ĐỘNG KINH
Giản Chứng - Epilepsie - Epileepsy.
Đại Cương
- Thuật ngữ “Động Kinh” dịch từ chữ Hy Lạp Epilepsia, có nghĩa là ‘nắm bắt’, ‘ngã tội lỗi’, ý nói cơn xẩy ra bất chợt, không biết trước, do thần linh điều khiển.
- Từ thế kỷ 1, Arétée, Galien và sau đó là Jean K Fernel đã mô tả triệu chứng học của Động Kinh.
- Năm 1580 Rolando mô tả động kinh cơn quay.
- Cuối thế kỷ 20, Hughlings Jacksen (1874 - 1911) lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về động kinh: Động kinh là 1 cơn kịch phát phóng điện đồng thời quá mức và tự duy trì của một quần thể Nơron trong chất xám của vỏ não.
- Từ đời nhà Thanh (1644), Hà Mộng Giao trong sách ‘Y Biên’ đã mô tả khá rõ về cơn động kinh: ‘ Bịnh giản khi phát thì hôn mê, ngã lăn ra, răng cắn chặt, đờm dãi kéo lên sặc sụa, nặng thì chân tay run rẩy, co cứng, mắt trợn trừng, họng kêu như tiếng súc vật, khi hết cơn, người trở lại bình thường’.
- Bịnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, từ trẻ rất nhỏ (vài tháng) đến người tuổi cao, nhưng động kinh thường khởi đầu ở tuổi trẻ (dưới 20 tuổi).
- Là 1 bịnh phổ biến ở nhiều nước, khoảng 0,5-2% dân số hoặc có từ 1-5 người bị động kinh trên 1000 dân. Theo sách Tâm Thần học của Kecbicôp.
- Cũng gọi là Điên Giản, Văn Chi, Dương Giản Phong.
Phân Loại
Tổ chức Y tế Thế Giới từ năm 1981 đã đưa ra bảng phân loại động kinh mà cho đến nay vẫn đang được dùng:
1- Phân loại theo cơn động kinh
+ Cơn động kinh cục bộ hoặc động kinh ổ: cơn cục bộ đơn thuần (cảm giác, vận động, thực vật, tâm thần), cơn cục bộ phức tạp (cơn tâm thần vận động hoặc cơn thùy thái dương), cơn cục bộ toàn hóa.
+ Cơn toàn bộ nguyên phát: cơn cứng giật (cơn lớn), cơn trương lực, cơn vắng ý thức không điển hình, cơn giật cơ, cơn mất trương lực, cơn co gấp trẻ nhỏ.
+ Động kinh trạng thái: thể cứng giật dưới dạng vắng ý thức, cơn cục bộ liên tục Kejewnikev.
+ Thể hồi quy: tản phát, chu kỳ, phản xạ (giật cơ ánh sáng, cảm giác bản thể do âm nhạc, động kinh khi đọc).
2- Phân loại theo nguyên nhân.
+ Động kinh nguyên phát (vô căn): không tìm được tổn thương thực thể của não trong tiền sử và hiện tại.
+ Động kinh triệu chứng (thứ phát): có các tổn thương thực thể khu trú ở não.
3- Phân loại theo điện não đồ.
+ Loại cơn phóng điện cực phát, đồng thời, đối xứng, lan tỏa 2 bên, tương ứng với động kinh nguyên phát cơn lớn cơn nhỏ.
+ Loại cơn phóng điện khu trú 1 diện giới hạn vỏ não, có hoặc không lan tỏa đến các phần còn lại của não, tương ứng với 1 tập hợp các cơ, gọi là động kinh khu trú, động kinh ổ, động kinh cục bộ.
- Sách ‘ Chẩn Đoán Tật Bịnh Châm Cứu Trị Liệu Khái Yếu’ chia chứng Giản thành 2 loại lớn là Dương giản và Aâm giản.
Ngoài ra, dựa theo chứng trạng, đặc biệt là theo tiếng kêu phát ra khi lên cơn động kinh, sách này chia ra 5 loại, ứng với 5 tạng.
1- Mã giản: há miệng, lắc đầu, kêu như ngực hí (Tâm)
2- Ngưu giản: Mắt trợn ngược, bụng trướng, kêu như trâu rống (Tỳ)
3- Trư giản: Sùi bọt mép, tiếng kêu như heo (Thận)
4- Kê Giản: đầu lắc, thân người cong lên, kêu như gà (Can)
5- Dương giản: mắt trợn ngược, lưỡi thè ra, kêu như Dê (Phế)
Nguyên Nhân
a- Theo YHHĐ ( sách Bách Khoa Thư - Bịnh Học):
1- Do chấn thương sọ não: cơn động kinh đầu tiên thường xẩy ra trong vòng 5 năm sau chấn thương, rất hiếm gặp sau 10 năm.
2- Do u não: Theo Brissaud E thì 50% u não có động kinh. Phần lớn các u này ở trên lều.
3- Do tai biến mạch máu não: Theo Merritt H thì 15% xuất huyết não, 7% lấp mạch do xơ mỡ, 15% xuất huyết dưới màng nhện có động kinh. Theo Pertuiset thì 155/222 trường hợp dị dạng não có động kinh.
4- Do nhiễm khuẩn nội sọ: Theo Bonnal 26% các áp xe não có động kinh. Ngoài ra thường gặp động kinh ở giai đoạn cấp của não, màng não, bị nấm, động mạch não viêm tắc.
- Do di truyền : Lennox (1975) điều tra trên 20.000 người có quan hệ họ hàng gần với người bịnh thấy có 4.231 ngưới bị động kinh vô căn. Trên 95 cặp sinh đôi dị hợp tử, tỉ lệ cả 2 bị động kinh là 14,5%.
- Do các nguyên nhân khác:
+ Do rối loạn chuyển hóa: Hạ đường huyết, hạ calci huyết, thiếu Pyridoxin (B6), rối loạn nước, điện giải.
+ Do các bịnh nội khoa: Tim suy, thận suy, Urê cao, ngộ độc các loại.
+ Do ấu trùng sán gạo heo khu trú vào não (nhất là ở VN).
b- Nguyên nhân theo YHCT
- Sách ‘ Lâm Chứng Chỉ Nam Y Aùn’ ghi:” Bịnh Giản hoặc do kinh sợ, hoặc do ăn uống không điều độ hoặc do khi còn ở trong thai đã bị động kinh làm cho tạng khí không bình thường, kinh mạch không điều hòa, biểu hiện bằng đờm tích, quyết khí nội phong, hôn mê. Khi khí thông thì tự khỏi”.
- Sách Nội Khoa Học của Thượng Hải và Thành Đô đều cho là do kinh sợ, ăn uống không điều hòa làm cho tạng phủ bị rối loạn dẫn đến đờm bị tích tụ, nội phong gây ra bịnh.
- Sách Châm Cứu Học Giảng Nghĩa ghi: Bịnh do tiên thiên (ở trẻ nhỏ) hoặc thấy tụ lại ở Tỳ Vị thành đờm hoặc bị kinh sợ, Can uất không thông, dương bốc lên gây ra phong động, đàm che lấp thanh khiếu gây ra bịnh.
- Sách Châm Cứu Học Thượng Hải ghi: ‘ Bịnh thường do Can Thận bất túc, làm cho Can phong nội động, đàm nghịch lên trên, kinh khí bị xáo trộn, thanh khiếu bị che lấp gây ra bịnh.’
Cơ Chế Sinh Bịnh
Sách Nội khoa Học T.Hải và T. Đô giải thích như sau:
Bịnh động kinh phần lớn do tạng phủ mất quân bình, chủ yếu ở Can Tỳ Thận và ảnh hưởng đến tạng Tâm gây ra.
