Xung quanh cuộc đời các đế vương xưa, chỉ tính những người được sử sách ghi chép, luôn được bao phủ bởi các câu chuyện nhuốm màu huyền hoặc, kỳ bí.
Từ lúc được thụ thai hoặc khi mới sinh ra, họ đã sở hữu bản lí lịch li kì khác người. Đâu là căn nguyên dẫn đến thực tế lạ kì ấy?
Từ sự thụ thai mang dấu ấn của giấc mộng lạ…
Bản ngọc phả viết về Lý Nam Đế - hoàng đế đầu tiên của Việt Nam -mang tênViệt Thường thị Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền, do Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm 1572, dưới triều vua Lê Anh Tông, khi chép về thân thế Lý Nam Đế đã cho biết nhà vua được thụ thai từ giấc mơ kì lạ của người mẹ.
Ngọc phả viết: “Khi đó có gia trưởng một bộ thuộc đất châu Dã Năng xứ Kinh Bắc, họ Lý húy Toản, lấy vợ người Châu Ái sau đổi là Thanh Hoa là Lê Thị Oanh… Khi đó, Lý công tuổi ngoài bốn mươi, Thái bà họ Lê tuổi ngoài 30 mà vẫn chưa một lần sinh nở. Một hôm Thái bà nằm nghỉ ở ngoài sảnh đường thiếp đi, bỗng thấy trời đất tối đen, ngước nhìn thấy từ trên trời có đám mây ngũ sắc trong đó có hai rồng, một màu trắng, một màu vàng, cùng tranh giành sao Thái dương. Sao Thái dương bỗng nhiên giáng xuống miệng Thái bà, rồng vàng giáng thẳng xuống bụng Thái bà. Thái bà bỗng tỉnh dậy, biết đó là giấc mộng, liền nói với Thái ông. Thái ông nói rằng theo như báo mộng thì tất thị nhà ta có phúc lớn, trời ban hiền nhân, đất sinh tuấn kiệt, thiện thay, thiện thay. Nói xong, tự nhiên Thái bà như đã có thai”.
Lý Nam Đế chào đời từ giấc mơ lưỡng long của người mẹ.
Mô-típ nằm mơ gặp thần thánh hay điềm lành, vật lạ còn thấy ở các đời hoàng đế về sau. Với Lê Đại Hành thì “mẹ là Đặng thị, khi mới có thai chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt, bèn lấy chia cho mọi người, còn mình thì không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào”. Còn Lý Thái Tổ thì tương truyền mẹ vua nằm mơ giao hợp với thần nhân nên có thai. Lý Thánh Tông có “Mẹ là Kim Thiên Thái hậu họ Mai, khi trước chiêm bao thấy mặt trăng vào bụng rồi có mang”. Tương tự, Trần Thánh Tông có “Mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu Lý thị, nhân Thái Tông chiêm bao thấy thượng đế trao cho gươm báu, hậu có mang” (Đại Việt sử kí toàn thư).
Sang các thời Hậu Lê và Nguyễn, mô-típ này tiếp tục được phát huy và bổ sung thêm nhiều chi tiết hơn.
Khi viết về Lê Thánh Tông, sáchĐại Việt sử kí toàn thưcho hay: “Mẹ vua là Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô thị, người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa. Trước kia, khi còn là Tiệp dư, Thái hậu đi cầu tự, mơ thấy thượng đế ban cho một tiên đồng, thế rồi có thai (Tục truyền rằng Thái hậu khi sắp ở cữ, nhân thư thả chợp mắt, mơ thấy mình đến chỗ Thượng đế, Thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con Thái hậu, tiên đồng chần chừ mãi không chịu đi, thượng đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra, sau tỉnh dậy, rồi sinh ra vua, trên trán vẫn còn dấu vết lờ mờ như thấy trong giấc mơ, mãi đến khi chết, vết ấy vẫn không mất)”.
Lê Thánh Tông vốn là tiên đồng chuyển sinh.Hình minh họa
Cũng sách trên, khi chép về Lê Hiến Tông, có đoạn: “Trước đây, Thánh Tông chưa có con nối, Quang Thục Hoàng Thái hậu từng cầu đảo, sai Đức Trung đến cầu ở am Từ Công núi Phật Tích, chiêm bao thấy đến trước mặt thượng đế cầu tự. Thượng đế phán: “Cho sao Thiên Lộc làm con Nguyễn thị”. Nói rồi cho ẵm đến ngồi ở trước. Bấy giờ, Trường Lạc Hoàng Thái hậu ở cung Vĩnh Ninh, tức thì có mang. Đến khi đủ ngày đủ tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống, bay vào trong phòng, một lát sau thì sinh ra vua”.
