị bằng châm cứu, một số thầy thuốc cho rằng phải kích thích mạnh nhất là các huyệt Hạ quan, Giáp xa, Tứ bạch, Toàn trúc, lưu kim 1 giờ mỗi lần châm. Nếu chỉ dùng châm, mỗi tuần châm tối thiểu 2 lần, được ba lần thì tốt hơn. Dù huyệt Hạ quan là huyệt chính của nhánh thứ hai và ba nhưng nó cũng vẫn được dùng khi trị nhánh I. Để giảm đau, có thể châm Nội quan xuyên Ngoại quan và thêm Thần môn (Nhĩ châm), Thần đình.
+ Nhiều phương thuốc điều trị thần kinh tam thoa đau đã dùng vị Xạ hương. Dù Xạ hương rất mạnh và có hiệu quả nhưng rất mắc, khó mua, vì vậy, nhiều thầy thuốc đã thay bằng Tế tân và Băng phiến.
THẦN KINH SUY NHƯỢC
(Thần Kinh Suy Nhược - Neurasthenie - Neurasthenia)
A. Đại cương
Là một bệnh rối loạn chức năng của vo? não, Chủ yếu là sự mất thăng bằng nơi hai quá trình hoạt động hưng phấn và ức chế.
Các chứng Mất ngủ (Thất miên, Bất m), Tim đập hồi hộp (Chinh xung), Lo sợ (Kinh Quý), Hay quên (Kiện vong), chứng Uất, Đầu nhức, Hư tổn, Di Mộng tinh của YHCT có những triệu chứng của bệnh Thần kinh suy nhược. Thường gặp nơi thanh và tráng niên.
B. Nguyên nhân
- Chủ yếu là do thất tình: lo buồn, suy nghĩ, uất ức, sợ hãi, phẫn nộ, ưu tư... quá mức đều có thể gây ra bệnh.
- Thường là hậu qua? của 1 bệnh mạn tính làm a?nh hưở ng đến Tâm, Can, Tỳ, Thận. Các tạng này suy, gây nên bịnh.
C. Triệu chứng
Thường thấy choáng váng, đầu căng, nặng, tai ù, mắt mờ, trí nhớ giảm sút, tinh thần mỏi mệt, thích ngủ, chân tay mỏi yếu, mất ngủ, hay mơ, dễ bị xúc động, hồi hộp, run rẩy, chân tay lạnh, không muốn ăn, muốn ói, ói mửa, bụng trên đầy trướng, di tinh, tiết tinh.
Tuy nhiên, theo YHCT có thể phân làm 4 loại sau:
1 - CAN TỲ KHÔNG HÒA: tinh thần uất ức, dễ cáu giận, ngực nặng, sườn đau, muốn ói, ói mửa, bồn chồn không yên, bụng đầy trướng, đau, ăn uống kém, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền.
2 - THẬN ÂM HƯ - CAN HỎA VƯỢNG: mất ngủ, hay chiêm bao, di tinh, vùng tim và ngực nặng, nóng, đầu choáng váng, hồi hộp, run rẩy, chất lưỡi hồng, mạch Tế, Huyền, Sác.
3 - THẬN KHÍ HƯ SUY: lưng đau, di tinh, tả o tinh, tiết tinh, liệt dương, chân tay lạnh, đầu choáng, mắt hoa, tinh thần mỏi mệt, chân tay mỏi yếu, mạch Trầm, Tế, Nhược.
4 - TÂM TỲ LƯỠNG (ĐỀU) HƯ: mất ngủ, đầu đau, hay chiêm bao, hồi hộp, ăn uống kém, ngắn hơi, mệt mỏi, lưỡi có rêu, mạch Tế, Nhược.
D. Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: An Tâm thần, bổ Thận khí, điều Can Tỳ.
• Huyệt chính: Nội Quan (Tb.6) + Thần Môn + Ấn Đường xuyên đến vùng Tâm + An Miên + Túc Tam Lý (Vi.36) + Thái Khê (Th.3) .
. Can Tỳ không hòa: thêm Hành Gian (C.2) + Trung Quản (Nh.12) + Can Du (Bq.18) + Tỳ Du (Bq.20).