Kinh sợ hại đến Can Thận, Can Thận suy yếu, không liễm được dương, dương bốc lên sinh ra nhiệt. Nhiệt sinh phong làm cho Can phong nội động, hoặc do nhiệt nung nấu tân dịch gây thành đàm, hoặc do ăn uống không đều làm cho Tỳ Vị bị tổn thương, không sinh đủ các chất tinh hoa (Dưỡng trấp), đàm trọc tụ lại. Khi tình chí bị uất kết hoặc lai động quá sức làm cho khí nghịch lên hoặc Can phong hợp với đàm nhiễu lên gây ra trở ngại kinh lạc và Tâm khiếu, gây ra bịnh, hoặc do bẩm thụ tiên thiên gây ra, nhất là ở trẻ nhỏ.
- Sách YHC Mục ghi: ‘ Bịnh động kinh do tà nghịch lên phía trên làm cho mạch đạo bị bế tắc, khổng khiếu không thông, tai nghe không rõ, mắt nhìn không thấy, chóng mặt hôn mê.’
Triệu Chứng Lâm Sàng
a- Theo YHHĐ ( Sách Tâm Thần Học và Sổ Tay Y Học Thường Thức)
Trên lâm sàng thường gặp 3 loại động kinh sau:
1- Cơn Động Kinh Toàn Thể (Cơn Lớn)
Vài giờ hoặc vài ngày trước đã có 1 số dấu hiệu (tiền triệu) như cơn đau nửa đầu, cơn đau dây thần kinh, rối loạn cảm giác, rối loạn tiêu hóa, hồi hộp tim, tính tình thay đổi, trầm cảm, run...
Ngay trước khi bắt đầu lên cơn, có 1 số dấu hiệu báo trước như chớp mắt nhiều, nghiến răng hoặc cảm giác như kiến bò, cảm giác phỏng, cảm giác như có gió thổi qua người, hoặc hoa mắt, mắt nổi đom đóm, tai ù, tai nghe tiếng chuông, mũi ngửi mùi khét, lưỡi có vị khó chịu, hắt hơi, hồi hộp, ngực đau tức, muốn ói, ói hoặc lo lắng, giận dữ, mơ mộng.....
Một cơn động kinh thường xuất hiện với 3 giai đoạn:
- Giai đoạn cường: Thường bắt đầu bằng 1 tiếng kêu rồi ngã ngay xuống đất bất tỉnh, chân tay cứng đờ, lồng ngực và cơ hoành giữ yên, không thở trong vài giây, mắt thâm tím do ngạt, hàm cắn chặt, răng nghiến lại. Giai đoạn này trung bình dài 30 giây.
- Giai đoạn giật: người bịnh bất ngờ co giật, nhịp nhàng, cơn giật ngày càng mạnh và thưa hơn, lưỡi thè ra và dễ bị cắn môi và mặt trong má cũng có thể bị cắn chảy máu. Các cơ mặt cũng bị co giật, nước miếng tiết ra nhiều dưới dạng sủi bọt. Các cơ vòng dãn ra, vì vậy hay đái ra quần. Giai đaọn này dài 2-3 phút và kết thúc bằng 1 tiếng rên, thở sâu và thư giãn.
- Giai đoạn hôn mê: nằm yên, thư giãn, mất cảmm giác và ý thức, mặt đỡ tím dần, có cảm tưởng là người bịnh ngủ say. Giai đoạn này dài từ 15 phút tới vài giờ. Sau đó, ý thức trở lại dần, lúc đã tỉnh đa số người bịnh vẫn có ý thức u ám, cơ thể đau nhức và không nhớ gì về cơn đã xẩy ra.
- Sau cơn: Có thể những dấu hiệu liệt, bán liệt, co cứng, mất cảm giác hoặc giảm cảm giác, nhìn kém nghe giảm, ói mửa, khó thở, Albumin/niệu trạng thái tâm thần u ám, hay giận dữ có thể bỏ nhà ra đi và sau đó cũng không nhớ rõ sự việc gì hết.
- Nhịp các cơn: Cơn hay xẩy ra ban đêm nhiều hơn, các cơn ban ngày cũng thường hay xuất hiện buổi sáng sớm nhiều hơn. Nhịp cơn thay đổi tùy mức độ nặng nhẹ. Lúc đầu thưa, 1 năm 2-3 cơn, sau đó dầy dần: hàng tháng hoặc hàng ngày, có những đợt nghỉ. Cơn dầy thì người bịnh bị loạn thần.
2- Cơn Động Kinh Nhỏ.
Thường là loại động kinh vô căn, hay gặp ở trẻ nhỏ. Đặc điểm là có những cơn vắng, những cơn co giật hoặc những cơn vô lực. Thời gian mỗi cơn không quá 30 giây nhưng xẩy ra nhiều lần trong ngày.
- Loại cơn vắng: là 1 biểu hiện của động kinh vô căn. Mất ý thức chốc lát trong 15_30 giây, trong khi đó, người bịnh ngừng mọi hoạt động nhưng các động tác tự động đơn giản thì vẫn còn, ví dụ như tiếp tục đi... Người bịnh không biết và nhớ gì về cơn vắng. Cơn vắng bắt đầu và chấm dứt đột ngột, không có gì báo trước. Người bịnh không bị ngã.
- Loại co giật cơ: Trong 3% cơn bé thấy có những co cứng cơ từng phần với những động tác của đầu và chi trên, ít khi mất ý thức.
- Thể vô lực: Trong 15% trường hợp người bịnh đột nhiên mất trương lực cơ, đánh rơi vật đang cầm trong tay, ngã khụy xuống trong khi ý thức vẫn tỉnh, và chỉ kéo dài 30 giây- 1 phút.
3- Cơn Động Kinh Cục Bộ (Bravais Jacksen)
Không có động kinh toàn thân mà chỉ có co giật, thường bắt đầu ở ngón tay cái, ngón chân cái rồi lan rộng thêm đến các vùng chung quanh. Thường ý thức vẫn còn, thời gian cơn ngắn chỉ vài phút.
b- Theo YHCT
Sách Nội Khoa Học Thành Đô và Thượng Hải đều giới thiệu 2 thể loại Giản chứng (động kinh) như sau:
1- Do Can Phong Đờm Trọc: Trước khi phát bịnh thường thấy chóng mặt, đầu đau, hông ngực đầy tức, buồn bực nghiến răng, trợn mắt, chân tay run giật, đờm dãi kéo lên, thở khò khè, có lúc hôn mê, lưỡi nhạt, mạch huyền hoạt (T. Hải). hoạt (T.Đô)
Biện chứng: Chóng mặt, đầu đau, buồn bực là do phong đờm bốc lên. Can phong nội động ảnh hưởng đến phong đờm, phong đờm bốc lên làm cho Tâm khiếu bị che lấp gây nên động kinh. Can bị uất sẽ làm hại Tỳ, Tỳ bị tổn thương không kiện vận được, đờm trọc sẽ sinh ra, phong đờm kéo lên làm đờm dãi tiết ra nhiều (khò khè, sùi bọt ở mép....) lưỡi nhạt, mạch Huyền là biểu tượng của Can, mạch Hoạt biểu hiện của đờm trọc.
Điều trị:
NKHT. Đô: Tức phong, khoát đờm, trấn tâm, khai khiếu dùng bài: Định Giản Hoàn (Y Học Tâm Ngộ Q. IV): Thiên ma 40g, Phục linh 40g, Viễn chí 28g, Bối mẫu 40g, Thạch xương bồ 20g, Toàn yết 20g, Đởm nam tinh 20g, Mạch môn 80g, Cương tằm 20g, Bán hạ 40g, Phục thần 40g, Hổ phách 20g, Trần bì 28g, Đan sâm 80g, Thần sa 12g. Tán bột. Dùng Trúc Lịch 100ml, nước cốt gừng 20ml, Cam Thảo 120g, sắc đặc thành cao, trộn với thuốc bột, làm hoàn, dùng Thần Sa bọc ngoài làm áo. Mỗi lần dùng 8-12g, ngày 2 lần.