Dưới triều Nguyễn, hoàng đế Minh Mạng dường như đã được trời định trước là sẽ làm vua, nên mới có chuyện: “Trước khi sinh vua, hoàng hậu nằm mơ thấy người thần dâng một cái ấn, sắc đỏ như mặt trời. Vua sinh ra thực ứng vào điềm ấy” (Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỉ). Cháu nội ông là hoàng đế Tự Đức cũng mang “thiên số” tương tự, ngay từ khi thân mẫu “chiêm bao thấy một vị thần, mặc áo rộng thắt đai to, đầu râu, tóc bạc, mang một tờ giấy vàng viết chữ son có đóng dấu ngọc và một chuỗi hạt minh châu trao cho. Vua sinh ra, đúng ứng vào điềm ấy” (Đại Nam thực lục chính biên, đệ tứ kỉ)…
…Đến ngày chào đời khiến trời đất thay đổi
Trở lại chuyện Lý Nam Đế, ông được tạo hình hài lạ kì là thế, nhưng ngày chào đời cũng đầy chuyện đáng nhớ. Ngọc phả cho biết: “Vào giờ Thìn ngày 12 tháng 9 năm Quý Tị sinh hạ một nam. Thần tướng lẫm liệt, diện mạo khác thường, mày như mày vua Nghiêu, mắt như mắt vua Vũ, lưng như lưng vua Thang, quả là không phải người thường. Khi sinh có mây sa sầm, mưa gió nổi lên, hương thơm đầy phòng, khí lành tràn ngập trong phòng. Xuân qua đông tới, đến lúc 3 tuổi, đã thông âm luật, cha mẹ liền đặt tên là Bí”.
Một trường hợp khác là Ngô Quyền, vị vua khai sáng nhà Ngô ở thế kỉ 10: “Khi vua mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, trạng mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương nên mới đặt tên là Quyền” (Đại Việt sử kí toàn thư).
Còn hoàng đế Lý Thái Tông ngay khi được sinh ra đã khiến con trâu trắng ở nhà nọ trong vùng tự nhiên thay sừng, để những bậc thức giả đều cho là điềm đổi mới trong tương lai.
Vua Minh Mạng sinh ra từ giấc mộng trời ban ấn kiếm của thân mẫu.
Ở thế kỉ 17, chúa Nguyễn Phúc Chu là người từ rất sớm đã khiến thiên tượng thay đổi khi có mặt trên cõi đời: “Trước kia, năm Giáp Dần, mùa thu, ở phương Tây Nam trên trời mở ra một lỗ, có mây sắc vận quanh, ở giữa một luồng ánh sáng rực trời toả ngay vào chỗ nhà mẫu hậu ở, người thức giả cho là điềm thánh. Năm sau chúa đúng kì giáng sinh, mùi thơm nức nhà” (Đại Nam thực lục tiền biên).
Con ông là chúa Nguyễn Phúc Chú cũng không kém cạnh: “Khi chúa mới sinh có hơi lành hương lạ đầy nhà”…
Một số dẫn chứng ở trên cho thấy tính bí ẩn, li kì trong sự thụ thai và chào đời của các vị đế vương Việt Nam là một thực tế tồn tại lâu dài qua các triều đại, được chính sử và dã sử trân trọng ghi chép, lưu truyền. Những câu chuyện ấy phải chăng đều là thật? Hay phía sau chúng còn có những mục đích hoặc ẩn ý gì khác?
Thử đi tìm lời giải
Trong xã hội Việt Nam thời quân chủ, các đế vương có quyền lực tối thượng, đứng trên tất cả để cai trị thần dân. Bởi lẽ này, trong mắt bách tính trăm họ, nhà vua là nhân vật ở mãi trên cao, một vị chúa tể có thể ban phúc hay giáng hoạ cho họ, được xem là đại diện của thần thánh ở trên đời. Mặt khác, tâm lí và ý thức dân gian thuở xưa còn mang nhiều nét duy tâm, rất tin và sùng kính các hiện tượng siêu nhiên, tâm linh, thánh thần.