. Âm Hư Dương Thịnh: thêm Tâm Du (Bq.15), Khích Môn (Tb.4) + Thận Du (Bq.23) + Phong Trì (Đ.20) + Ty Trúc Không (Ttu.23).
. Thận khí Suy: thêm cứu Mệnh Môn (Đc.4) + Quan Nguyên (Nh.4) + Khí Hải (Nh.6). Kích thích vừa, lưu kim khoảng 10 phút.
Ý nghĩa: Bá Hội, Thái Xung, Nội Quan, Thái Khê để bổ Thận, bình Can, an tâm thần, thanh Tâm; Thận Du, Mệnh Môn, Quan Nguyên để ôn bổ cho Thận khí; Bá Hội, Nội Quan, Túc Tam Lý, Tam Âm Giao để bổ Tâm Tỳ.
2- Cứu Trung Quản (Nh.12) 50 tráng + Quan Nguyên (Nh.4) 100 tráng (Biển Thước Tâm Thư).
3- Mục Song (Đ.16) + Lạc Khước (Bq.8) + Bá Hội (Đc.20) + Thân Mạch (Bq.62) + Chí Âm (Bq.67) (Thần Ứng Kinh).
4- Ngư Tế (P.10) + Thiếu Thương (P.11) + Công Tôn (Ty.4) + Giải Khê (Vi.41) + Chí Âm (Bq.67) + Uyển Cốt (Ttr.4).
Nếu mộng, di tinh, cứu Trung Phong (C.4) 100 tráng hợp với Chí Thất (Bq.52), Cao Hoang (Bq.43) (Phổ Tế Phương).
5- Thần Môn (Tm.7) + Nội Quan (Tb.6) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Bá Hội (Đc.20) (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
6- Nhóm 1: Phong Trì (Đ.20) + Đại Trữ (Bq.11) + Tâm Du (Bq.15) + Tam Tiêu Du (Bq.22) + Quan Nguyên (Nh.4) + Nội Quan (Tb.6) + Túc Tam Lý (Vi.36)
Nhóm 2: Thiên Trụ (Bq.10) + Thân Trụ (Đc.12) + Quyết Âm Du (Bq.14) + Thận Du (Bq.23) + Khí Hải (Nh.6) + Thông Lý (Tm.5) + Tam Âm Giao (Ty.6) (Trung Quốc Châm Cứu Học).
7- Nhóm 1: Thiên Trụ (Bq.10) + Phong Trì (Đ.20) + Uyển Cốt (Ttr.4) + Đại Chùy (Đc.14) + Thân Trụ (Đc.12) + Can Du (Bq.18) + Đở m Du (Bq.19) + Tỳ Du (Bq.20) + Vị Du (Bq.19) + Tam Tiêu Du (Bq.22) + Đại Trường Du (Bq.25) + Thủ Tam Lý (Đtr.10) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Tam Âm Giao (Ty.6).
Nhóm 2: Tiền Đỉnh (Đc.21) + Bá Hội (Đc.20) + Tín Hội (Đc.22) + Đầu Lâm Khấp (Đ.15) + Dương Bạch (Đ.14) + Đầu Duy (Vi.8) + Bản Thần (Đ. 13) + Suất Cốc (Đ.8).
Hoặc: Hậu Đỉnh (Đc19) + Phong Phủ (Đc.16) + Á Môn (Đc.15) + Ngọc Chẩm (Bq.9) + Thiếu Hải (Tm.3) + Thông Lý (Tm.5) + Phong Trì (Đ.20) + Kiên Tỉnh (Đ.21) + Thiên Liêu (Ttu.15) + Khúc Viên (Ttr.13) + Phế Du (Bq.13) + Cao Hoang (Bq.43) (Lâm Sàng Đa Khoa Tổng Hợp Trị Liệu Học).
8- An Miên + Thần Môn (Tm.7) + Nội Quan (Tb.6), châm kích thích vừa, hoặc mạnh, lúc đi ngủ, ngày 1 lần.
Nếu không đỡ, thêm Ế Minh, Túc Tam Lý (Vi.36), Tam Âm Giao (Ty.6) (Thường Dụng Trung Y Liệu Pháp Thủ Sách).