(Trúc Lịch, Nam Tinh, Xương Bồ, Bán Hạ để trừ đờm, khai khiếu, Thiên Ma, Toàn Yết, Cương Tằm để bình Can tức phong. Hổ Phách, Thần Sa,Phục Thần, Viễn Chí để an thần).
Ghi chú: trước khi phát cơn nên dùng thuốc sắc, sau khi hết cơn, nên chuyển sang dạng thuốc viên.
- NKHT. Đô: Khoát đờm, tuyên khiếu, tức phong, định giản, dùng bài Định Giản Hoàn (xem trên).
- Sách TGD.Phương dùng bài Định Giản Thang (Cúc Hoa, Câu Đằng, Phục Linh, Cương Tằm, Trúc Nhự, Mộc Qua, Ty Qua Lạc, Đạm Trúc Diệp đều 12g, Bạc Hà, Nam Tinh, Bán Hạ, Trần Bì, Chích Thảo, Thiên Trúc Hoàng đều 4g- Sắc uống.
- Sách TQĐĐDYNPĐToàn dùng bài Điên Giản Phương: Tây dương sâm 60g, Bạch thược 60g, Bán hạ (chế) 40g, Phục linh 100g, Bạch truật (sao đất) 100g, Viễn chí (bỏ lõi, nướng mật) 60g, Hổ phách 60g, Toan táo nhân (sao) 100g, Quất hồng 60g, Thiên ma 60g, Đương quy 60g, Câu đằng 80g, Thiên trúc hoàng 80g, Đởm nam tinh 40g, Sài hồ 12g, Chích thảo 40g, Chu sa 40g, Ngưu hoàng 6g, Xạ hương 4g, Xích kim 50 miếng.
2- Do Can Hỏa Đờm Nhiệt: trước khi phát bịnh thấy chóng mặt, đầu đau, hông ngực đầy tức, buồn bực nghiến răng, trợn mắt, chân tay run giật, đờm dãi kéo lên, thở khò khè có khi bị hôn mê, tính tình thường hay nóng nảy, cáu gắt, ít ngủ, miệng khô, táo bón, lưỡi đỏ, mạch Huyền Sác.
Biện chứng: Can hỏa bốc lên, hỏa động sinh phong thiêu đốt tân dịch, làm tân dịch khô lại thành đờm. Phong động khiến cho đờm bốc lên che lấp thanh khiếu gây ra động kinh. Can khí vượng thì tính tình nóng nảy, hỏa quấy nhiễu tâm thần thì tâm phiền, mất ngủ. Lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch Huyền sác là Can hỏa đờm nhiệt quá mạnh gây ra.
Điều trị:
NKHT.Hải: Thanh tả Can hỏa, hóa đờm, khai khiếu dùng bài Long Đởm Tả Can Thang hợp với bài Dịch Đàm Thang.
Long Đởm Tả Can Thang (Y Phương Tập Giải): Long đởm thảo (sao rượu), Cam thảo
Hoàng cầm (sao), Xa tiền tử, Chi tử (sao rượu), Đương quy (tẩy rượu), Trạch tả, Sinh địa (sao rượu), Mộc thông, Sài hồ. Sắc uống.
Dịch Đàm Thang (Kỳ Hiệu Lương Phương): Nam tinh (chế gừng) 4g, Thạch xương bồ 4g, Bán hạ (nấu sôi 7 lần) 4g, Nhân sâm 4g, Chỉ thực (sao khô) 8g, Trúc nhự 2,8g, Phục linh (bỏ vỏ) 8g, Cam thảo 2g, Quất hồng 6g. Thêm Sinh khương 5 lát, Sắc uống.
(Long Đởm Thảo, Hoàng Cầm, Chi Tử, Mộc Thông để thanh Can tả hỏa, Bán Hạ,Quất Hồng, Đởm Nam Tinh, Xương Bồ để hóa đờm khai khiếu).
- Sách NKHT. Đô: thanh Can, tả hỏa, hóa đờm, khai khiếu dùng bài: Đạo Đờm Thang thêm Uất Kim, Chi Tử, Thạch Xương Bồ (Đạo Đờm Thang ‘Tế Sinh Phương’: Bán Hạ, Trần Bì, Phục Linh, Cam Thảo, Chỉ Thực, Nam Tinh).
- Sách LSĐKTHTL. Học: Từ Chu Hoàn (Từ Thạch 40g, Tần 20g, Kiến Khúc 40g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 12g).
Hoặc bài Từ Chu Hoàn Gia Vị (Từ Thạch 80g, Giả Thạch 80g, Bán Hạ 80g, Chu Sa 40g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g).
- Sách TGD.Phương dùng bài: Tức Phong Định Giản Phong Gia Vị (Trần Bì, Sài Hồ, Hoàng Cầm đều 4g, Bán Hạ, Nam Tinh, Hóa Bì, bạch truật, Can Khương đều 8g, Đương Quy, Câu Đằng, Đảng Sâm đều 12g, Thanh Đại, Lô Hội đều 2g, Chích Kỳ 20g- Sắc uống)
- Sách TQĐĐDYNPĐ.Toàn dùng bài: Kim Bạc Trấn Tâm Đơn (Chu Sa 12g, Hổ Phách. Thiên Trúc Hoàng đều 12g, Đởm Tinh, Trân Châu, Kim Bạc đều 4g, Ngưu Hoàng 2g, tán bột, làm hoàn, ngày uống 8-12g.
CHÂM CỨU TRỊ ĐỘNG KINH
- Sách CCT. Hải: khai khiếu, hóa đờm, bình can, tức phong. Thường dùng Phong phủ, Phong trì, Nhân trung, Đại chùy, Yêu kỳ.
. Nếu cơn nặng:
+ Phát vào ban ngày thêm Thân mạch, Nội quan (Gian sử), Thần môn (Thông lý)
+ Phát vào ban đêm thêm Chiếu hải, Nội quan(Giản sử), Thần môn (Thông lý).
. Nếu cơn nhẹ: thêm Nội quan, Thần môn, Thần đình.
. Động kinh cục bộ thêm Hợp cốc, Thái xung, Dương lăng tuyền, Tam âm giao.
. Cơn vắng ý thức: thêm Gian sử, Thần môn, Phong long, Cự khuyết hoặc Trung quản.
Ngoài ra có thể phối hợp Bá hội, Tâm du, Can du.
. Lúc phát cơn, châm kích thích mạnh, mỗi ngày hoặc cách 1 ngày châm 1 lần, 10 lần là 1 liệu trình.
Lúc chưa phát cơn có thể châm hoặc cứu Quan nguyên, Thái khê.
Ý Nghĩa: Bịnh động kinh chủ yếu do phong động, đàm nhiễu, âm dương nghịch loạn, thần minh bị che lấp gây nên, vì vậy dùng Phong trì, Phong phủ, Đại chùy để thanh tiết phong dương, định thần, tỉnh não. Thêm Nhân trung để điều tiết khí âm dương, khai khiếu, giải co giật. Yêu kỳ là huyệt theo kinh nghiệm của người xưa dùng chữa chứng giản, phát bịnh vào ban ngày là bịnh tại Dương kiều vì vậy dùng huyệt Chiếu hải.
Phát cơn nhẹ thêm Nội quan, Nhân trung, Thần môn, Thần đình để an thần, tỉnh não.
Cơn vắng ý thức dùng Phong long, Cự khuyết, Trung quản là để khoan hung, giáng đờm, thêm Gian sử, Thần môn để tỉnh thần.