Vì vậy, nếu thêm vào lí lịch của các vua chúa những điều có vẻ lạ lùng như nói ở trên thì với người làm vua chỉ thêm có lợi vì họ tựa như đã có thiên số từ trước, càng dễ để khẳng định quyền lực bản thân và hình ảnh của vương triều. Đối với dân chúng thì đó là điều đáng ghi nhớ, tôn sùng vì đấy là biểu hiện của việc trời đã ban cho họ một vị minh quân để trị dân, giúp đời. Những lẽ trên đã tạo nền để sự huyền kì về việc thụ thai, sinh nở tiếp tục hiện hữu ở các đời vua thuộc nhiều triều đại, nhất là ở những vị khai sinh vương triều hay trị vì lâu dài hoặc có nhiều chính tích với nhân dân.
Nhiều vị vua sinh ra với mây lành, ánh sáng lạ đầy nhà.Ảnh minh họa
Ở một phương diện khác, những “giấc mộng” và “điềm lạ” nói trên còn là biểu hiện của việc các tôn giáo Nho, Phật, Đạo đã thâm nhập sâu rộng trong xã hội và được các vương triều tận dụng phần nào để tăng thêm sự uy nghiêm cho họ. Những việc như cầu tự, cầu đảo, hoa sen, mặt trăng, mặt trời, ấn kiếm, hương thơm… đều là những hình ảnh quen thuộc trong Phật giáo hoặc Nho giáo, Đạo giáo. Còn gì đáng quý hơn đối với bách tính trăm họ khi vị quân chủ đang trị vì được hạ sinh xứng hợp với những điều tốt lành nhất của các tôn giáo, tín ngưỡng họ đang tôn thờ. Đó chẳng phải là biểu hiện của việc thần, phật luôn hiện diện để phù trì cho họ hay sao?
Như vậy, xuất phát từ động cơ chính trị là khẳng định vương quyền và dựa vào tư tưởng, tín ngưỡng xem trọng thần phật, sùng chuộng điềm lành vật lạ trong xã hội, các đế vương nước Việt đã biết tận dụng những điều li kì, huyền ảo để tạo ra lí lịch xuất thân hơn người dành cho mình. Những điều này tất nhiên phải được các sử quan đưa vào sử sách, thậm chí có thể tạo ra lí lịch khác lạ cho một vị vua của thời trước đó (như trường hợp Nguyễn Bính viết về Lý Nam Đế ở trên) để nó được truyền lại đến muôn đời, thậm chí làm “mẫu hình” để các triều vua sau tiếp tục mô phỏng…
ÔNG TRỜI BÁO THIÊN TƯỢNG CHO THẤY THÁNH NHÂN PHƯƠNG NAM ĐÁNH BẠI QUÂN MÔNG CỔ
Khi đại quân Mông Cổ tung hoành chinh phục khắp thế giới thì thiên tượng cho thấy sao sáng hội tụ ở phương Nam, vậy nên nơi ấy tất có Thánh nhân xuất sinh. Chuyện này được ghi chép trong “Đông A di sự”, một cuốn sách cổ của chính người trong dòng tộc nhà Trần ghi chép lại, do Trần Triều Bình Chương Quốc Sư, Băng Hồ Tướng Công Trần Nguyên Đán chắp bút.
Khi nhà Tống đang phải chống lại cuộc xâm lăng từ phía Bắc của quân Mông Cổ, đây là đội quân hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ. Năm 1257 vào dịp tết Nguyên Đán tại triều đình nhà Tống, rất nhiều đại thần có mặt chúc Tết Hoàng Đế, trong số các đại thần có Hoàng Bính vốn là một vị quan đậu tiến sĩ thông tỏ thiên văn, tử vi và tướng pháp.
Sau khi chúc tết Hoàng Đế xong, Hoàng Bính liền ghé đến tòa Khâm Thiên Giám thăm bạn bè của mình, là những người giỏi tử vi. Họ cùng bàn luận tử vi của các thân vương, đại thần trong triều đình. Rồi cùng thấy một điều đặc biệt, đó là những người sẽ mất trước năm Kỷ Mão 1279 thì bình thường; nhưng nhiều người đều mất trong năm 1279, lại mất cùng một thời điểm và rất thê thảm.
Hoàng Bính xem kỹ tử vi của Hoàng Đế cùng chư Vương, Thái tử, Tam công, Cửu khanh, thì thấy vận cùng cả rồi. Từ đó Hoàng Bính đoán rằng nhà Tống có lẽ sẽ bị diệt vào năm 1279. Đêm hôm đó ông lên đài thiên văn quan sát thì thấy sát khí trùm lên các vùng thuộc đất Tống; quỷ tinh chiếu xuống vùng Mông Cổ, mạnh bất khả đương.