9- An Miên 1 + An Miên 2 (Châm Cứu Học HongKong).
10- Bình Can, tiền dương, tư âm, giáng Hoả, bổ Thận hoặc bổ Tâm tỳ, an thần.
-Thận Âm Hư, Can Dương Vượng: Bá Hội (Đc.20) + Nội Quan (Tb.6) + Thái Xung (C.3) + Thái Khê (Th.3) đều châm tả .
-Thận Khí suy: Bá Hội (Đc.20) +Thận Du (Bq.23) + Mệnh Môn (Đc.4) + Quan Nguyên (Nh.4) đều châm bổ hoặc cứu.
-Tâm Tỳ Đều Hư: Bá Hội (Đc.20) + Nội Quan (Tb.6) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Tam Âm Giao (Ty.6), châm bổ (Châm Cứu Học Việt Nam).
11- Nội Quan (Tb.6) + Thần Môn (Tm.7) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thái Khê (Th.3). Dùng huyệt Nội Quan làm chính, tùy bệnh chứng phối hợp với các huyệt khác cho thích hợp (‘Thiểm Tây Trung Y Tạp Chí’ số 75/1985).
THẦN KINH THỊ GIÁC TEO
(Thị Thần Kinh Nuy Súc - Atrophie Optique - Optic Atrophy)
A. Đại cương
Là bệnh dây thần kinh thị giác bị thoái hóa. Người bệnh cảm thấy sức nhìn giảm dần cho đến khi mất hẳn. Nhìn ngoài thấy mắt như người bình thường.
Thuộc loại Thanh Manh, Thông Manh của YHCT.
B. Nguyên nhân
Có thể do:
Can Thận âm hư, tinh huyết kém.
Tỳ Vị hư nên tinh khí không đủ đưa lên nuôi dưỡng mắt.
C. Triệu chứng
Trên lâm sàng thường gặp hai loại chính:
1 - Khí Huyết Hư : thị lực giảm, ăn uống kém, hay mệt mỏi, da xanh, hơi thở yếu, chất lưỡi nhạt, mạch Tế Nhược.
2 - Can Thận Âm Hư: không còn nhìn thấy gì, da khô, hay đái gắt, miệng khô khát, tai ù, điếc, lưng đau, gối mỏi, ăn ngủ kém.
D. Điều trị
1- Châm Cứu Học Thượng Hải: Dưỡng Can, ích Thận.
Huyệt chính: Cầu Hậu + Hợp Cốc (Đtr.4) + Phong Trì (Đ.20) + Tinh Minh (Bq.1).
Huyệt phụ: Can Du (Bq.18) +Quang Minh (Đ.37) + Thận Du (Bq.23) + Thừa Khấp (Vi.1) + Túc Tam Lý (Vi.36).
Các huyệt ở vùng mặt châm từ từ vê nhẹ cho cảm giác lan đến hố mắt. Các huyệt khác kích thích vừa, lưu kim 10 - 15 phút, cách 1 ngày châm 1 lần, 15- 20 lần là 1 liệu trình.
2- Cự Liêu (Vi.3) + Đồng Tử Liêu (Đ.1) + Lạc Khước (Bq.8) + Thừa Quang (Bq.6) + Thương Dương (Đtr.1) + Thượng Quan (Đ.3) (Tư Sinh Kinh).
3- Can Du (Bq.18) + Dưỡng Lão (Ttr.6) + Đởm Du (Bq.19) + Quang Minh (Đ.37) + Thận Du (Bq.23) + Thương Dương (Đtr.1) (Loại Kinh Đồ Dực).
4- Toàn Trúc (Bq.2) + 5 huyệt ở trên đầu (Thần Đình + Thượng Tinh (Đc.23) + Tín Hội (Đ.22) + Tiền Đỉnh (Đ.21) + Bá Hội (Đc.20) ) + Uỷ Trung (Bq.40) [xuất huyết] (Nho Môn Sự Thân).
5- Nhóm 1: Cầu Hậu + Ế Minh + Tinh Minh (Bq.1).
Nhóm 2: Can Du (Bq.18) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thận Du (Bq.23) (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
6- Huyệt chính: Cầu Hậu + Tinh Minh (Bq.1).