Phát cơn cục bộ thêm Hợp cốc, Thái xung để khai tứ quan (ở tay và chân) thêm Dương lăng tuyền (h. hội của cân) để thư giãn, Tam âm giao để điều khí ở kinh âm ở chân, Bá hội để tỉnh não, Tâm du để an thần, Can du để bình Can, tức phong.
- Bộc tham, Kim môn (trị mã giản) (Giáp Ất Kinh).
- Thiên tĩnh, Thiếu hải hoặc Cân súc, Khúc cốt, Âm cốc, Hành gian (Thiên Kim Phương).
- Thân mạch, Hậu khê, Tiền cốc (Tư Sinh Kinh).
- Dũng tuyền, Tâm du, Túc tam lý, Cưu vĩ, Trung quản, Thiếu thương, Cự khuyết hoặc Chiếu hải, Cưu vĩ, Tâm du (trị mã giản) (CCĐ.Thành).
- Thần Đạo, Tâm Du BC. Phú:.
- Trung quản, cứu 50 tráng (BTT. Thư).
- Cưu vĩ, Hậu khê, Dũng tuyền, Tâm du, Dương giao, Túc tam lý, Thái xung, Gian sử, Thượng quản (YHC.Mục).
- Toán trúc, Thiên tĩnh, Thiếu hải, Thần môn, Kim môn, Thương khâu, Hành gian, Thông cốc, Tâm du (cứu 100 tráng), Hậu khê, Quỷ nhãn (T.Ư. Kinh).
- Nội quan, Hậu khê, Thần môn, Tâm du, Quỷ nhãn (CCĐ.Toàn).
- Cứu Kim môn, Bộc tham, Côn lôn, Thần môn, Giải khê (TCK.Luận).
- 1- Nhân trung,Hậu Khê, Thân Mạch (lên cơn)
2- Bá Hội, Trung Quản, Phong Long (ngoài cơn)
3- Tâm Du, Can Du, Tam âm giao (TQCCHK.Yếu).
- 1- Thiên Xung, Phong trì, Bá hội, Tâm du, Hậu khê. 2- Thân mạch, Bá hội, Tâm du, Hậu khê. 3- Ty trúc không, Nhân trung, Bá hội, Hợp cốc. 4- Côn lôn, Bá hội, Phong trì, Hợp cốc, Hậu khê, Thân mạch (CCHG. Biên).
- Cưu vĩ, Đại chùy, Yêu kỳ, Gian sử, Phong long (TBGTCC. Học).
- Huyệt chính: Phong trì, Phong phủ, phối hợp với Thông lý, Tam âm giao, Nội quan, Thái xung. Mỗi lần dùng 1 huyệt chính và 2 huyệt phụ. Kích thích mạnh, 10 lần là 1 liệu trình, nghỉ 3 ngày lại tiếp tục. Khí phát cơn châm Nhân Trung, Dũng Tuyền (TDYLPT. Sách).
- Huyệt chính: Á môn, Hậu khê. Phối hợp với Phong trì, Yêu kỳ, Nhân trung, Nội quan (KTCTL.Pháp).
- Phong long, Cưu vĩ, Thần môn, Gian sử, Cân súc, Yêu kỳ (CCHG.Nghĩa).
- Tân Trung Y số 29/1985:
1- Đại chùy, Điên giản, Yêu kỳ. 2- Đào đạo, Cách du, Mệnh môn. 3- Thân trụ, Can du, Yêu dương quan.
- Tứ Xuyên Trung Y Số 29/1985: Yêu kỳ, Bá hội, Ngoại quan, phối hợp với Cưu vĩ, Đại chùy, Trường cường, Chiên trung, Trung quản, Khí hải, Nội quan.
. Sách TDCCĐ. Toàn:
+ Lúc lên cơn: Nhân Trung, Dũng Tuyền, Hợp Cốc, Thái Xung, Hậu Khê, Thân Mạch.
+ Ngoài cơn: Phong Trì, Thần Môn,Nội Quan, Cưu Vĩ, Dương Lăng Tuyền, Thái Xung, Phong Long, Thân Mạch, Chiếu Hải, Bá Hội, Tam Aâm Giao, Yêu Kỳ.
Ghi Chú: Phát cơn ban ngày châm Thân Mạch.
Phát cơn ban đêm châm Chiếu Hải.
CÁC Y ÁN VỀ ĐỘNG KINH
+ Y Án Cơn Động Kinh Lớn
(Trích trong Trung Quốc Đương Đại Danh Y Nghiệm Phương Đại Toàn)
“ Hiệp, nữ, 7 tuổi, khám bịnh ngày 27/3/1982. Mỗi năm vào mùa xuân đều phát cơn ngã lăn ra bất tỉnh, đờm dãi trào ra ở miệng, tay chân co rút, ngày phát 4-5 cơn, trước ngày phát cơn thường đau đầu, trí nhớ giảm, tiêu tiểu bình thường, rêu lưỡi trắng bệu, mạch Huyền Hoạt, gần ngày phát cơn thì mũi nghẹt, sổ mũi họng đỏ, ho không ngừng.
Điều trị: thanh tuyên,khoát đờm, bình Can, trấn tĩnh.
Xử phương: Câu Đằng, Bạch Tật Lệ đều 12g, Thiên Tùng (chế), Trúc Lịch, Bán Hạ, Tang Diệp,Hạnh Nhân, Bối Mẫu đều 8g, Thiên Ma, Quất Hồng, Thiên Trúc Hoàng đều 6g, Tô Ngạnh 4g, Thuyền Thoái 2 cái. Uống hơn 1 tháng, đến sáu năm sau không thấy tái phát.
+ Y Án Động Kinh Do Can Đờm Trọc
(Trích trong Trung Quốc Đương Đại Danh Y Nghiệm Phương Đại Toàn)
“ Trương X, nam, 8 tuổi, 1 năm trước, vì sợ hãi, đột nhiên hôn mê, co giật. Gần 2 tháng nay, cứ 7-8 ngày lại phát cơn 1 lần. Diện mạo kém tươi, đêm ngủ mồ hôi ra nhiều, mạch Huyền hoạt, lưỡi hồng, rêu lưỡi nhạt. Điện não đồ thấy trung độ khác thường, cho dùng Khoát đờm Định Giản Tán (Xương Bồ, Thái Tử Sâm, Phục Linh, Đởm Tinh, Bán Hạ, Lục Khúc, Chỉ Xác đều 12g, Quất Hồng, Thiên Ma, Xuyên Khung, Khương hoạt đều 8g, Thanh Quả 10g, Trầm Hương 2g, Hổ Phách 1g. Tán bột, làm viên 0,5g). Cho uống ngày 3 lần, mỗi lần 10 viên. Uống liền 2 tuần thì không còn co giật nữa. Sau đó cho uống mỗi lần 6 viên. Một năm rưỡi sau không thấy tái phát.
+ Y Án Động Kinh Thể Can Hỏa Đờm Nhiệt
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
“ Bạch X, nữ, 32 tuổi, khám ngày 5-4-1969, đã bị động kinh hơn 10 năm. Trước khi lên cơn thường rú lên như Heo Dê kêu, sau đó bị hôn mê, ngã xuống miệng sùi bọt trắng, 2 mắt trợn ngược, chân tay co giật, ỉa đái dầm dề. Lúc bịnh nặng mỗi ngày lên cơn mấy lần, thường cơn kéo dài từ vài phút đến hơn 30 phút. sau khi tỉnh lại, thấy người mệt mỏi rã rời, không thấy triệu chứng gì khác. Mạch Huyền sác mà hoạt, rêu lưỡi vàng bẩn.
Chẩn đoán: Can hỏa hóa đờm nhiệt hợp với phong làm nhiễu loạn bên trong, che mờtâm khiếu.