Trở về nhà, Hoàng Bính lo lắng không yên, thường quan sát thiên văn. Một lần ông nhìn về phương Nam thấy sao tử vi (ứng vào vua) sáng chói, các quần tinh xung quanh sáng rực rỡ, thịnh đến hơn trăm năm. Từ đó ông cho rằng Mông Cổ sẽ diệt nhà Tống, nhưng đến phương Nam sẽ bị chặn lại.
Thế là ngay trong năm 1257, Hoàng Bính đưa toàn bộ gia tộc khoảng 3.000 người xuống phía Nam đến nương thân ở Đại Việt.
Tiết lộ thiên tượng về thánh nhân
Thế nhưng nhà Trần lúc đó lo ngại nếu để Hoàng Bính ở lại thì có thể gây hiềm khích với nhà Tống. “Đông A di sự” có chép về cuộc đối thoại của vua Trần Thái Tông và Hoàng Bính như sau:
Vua Trần Thái Tông hỏi:“Khanh từng đỗ đệ nhị giáp Tiến sĩ, đã lĩnh chức Thị độc học sĩ triều Tống. Gần đây được ưu ái ban cho lĩnh An phủ sứ châu Tư minh. Thực là hồng ân bao la. Thế sao khanh lại chạy sang xứ thấp nhiệt của quả nhân, xin kiều ngụ?”.
Hoàng Bính đáp rằng:“Khắp gầm trời này, đâu cũng là thiên hạ cả. Đức Khổng tử không hề phân biệt cương giới. Thế thì kẻ vô tài, bất đức như hạ thần đâu dám nghĩ đến Đại Việt, Đại Tống khác nhau? Bảo Hựu hoàng đế Đại Tống trọng đãi thần, thần thực thâm cảm, nguyện kết cỏ ngậm vành. Nhưng, thiên mệnh đã an bài, toàn thể Trung-quốc phải chịu mấy trăm năm dưới ách ác quỷ; khí số nhà Đại-Tống đã hết rồi. Vì vậy, thần mới quan sát thiên văn, tìm nơi mà ác quỷ không thể tác họa, lại có thánh hiền giáng sinh mà ẩn thân.”
Rồi ông chỉ lên trời: “Trời Nam là nơi con cháu Viêm đế trị vì, linh khí ngùn ngụt, thánh nhân giáng trần, cầm gươm đuổi ác quỷ, đó là nơi có thể an thân. Vì vậy thần mới đem tông tộc sang xin bệ hạ cho núp bóng hoàng long”.
Cuối cùng, nhờ có sự giúp sức của cô con gái út là Hoàng Chu Linh, sau này chính là Huệ Túc Phu Nhân (Xem bài: Người phụ nữ giúp Trần Quốc Tuấn giữ chức “Quốc Công Tiết Chế” đánh bại quân Nguyên Mông), mà Hoàng Bính được triều đình nhà Trần cho phép nương tựa.
Cần nói thêm, Hoàng Bính cho rằng phương Nam sao tử vi (ứng vào vua) sáng chói, các quần tinh xung quanh sáng rực rỡ; trời Nam linh khí ngùn ngụt, thánh nhân giáng trần, cầm gươm đuổi ác quỷ. Điều này chính là ứng với những chuyện kỳ lạ về việc giáng sinh của những anh hùng nhà Trần có công lớn 3 lần đánh đuổi quân Mông Cổ, trong đó phải kể đến Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật.
Sự giáng sinh của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
Tương truyền mẹ của Trần Quốc Tuấn nằm mơ thấy có một vị thiên thần tinh vàng tướng ngọc, tự xưng là Thanh Tiên Đồng Tử sẽ xuống đầu thai, lúc ông vừa được sinh ra có hào quang tỏa sáng rực cả nhà, mùi hương thơm ngào ngạt. Thấy con mình khôi ngô tuấn tú bà liền đặt tên cho con mình là Trần Quốc Tuấn. Lớn lên chính Trần Quốc Tuấn là người chỉ huy quân Đại Việt 3 lần đánh bại quân Mông Cổ, danh tiếng lừng lẫy khắp thế giới (Để lý giải vì sao không phải 2 lần, mà 3 lần, xem bài: Lá số thánh nhân bất bại – P2: Trả lại năm sinh cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn).
Trong Đông A Di Sự của Trần Nguyên Đán có chép rằng khi thấy vua Trần e ngại trao binh quyền cho Trần Quốc Tuấn, bản thân Huệ Túc Phu Nhân có xem lá số tử vi của Trần Quốc Tuấn và bàn với vua như sau:
Tuổi Nhâm Thìn thuộc mệnh thủy, cung mệnh lại nằm ở Hợi cũng là hành thủy, nơi lập mệnh là nơi chỗ đứng con người, cùng là hành thủy nên cuộc đời lúc nào cũng được thuận tiện.