Huyệt phụ: Ế Minh + Phong Trì (Đ.20) + Thượng Tinh Minh kích thích nhẹ (Thường Dụng Trung Y Liệu Pháp Thủ Sách).
7- Huyệt chính: Cầu Hậu + Thượng Tinh Minh (Bq.1). Huyệt phụ: Hợp Cốc (Đtr.4) + Phong Trì (Đ.20). + Quang Minh (Đ.37) + Thái Dương Cách 1 ngày châm 1 lần + 7 lần là 1 liệu trình + nghỉ 1 tuần rồi lại tiếp tục điều trị (Thẩm Dương Y Học Viện).
8- Cầu Hậu + Ngoại Tinh Minh + Tân Toàn Trúc (Tứ Xuyên Trung Y’ số 5/1985).
Mỗi lần dùng một huyệt.
Phối hợp với Tinh Minh (Bq.1) + Thừa Khấp + Tinh Hạ + Thượng Minh + Kiến Minh + Kiến Minh 1 + Kiến Minh 2 + Kiến Minh 4 + Phong Trì (Đ.20) + Hợp Cốc (Đtr.4) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Quang Minh (Đ.37) . Mỗi lần chọn 2-3 huyệt + lưu kim 10 - 15 phút.
9- Cầu Hậu + Thừa Khấp hợp với Đại Chùy (Đc.14) + Phong Trì (Đ.20). Mỗi lần chọn 1 huyệt chính + 1 huyệt phụ. Cách 1 ngày châm 1 lần. 10 lần là một liệu trình.
THẦN KINH THỊ GIÁC VIÊM, TEO
Đại cương
Là chứng mặt bị giảm sút thị lực một cách nhanh chóng, thuộc loại Bạo Manh của YHCT.
Bệnh tiến triển nặng sẽ làm các dây thần kinh teo lại gây nên mù (Thanh Manh).
Chứng
Thị lực tụt nhanh có thể bị mù (nếu viêm ở bó điểm vàng), thị trường co hẹp, đôi khi có ám điểm ở trung tâm, có khi không phân biệt được mầu, đồng tử có thể hơi co dãn.
Nguyên nhân
+ Theo YHHĐ:
. Bệnh ở mắt: màng bồ đào viêm, tổ chức hố mắt viêm, tĩnh mạch hố mắt viêm tắc.
. Ổ nhiễm khuẩn ở mũi, tai, răng, Amidal, đặc biệt là do xoang viêm chiếm tỉ lệ 30 – 40%, trị xoang hết viêm thì thần kinh thị giác cũng hết viêm.
. Bệnh nhiễm khuẩn: thương hàn, cúm, thấp khớp…
. Bệnh ở hệ thần kinh: Màng não viêm, não viêm do virus…
. Bệnh chuyển hóa: Đái tháo đường, thiếu Vitamin PP, A, thai nghén…
. Dị ứng: thức ăn, huyết thanh…
. Nhiễm độc mạn và cấp: rượu, thuốc lá, thủy ngân, thạch tín, thuốc ngủ, Quinin…
+ Theo YHCT:
. Giận dữ quá, kinh sợ quá làm cho khí huyết nghịch loạn hoặc tình chí uất ức, Can mất chức năng sơ tiết, khí trệ, huyết ngưng làm cho mắt bị ngưng trở gây nên bệnh.
. Uống rượu, hút thuốc lá, ăn thức ăn béo, bên trong sinh ra đờm nhiệt, bốc lên mắt gây nên.
. Ngoại cảm tà nhiệt dẫn vào tạng phủ làm cho tà nhiệt tích lại ở bên trong, công lên mắt.
. Can Thận âm hư, âm hư hỏa vượng, bốc lên mắt gây nên bệnh.
Biện Chứng Theo Đông Y
Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:
Khí Huyết Ngưng Trở
Chứng: Tinh thần uất ức hoặc giận dữ quá độ gây nên, đầu dây thần kinh thị giác mầu xanh trắng, động mạch ở phía dưới teo lại, niêm mạc mắt trắng đục, điểm vàng có chấm mầu đỏ như trái anh đào hoặc đầu dây thần kinh thị giác xung huyết, sưng, tĩnh mạch nổi cong queo, niêm mạc mắt sưng, có khi bị xuất huyết, toàn thân có dấu hiệu chóng mặt, đầu đau, ngực đầy, hông sườn đau, mạch Huyền hoặc Sáp.