Điều trị: Thanh Can, tả hỏa, hóa đờm tuyên khiếu, tức phong chỉ kinh. Cho dùng bài Tức phong định Giản thang gia vị (Trần Bì, Sài Hồ, Hoàng Cầm đều 4g, Bán Hạ, Nam Tinh, Hóa Bì, Bạch Truật, Can Khương đều 8g, đương quy, Câu Đằng, Đảng Sâm đều 12g Thanh đại Lô Hội đều 2g, Chích Kỳ 20g- Sắc uống, ngày 1 thang. Uống tất cả 50 thang, bịnh hết, khỏe mạnh như thường. Theo dõi 10 năm không thấy tái phát.
+ Y Án Động Kinh Do Can Hỏa Vượng
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
“ X nam, 6 tuổi, sau khi sinh được 1 năm bỗng nhiên 1 hôm thấy người không tỉnh táo, hôn mê, ngã lăn ra đất, chân tay co giật, miệng sùi bọt. Từ đó về sau có ngày lên cơn động kinh đến 10 lần. Thường thấy đầu bị thương do ngã, răng cửa gãy hết, bịnh nhân rất đau khổ, gia đình phải chịu gánh nặng đã nhiều năm, chẩn đoán lâm sàng là bịnh động kinh, đã Điều trị dài ngày ở địa phương chưa thấy có kết quả. Trước khi tới khám lần này, bịnh nhi lên cơn, bât ngờ ngã nhào, bất tỉnh, sùi bọt mép, 2 mắt trợn ngược, 2 tay co giật, kéo dài đến 15 phút mới tỉnh lại. Sau khi tỉnh, người mệt mỏi rã rời, sắc mặt không tươi, chât lưỡi đỏ, rêu vàng, trắng bẩn, gốc lưỡi hơi dầy, mạch Huyền hoạt hữu lực.
Chẩn đoán: Can hỏa thiên thịnh, hỏa sinh phong, phong động đờm đưa lên trên làm nhiễu loạn thần minh gây ra bịnh.
Điều trị: Thanh Can, tả hỏa, trừ đàm, tức phong, trấn tâm, an thần.
Xử phương: Cho dùng bài Điên Giản Thang
Bạch Phụ Tư,û Nam Tinh (chế), Bán Hạ,Mông Thạch đều 10g, Long Cốt, Mẫu Lệ đều 30g, Xương Bồ 6g, Qua Lâu 16g, Hổ phách, Toàn Yết, Trầm Hương, cam thảo đều 4g - Sắc uống ngày 1 thang. Uống liên tục 12 thang, bịnh tình dần dần có chuyển biến tốt, từ hơn 10 cơn/ ngày giảm còn 1-2 cơn. Thời gian lên cơn mỡi lần cũng rút ngắn. Mạch chuyển sang Huyền Tế Sác, lưỡi đỏ, rêu chuyển vàng mỏng, gốc rêu bẩn đã hết. Vẫn dùng bài thuốc này, thêm Sâm Tu 4g để tăng chính khí. Cho uống liên tục 20 thang, các triệu chứng đều hết, bịnh khỏi. Theo dõi 5 năm không thấy tái phát.’
+ Y Án Động Kinh Do Hàn Uất Hóa Nhiệt
(Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
“ Sái X, nam, 25 tuổi, khám bịnh ngày 6-9- 1978, bị động kinh đã 9 năm, chữa trị bằng nhiều cách nhưng chưa có kết quả. Trước khi đến khám, ngày nào cũng uống Dilantin, nhưng cứ khoảng 10-20 ngày lại lên cơn 1 lần. Khi lên cơn bao giờ cũng bắt đầu bằng 1 tiếng kêu thét, sau đó hôn mê ngã xuống, mép sùi bọt trắng, chân tay co giật.
Chẩn đoán: Hàn uất hóa nhiệt, tâm âm khí hư, can phong nội động hợp với đờm ngược lên gây ra bịnh.
Điều trị: Hóa đờm, tức phong, tư âm, định kinh.
Cho dùng Giản chứng hoàn (Thiên Trúc Hoàng 16g (tán mịn để riêng) thiên môn, bạch thược, Hương Phụ (chế) đều 90g, Phục Thần 12g, Tuyền Phúc Hoa 48g, Tô Tử, Bán Hạ(chế) đều 30g, Viễn Chí nhục (nấu chín), Tạo Giác Giáp (bỏ vỏ đen, bỏ hột rồi sao) đều 60g, Trầm Hương 10g, Chích Thảo 8g, dùng bột Hoài Sơn trộn với nước, hồ làm hoàn, dùng Chu Sa bọc ngoài).
Uống khoảng hơn 1 tháng, trong suốt thời gian này không thấy lên cơn. Cho uống tiếp 2 thang nữa và khuyên nên kiên trì uống liên tục. Uống hết thuốc, bịnh khỏi, theo dõi gần 2 năm không thấy tái phát.’
+ Y Án Động Kinh Thể Can Giản
(Trích trong Tạp Chí Đông Y số 197/1986)
“ Nguyễn X, 13 tuổi, đẻ đủ tháng nhưng phải can thiệp bằng Phorcep, lúc 10 tuổi xuất hiện động kinh. Mỗi tháng lên cơn 2 lần, co giật chân tay trái, mắt trợn, tinh thần bình thường, sắc da nhuận, thể lực trung bình, không phù, chất lưỡi đỏ, bệu, tiếng nói bình thường, hô hấp, hơi thở bình thường, lồng ngực 2 bên cân đối, không có ral. Aên ngủ được, đại tiện bình thường, hay ra mồ hôi, mạch Huyền.
Bệnh Viện Bạch Mai khi làm điện tâm đồ, kết luận có sóng động kinh.
Chẩn đoán: động kinh thể Can (Can Giản)
Điều trị: bình can, trấn kinh, an thần.
Châm Bá Hội, Cưu Vĩ, Yêu Kỳ, Giáp Tích D9-D12 (châm luồn kim) châm bình bổ bình tả. Ngày châm 1 lần. Sau 1 tháng (29-6-1985 đến đầu tháng 8-1985) không lên cơn động kinh nữa. Ngày 23-9-1985 cho xuất viện.
+ Y Án Động Kinh Vô Căn
(Trích trong Tạp Chí Đông Y số 161/1979)
“ Hồ Văn Y, 23 tuổi, bị động kinh từ 3 tuổi, không rõ nguyên nhân. Mỗi tháng có khoảng trên 50 lần động kinh cơn lớn. Người gầy ốm xanh xao, tâm trí lờ đờ, khờ khạo.
Điều trị: châm cứu + uống thuốc.
Thuốc uống: Thủy Xương Bồ 500g, Phèn Phi 37,5g tán bột làm thành 125 gói (mỗi gói có 4g Thủy Xương Bồ và 0,3g phèn phi). Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 gói.
Châm cứu: Thủy châm B12 vào các huyệt Điên Giản, Cân Súc, Đại Chùy, Phong Trì và dùng thuốc Nhau (Filatop) vào huyệt Yêu Kỳ.Cứ 7 ngày là 1 liệu trình.
Trong liệu trình II có 3 lần động kinh/tuần. Sau 1 tháng có 12 lần động kinh/tháng.
Sang tháng thứ 2, chỉ còn 8 lần lên cơn nhưng tương đối nhẹ so với tháng trước (tháng thứ 2 mỗi lần chỉ thủy châm 1 lần).
Bắt đầu từ tháng thứ 3, không lên cơn nào nữa
118. Động kinh
Biện chứng đông y:Hàn uất hóa nhiệt, tâm âm khí hư, can phong nội động, hiệp đờm ngược lên.
Cách trị:Hóa đàm tức phong, tư âm định kinh.