Cục là bước đi dài ngắn khác nhau, lá số này thuộc kim cục, mà kim sinh thủy, nên cục sinh mệnh lại đồng thời cũng sinh ra hành của cung mệnh, thì từ bản chất, tới chỗ đứng, được bước đi sinh ra. Như vậy không bao giờ thất bại, cũng không bao giờ chết bất đắc kỳ tử. Nếu trao bình quyền cho người này thì chỉ có thắng hoặc hòa chứ không bao giờ bại.
Tử vi, Thất sát thủ mệnh, được Hóa quyền, Văn khúc, Trường sinh phù tá thì đây là số của một bậc tể thần, làm lên sự nghiệp vang lừng khắp hoàn vũ, muôn dân trông chờ, nghìn vạn năm sau còn tôn kính. Nói khác đi, mệnh của vương là mệnh của bậc thánh nhân. Như vậy thì bệ hạ còn trì nghi gì nữa mà không ban chỉ trao quyền Tiết chế cho vương, để vương kịp thời chuẩn bị phá giặc.
Vậy nên mệnh của Hưng Đạo Vương chính là mệnh của bậc Thánh nhân bất bại.
Sự giáng sinh của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật
Vào năm Kỷ Hợi (1239), vua Trần Thái Tông đi tuần du qua phủ Thiên Trường, xa giá dừng lại nghỉ ở làng Miêu. Nghe tin Vua đến, dân chúng nơi đây liền đến cùng với lễ vật để tỏ lòng thành kính.
Khi nhà Vua hỏi chuyện thì lạ thay, người trả lời không phải là các bô lão hay chức dịch trong làng mà là cô gái trẻ tên Vũ Thị Vượng. Đây là cô gái vừa đẹp người lại đẹp nết, chuyên nghề canh cửi, ruộng đồng. Thấy cô gái đối đáp thông mình lại có hiểu biết, Vua liền đón về cung lập làm Phi gọi là Vũ Phi.
Thế nhưng nhập cung đã 10 năm nhưng Vũ Phi vẫn chưa có con, vì thế liền xin Vua cho làm lễ cúng bách Thần để cầu tự, Vua liền đồng ý ngay.
Lễ cầu tự diễn ra 21 ngày, sau đấy một đêm Vũ Phi nằm mộng thấy ngôi sao lớn từ trên không rơi xuống giường nằm của mình, từ đấy bà có mang. Đến giờ Ngọ ngày mồng 10 tháng 4 năm Ất Mão (1255), Vũ Phi sinh một hoàng tử, dung mạo khác thường, đặt tên là Trần Nhật Duật.
Về chuyện này Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép như sau:
Đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua. Đọc sớ xong tâu với vua: “Thượng đế đã y lời sớ tấu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ”. Thế rồi hậu cung có mang. Sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ “Chiêu Văn đồng tử”, nét chữ rất rõ, vì thế đặt hiệu là Chiêu Văn (tức là Nhật Duật). Lớn lên, nét chữ mới mất đi.
Biết con mình không giống như những đứa trẻ khác, Vũ Phi hết lòng dạy bảo con từ nhỏ. Trần Nhật Duật vốn hiếu học, lại có trí nhớ tuyệt vời, lớn lên hiểu biết rộng, lại có thể thông thạo tiếng dân tộc khác cũng như tiếng các nước lân bang. Trần Nhật Duật góp công lớn trong cuộc chiến chống quân Mông cổ lần thứ 2 (năm 1285) và lần thứ 3 (1288 – 1289). Khi về già ông muốn khi mất được chôn gần mộ mẹ ở quê ngoại. Năm 1330 ông mất, linh cữu được chôn ở mảnh đất “song ngư” gần mộ mẹ. Tại đền thờ hai mẹ con còn có bức đại tự nhắc đến sự huyền ảo khi bà Vũ phi hạ sinh Trần Nhật Duật: “Thiên giáng phúc tinh” (Sao phúc từ trên trời xuống).
Trần Hưng
ADMIN:Thông Tin Bản Quyền: LÊ VĂN TUYÊN- Sinh năm 1988- KHU ĐÔ THỊ GIẢI TRÍ CAO CẤP MỚI:- Xóm 10- Thôn Văn Quang- Xã Nghĩa Hương- Huyện Quốc Oai- Hà Tây- Hà Nội- VIỆT NAM
SĐT: 0336631403
SĐT: 0929668648