Điều trị: Hoạt huyết, thông khiếu. Dùng bài Thông Khiếu Hoạt Huyết Thang Gia Giảm.
(Đào nhân, Hồng hoa, Xích thược, Xuyên khung để hoạt huyết, hóa ứ; Xạ hương hoạt huyết, thông lạc, khai khiếu; Đại táo điều hòa doanh vệ; Hoàng tửu, Thông bạch dẫn thuốc, thông lợi huyết mạch; Làm cho thuốc hoạt huyết, hóa ứ được chuyển lên trên (Trung Y Ngũ Quan Khoa Học).
Hoặc Câu Đằng Tằm Yết Thang (13).
Đờm Nhiệt Ủng Thịnh Ở Trên
Chứng: Tinh thần uất ức hoặc giận dữ quá độ gây nên, đầu dây thần kinh thị giác mầu xanh trắng, động mạch ở phía dưới teo lại, niêm mạc mắt trắng đục, điểm vàng có chấm mầu đỏ như trái anh đào hoặc đầu dây thần kinh thị giác xung huyết, sưng, tĩnh mạch nổi cong queo, niêm mạc mắt sưng, có khi bị xuất huyết. Toàn thân: Đầu nặng mà chóng mặt, phiền táo, ngực đầy, ăn ít, muốn nôn, đờm nhiều, miệng khô, rêu lưỡi vàng bệu, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Địch đờm, khai khiếu. Dùng bài Địch Đờm Thang Gia Giảm (32).
(Bán hạ, Quất hồng, Chỉ thực, Phục linh táo thấp, hóa đờm, lý khí, giáng nghịch; Đởm tinh, Trúc nhự thanh nhiệt, hóa đờm; Nhân sâm, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo để ích khí, kiện Tỳ, trị gốc gây nên đờm; Xương bồ hóa đờm, khai khiếu (Trung Y Ngũ Quan Khoa Học).
Can Hỏa Kháng Thịnh
Chứng: Một hoặc hai mắt bị bệnh. Mắt nhìn không rõ, ấn vào mắt thấy đau, chuyển động thì mắt đau, có dấu hiệu đầu dây thần kinh thị giác bị xung huyết, sưng, toàn thân có dấu hiệu đầu đau, tai ù, miệng đắng, họng khô, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác.
Điều trị: Thanh Can, tả hỏa. Dùng bài Cúc Hoa Minh Mục Thang (20) hoặc Long Đởm Tả Can Thang Gia Giảm (53).
Khí Trệ Huyết Ứ
Chứng: Một hoặc hai mắt bị bệnh. Mắt nhìn không rõ, ấn vào mắt thấy đau, chuyển động thì mắt đau, có dấu hiệu đầu dây thần kinh thị giác bị xung huyết, sưng, tinh thần uất ức, ngực đầy, hông sườn đau, ăn ít, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền.
Điều trị: Sơ Can, giải uất, hành khí, hoạt huyết. Dùng bài Sài Hồ Sơ Can Tán Gia Giảm (82).
(Sài hồ, Chỉ xác, Hương phụ để sơ Can, hành khí, giải uất; Xuyên khung, Xích thược, Cam thảo hoạt huyết, chỉ thống. Có thể thêm Đương quy, Uất kim, Đan sâm, Sơn tra để tăng cường tác dụng hành khí, hoạt huyết, tiêu trệ (Trung Y Ngũ Quan Khoa Học).
+ Côn Hạ Tán Kết Thang (19).
+ Sài Hồ Quy Thược Thang (81).
Âm Hư Hỏa Vượng
Chứng: Một hoặc hai mắt bị bệnh. Mắt nhìn không rõ, ấn vào mắt thấy đau, chuyển động thì mắt đau, có dấu hiệu đầu dây thần kinh thị giác bị xung huyết, sưng, tinh thần uất ức, toàn thân có dấu hiệu chóng mặt, tai ù, gò má đỏ, môi đỏ, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô, lưỡi đỏ, mạch Huyền, Tế, Sác.