Đơn thuốc:Giản chứng hoàn.
Công thức:Thiên trúc hoàng 15g, (tán mịn riêng), Trầm hương 9g, Thiên đông 60g, Bạch thược 90g; Phục thần 120g, Chích cam thảo 18g, Viễn chí nhục 60g (đun chín), Mạch đông 60g (bỏ lõi), Toàn phụng hoa 45g, Tô tử 30g, Chế hương phụ 90g, Khương bán hạ 30g, Tạo giác giáp 60g (bỏ vò đen, bỏ hột rồi sao lên). Tất cả đem tán mịn lấy một lượng bột Hoài sơn dược vừa đủ, trộn đều cùng với nước, làm hoàn, lấy Chu sa làm áo, mỗi lần uống 9g, mỗi ngày uống 2-3 lần.
Hiệu quả lâm sàng:Sái XX,nam, 25 tuổi. Tới khám ngày 6-9-1978. Bệnh nhân bị động kinh đã 9 nǎm nay, đã tìm nhiều cách chữa trị nhưng chưa có kết quả. Trước khi tới khám, ngày nào cũng uống Phenytoin Natri (Dilantin), nhưng cứ khoảng 10-20 hôm lại lên cơn 1 lần, khi lên cơn bao giờ cũng bắt đầu bằng một tiếng kêu thét, sau đó hôn mê ngã xuống, mép sùi bọt trắng, chân tay co giật. Sau khi khám, cho điều trị một đợt "Giản chứng hoàn". Bệnh nhân uống trong khoảng hơn một tháng. Trong suốt thời gian này không thấy lên cơn. Lại tiếp tục cho dùng một đợt nữa, khuyên nên chịu khó kiên trì uống liên tục. Uống hết thuốc thì bệnh khỏi, theo dõi gần 2 nǎm, tình trạng bệnh nhân tốt, khoẻ như người thường, không thấy tái phát cơn động kinh.
Bàn luận:Bài thuốc "Giản chứng hoàn" này rút từ "Tiên tỉnh trai y học quảng bút ký" với tên gốc là "Bổ tâm ninh chi hoàn", gia giảm mà thành, đã thu được kết quả lý tưởng trên lâm sàng.
119. Động kinh
Biện chứng đông y: Phong đàn nội tụ, uất lâu hóa nhiệt, nhiệt đốt can âm, can dương thượng cang.
Cách trị:Trấn can tức phong, tư âm giáng hỏa, trừ đàm định kinh.
Đơn thuốc:Tam thạch thang.
Công thức:Sinh đại giả thạch 120g, Linh từ thạch 60g, Kim mông thạch 15g, Toàn yết 9g, Trần bì 9g, Pháp bán hạ 9g, Đạm trúc nhự 9g, Đảm nam tinh 9g, Sinh cam thảo 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:Tôn XX, nam, 18 tuổi, học sinh. Hơn 10 nǎm nay bị bệnh động kinh, đã dùng nhiều loại thuốc để chạy chữa mà không khỏi. Gần đây, bệnh tình lại phát triển, ngày nào cũng lên cơn, ít thì 1-2 lần, nhiều thì tới mấy lần. Khi lên cơn bệnh nhân thình lình thét lên, hai mắt trợn ngược, tay chân co giật, mép sùi đờm dãI, bệnh nhân vô cùng đau khổ. Khám thấy bệnh nhân tâm thần ngơ ngác, nói nǎng không lưu loát, trí nhớ kém, phân khô, mạch trầm huyền hữu lực hơi sác, chất lưỡi hơi đỏ, rêu vàng , trắng bẩn. Sau khi khám, cho dùng "Tam thạch thang" uống được một tuần đã giảm lên cơn, chỉ còn 2 lần, hơn nữa các triệu chứng cũng giảm đi rõ rệt. Rêu lưỡi giảm, mạch trầm huyền. Lại dùng bài thuốc trên, tiếp tục cho uống hơn 20 thang nữa, các cơn động kinh đã bị ngǎn chặn. Ngừng uống thuốc đã mấy nǎm, trong suốt thời gian này chỉ có 1 lần lên cơn, với các triệu chứng rất nhẹ. Trí nhớ của bệnh nhân đã khá hơn rất nhiều so với trước đây, cũng đã làm được một số công việc trong gia đình.
120. Động kinh
Biện chứng đông y: Phong đàm ứng trệ, nhiễu loạn thanh không, che mất tâm khiếu.
Cách trị:Khu phong hóa đàm, thông kinh khai khiếu.
Đơn thuốc:Định giản thang.
Công thức:Cúc hoa 9g, Câu đằng 9g, Bạc hà 3g, Đảm nam tinh 3g, Khương bán hạ 3g, Trần bì 3g, Vân phục linh 9g, Cương tàm 9g, Trúc nhự 9g, Thiên trúc hoàng 3, Tuyên mộc qua 9g, Ti qua lạc 9g, Chính cam thảo 3g, Đạm trúc diệp 9g, (trên đây là liều dành cho trẻ em). Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Nếu đàm nhiệt thịnh, có thể thêm Hoàng cầm (sao) 3g, Địa long 9g; nếu sau khi lên cơn co giật mà chân tay tê dại thì có thể thêm Nhẫn đông đằng 9-12g, Tang chi 9-12g, Kê huyết đằng 9-12g; nếu đầu váng mắt hoa, bồn chồn không yên thì có thể thêm Long xỉ 12-15g; với người nhiệt chứng không rõ thì thêm Khương hoạt tùy mức từ 3 đến 9g, Độc hoạt 3-9g; nếu tiêu hóa không tốt có thể tùy liệu thêm lượng vừa đủ Mạch nha, Cốc nha, Dĩ nhân.
Hiệu quả lâm sàng:Trần XX, nam, 5 tuổi. Tới khám ngày 28-4-1978, Bệnh nhi đẻ thuận, đủ tháng. Sau khi sinh, phát triển bình thường. Từ tháng 12-1977 bắt đầu phát sinh chân tay vô lực, không đi được, qua điều trị thì bệnh khỏi. Nhưng sau đó lại thấy cơ thể suy nhược, ǎn uống kém, rồi lên cơn động kinh. Khi tới khám, đúng vào lúc lên cơn động kinh, thấy bệnh nhi hai mắt lác đi, chân tay co giật, mép sùi bọt trắng, sắc mặt trắng bệch, người không tỉnh táo, lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn, vân tay đỏ. Sau khi cho dùng "Định giản thang". Trước sau khám tất cả 5 lần, cho dùng bài thuốc này có gia giảm, tất cả uống 24 thang, các triệu chứng đã khỏi, bình phục. Về sau bố mẹ bệnh nhi có viết thứ cảm ơn, kể rằng bệnh cháu bé đã khỏi hẳn.
121. Động kinh
Biện chứng đông y: Đàm trở ứng trệ, nghịch làm đờm theo khí dâng lên làm tắc thanh khiếu.
Cách trị:Giáng nghịch trừ đàm, khai khiếu tinh thần.
Đơn thuốc:Khương phàn thang.
Công thức:Sinh khương 9g, Sinh bạch phàn 3g. Hai vị này đem dùng đũa gỗ trộn đều thành dạng hồ, thêm nước vừa đủ, khi bệnh nhân lên cơn đem đổ vào miệng cho uống nhiều lần.
Hiệu quả lâm sàng:Lưu XX, nữ, 7 tuổi. Khám ngày 18-4-1964 Bệnh nhân đột nhiên hôn mê ngã vật xuống, mãi không tỉnh lại. Miệng đùn rớt dãi, chân tay lạnh cứng, cấm khẩu, bàn tay nắm chặt, khí úng, thở thô, trong cổ họng có tiếng đờm rít. Rêu lưỡi trắng bẩn, mạch trầm mà hoạt. Cho cấp cứu bằng "Khương phàn thang" đổ nhiều lần vào miệng. Lát sau bệnh nhi tỉnh lại như thường, lại chạy chơi.