Điều trị: Tư âm, giáng hỏa.
+ Tri Bá Địa Hoàng Hoàn Gia Giảm (130), Can Não Cao (12), Phục Minh Tán (75), Tứ Tử Hòa Huyết Thang (138).
Chung cho các loại:
Bổ Thận Minh Mục Hoàn (09), Cố Bản Hoàn Tinh Hoàn (18), Hoàn Tinh Bổ Thận Hoàn (36)
CHÂM CỨU
* Theo sách ‘Trung Y Cương Mục’:
+ Do ngoại cảm phong tà: Khứ phong, thông lạc, hoạt huyết, minh mục.
Châm Phong trì, Tinh minh, Đồng tử liêu, Toàn trúc.
(Phong trì khứ phong, thông lạc; Tinh minh, Toàn trúc, Đồng tử liêu là các huyệt cục bộ để sơ thông khí huyết, làm sáng mắt).
+ Do Khí Huyết Bất Túc: Ôn thông kinh lạc, dưỡng huyết, làm sáng mắt.
Châm Phong trì, Cầu hậu, Ngư yêu, Ty trúc không.
(Phong trì thông kinh, hoạt huyết; Cầu hậu, Ngư yêu, Ty trúc không là huyệt cục bộ để hành khí, hoạt huyết, nhu dưỡng mắt).
+ Do Can Dương Thượng Cang: Thư Can, giáng nghịch, trấn tỉnh, an thần.
Châm Bá hội, Não không, Can du, Hợp cốc, Thái xung, Quang minh.
(Can du, Quang minh, để sơ Can, dưỡng Can mà giáng nghịch ở Can Đởm; Bá hội, Não không là huyệt cục bộ để hành khí, hoạt huyết, làm cho sáng mắt; Thái xung, Hợp cốc để bình giáng Can dương).
Bệnh án MẮT MỜ DO ÂM HUYẾT HƯ HÀN
(Trích trong ‘ Cuộc Đời Và Kinh Nghiệm Của Người Thợ Già Trị Bệnh’ của Lê Đức Thiếp Việt Nam).
Huỳnh thị H, 30 tuổi, thợ may, độc thân. Gần tết, nhận đồ may quá nhiều, phải thức sáng đêm may cho kịp hàng cho thân chủ, sau đó bị mệt nhoài, mắt mờ không đọc được báo. Đã uống 1 ít thang thuốc của thầy thuốc ở gần nhà nhưng không thấy bớt. Khám thấy tròng trắng ở 2 mắt trắng tươi, tròng đen đen nhánh, hai đồng tử tinh nhanh như thường. Bệnh đã 3 tuần, mạch 2 bộ xích Trầm, Vi, không có lực.
Chấn đoán: Can Thận hư hàn.
Xử phương: Phụ Tứ Lý Âm Tiễn: Xuyên quy 12g, Hắc khương 8g, Thục địa 12g, Cam thảo 4g, Phụ tử 8g.
Sắc uống 2 thang. Khám lại, mắt đã đọc được báo, mạch hai bộ xích đã hơi có lực. Cho uống tiếp hai thang thì bệnh khỏi.
Khi trở lại tái khám, người bệnh cho biết: "Hôm đầu con cầm thuốc về, mẹ con cũng biết ít về thuốc, bà mở thuốc ra xem và lựa bỏ những miếng thuốc đen đem ra bỏ đi (con không biết đó là vị thuốc gì). Mẹ con nói: " Bệnh mắt mà ông ấy cho mày uống thứ này để mày mau mù à, lựa hết ra”. Con liền đáp: "Thầy đã cam đoan với con là thuốc này thế nào cũng khỏi rất nhanh. Xin mẹ cứ để nguyên cả cho con uống. Thật ra con uống lần đầu cũng hơi ngờ ngợ, nhưng rồi không thấy sao, khi uống hết lại thấy mắt sáng ra. Con mừng quá, cứ đem báo ra đọc thử hoài hoài. Bấy giờ mẹ con cũng mừng quá. Mẹ con bảo: "Lạ nhỉ, bệnh mắt mà uống Can khương, Phụ tử mà khỏi, nay tao mới thấy!