Bàn luận:"Khương phàn thang" chủ yếu dùng để trị cho những bệnh nhân lên cơ động kinh mà thường mãi không tỉnh lại, tức là dùng cho những thực chứng đàm quyết thì tốt. Bài thuốc này nhằm giảm bớt đau khổ cho bệnh nhân phải chịu đựng thời gian lên cơn kéo dài. Trong bài thuốc này, Bạch phàn tinh vị chua hàn, táo thấp khứ đàm, Sinh khương tinh vị cay ấm, hạ khí khứ đàm. Hai vị phối hợp, hành khí tan đờm, thần tỉnh mà khiếu được khai.
122. Động kinh
Biện chứng đông y: Can hỏa đàm nhiệt, hợp với phong nhiễu loạn bên trong, che mờ tâm khiếu.
Cách trị:Thanh can tả hỏa, hóa đàm tuyên khiếu, tức phong chỉ kinh.
Đơn thuốc:Gia vị tức phong định giản thang.
Công thức:Trần bì 3g, Pháp hạ 6g, Nam tinh 6g, Hóa bì 6g, Sài hồ 3g, Hoàng cầm 3g, Thanh đại 1,5g, Lô hội 1,5g, Đương quy 9g, Câu đằng 9g, Chích hoàng kỳ 15g, Tây đảng sâm 9g, Bạch truật 6g, Can khương 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:Bạch XX, nữ, 32 tuổi. Tới khám ngày 5-4-1969. Bệnh nhân cho biết bị động kinh đã hơn 10 nǎm. Trước mỗi lúc lên cơn thường rú lên tiếng như lợn dê kêu, sau đó liền hôn mê, ngã ra đất, bất tỉnh nhân sự, miệng sùi bọt trắng, hai mắt trợn ngược, chân tay co giật, ỉa đái dầm dề. Lúc bệnh nặng, mỗi ngày thấy người mỏi mệt rã rời, còn không thấy triệu chứng gì khác.
Mạch huyền sác mà hoạt, rêu lưỡi vàng bẩn. Chứng này thuộc về can hỏa đàm nhiệt, hợp với phong làm nhiễu loạn bên trong, che mờ tâm khiếu. Cần trị bằng phép thanh can tả hỏa, hóa đàm tuyên khiếu, tức phong chỉ kinh. Sau khi khám, chúng tôi cho uống "Gia vị tức phong định giản thang" gia giảm, đã uống tất cả 50 thang, bệnh cũ đã hết, khỏe mạnh như thường. Theo dõi mười nǎm, không thấy tái phát.
Bàn luận:Trong bài thuốc này, vị Thanh đại, Hoàng cầm, Lô hội, Sài hồ có tác dụng thanh can tả hoả; Trần bì, Pháp hạ, Nam tinh, Hóa bì có tác dụng hóa đàm khai trọc. Người xưa có nói "tỳ là nguồn gốc sinh ra đàm", cho phối hợp dùng Đảng sâm, Hoàng kỳ, Trần bì, Bạch truật để bồ tỳ ích khí, vừa có thể triệt được nguồn gốc sinh ra đàm, lại vừa có thể giảm bớt tác dụng khổ, hàn làm hỏng vị của Thanh đại, Lô hội, phát huy tác dụng tức phong thông lạc của Đương quy, Câu đằng. Sách "Kim quỹ" có nêu "người bị bệnh đàm ẩm, nên dùng ôn dược để hóa". Do đó chúng tôi có phối hợp sử dụng Can khương cùng với Pháp hạ, Nam tinh, Hóa bì để ôn hóa đàm trọc. Trong bài thuốc, cùng lúc có sử dụng các vị hàn ôn hư thực, là phù hợp với sự phức tạp và ngoan cố của bệnh động kinh, cho nên sử dụng trên lâm sàng đạt hiệu quả tốt. Nhưng vì đây là một bệnh diễn biến phức tạp và lâu dài, nên tuyệt nhiên không thể dùng 1-2 thang thuốc mà khỏi được, nhất thiết phải uống thuốc kiên trì trong khoảng thời gian dài, bệnh mới có thể khỏi được.
123. Động kinh
Biện chứng đông y: Can hỏa thiên thịnh, hỏa sinh phong, phong động đờm dâng, nhiễu loạn thần minh.
Cách trị: Thanh can tả hỏa, tức phong trừ đàm, trấn tâm an thần.
Đơn thuốc: Điên giản thang.
Công thức: Bạch phụ tử 10g, Chế nam tinh 10g, Pháp hạ 10g, Toàn yết 3g, Mông thạch 10g, Trầm hương 3g, Long cốt 30g, Mẫu lệ 30g, Kiến xương bồ 6g, Hổ phách 3g, Qua lâu 15g, Cam thảo 3g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: X X, nam, 6 tuổi. Bệnh nhi sau khi sinh được 1 năm đột nhiên một hôm thấy người không tỉnh táo, hôn mê, ngã lăn ra đất, chân tay co giật, mép sỏi bọt, từ đó về sau có hôm lên cơn động kinh tới 10 lần, thường thấy đầu bị thương do ngã, răng của gẫy hết, bệnh nhi vô cùng đau khổ, gia đinh phải chịu gánh nặng lo buồn đã nhiều năm. Chuẩn đoán lâm sàng là bệnh động kinh, đã điều trị dài ngày ở địa phương, chưa thấy có kết quả rõ rệt. Trước khi tới khám lần này, bệnh nhi lên cơn, đột nhiên ngã nhào, bất tỉnh nhân sự, sủi bọt mép, hai mắt trợn ngược, hai tay có giật, kéo dài tới 15 phút mới tỉnh lại. Sau khi tỉnh người mỏi rã rời, sắc mặt không tươi, chất lưỡi đỏ, rêu vàng trắng bẩn, gốc lưỡi hơi dày, mạch huyền hoạt bất lực. Tổng hợp mạch và chứng, thấy đây là chứng can hỏa thiên thịnh, hỏa sinh phong, phong động đờm thăng, nhiễu đoạn thần minh. Cần trị bằng phép thanh can tả hỏa, tức phong trừ đàm, trấn tâm an thần. Cho dùng “Điên giản thang” liên tục 12 thang, bệnh tình dần dần có chuyển biến tốt, từ chỗ mỗi ngày lên cơn hơn 10 lần, giảm xuống còn 1-2 lần, mỗi lần lên cơn thời gian cũng rút ngắn, mạch chuyển huyền tế sác, chất lưỡi hơi đỏ, rêu chuyển vàng mỏng, gốc rêu bẩn đã hết. Vẫn dùng bài thuốc này, cho thêm Sâm tu 3g, để tăng chính khí. Lại cho uống liên tục 20 thang, các triệu chứng đều hết, bệnh khỏi theo dõi 5 năm không thấy tái phát. Bàn luận: Thực tiễn lâm sàng chứng minh rằng sau khi ứng dụng bài thuốc này, các triệu chứng cơn động kinh nói chung đều được khống chế hoặc giảm bớt trong một thời gian tương đối ngắn, trên cơ sở này tiếp tục kiên trì dùng thuốc.
Nhiều trường hợp có thể khỏi bệnh.
124. Động kinh
Biện chứng đông y: Đàm trọc nội tụ, làm tắc tâm khiếu.
Cách trị: Khu đàm tức phong, khai khiếu định giản.
Đơn thuốc: Dũ giản hoàn
Công thức: Đoạn từ thạch 30g, Chu sa 24g, Thanh bán hạ 45g, Thanh mông thạch 36g, Nam trầm hương 6g, Thiên túc hoàng 24g, Hổ phách 24g, Sinh giả thạch 30g, Lục khúc 120g, Nhị sửu 120g, Phù hải thạch 24g. Tất cả tán bột mịn, trộn nước làm hoàn nhỏ bằng hạt đậu xanh. Người lớn mỗi ngày uống 9g vào lúc sáng sớm chưa ăn gì, uống cùng nước đun sôi để nguội. Trẻ em uống theo liều giảm theo tuổi. Mỗi đợt điều trị là 30 ngày.
Hiệu quả lâm sàng: Lương X X, nam, 58 tuổi, nông dân. Tới khám ngày 20-3-1968. Ba năm về trước, một hôm đêm đang ngủ đột nhiên kêu thét một tiếng rồi hôn mê không biết gì nữa, sùi bọt mép, hai hàm răng cắn chặt, chân tay co giật, khoảng nửa giờ sau tỉnh lại, người mỏi mệt rã rời. Từ đó về sau, cứ khoảng trên dưới 1 tháng lại lên cơn động kinh 1 lần, thường uống phenytoin natri (dilantin) để ngăn chặn cơn. Gần đây các cơn thường xảy ra nhiều hơn, cứ hai ngày một cơn, dùng phenytoin natri cũng không ngăn chặn được nữa. Bệnh nhân tới xin chữa. Khám thấy người chậm chạp, mạch huyền, rêu m ỏng trắng. Chuẩn đoán là động kinh. Cho dùng “Dũ giản hoàn”. Bệnh nhân uống liên tục 3 đợt, nkhông thấy lên cơn động kinh nữa. Theo dõi 8 năm sau cũng không thấy tái phát. Tiểu X X, nữ, 19 tuổi. Tới khám ngày 7-8-1974. Bệnh nhân bị động kinh đã 9 năm, cứ cách mấy ngày lại lên một cơn, luôn luôn phải dùng phenytoin natri để ngăn cơn. Ba tháng nay bệnh tính nặng hơn, người cứ hơi nôn nóng, mệt mỏi hoặc xúc động là lại lên cơn, mấy hôm nay trong 1 ngày đêm lên cơn tới hơn 10 lần. Vẻ mặt đần độn, sắc mặt vàng võ tiều tụy, ăn uống kém, cơ thể hư nhược, người nhà phải dìu đến khám. Mạch huyền hoạt, rêu lưỡi mỏng trắng, hơi bẩn. Sau khi khám, chúng tôi cho dùng “ Dũ giản hoàn”, uống liên tục 2 đợt, hết cơn động kinh. Theo dõi 3 năm không thấy tái phát, người khỏe mạnh, tham gia sản xuất như người bình thường. Vương X X, nam, 1 tuổi rưỡi. Tới khám ngày 8-3-1976. Ba tháng trước đây, bệnh nhi co giật, hai mắt trợn ngược, răng cắn chặt, mép sùi bọt trắng, môi tím tái, khoảng 20 phút sau tỉnh lại như thường. Từ đó về sau, cứ cách vài ngày lại bị 1 cơn. Chuẩn đoán lâm sàng là động kinh ở trẻ nhỏ. Để giúp trẻ nhỏ uống thuốc dễ dàng, chúng tôi dùng “Dũ giản hoàn” làm thành bánh cho cháu bé ăn. Dùng thuốc được 1 tháng bệnh khỏi, theo dõi 1 năm sau cháu bé lớn lên khỏe mạnh hoạt bát, không thấy tái phát. Cách làm bánh “Dũ giản hoàn”: Lấy 100g Dũ giản hoàn tán mịn, chia làm 30 gói, mỗi ngày dùng 1 gói, trộn với bột mì trắng làm bánh, hoặc cho thêm đường làm thành bánh quy, trẻ nhỏ thích ăn nên đạt được mục đích điều trị.
125. Động kinh
Biện chứng đông y: Đờm mê tâm khiếu, tâm thần phù việt.
Cách trị: Giải uất hóa đàm, thanh tâm an thần.
Đơn thuốc: Phức phương bạch kim tán.
Công thức: Bạch phàn 60g, Uất kim 60g, Chu sa 15g, Hổ phách 30g, Phenytoin natri 30 viên. Đem tất cả tán mịn, trộn đều, chia thành 30 gói, mỗi ngày uống 1 gói, chia làm 2 lần. Mặt khác mỗi ngày lấy 3 lá Bạch giáp trúc đào đun nước uống thay nước chè (dùng gián đoạn). Trong thời gian uống thuốc và sau khi ngừng thuốc vài tháng, không được ăn thịt lợn, mỡ lợn.
Hiệu quả lâm sàng: Trương X X, nam, 16 tuổi. Tới khám tháng 11-1978. Hồi 5 tuổi bệnh nhân đã bị viêm não B, sau khi chữa khỏi không để lại di chứng. 11 tuổi bắt đầu bị động kinh, mỗi lần trước khi lên cơn đều thấy 2 tay tê, trong tim thấy khó chịu, khoảng 6-7 giây sau thì người không còn tỉnh táo, sắc mặt trắng bệch, hai mắt trợn ngược, mép sùi bọt trắng, có tiếng như tiếng dê kêu, sau 3-4 phút thì tỉnh lại, cảm thấy toàn thân mệt mỏi rã rời. Nói chung cứ nửa tháng lại lên 1 cơn, lâu thì 2-3 tháng mới lên một cơn, mau thì một ngày có thể lên 2-3 cơn. Phần lớn lên cơn vào ban đêm. Đã dùng Phenytoin natri, châm cứu đơn kinh nghiệm …nhưng vẫn lên cơn như cũ. Sau khi khám, chúng tôi cho dùng “Phức phương bạch kim tán” uống thuốc liền 3 tháng, bệnh khỏi. Trong thời gian uống thuốc, chỉ lên cơn 2 lần. Sau khi ngừng thuốc theo dõi hơn 1 năm sau vẫn không thấy lên cơn, trong thời gian này có lên 2 lần rất tức giận mà cũng không sinh bệnh. Ngoài bệnh án này, chúng tôi còn chữa cho 3 bệnh nhân động kinh khác, cách chữa trên, đều khỏi cả.
Bàn luận: Động kinh trong đông y còn gọi là “giản”. Y học hiện đại xếp loại bệnh này thuộc hệ thống thần kinh. Trị liệu đông y chú trọng vào việc hóa đàm, thanh tâm, trấn kinh, an thần. Bài thuốc Bạch kim hoàn nguyên là một trong những bài thuốc chủ yếu trị đờm lấy từ “Ngoại khoa toàn sinh tập – thuốc gia truyền họ Mã”, còn được gọi là Điên giản bạch kim hoàn, Bạch ngọc hóa đàm hoàn. Trong bài này có Bạch phàn nhập tỷ hóa đàm, Uất kim nhập tâm làm mát huyết, hoạt huyết khai khiếu, lại thêm Hổ phách, Chu sa để trấn kinh an thần. Chúng tôi cho them một ít Phenytoin natri để phòng lên cơn. Bài thuốc có tác dụng tổng hợp, hóa đàm khai khiếu, trấn tĩnh an thần, hành khí hoạt huyết, chống động kinh. Lá Bạch giáp trúc đào uống thay nước chè, có tác dụng cường tim rõ rệt, tác dụng của lá mạnh hơn so với các bộ phận khác của cây Bạch giáp trúc đào, lại còn có tác dụng chống động kinh. Dân gian cũng có dùng 3 lá Giáp trúc đào cùng với Sinh thiết lạc 60g, sắc lấy nước để chữa động kinh. Nhưng thuốc này có tác dụng gây độc nhất định, nên không được dùng liên tục và dùng nhiều, dùng dài ngày. Đó là điều cần chú ý.
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648