Nếu hỏi rằng tôi căn cứ vào đâu mà dám mạnh dạn cho bệnh mắt này uống Khương, Phụ thì xin thưa là tôi chỉ căn cứ vào mạch 2 bộ xích Trầm, Vi, không có lực mà quyết đoán là 'Can Thận hư hàn’ và cho uống Khương, Phụ chứ không nghi ngờ gì cả".
Bệnh án MẮT MỜ KHÔNG NHÌN THẤY
(Trích trong ‘Helping Yourself With Foot Reflexology’ của Mildred Carter).
Ông Sade, 45 tuổi. Ông tỏ vẻ thất vọng khi gặp tôi. Người ta cho ông biết là đôi mắt của ông không thể trị được và khuyên ông không nên đọc sách báo nữa để giữ cho đôi mắt đỡ mỏi mệt, còn nhìn được thêm ngày nào hay ngày đó. Khi ấn vào các điểm ở dưới lòng bàn chân, tôi nhận thấy ông chỉ thấy cảm giác đau ở đoạn dưới ngón chân thứ hai và ba, chỗ ngón chân tiếp giáp với bàn chân. Tay trái của tôi nắm chặt bàn chân ông, còn ngón cái của bàn tay phải bấm sâu vào gan bàn chân, đi dần từ gốc ngón chân cái về phái giữa hai ngón chân thư hai và ba.
Tôi bấm như thế cho ông mấy ngày liền, rồi hướng dẫn cho vợ ông ấy làm cho chồng ở nhà, vì từ nhà hai ông bà đến chỗ tôi trị hơi xa. Một thời gian sau gặp lại ông, mắt ông đã sáng. Ông cho tôi biết rằng khi đi khám mắt lại, bác sĩ chuyên khoa đã nói: “Tôi chưa bao giờ gặp trường hợp mắt khỏi hoàn toàn như thế bao giờ!”.
Bệnh án HOÀNG ĐIỂM VIÊM (Viêm Võng Mạc Trung Tâm Tiết Dịch)
(Trích trong ‘ Tạp Chí Đông Y’ số 122, Việt Nam).
Phạm Xuân H, 28 tuổi. Đang công tác bình thường, tự nhiên thấy nhức đầu nhẹ, 2 mắt có cảm giác nặng, lau dụi không mất, rất khó nhìn, có một quầng màu xanh thẫm che trước mắt, to bằng cái chén uống nước, vì vậy đọc sách không được, đi lại khó khăn. Khám chức năng thị giác theo chuyên khoa:
Thị lực mắt phải: 6/ 10, kính (không tăng.
Mắt trái: 4/ 10, (nt).
Làm thị truờng: Chu biên bình thường.
Soi mắt: Ở trung tâm có ám điểm tuyệt đối, rộng 200. Tim phổi, các bộ phận khác bình thường.
Khám thực thể mắt:
+ Bán phần trước bình thường.
+ Thủy tinh thể, Thủy tinh dịch bình thường.
+ Đáy mắt, thần kinh, gai thị, các huyết quản không có tổn thương.
+ Võng mạc vùng trung tâm cương tụ, không thấy ánh trung tâm.
+ Trên diện hoàng điểm có 1 số chấm, vết xuất tiết màu vàng nhạt.
Chẩn đoán:
+ Theo YHHD: Viêm võng mạc trung tâm tiền dịch.
+ Theo YHCT: Thận âm hư tổn (quan hệ cả Can).
Xử phương: Minh Mục Hoàn (Chỉ xác, Hạnh nhân, Ngưu tất, Phòng phong, Sinh địa, Thạch hộc – tán thành bột, làm hoàn).
Mỗi tuần tái khám một lần.
Sau 30 ngày: thị lực mắt phải tăng lên 8/ l0, mắt trái là 6/ 10, thị trường trung tâm nhạt mầu, đáy mắt hết cương tụ, bớt phù.
Sau 86 ngày, Mắt phải tăng 10/ 10, Mắt trái 12/ 10, thị trường trung tâm bình thường, đáy mắt hoàng điểm không thấy ánh trung tâm, tổn thương ổn định. Theo dõi, không thấy tái phát.
Bệnh án MẮT ĐAU CÓ MÀNG
(Trích trong ‘Tạp Chí Đông Y" số 115/1971, Việt Nam).
Hà Thị B, 35 tuổi, đi đắp bờ vùng, bị đất bùn bắn vào mắt không mở được, ở trạm y tế xã cho rửa mắt và nhỏ thuốc, nhưng đêm hôm đó không đõ, mắt cứ gặm, chói, nhức đầu, không ngủ được, mắt sưng to, điều trị trong 3 ngày mắt vẫn sưng, nhức nhối khó chịu, chuyển qua chữa Đông y. Khám thấy người bình thường, mắt bên phải sưng đỏ nhiều, không mở được, chói nhức, trong mắt không có màng, mắt bên trái hai mí đều sưng to, có tụ máu, sờ thấy cứng, trong mắt có màng phủ, lòng trắng sưng, lòng đen có màng trắng che kín, đồng tử trông giống như cùi nhãn, có dử, nước mắt nhiều.
Mắt bên phải trông thấy lờ mờ, mắt bên trái, giơ ngón tay không trông rõ, đau nhức từng cơn, ngồi ôm mắt. Tiếng nói to và nặng, thích ăn thứ mát. Từ khi bị đau mắt thì ngủ ít, miệng đắng, đầu thường bị bốc nóng lên bừng bừng, tai ù, tai đau, trong mắt rát, chói không chịu được, do đó phải kêu khóc, sợ mắt bị hỏng. Mạch 6 bộ đều Huyền Sác và đới Khẩn.
Chẩn đoán: Do nhiễn khuẩn (do đất bùn bắn vào mắt), cộng thêm bản thân vốn nhiệt, động hỏa sinh phong.
Điều trị: Dùng thuốc nước rửa để khử độc, tiêu viêm ở mắt, kết hợp uống thuốc hạ hỏa, tiêu viêm lương huyết.
Thuốc rửa:
Hoàng đằng 20g, Long đởm 15g, Bạch phàn 5g.
Nấu thành nước loãng, lọc kỹ, ngày rửa 3 - 4 lần, liên tục mấy ngày.
- Thuốc uống: Sinh địa 12g, Sơn chi 10g, Thạch hộc 12g, Hoàng cầm 10g, Huyền sâm 12g, Quy vĩ 8g. Các vị trên để hạ hỏa, tiêu viêm và lương huyết. Cốc tinh thảo 10g, Trùng thoái 5g, để tiêu màng mộng. Phòng phong 5g, Khương họat 5g, Kinh giới 5g để khứ phong giảm đau. Bạch chỉ 5g, Cam thảo 5g, Đại táo 2 quả để điều hòa thuốc. Sắc uống.
Châm thêm các huyệt Thái dương, Ty trúc không, Toàn trúc, Tinh minh, Hợp cốc, Tam âm giao, Hành gian, Quang minh. Châm bình bổ và tả.
Uống 12 thang thuốc và 6 lần châm thì khỏi. Mắt còn mờ, cho uống Lục Vị thêm Quy, Thược, Cúc hoa, Kỷ tử. Bệnh bình phục.
Tra Cứu Bài Thuốc..
Về TRANG CHỦ
Lượt xem:289.
SỔ TAY BÀI THUỐC NAM GIA TRUYỀN. TỪ CÂY NHÀ LÁ VƯỜN- Tác Giả: LÊ VĂN TUYÊN
Bí Mật Tư Duy Triệu Phú
Sách Thuốc Nam Kinh Nghiệm Chữa Bệnh Gia Truyền
Khám Phá Bí Mật Ngữ 12 Chòm Sao Trong Tình Yêu
Truyện Tình Yêu Hay
KHO TÀI LIỆU SÁCH THUỐC NAM ĐÔNG Y CŨ QUÝ
THÔNG TIN
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648

.Liên Hệ FACEBOOK:LÊ VĂN TUYÊN
Về TRANG CHỦ
Copyright 2014 © kenhGiaiTriAz.Wap.Sh

Old school Swatch Watches